Luận văn Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam

Tài liệu Luận văn Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM  ĐẶNG THỊ TƯỜNG VÂN CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM  ĐẶNG THỊ TƯỜNG VÂN CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ – TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ LẠI TIẾN DĨNH TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008 Lời Cam Đoan  Tôi là Đặng Thị Tường Vân, xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực và chính xác. Lời Cảm Ơn  Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô giảng viên Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học Đại học cũng như Cao học tại Trường. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Thầy Dĩn...

pdf91 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 972 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM  ĐẶNG THỊ TƯỜNG VÂN CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM  ĐẶNG THỊ TƯỜNG VÂN CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ – TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ LẠI TIẾN DĨNH TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008 Lời Cam Đoan  Tôi là Đặng Thị Tường Vân, xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực và chính xác. Lời Cảm Ơn  Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô giảng viên Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học Đại học cũng như Cao học tại Trường. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Thầy Dĩnh – Giáo viên hướng dẫn và gia đình, bạn bè đã hỗ trợ tôi trong khi thực hiện luận văn. MỤC LỤC CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG 1 1.1 Vai trò của vàng trong đời sống kinh tế – xã hội ...................................................... 1 1.2 Tình hình sản xuất, khai thác và tiêu thụ vàng trên thế giới và Việt Nam – Phân chia lại bản đồ khai thác và tiêu thụ ............................................................................................... 2 1.2.1 Tình hình khai thác và tiêu thụ trên thế giới: .......................................................... 2 1.2.2 Tình hình nhập khẩu – khai thác – tiêu thụ tại Việt Nam ........................................ 3 1.2.3 Cách quy đổi giá vàng theo VNĐ: ......................................................................... 4 1.3 Các sàn giao dịch vàng hiện nay: ................................................................................. 5 1.4 Các hình thức kinh doanh vàng tại Việt Nam ................................................................ 6 1.4.1 Nghiệp vụ mua bán giao ngay (Spot): .................................................................... 6 1.4.2 Mua bán kỳ hạn (Forward): ................................................................................... 6 1.4.3 Nghiệp vụ quyền chọn (Option): ........................................................................... 6 1.4.4 Tín dụng vàng: ...................................................................................................... 7 1.4.5 Mua bán trực tiếp – môi giới: ................................................................................ 8 1.4.6 Mua bán trạng thái: ............................................................................................... 8 1.4.7 Chốt nguội, mua hộ vàng khách hàng: ................................................................... 8 1.4.8 Kinh doanh phối hợp: ............................................................................................ 9 1.4.9 Kinh doanh vàng trên tài khoản: ............................................................................ 9 1.5 Phân tích những yếu tố làm ảnh hưởng đến giá vàng ................................................... 10 1.5.1 Cung – Cầu ..........................................................................................................10 1.5.2 Do ảnh hưởng của giá DẦU ................................................................................. 11 1.5.3 Tình hình kinh tế của các cường quốc nhất là Mỹ và Châu Âu .............................12 1.5.4 Các nhân tố ảnh hưởng có liên quan đến chính sách tài chính - tiền tệ của các quốc gia trong điều hành kinh tế – Sức mạnh đồng USD .......................................................14 1.5.4.1 Ảnh hưởng trực tiếp của chính sách tiền tệ tới giá vàng .................................14 1.5.4.2 Ảnh hưởng gián tiếp của chính sách tiền tệ tới giá vàng thông qua sức mạnh đồng tiền ...................................................................................................................16 1.5.5 Lạm phát ..............................................................................................................17 1.5.6 Các tác động phụ: .................................................................................................18 1.5.6.1 Chính trị: .......................................................................................................18 1.5.6.2 Đầu cơ: ........................................................................................................ 18 1.5.6.3 Thời tiết – Thiên tai – Chu kỳ lễ hội - Khủng bố ............................................19 CHƯƠNG 2: TỔNG HỢP BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM - THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI ....................... 20 2.1 Tổng quan tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam từ giữa năm 2007 đến giữa năm 2008 .............................................................................................................................20 2.1.1 Sự xuống dốc của nền kinh tế lớn nhất thế giới: ...................................................20 2.1.2 Giá dầu tăng kỷ lục: .............................................................................................23 2.1.3 Lạm phát đe dọa: ..................................................................................................24 2.1.4 Ảnh hưởng của suy thoái Mỹ đến các nền kinh tế khác: .......................................25 2.1.5 Tình hình kinh tế Việt Nam từ giữa năm 2007 đến nay: ........................................25 2.2 Biến động giá vàng trên thế giới và Việt Nam .............................................................35 2.2.1 Biến động giá vàng trước 2007 trên thị trường quốc tế: ........................................35 2.2.2 Biến động giá vàng Việt Nam trước 2007: ........................................................... 37 2.2.3 Tổng hợp biến động giá vàng thế giới từ năm 2007 đến nay: ................................38 2.2.4 Tổng hợp biến động giá vàng tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay: ........................46 2.3 Những tác động đặc trưng riêng khiến giá vàng bị ảnh hưởng không tương ứng với giá vàng thế giới và những tồn tại ở thị trường kinh doanh tại Việt Nam ................................50 2.3.1 Tác động của chính sách tiền tệ do ảnh hưởng của lạm phát đến giá vàng .............51 2.3.2 Tác động từ quy định cấm nhập khẩu vàng của ngân hàng nhà nước ....................53 2.3.3 Tác động từ quy định hạn chế xuất khẩu vàng của NHNN ....................................54 2.3.4 Những tác động do mội trường kinh doanh còn hạn chế: ......................................54 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NAM – KIỂM ĐỊNH BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀNG THEO TỶ GIÁ 56 3.1 Những đề xuất đối với chính sách tỷ giá: ....................................................................56 3.2 Những đề xuất đối với cơ quan hữu trách và các ngân hàng ........................................58 3.2.1 Đối với cơ quan hữu trách: ...................................................................................58 3.2.1.1 Về vấn đề xuất nhập khẩu vàng .....................................................................58 3.2.1.2 Phát triển vàng tiền tệ và sản xuất vàng theo tiêu chuẩn quốc tế: ....................59 3.2.1.3 Về quản l ý hoạt động kinh doanh vàng: .........................................................59 3.2.2 Đối với những nghiệp vụ của ngân hàng thương mại: ...........................................60 3.3 Kiểm định biến động giá vàng theo sức mạnh đồng USD và phân tích biến động giá vàng tại Việt Nam theo tỷ giá. ..........................................................................................62 3.3.1 Kiểm định giá vàng theo sức mạnh đồng USD trong mối tương quan với EUR và GBP ..............................................................................................................................62 3.3.2 Kiểm định biến động giá vàng tại Việt Nam theo tỷ giá. .......................................64 Chữ Viết Tắt FED: Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang của Mỹ ECB: European Central Bank: Ngân hàng trung ương Châu Âu NHNN: Ngân hàng nhà nước Việt Nam SJC: Công ty vàng bạc đá qu ý Sài Sòn WGC: Hội đồng vàng thế giới SBV: Ngân hàng nhà nước Việt Nam Danh Sách Bảng – Hình – Đồ Thị Bảng 1: Các đợt cắt giảm lãi suất của FED Bảng 2: Một số dữ liệu vĩ mô của các nước thành viên trước và sau khi gia nhâp WTO Hình 1: Biểu đồ và dữ liệu giá vàng năm 2007 Hình 2: Biểu đồ và dữ liệu giá vàng năm 2008 Đồ thị 1: Đồ thị 1: Tăng trưởng GDP% theo năm Đồ thị 2: Vốn FDI cam kết và thực hiện theo năm Đồ thị 3: Tăng trưởng CPI theo năm Đồ thị 4: Tăng trưởng CPI theo tháng Đồ thị 5: Cán cân thương mại theo năm Đồ thị 6: Cán cân thương mại theo tháng Đồ thị 7: Tài khoản vãng lai Đồ thị 8: Tài khoản vốn Đồ thị 9: Cán cân thanh toán Đồ thị 10: Tỷ giá theo năm Đồ thị 11: Tỷ giá theo tháng Đồ thị 12: Lãi suất huy động của các ngân hàng Đồ thị 13: Lãi suất tiền gửi và cho vay Đồ thị 14: Tăng trưởng cung tiền Đồ thị 15: Giá vàng quy đổi và thực tế giao dịch PHẦN MỞ ĐẦU 1. L ý do chọn đề tài: Trong thời điểm hiện nay, Việt Nam đang ở bối cảnh kinh tế vô cùng phức tạp, không chỉ khó khăn và phức tạp cho các nhà điều hành chính sách kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư đến tìm kiếm lợi nhuận cho mình. Gia nhập WTO từ tháng 11/2006, kể từ thời điểm đó đến hết năm 2007, kinh tế Việt Nam đã phát triển với nhiều thành tích vượt trội và thật ấn tượng nhìn trên bề mặt nói chung và các số liệu báo cáo. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam thật sự chưa báo hiệu đuợc chính xác tình hình nền kinh tế do những đặc trưng hạn chế riêng có của Việt Nam nhưng cũng là một kênh thông tin tương đối phản ánh niềm tin của nhà đầu tư. Từ thời điểm cuối năm 2006 VN Index đã tăng từ 753,81 điểm đến đỉnh điểm là 1.170,67 điểm vào thời điểm tháng 3/2007. Chỉ số VN Index trong phiên giao dịch cuối cùng của năm 2007 đạt 927,02 điểm tuy nhiên qua năm 2008 tình hình tài chính có nhiều bất ổn làm thị trường chứng khoán đi xuống không phanh VN Index đụng đáy thấp nhất trong 5 năm trở lại đây còn 364,71 điểm vào ngày 20/6/2008 đã làm nhà đầu tư ít nhiều mất lòng tin và hiện nay trong giai đoạn phục hồi. Tháng 05/2007 Ngân hàng ACB chính thức khai trương Sàn Giao Dịch Vàng Sài Gòn sau khi tham quan Sàn Giao Dịch Vàng Thượng Hải tháng 08/2006, sau đó mở rộng đối tượng tham gia cho các nhà đầu tư cá nhân và hiện nay đã phát triển thêm một số sàn vàng nữa như: Việt Á, Phương Nam, Eximbank, Phố Wall… Điều này đã mở thêm cơ hội kinh doanh cho nhà đầu tư bên cạnh kênh chứng khoán đang bị tác động bởi tình hình kinh tế khó khăn. Sự hội nhập và mở rộng cánh cửa chu chuyển vốn quốc tế khi Việt Nam chưa chuẩn bị đủ tiềm lực có thể nói đã và đang gây tác động xấu đến tình hình kinh tế đất nước. Do đi sau nên sự ảnh hưởng đối với Việt Nam đã giảm nhẹ hơn so với khủng hỏang tài chính năm 1997 tại các nước Châu Á. Tuy sự hội nhập và mở cửa có đem đến khó khăn trước mắt cho nền kinh tế và tình hình tài chính nhưng có thể nói chính nó sẽ là động lực để Việt Nam nhận thức được vị thế của mình, nhận ra điểm mạnh, điểm yếu để có thể phát triển bền vững trong tương lai. Tìm hiểu để đầu tư một lĩnh vực mới luôn là hoạt động được khuyến khích, Sàn Giao Dịch Vàng Sài Gòn ra đời sẽ giúp Việt Nam giải quyết được việc nhập khẩu một khối lượng vàng khổng lồ từ trước đến nay, huy động được lượng vàng trong cư dân, đồng thời cũng khuyến khích nhà đầu tư Việt Nam làm quen với việc kinh doanh vàng quốc tế có thể trong thời gian tới sẽ rất phát triển. Lựa chọn đề tài “Những nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng và kinh doanh vàng trên thế giới và tại Việt Nam” để tìm hiểu rõ hơn lý do nào đã ảnh hưởng đến giá vàng, một loại hàng hóa được người dân cất giữ để tránh lạm phát và dự báo giá vàng biến động theo tỷ giá như thế nào để phục vụ cho việc kinh doanh được hiệu quả trong từng giai đoạn. 2. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Nhằm hiểu rõ hơn các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng, sử dụng đúng các thông tin và sản phẩm tài chính phái sinh để góp phần giúp nhà đầu tư và doanh nghiệp hạn chế được rủi ro tiềm ẩn từ sự bất ổn của thị trường tài chính khi Việt Nam phải ngày càng hội nhập và họat động tuân thủ các luật chơi đáp ứng đòi hỏi chung của thế giới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng thế giới và Việt Nam, dự đóan xu hướng vàng bằng tác động của các nhân tố cơ bản chính là đối tượng chính của luận văn này. Mặt khác, phạm vi nghiên cứu là các sản phẩm kinh doanh vàng hiện có tại các ngân hàng thương mại và Sàn giao dịch vàng trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh. 4. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp như: Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp phân tích số liệu bằng hồi quy. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các tài liệu tham khảo từ báo chí, báo điện tử, các báo cáo của các tổ chức tài chính, các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng để thu thập thông tin và số liệu. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Với việc nghiên cứu từ tình hình kinh doanh thực tế, việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng được nghiên cứu bao quát để đưa ra một cái nhìn toàn diện giúp các nhà đầu tư đánh giá, dự đoán được xu hướng và rủi ro. Đồng thời, dự đoán giá vàng theo tỷ giá nếu nghiên cứu sâu hơn sẽ có nghĩa khoa học trong việc xây dựng được mức biến động của giá vàng theo sức mạnh đồng USD. 6. Kết cấu của luận văn: Phần mở đầu Chương 1: L ý luận tổng quan về thị trường vàng và kinh doanh vàng Chương 2: Tổng hợp biến động giá vàng thế giới và Việt Nam – Thực trạng kinh doanh vàng và những tồn tại Chương 3: Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam – Kiểm định biến động giá vàng theo tỷ giá Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục 1 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG 1.1 Vai trò của vàng trong đời sống kinh tế – xã hội Nhìn vào nhu cầu của con người đối với vàng, ta có thể thấy được giá trị của vàng ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống kinh tế – xã hội. Từ giá trị đơn thuần là một loại kim loại quý dùng trong sản xuất công nghiệp và chế tạo nữ trang cho đến giá trị tiền tệ dùng làm vật ngang giá chung và trở thành một loại tiền được lưu hành đầu tiên trong lịch sử phát triển của loài người. Trong lịch sử tiền tệ thế giới, vàng được coi là một loại tiền tệ đặc biệt hội đủ 5 chức năng của đồng tiền: Thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ quốc tế. Theo chế độ bản vị Bretton Wood ra đời ngày 1/7/1944, chế độ bản vị vàng hối đoái được thiết lập, 1 ounce = 35 USD (1 ounce = 28,349 gram) tạo điều kiện cho đồng USD lên ngôi trở thành đồng tiền được chấp nhận trên toàn thế giới. Đối với nền kinh tế: Mặc dù bị tước đi khả năng làm đơn vị tiền tệ, vàng vẫn hấp dẫn được mọi quốc gia khi mức dự trữ vàng của toàn thế giới gần đây lên đến 160 nghìn tấn. Các quốc gia, ngân hàng và quỹ đầu tư trên toàn thế giới tăng cường giữ vàng trong danh mục đầu tư của mình để bảo toàn vốn hoặc đầu cơ tích trữ và mua đi bán lại. Đối với đời sống xã hội: Vàng là một kim loại không thể thiếu trong sản xuất máy tính, thiết bị liên lạc, đầu máy bay phản lực, tàu không gian và nhiều sản phẩm khác. Đồng thời, vàng cũng được dùng trong nha khoa phục hồi cũng như nhiều tác dụng khác trong công nghiệp và y khoa trị liệu. Đối với chính phủ: Hiện nay, các NHTW trên khắp thế giới dự trữ khoảng 130.000 tấn vàng và không ngừng ý định tăng lên về khối lượng. Hoa Kỳ có số vàng dự trữ cao nhất thế giới khoảng hơn 8.000 tấn, tổ chức IMF dự trữ hơn 3000 tấn, Trung Quốc hiện vươn lên vị trí thứ hai với ý định nâng mức dự trữ lên 4000 tấn vàng. Để đối phó với 2 tình trạng mất ổn định trong giá trị các đồng tiền và suy thoái kinh tế, các NHTW trên khắp thế giới đều muốn dự trữ vàng trong danh mục dự trữ của mình để tránh nguy cơ giảm giá trị do làm phát và phá giá tiền tệ. 1.2 Tình hình sản xuất, khai thác và tiêu thụ vàng trên thế giới và Việt Nam – Phân chia lại bản đồ khai thác và tiêu thụ 1.2.1 Tình hình khai thác và tiêu thụ trên thế giới: Năm 2008, Trung Quốc có thể vượt qua mặt Nam Phi trở thành nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới. Trong hơn 120 năm qua, Nam Phi luôn đứng đầu thế giới về sản lượng khai thác vàng nhưng trong 10 năm qua tốc độ đã giảm nhiều, từ chỗ chiếm 70% sản lượng thế giới năm 1970 xuống còn 20% năm 1997 và 11,8% năm 2006. Không những vượt qua về sản lượng khai thác, Trung Quốc còn mới phát hiện thêm 5 mỏ vàng có trữ lượng đáng kể. Hiện trữ lượng vàng của Trung Quốc khoảng 15.000 đến 20.000 tấn. Năm 2008, Trung Quốc có khả năng sản xuất được 300 tấn vàng, bốn tháng đầu năm sản lượng đã đạt 84,039 tấn. Với sản lượng vàng ngày càng tăng dần và công nghệ ngày càng tốt hơn, Trung Quốc sẽ vượt qua Nam Phi để trở thành quốc gia sản xuất vàng lớn nhất trên thế giới. Sản lượng vàng của Trung Quốc đã tăng 34,84% trong 5 năm qua. Năm qua, sản lượng tiêu thụ ở Trung Quốc cũng tăng 23%, biến Trung Quốc thành thị trường tiêu thụ vàng thứ hai thế giới sau Ấn Độ. Sản lượng vàng tiêu thụ ở Ấn Độ giảm 50% trong khi Trung Quốc tăng 15% (112,1 tấn), Ai Cập là 15%, Nga 9% và đặc biệt tại Việt Nam với 71% (35 tấn). Giới khai thác và kinh doanh vàng hy vọng khi có thêm nguồn sản xuất sẽ làm giá vàng hạ và kéo nhu cầu tiêu thụ tăng trở lại. Ấn Độ là nước tiêu thụ vàng nhiều nhất thế giới, khoảng 722 tấn/năm tăng 7% trong năm 2007, Mỹ đứng thứ 3 với 278 tấn (giảm 18%), thị trường Italia và Anh cũng sụt giảm, năm 2007 theo WGC cho thấy doanh số bán vàng trang sức của Trung Quốc đạt mức cao kỷ lục tăng 34% lên 302,2 tấn trở thành nước tiêu thụ đứng thứ 2 thế giới. 3 1.2.2 Tình hình nhập khẩu – khai thác – tiêu thụ tại Việt Nam Việt Nam bắt đầu cho phép nhập khẩu vàng vào đầu những năm 1990. Đến năm 1997, do khan hiếm ngoại tệ, chính phủ cấm nhập khẩu vàng. Tới năm 2001, vàng mới tiếp tục được cho phép nhập khẩu trở lại. Tuy nhiên, chính phủ chỉ cho phép nhập khẩu theo hạn ngạch do Ngân hàng Nhà nước quy định cho từng đầu mối nhập khẩu và theo từng năm. Năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chỉ cấp phép cho nhập 73,5 tấn vàng. Tuy nhiên, trong bối cảnh giá dầu thế giới tăng từng tuần, chứng khoán mất giá, giá USD thất thường và bất động sản bấp bênh, vàng trở thành phương tiện hiệu quả trong việc bảo lưu vốn và là kênh đầu tư hiệu quả. Vì vậy, lượng vàng nhập khẩu vào Việt Nam đã lên tới 43 tấn chỉ trong bốn tháng đầu năm 2008, bằng một nửa khối lượng nhập khẩu trong cả năm 2007, với trị giá ước tính khoảng 1,2 tỷ USD và được cho là có thể tăng lên 4 tỷ USD vào cuối năm nay. Ngoài ra, mức nhập khẩu vàng khối, loại vàng dùng cho đầu tư, tăng hơn 110% so với năm 2007, đã khiến Việt Nam trở thành nước nhập khẩu vàng khối nhiều nhất thế giới, vượt cả Ấn Độ và Trung Quốc. Trong quý 1, Việt Nam nhập khẩu 40 tấn vàng, gấp 3 lần Ấn Độ, quốc gia hàng đầu về tiêu thụ vàng và đông dân hơn Việt Nam rất nhiều. Theo số liệu của hội đồng vàng thế giới, trong bảy tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã nhập khẩu 62 tấn vàng, ước tính vào thời điểm mua sắm cao dịp cuối năm có thể nâng mức nhập khẩu cả năm lên khoảng 100 tấn, đạt mức kỷ lục từ trước đến nay. Trung bình mỗi năm gần đây Việt Nam nhập khẩu 50-60 tấn vàng, cao nhất là 70-80 tấn, trong khi lượng vàng sa khoáng trong nước chỉ độ 2 tấn/năm. Theo ghi nhận của văn phòng đại diện Hội đồng vàng thế giới tại Việt Nam, lượng tiêu thụ vàng miếng của Việt Nam hiện cao hơn Ấn Độ khoảng 15% (đến thời điểm trước tháng 7/2008), riêng sàn giao dịch vàng đang ở mức gấp 12 – 15 lần lượng vàng vật chất giao dịch bằng tiền mặt. Trong quý 1, do lo sợ tình hình kinh tế Việt Nam xấu, người dân và cả 4 nhà đầu cơ đổ xô đi mua vàng mặc dù thời điểm đó giá vàng khá cao (18 – 19 triệu đồng/lượng). Khi vàng giảm dưới 18 triệu đồng lượng, lượng mua cũng tăng mạnh (27%) so với ngày trước đó nhưng sức mua quý 2 đã giảm 35%. Để giảm nhập siêu (vàng chiếm gần 2 tỷ USD), nhà nước tạm thời không cấp thêm quota nhập vàng. Các nhà địa chất dự báo trữ lượng vàng nước ta còn khoảng 1000 đến 3000 tấn. Việt Nam cũng có nhiều mỏ quặng với nhiều hình thái và quy mô khác nhau có ở Ngân Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Thanh Hóa, Quảng Nam, Hòa Bình … tuy nhiên 95% lượng vàng tiêu thụ tại thị trường trong nước là được nhập khẩu. Do vậy, mọi biến động về giá vàng, tỷ giá, lãi suất và các đồng tiền chủ đạo trên thế giới đều gây ra những ảnh hưởng nhất thời đến thị trường trong nước nhất là trong tình hình nhạy cảm hiện nay khi vàng được xem là nơi trú ẩn của tài sản để chống lại lạm phát. 1.2.3 Cách quy đổi giá vàng theo VNĐ: 1 lượng = 37,5 gram. 1 lượng = 1,20556 ounce Giá 1 lượng vàng = (Giá thế giới + Chi phí vận chuyển + Phí bảo hiểm)*(1+Thuế NK)*1,20556 *Tỷ giá + Phí gia công Chi phí vận chuyển ước tính: 0,75 USD/ounce Phí bảo hiểm ước tính: 0,25 USD/ounce Thuế nhập khẩu vàng: 1% Phí gia công vàng miếng là 30.000 đồng. 5 1.3 Các sàn giao dịch vàng hiện nay: Các thị trường vàng trên thế giới hiện nay hầu hết giao dịch nhiều loại hàng hóa khác nhau như dầu (thô, xăng, dầu cặn), nông sản (đường, cà phê, cacao), các kim loại qu ý (vàng, bạc, bạch kim…) và các kim loại màu khác (nhôm, kẽm, thiếc, uranium…) được gọi là sàn giao dịch hàng hóa. Vì tại Việt Nam chưa có nhu cầu nhiều về các sản phẩm phái sinh về hàng hóa cũng như thiếu hành lang pháp lý cho việc mua bán các sản phẩm phái sinh nên hiện tại chỉ có sàn giao dịch vàng riêng lẻ (nếu bỏ qua sàn giao dịch cà phê ở DakLak).  Sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (The Tokyo Commodity Exchange) Thành lập năm 1984, là sự kết hợp giữa Sàn giao dịch dệt may Tokyo, Sàn giao dịch cao su Tokyo và Sàn giao dịch vàng Tokyo. Sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) là một tổ chức đi tiên phong trong hoạt động hối đoái. Tiếp theo là sự tham gia của thị trường nhôm và dầu năm 1997 và 1999 tạo ra một thị trường giao sau hoạt động đầy đủ. Tại TOCOM có 9 ngành công nghiệp hàng hóa đều là những ngành công nghiệp mạnh của nền kinh tế, để giao dịch giao sau và quyền chọn trong 4 thị trường khác nhau là kim loại qu ý, dầu, cao su và nhôm.  Sàn giao dịch hàng hóa NewYork (NewYork Mercantile Exchange - NYMEX) Là sàn giao dịch hàng hóa giao sau lớn nhất thế giới, nơi diễn ra các giao dịch có giá trị hàng tỉ USD về năng lượng và kim loại. Giá cả niêm yết trên sàn là cơ sở để tính toán giá cả trên khắp thế giới. Được điều hành bởi Ủy ban hàng hóa giao sau, một cơ quan độc lập của Chính phủ Hoa Kỳ.  Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (The Chicago Board of Trade – CBOT ) Được thành lập năm 1848, là 1 thị trường giao sau và quyền chọn hối đoái dẫn đầu. Hơn 3.600 thành viên, cổ đông giao dịch với hơn 50 sản phẩm giao sau và quyền chọn khác nhau. Trước đây, CBOT chỉ giao dịch các hàng hóa nông nghiệp như ngũ cốc, lúa mì, yến mạch… Năm 1982, thị trường quyền chọn và giao sau vàng được thành lập, 6 một loạt sản phẩm mới về các hợp đồng giao sau vàng và bạc bằng điện tử được khai trương vào năm 2001. Ngoài ra còn có các sàn giao dịch khác như Sàn giao dịch hàng hóa London, Sàn giao dịch vàng kỳ hạn Thượng Hải (Trung Quốc)… 1.4 Các hình thức kinh doanh vàng tại Việt Nam Thị trường tài chính Việt Nam phát triển sau nên việc tham gia các sản phẩm phái sinh cũng như việc đầu tư của nhà đầu tư có nhiều khó khăn so với các thị trường đã phát triển. Giao dịch tại thị trường quốc tế ngoài đa dạng về hàng hóa (tiền tệ, vàng, kim loại quý, dầu, sản phẩm nông nghiệp...), còn có tất cả các sản phẩm phục vụ tối đa yêu cầu đầu tư. Ngoài ra, vì hoạt động lâu đời nên tính chất kinh tế thị trường tức cung cầu sẽ quyết định giá cả hàng hóa và các khuôn khổ pháp lý rõ ràng có thể giúp nhà đầu tư yên tâm khi đầu tư. Ngược lại, thị trường tài chính tại Việt Nam hết sức mới mẻ, có thể thấy một số những khó khăn cho việc kinh doanh như: Chưa có khuôn khổ pháp l ý nhằm bảo vệ nhà đầu tư khỏi những rủi ro có thể phòng tránh, thiếu các sản phẩm phái sinh hay có nhưng chi phí quá cao khiến cho việc đầu tư hoặc sử dụng các sản phẩm này không thể hoặc phát huy tác dụng rất ít, chưa nói đến việc giá cả một số hàng hóa và tỷ giá được nhà nước giám sát chặt chẽ (giá dầu, tỷ giá…) khiến cho việc sử dụng các công cụ phái sinh này khó phát huy tác dụng. Sau đây là một số các hình thức kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay: 1.4.1 Nghiệp vụ mua bán giao ngay (Spot): là nghiệp vụ mua bán vàng được thực hiện theo giá tại thời điểm thỏa thuận, tuy nhiên cần thời gian để thực hiện bút toán và thanh toán tiền vàng nên có thể mất thời gian nếu số lượng mua lớn. 1.4.2 Mua bán kỳ hạn (Forward): Là cam kết mua bán vàng tại một mức giá xác định và vào một ngày cụ thể trong tương lai. Mục đích của hợp đồng kỳ hạn là nhằm bảo hiểm rủi ro về giá của tài sản khi nhà đầu tư có tài sản đó trong tương lai. 1.4.3 Nghiệp vụ quyền chọn (Option): Là quyền được mua hay bán một số lượng vàng trong một khoảng thời gian xác định trong tương lai với giá được xác định tại thời 7 điểm giao dịch. Có hai quyền chọn: Quyền chọn mua (Call option )và quyền chọn bán (Put option). Có hai kiểu quyền chọn: Quyền chọn kiểu Mỹ: Cho phép người mua quyền thực hiện quyền chọn tại bất kỳ thời điểm nào trong thời gian còn hiệu lực hợp đồng. Quyền chọn kiểu Châu Âu: Chỉ có thể thực hiện vào ngày đáo hạn. 1.4.4 Tín dụng vàng: Để đảm bảo nhu cầu thanh toán, tín dụng vàng được sử dụng để đảm bảo giá trị của tiền. Ví dụ, trong giao dịch bất động sản, người mua khi chưa thanh toán hoặc chưa mua được nhà thì mua vàng gửi ngân hàng giữ hộ để phòng ngừa khi giá vàng lên. Ngược lại, người bán nhà khi chưa nhận được tiền mà sợ vàng xuống thì sẽ vay ngân hàng số vàng sắp được nhận và bán ra bên ngoài thu tiền về trước, khi nhận được tiền của bên mua sẽ trả lại cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng hiện tại của các ngân hàng rất ít phục vụ mục đích này mà chủ yếu phục vụ nhu cầu kinh doanh của khách hàng. Giả sử một nhà đầu tư dự đoán giá vàng tăng, sẽ vay tiền ngân hàng để mua vàng gửi tiết kiệm. Số tiền vay được là do thế chấp số vàng vừa mua cho ngân hàng, sau đó, số tiền vay từ ngân hàng sẽ được trả cho cửa hàng vàng đã đem vàng đến bán. Ngược lại, nếu nhà đầu tư dự đoán giá vàng giảm, họ sẽ đến ngân hàng vay vàng ra bán cho cửa hàng. Cửa hàng vàng đem tiền đến mua thì số tiền này được đưa vào ngân hàng trước để làm tài sản thế chấp cho số vàng vay ra. Như vậy, nhà đầu tư chỉ bỏ ra một số tiền nhỏ bằng 1/10 hoặc ít hơn tùy theo quy định tỷ lệ của ngân hàng là có thể thực hiện nghiệp vụ này. Ngân hàng thì đơn thuần thực hiện nghiệp vụ tín dụng nhưng khách hàng lại thực hiện việc đầu tư. Nghiệp vụ này xảy ra rủi ro cho cả hai phía, nếu sai hướng thì nhà đầu tư phải chịu mất tài sản rất nhiều, vì họ dùng vốn của mình làm đòn bẩy tài chính. Ngược lại, nếu ngân hàng mua vàng với giá cao đem cho vay chưa thu hồi được để bán hoặc không mua được khi giá vàng rẻ vì đã cho vay tiền giữ vàng thì ngân hàng đã thiệt hại. Đồng thời, khi giá vàng biến động, giả sử cho 8 vay vàng thế chấp bằng tiền mặt thì khi giá vàng tăng xảy ra rủi ro tài sản đảm bảo sẽ không đủ xử l ý nợ, ngược lại khi cho vay tiền đồng thế chấp vàng thì giá vàng hạ sẽ khiến ngân hàng gặp rủi ro do khách hàng khi bán vàng cũng không thể đủ lượng tiền mặt đã vay của ngân hàng. Vì lợi nhuận lớn nên nghiệp vụ này thu hút nhiều nhà đầu tư. 1.4.5 Mua bán trực tiếp – môi giới: Ngân hàng thực hiện mua bán vàng để bảo đảm nguồn quỹ nên hoạt động này giống như môi giới và giống các doanh nghiệp kinh doanh vàng, hoạt động này không đem lại lãi nhiều cho ngân hàng. 1.4.6 Mua bán trạng thái: Là việc mua bán vàng của ngân hàng diễn ra không cùng thời điểm, gọi là trạng thái vì nó sẽ thể hiện số dư dương trên tài khoản (nếu mua vàng) và số dư âm trên tài khoản (nếu bán vàng). Tài khoản âm nhưng không phải bán khống mà ngân hàng có thể tận dụng nguồn huy động từ khách hàng, ngược lại ngân hàng có thể mua vàng dự trữ để phục vụ việc cho vay hay để bán lại vào một thời điểm giá cao hơn. Bởi hoạt động này cuối cùng ngân hàng phải cân bằng trạng thái nên khác với việc mua bán khống, tức là có sự vận động của hàng hóa và tiền tệ, việc mua bán vàng tiền tệ cũng có nghĩa là ngân hàng đang tiến hành hoạt động đầu tư. Do có sự chênh lệch giữa thời điểm mua và bán nên sẽ có rủi ro về giá rất lớn, và cũng chính sự chênh lệch này tạo ra lãi hoặc lỗ rất lớn cho ngân hàng. Chính vì vậy, nếu ngân hàng có khả năng dự đoán được biến động của giá vàng trên thế giới thì hoạt động này rất có lãi. Hiện nay hoạt động này ít diễn ra và có diễn ra thì thời gian tồn tại cũng tương đối ngắn để tránh rủi ro. Ngân hàng có được lợi thế rất nhiều do nguồn vốn huy động vàng từ dân cư nhiều, ngân hàng có thể bán cho nhà đầu tư và sẽ mua lại vào một thời điểm khác khi giá vàng hạ. Ngược lại, ngân hàng có thể mua vàng lúc giá thấp và giải quyết nguồn hàng tồn này bằng cách cho khách hàng vay. 1.4.7 Chốt nguội, mua hộ vàng khách hàng: Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này do lợi thế từ quota nhập khẩu vàng, từ nguồn ngoại tệ sẵn có để thu lợi. Do thời gian nhập 9 vàng và dập vàng khiến xảy ra độ trễ và ngân hàng tiến hành bán lúc giá cao và chọn thời điểm nhập giá thấp từ quốc tế. 1.4.8 Kinh doanh phối hợp: Hoạt động này là phối hợp các hoạt động được phép thực hiện để thu lợi nhuận và giảm rủi ro cho ngân hàng. Ví dụ ngân hàng có thể bán nguồn vàng gửi tiết kiệm huy động được từ khách hàng cho nhà đầu tư, sau đó, để cân bằng trạng thái, ngân hàng sẽ thực hiện hợp đồng Spot trên tài khoản hoặc Forward đối với thị trường nước ngoài. Như vậy, ngân hàng đã bảo hiểm trạng thái rủi ro của mình. Ngược lại, ngân hàng có thể mua vàng trong nước và bán vàng trên tài khoản hoặc thực hiện hợp đồng Forward để cân bằng trạng thái. Ngoài ra, khi thị trường option vàng liên hàng chưa có, khi khách hàng trong nước muốn thực hiện hợp đồng option với ngân hàng thì ngân hàng sẽ tái k ý hợp đồng option này sang thị trường quốc tế. Kinh doanh vàng phối hợp thể hiện trình độ và đẳng cấp của ngân hàng nhằm tối đa hóa lợi nhận với rủi ro thấp nhất bằng việc phối hợp các hoạt động được phép thực hiện. 1.4.9 Kinh doanh vàng trên tài khoản: Hiện có nhiều ngân hàng và công ty vàng bạc đá qu ý được phép triển khai nghiệp vụ này gồm: Ngân hàng Eximbank, Sacombank, Việt Á, Á Châu và Phương Đông Phương Nam; Công ty vàng bạc đá qu ý Sài Gòn – SJC, Công ty kinh doanh mỹ nghệ vàng bạc đá qu ý Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Công ty vàng bạc đá qu ý Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TP.HCM. Đây là nghiệp vụ được Ngân hàng nhà nước và Vụ quản l ý ngoại hối cho phép triển khai từ năm 2006 nhưng đây là nghiệp vụ rất triển vọng, đang được các ngân hàng triển khai gấp rút, đến nay có nhiều ngân hàng đang hoạt động, đầu tiên là ngân hàng Á Châu và mới đây là ngân hàng Việt Á, Eximbank, Phương Nam. Bởi chưa có quy chế quản l ý cụ thể nên nhà đầu tư hiện tham gia nhưng gặp rất nhiều khó khăn khi các tổ chức giao dịch vàng thay đổi quy định theo chủ ý. Kinh doanh vàng trên tài khoản đòi hỏi khoản k ý quỹ rất nhỏ làm yếu tố đòn bẩy để kinh 10 doanh trên 1 khối lượng lớn, đồng thời việc mua bán liên tục theo giá cập nhật công khai hiện thu hút rất nhiều nhà đầu tư tham gia, mỗi ngày khối lượng giao dịch đạt bình quân 200.000 đến 300.000 lượng, có ngày lên đến 400.000 lượng. Các ưu điểm của việc kinh doanh vàng tài khoản như sau:  Giảm lượng vàng vật chất cất trữ trong dân cư và lượng ngoại tệ trên thị trường vàng cũng sẽ được hạn chế.  Nguồn vàng huy động được cải thiện  Gắn kết giá cả liên thông với thị trường quốc tế, vận động sát theo cung cầu, ngày càng hội nhập với việc kinh doanh vàng trên tài khoản và các sản phẩm phái sinh như các thị trường tài chính trên thế giới. Một sự thật có thể thấy là thống kê giao dịch kinh doanh vàng của các ngân hàng trong thời gian vừa qua cho thấy lãi từ kinh doanh vàng của ngân hàng mỗi năm gần đây từ 20 đến 30 tỷ đồng và 1 điều hiển nhiên là khi ngân hàng lãi thì có một bộ phận lớn nhà đầu tư bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là ngân hàng chưa thật sự hỗ trợ nhà đầu tư trong việc kinh doanh và mục tiêu của ngân hàng không phải tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường quốc tế mà kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá vàng quốc tế và giá vàng trong nước khi có những nhân tố tác động. 1.5 Phân tích những yếu tố làm ảnh hưởng đến giá vàng 1.5.1 Cung – Cầu Sản lượng cung và nhu cầu tiêu thụ vàng là một nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng. Thông thường tháng 8 là vào mùa lễ hội tại Ấn Độ, nhu cầu mua nữ trang tăng đáng kể khiến lượng nhập khẩu tăng làm giá vàng cũng tăng theo, nơi mà tiêu thụ vàng trong tháng 8 tăng 45% so với năm rồi và hoạt động nhập khẩu tăng 56% trong tháng 8 năm nay. Nhu cầu ở Trung Đông và Châu Á cũng tác động mạnh đến giá vàng, trong thời gian qua đã có thời điểm USD mất giá mạnh mẽ, giá dầu tăng đột biến khiến các 11 quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn trên thế giới tăng cường mua vàng vào để bảo toàn tài sản thay thế cho dự trữ bằng USD. Những dấu hiệu tăng giá cũng đã được hình thành khi các chuyên gia cho rằng sản lượng đang thiếu hụt tại các mỏ tại Nam Phi và Australia. Các mỏ vàng mới có trữ lượng không đáng kể nhưng nhu cầu thế giới thì đang gia tăng, có thể thấy qua việc doanh số bán vàng tính theo số lượng tăng 300%/năm và giá trị của doanh số tăng 200% chỉ trong tháng 8. 1.5.2 Do ảnh hưởng của giá DẦU Dầu cũng là một loại hàng hóa ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Khi giá năng lượng tăng, có thể đẩy các ngành sản xuất dịch vụ nhất là vận chuyển rơi vào khó khăn vì vậy khi giá dầu tăng quá mức thường gây tác động xấu đến nền kinh tế nhất là gây ra tình trạng lạm phát, kém tăng trưởng khiến giá cả các loại hàng hóa sản xuất ra trở nên đắt đỏ, dẫn đến tình trạng lạm phát, chính vì vậy, giá vàng cũng sẽ biến động theo cùng chiều hướng là tăng theo giá dầu do nhu cầu đầu tư tránh rủi ro. Có thời điểm giá dầu tăng quá cao từ điểm 100 USD/thùng hồi đầu năm sau đó liên tiếp chinh phục các đỉnh cao mới là 147,24 USD/thùng thì giá vàng lúc đó cũng lên đến đỉnh kỷ lục là 1032 USD/ounce. Cũng còn một nguyên do khác là khi giá dầu tăng cao do cầu vượt cung thì các nước trong khối OPEC và các nước xuất khẩu dầu đều thu được nhiều ngoại tệ, lúc đó họ sẽ chuyển sang mua vàng dự trữ khiến giá vàng bị đẩy lên theo. Tuy nhiên, trong thời gian từ cuối tháng 8 đầu tháng 9, ảnh hưởng từ tình hình kinh tế thế giới nhất là Mỹ và Châu Âu suy thoái khiến dự đoán nhu cầu tiêu thụ dầu sẽ giảm làm giá dầu tụt dốc xuống đến mức 92.21 USD/thùng ngày 15/09/08 ở phiên Newyork nhưng giá vàng lại phục hồi từ mức 737 USD/ounce ngày 08/09 lên trở lại mức 782 USD/ounce ngày 15/09. Có thể thấy khoảng thời gian tháng 3 đến tháng 6, mọi biến động về giá dầu đều có ảnh hưởng ít nhiều cùng chiều với biến động giá vàng nhưng hiện tại khi OPEC đã cắt giảm bớt sản lượng khiến giá dầu sụt giảm thì vàng lại tách ra và đi ngược với giá dầu. Các thông tin như dự trữ xăng, dầu, các sản phẩm khác 12 từ dầu và công suất sản xuất có tăng hay giảm cũng còn tác động vô cùng ít đến biến động giá vàng. Điều này có thể giải thích bởi l ý do khi nền kinh tế thế giới suy thoái và tăng trưởng chậm khiến giá dầu giảm thì vàng vẫn là loại hàng hóa các nhà đầu tư vẫn phải nắm giữ trong danh mục của mình bởi tình hình tài chính của nền kinh tế số 1 thế giới đang trong tình trạng báo động khi hàng loạt các Ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế, các quỹ đầu tư phải phá sản. Một sự thật có thể thấy hiện nay là OPEC đã mất đi một phần quyền kiểm soát giá dầu bởi nhu cầu giảm đột ngột mới chính là nguyên nhân làm giá dầu giảm mạnh. Như vậy, khi trước giá dầu và vàng thường đi cùng chiều do đều là nguồn tài nguyên không phục hồi được, tuy nhiên, trong tình hình hiện nay thì giá vàng đôi khi tách khỏi ảnh hưởng và biến động ngược chiều rất khó dự đoán với giá dầu. 1.5.3 Tình hình kinh tế của các cường quốc nhất là Mỹ và Châu Âu Tình hình kinh tế Mỹ và các nước Châu Âu cũng góp một phần lớn ảnh hưởng đến giá vàng. Do đã phát triển nền kinh tế thị trường và một nền tài chính phát triển đa dạng, một khi nền kinh tế của các quốc gia này biến động thì các quốc gia khác cũng bị ảnh hưởng do cũng tham gia vào thị trường Châu Âu hoặc Mỹ không ít thì nhiều (đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mua trái phiếu hoặc do các công ty đa quốc gia hoạt động trên khắp thế giới). Một loạt các chỉ số kinh tế được công bố định kỳ là cơ sở để thấy được tình hình tài chính của các quốc gia này: Chỉ số đo lường mức độ lạm phát (CPI, PPI, PCE); GDP; Chỉ số tiêu dùng (Chỉ số bán lẻ, bán sỉ, hàng hóa lâu bền); Chỉ số về sức sản xuất, Lãi suất và các hoạt động khác của FED công bố; Thị trường lao động (Báo cáo việc làm, Chỉ số việc làm trong khu vực dịch vụ, Chỉ số thất nghiệp); Thị trường nhà (Chỉ số nhà hoàn thành, Doanh số nhà mới, Doanh số nhà mua bán, Dự án cấp phép); Dòng vốn (Báo cáo ngân sách, Cán cân thương mại, Chỉ số niềm tin tiêu dùng); Chỉ số tổng hợp (Tài khoản vãng lai, ISM). Tùy theo tình hình nền kinh tế mà các chỉ số này sẽ thể hiện xấu hay tốt, các chỉ số này được dự báo trước, nếu chỉ số chính thức giống như dự đoán thì thị trường ít biến động còn ngược lại thì thị trường sẽ đảo chiều. 13 Từ ngày 09/09 đến 12/9, giá vàng quốc tế đã chứng kiến một sự sụt giảm nghiêm trọng từ mức 800 USD/ounce xuống chỉ còn mức thấp nhất là 737 USD/ounce, sở dĩ có 1 sự dụt giảm đáng kể về giá như trên là do dự đoán tình hình kinh tế Mỹ đang trên đà phục hồi, đồng USD mạnh lên và nhu cầu tiêu thụ giảm dẫn đến giá cả các mặt hàng dùng để sản xuất tiêu dùng nhất là kim loại qu ý đặc biệt là vàng bị bán tháo để mua vào các tài sản khác như chứng khoán và đầu tư vào USD. Đồng thời, thị trường tài chính đang diễn biến phức tạp đã khiến không ít quỹ đầu tư bán ra một khối lượng lớn vàng để bù đắp lại những khoản đầu tư thua lỗ. Ngày 12/09, khi những công bố dữ liệu của Mỹ tương đối không khả quan như cán cân thương mại của Mỹ tiếp tục thâm hụt trong tháng qua khi giá nhập khẩu đã giảm mạnh hơn nhiều, thị trường lao động tiếp tục không khả quan khi số người thất nghiệp tăng cao 445.000 người (cao hơn mức dự báo 440.000 người) đã làm USD trượt giá trở lại so với các đồng tiền khác và vàng tăng lên mức 750 USD/ounce trong phiên Newyork. Ngày 13/09/08, vàng phục hồi lại mức 766.50 USD/ounce. Khủng hoảng cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn đã khiến con số 5 tập đoàn tài chính lớn trên Phố Wall chỉ còn lại 2. Sau vụ phá sản Ngân hàng đầu tư lớn nhất của Mỹ Bear Stearns, vụ Chính phủ tiếp quản Fannie Mae và Freddie Mac, ngày 15/09, Phố Wall chứng kiến sự sụp đổ của Lehman Brothers và AIG, thương vụ sáp nhập gây chấn động thế giới được coi là lớn nhất kể từ sau khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933: Bank of America mua lại Merrill Lynch với giá 50 tỷ USD. Vụ sụp đổ các ngân hàng đầu tư lớn nhất Mỹ do cơn suy thoái khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn được coi như là cuộc khủng hoảng thế kỷ đã dẫn đến tâm l ý lo sợ và hoang mang nơi các quỹ đầu tư và đầu cơ, ngày 17/09/08, vàng biến động lên mức 863 USD/ounce, trong phiên có lúc tăng tới 120 USD/ounce tại phiên Newyork. Lúc này, Bộ tài chính và Chủ tịch FED buộc phải đệ trình lên quốc hội kế hoạch ứng cứu khẩn cấp các ngân hàng còn lại bằng cách mua lại các khoản nợ xấu với gói cứu trợ lên đến 700 tỉ USD. Thị trường chứng khoán lao dốc trên khắp thế giới do lo sợ rủi ro, Ủy ban chứng khoán một số quốc gia buộc phải ban bố tình trạng khẩn cấp, cho vay hỗ trợ 14 đồng thời cấm tạm thời việc bán khống để giảm bớt mối nguy hại lây lan. Chính những khủng hoảng liên tục này và nghi ngờ khả năng giải quyết của FED mà vàng lại được coi là tài sản đầu tư an toàn nhất trong giai đoạn hiện nay. Kịch bản thứ nhất: Nếu kế hoạch cứu trợ 700 tỉ USD trên thất bại, tình hình kinh tế thế giới sẽ rất xấu, suy thoái và khủng hoảng lan rộng, chắc chắn USD và một số ngoại tệ mạnh sẽ mất giá, vàng lại trở thành tài sản an toàn nên đầu tư vào vàng lúc này là lực chọn tối ưu nhất. Kịch bản thứ 2: Nếu được thông qua thực hiện gói giải pháp trên thì tình trạng lạm phát là không tránh khỏi do dự kiến sự hỗ trợ này có thể đổ ra thị trường hàng nghìn tỉ USD. Đứng trong bối cảnh đồng USD dễ bị tổn thương như hiện nay thì các nhà đầu tư phải chọn vàng để giảm bớt rủi ro so với nắm giữ tiền tệ hay chứng khoán. Tuy nhiên cũng phải xem xét tới khả năng các NHTW sau khi tung tiền ra cứu hệ thống tài chính sẽ lợi dụng lúc giá vàng cao bán bớt vàng ra để thu hồi tiền về và làm hạ nhiệt giá vàng. 1.5.4 Các nhân tố ảnh hưởng có liên quan đến chính sách tài chính - tiền tệ của các quốc gia trong điều hành kinh tế – Sức mạnh đồng USD Chính sách tài chính – tiền tệ của một quốc gia thể hiện những biện pháp của Chính phủ đối với nền kinh tế của đất nước đó. Trong thời gian qua, kể từ tháng 9/2007 đến nay, FED đã tám lần cắt giảm lãi suất từ 5,25% xuống còn 2% như hiện nay. Mỗi lần cắt giảm lãi suất đều có những mục đích nhất định, thời gian vừa qua là do tình hình suy thoái của Mỹ bắt nguồn từ khủng hoảng nợ dưới chuẩn, do đó FED buộc phải có những biện pháp để kích thích tiêu dùng và đầu tư cho tăng trưởng, mỗi lần cắt giảm lãi suất thì giá vàng lại biến động tăng cao, do lo sợ tình hình kinh tế khó khăn và lạm phát tăng nên các nhà đầu tư đổ vào vàng như một giải pháp cuối cùng. 1.5.4.1 Ảnh hưởng trực tiếp của chính sách tiền tệ tới giá vàng Ngày Tăng Giảm Lãi suất 18/09/07 -50 4,75% 15 31/10/07 -25 4,50% 11/12/07 -25 4,25% 22/01/08 -75 3,50% 30/01/08 -50 3,00% 18/03/08 -75 2,25% 05/2008 -25 2,00% Giá vàng từ tháng 9/07 đến thời điểm hiện nay tăng theo từng đợt cắt giảm lãi suất của FED, tháng 9/07 giá vàng tăng lên mức 700 USD/ounce khi FED cắt giảm 50 điểm %, tháng 10 giá vàng tăng lên mức 750 USD/ounce khi lãi suất giảm 0,25%, tháng 11 xoay quanh mức 800 USD/ounce. Tháng 1-2/08 vàng tăng lên mức cao mới là 850 – 900 USD/ounce khi lãi suất chỉ còn 3%. Ngày 18/3, đợt cắt giảm lãi suất xuống còn 2,25% giá vàng đột biến trước đó lên gần 1030 USD/ounce rồi mới chịu hạ nhiệt sau đó. Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu ở đây bắt nguồn từ mở rộng cung tiền quá mức trong thời gian gần đây khiến nguy cơ lạm phát đang rình rập nền kinh tế Mỹ do cung tiền không dành cho đầu tư mà chủ yếu giải quyết tình trạng sụp đổ của các tổ chức tài chính đang trong tình trạng chờ phá sản. Ngược lại, lãi suất tăng cao quá mức cũng không phải thể hiện một nền kinh tế mạnh, do lo ngại tình trạng lạm phát cản trở kinh tế, ECB kiên định chính sách lãi suất cao để ngăn chặn lạm phát dù vẫn đối mặt với việc nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp và hộ gia đình sẽ bị hạn chế và sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng (Lãi suất ECB hiện giữ nguyên ở mức 4,25% trong khi FED vẫn chưa tăng lãi suất và kềm chế ở mức 2% ). Việt Nam là một ví dụ điển hình và gần gũi cho thấy lãi suất cao nhưng giá trị đồng tiền không mạnh bởi lãi suất cao để bù đắp cho sự trượt giá của đồng tiền và nhằm mục đích thu hẹp cung tiền hạn chế lạm phát do tình trạng đầu tư không hiệu quả, năng suất kém. 16 Các đợt cắt giảm lãi suất của Mỹ có thể chưa dừng lại ở đây khi mà kế hoạch ứng cứu 700 tỉ USD đang được xem xét. Khi xảy ra các kịch bản như phỏng đoán ở trên thì (dù có cứu hay không cứu) thì khả năng FED tiếp tục cắt giảm lãi suất được các chuyên gia dự đoán với một tỷ lệ không nhỏ. 1.5.4.2 Ảnh hưởng gián tiếp của chính sách tiền tệ tới giá vàng thông qua sức mạnh đồng tiền Lãi suất là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận động của nguồn vốn, khi lãi suất ở quốc gia này cao hơn một quốc gia khác thì luồng vốn quốc tế sẽ tập trung về nơi có lãi suất cao – Một điều mặc nhiên là sau khi đã xem xét đến các yếu tố lạm phát và sự biến động tỷ giá. Bởi sau một thời gian đầu tư tìm kiếm lợi nhuận, vốn đầu tư sẽ được quy đổi về trở lại chính quốc nên lúc đó sẽ phụ thuộc vào mức độ lạm phát và tỷ giá quy đổi. Chính vì lẽ đó mà khi lãi suất một quốc gia biến động tăng, đồng tiền quốc gia đó sẽ thu hút nhà đầu tư và sẽ trở nên mạnh hơn trong mắt các quốc gia khác. Trong khuôn khổ phân tích ảnh hưởng của sức mạnh đồng USD đến giá vàng, chỉ xin nói về sức mạnh của đồng USD so với EUR bởi hai khu vực này là hai trung tâm kinh tế tài chính lớn của thế giới, tập trung mọi nguồn lực về sản phẩm tài chính cũng như hàng hóa nên một thay đổi dù nhỏ ảnh hưởng đến nền kinh tế hai khu vực này đều được thể hiện trong sức mạnh của đồng USD. Thời điểm từ tháng 4 đến tháng 7 năm nay, USD mất giá mạnh mẽ khi hàng loạt vụ sụp đổ hiển hiện rõ tình trạng suy thoái kinh tế Mỹ, có thời điểm 1 EUR đổi tương đương 1,6 USD. Giá vàng thời điểm đó cũng ở mức cao. Ngày 08/07/08, 1 EUR = 1,5737 USD, giá vàng lúc đó cũng đạt 927 USD/ounce. Ngày 15/07/08 1 EUR = 1,5994 USD thì giá vàng cũng leo lên mức 979,35 USD/ounce. Sự ổn định và tăng giá USD ngày càng cao kể từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 9 khi đồng EUR đứng trước sức ép hạ lãi suất để phục hồi nền kinh tế đang trì trệ và hy vọng đồng USD sẽ được phục hồi khi những khó khăn được gỡ. 1 EUR ngày 20/08/08 đổi được 1,4766 USD, giá vàng giảm về mức 816,25 USD/ounce, ngày 03/09/08, giá vàng tiếp 17 tục hạ xuống mức 790,50 USD/ounce. Ngày 11/09, 1 EUR = 1,3933 USD thì giá vàng cũng lao xuống mức 746.58 USD/ounce (mức thấp nhất trong năm nay khi vàng test mức 737 USD/ounce ngay hôm đó). Chính hy vọng USD phục hồi mạnh mẽ sau một thời gian mất điểm trước EUR đã khiến giới đầu tư an tâm bán bớt vàng ra để mua lại USD tích trữ và quay trở lại hoạt động đầu tư đã khiến giá vàng giảm mạnh. Lúc đó cũng có nhiều dự đoán vàng sẽ về mức 700 hoặc xa hơn nữa. Tuy nhiên, những biến động trong tình hình tài chính gần đây đã thể hiện không như mong đợi. Vàng lại lên ngôi và khó có khả năng giảm mạnh khi thị trường vẫn nghi ngờ vào gói giải pháp chưa có khả năng cứu đồng USD vượt khỏi sự trượt giá. Có một điều cần phải chú ý là đồng tiền của một quốc gia nào đó tăng là do sức mạnh nội tại của nó hay chỉ là tác động nhất thời của chính sách lãi suất cao như là một giải pháp để chống lạm phát. Ví dụ nếu EUR tăng lãi suất thêm nữa cho mục tiêu chống lạm phát mà phải hy sinh các mục tiêu tăng trưởng và đầu tư thì rõ ràng EUR sẽ mất giá và trong tương quan với USD thì USD sẽ mạnh lên, khi đó vàng đang được định giá theo USD sẽ theo đó giảm giá. Như vậy, quyết định tăng lãi suất của NHTW Châu Âu sẽ không làm EUR mạnh hơn mà ngược lại. Chỉ khi nào nhà đầu tư nhận thấy khả năng tăng giá đồng tiền xảy ra do chính giá trị nội tại của nó tạo nên thì sức mạnh đó mới bền vững. Như vậy, bản thân sức mạnh USD và EUR – hay thật sự là tình hình kinh tế của hai khu vực này – sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến biến động giá vàng. (Xem Phụ lục 1 đính kèm) 1.5.5 Lạm phát Lạm phát cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến giá vàng. Nếu lạm phát thấp dưới 1 con số thì sẽ thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng trong xã hội, ngược lại khi lạm phát quá cao thì nó lại là một nhân tố kềm hãm tiêu dùng, khiến giá cả hàng hóa tăng cao và giảm sức mạnh của đồng tiền. Có rất nhiều l ý do là nguyên nhân của lạm phát, có thể kể đến những bất ổn trong điều hành chính sách tiền tệ (nới lỏng quá mức) hay 18 đầu tư không hiệu quả hoặc giá cả hàng hóa tăng cao khiến chi phí sản xuất bị đẩy lên mà mức thu nhập không theo kịp… Lo lắng tình trạng lạm phát sẽ gây đột biến về giá cả hàng hóa. Đồng thời, những biện pháp giải quyết sẽ ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền khiến các nhà đầu tư sẽ tìm đến vàng để bảo toàn tài sản, từ đó khiến giá vàng biến động tăng. 1.5.6 Các tác động phụ: 1.5.6.1 Chính trị: Chiến tranh gây nên những tổn thất không lường và lịch sử đã có thời kỳ chứng kiến Mỹ phải phá giá đồng tiền và vô hiệu hóa thỏa thuận Bretton Woods để giải quyết hậu quả chiến tranh tại Việt Nam, giá vàng khi đó đạt mức lịch sử 875 USD/ounce ngày 21/01/1981. Chính vì vậy những cuộc xung đột gần đây giữa Mỹ với các quốc gia khác cũng luôn là mối lưu tâm. Tình hình hạt nhân tại Iran và Bắc Triều Tiên cũng như xung đột giữa Nga và khối các nước Mỹ - Phương Tây tại Gruzia làm cho tình hình chính trị thế giới nóng lên từng ngày. Giá vàng cũng sẽ bị ảnh hưởng khi những xung đột đó đem đến chiến tranh và nguy cơ khó khăn cho nền kinh tế toàn cầu. 1.5.6.2 Đầu cơ: Vàng là một loạn hàng hóa đặc biệt có thể thực hiện đầy đủ các chức năng của tiền tệ và là loại hàng hóa bảo toàn tài sản tốt nhất thế nên các quỹ đầu tư và kể cả cá nhân trên thế giới xem vàng là một tài sản phải duy trì trong danh mục đầu tư nhất là trong trường hợp kinh tế thế giới đang trên đà giảm và lạm phát tràn lan. Những động thái liên quan đến các quỹ đầu tư trong thời gian gần đây cho thấy điều đó. Ngày 03/9/08, khi USD tăng mạnh lên và khu vực đồng EUR giảm tăng trưởng khiến USD lên giá so với EUR thì quỹ đầu tư SPDR Gold Share – Quỹ tín thác đầu tư vàng số 1 thế giới bán ra 9,19 tấn vàng. Chính điều này đã làm tâm l ý bán của các nhà đầu tư và quỹ khác tăng lên khiến xu hướng giảm giá kéo vàng xuống mức 737 USD/ounce ngày 11/09. Nhưng tuần lễ từ 17/09 đến 24/09, quỹ này đã gom vào gần 100 tấn vàng do biến động tình hình tài chính tại Mỹ đã khiến giá vàng trong 1 đêm tăng lên đến 120 19 USD/ounce (mức cao nhất trong lịch sử biến động giá). Những quỹ đầu tư này hoạt động vì mục đích lợi nhuận có thể tác động mạnh mẽ làm cho không những giá vàng mà kể cả giá cả các loại hàng hóa khác chao đảo. Đã có thời điểm tháng 5/08, các quỹ này bị các tổ chức chính phủ cảnh cáo kiểm tra nếu có các hành động lũng đoạn thị trường. 1.5.6.3 Thời tiết – Thiên tai – Chu kỳ lễ hội - Khủng bố Các nhân tố ảnh hưởng trên tuy không phải là cơ bản và lâu dài nhưng cũng có khả năng gây ảnh hưởng đột biến khiến giá vàng biến động. Chu kỳ lễ hội và phong tục tập quán mua vàng làm tài sản hồi môn trong đám cưới tại Ấn Độ khiến giá vàng tăng theo chu kỳ này. Kết luận chương 1: Chương 1 khái quát chức năng của vàng và sự phân chia thị trường sản xuất và tiêu thụ vàng trên thế giới, giới thiệu các sàn giao dịch vàng lớn nhất trên thế giới và các sản phẩm kinh doanh vàng hiện có tại Việt Nam. Đồng thời, cũng kết hợp phân tích kỹ các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng làm tiền đề cho Chương 2 tổng hợp biến động giá vàng và phân tích biến động giá vàng trên thế giới và tại Việt Nam, đánh giá những khó khăn và tồn tại trên thị trường kinh doanh vàng Việt Nam. 20 CHƯƠNG 2: TỔNG HỢP BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM - THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI 2.1 Tổng quan tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam từ giữa năm 2007 đến giữa năm 2008 2.1.1 Sự xuống dốc của nền kinh tế lớn nhất thế giới: Thế giới đang chứng kiến một tình trạng suy thoái về kinh tế đang xảy ra dây chuyền mà mắc xích của chuỗi dây chuyền này bắt đầu từ nước Mỹ. Sức khỏe của nền kinh tế Mỹ đã là vấn đề phải bàn đến trong suốt một năm qua như là nỗi ám ảnh kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn. Cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn bắt nguồn từ sự xẹp hơi của thị trường nhà đất mang tính chất “bong bóng”. Thị trường bất động sản phát triển nhanh chóng từ 2001 đến 2005 do hàng loạt ngân hàng đầu tư và các định chế tài chính bơm vốn vào lĩnh vực cho vay mua nhà dưới chuẩn. Ngân hàng sau khi bơm vốn ra cho các định chế tài chính vay để hỗ trợ người dân mua nhà ở hoặc đầu tư sẽ bị kẹt vốn, để giúp ngân hàng có tiền, các ngân hàng đầu tư và hai “Công ty do nhà nước bảo trợ” Fannie Mac và Freddie Mac mua lại danh mục các khoản nợ vay của ngân hàng rồi lại dùng làm thế chấp phát hành “Trái phiếu bất động sản”. Rồi đến lượt các trái phiếu bất động sản này được bán cho các ngân hàng đầu tư và các nhà đầu tư khác khắp toàn cầu. Số nợ thế chấp mà hai tập đoàn này đang “ôm sô” 5.200 tỉ USD, trong đó 3.000 tỉ USD là của Fannie Mae và 2.200 tỉ USD là của Freddie Mac mà Trung Quốc hiện cũng đang kẹt rất nhiều vốn nơi hai tập đoàn này . Chứng khoán hoá đã trở thành công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả và tăng nguồn vốn lên bất tận và ngân hàng đầu tư lúc đó có lãi nhiều nhất. Từ đó, lợi nhuận kết hợp với lòng tham đã dẫn đến cơn sốt tăng giá bất động sản nhanh chóng và lạm dụng việc cho vay dưới chuẩn. Năm 2002, doanh số cho vay dưới chuẩn cung cấp cho thị trường khoảng 200 tỷ USD, năm 2003 là 320 tỷ USD, năm 21 2004 là 550 tỷ USD, năm 2005-2006 con số này đạt gần 700 tỷ USD hàng năm, chiếm khoảng 25% thị phần cho vay thế chấp mua nhà toàn nước Mỹ1. Từ năm 2001, các khoản vay mua nhà tăng cao bất chấp lãi suất lúc đó khá cao, cuối năm 2005 đến năm 2006, bong bóng nhà đất bắt đầu xẹp hơi và ảnh hưởng thật sự vào năm 2007 khi mà lãi suất cho vay cầm cố được điều chỉnh tăng khiến hàng triệu người mua nhà với mục đích đầu cơ không thể trả nợ được cộng thêm giá nhà đất ngày càng sụt giảm khiến cho nhà đầu tư không thể bán bất động sản để trả nợ ngân hàng. Doanh số bán nhà tại Mỹ trong tháng 1 giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 09 năm qua và giá nhà đất sụt giảm liên tục. Xu thế của thị trường nhà đất nói chung đang đi xuống, trữ lượng nhà tồn không bán được hiện nay còn rất nhiều. Hàng triệu người bị tịch thu tài sản để trả nợ ngân hàng trong khi tài sản cầm cố tại ngân hàng ngày càng teo tóp do giá nhà đất hạ liên tục. Tình hình ngày càng tồi tệ đến khi thương mại tiêu dùng cho thấy dấu hiệu trì trệ, chính sách thắt chặt tín dụng và thị trường chứng khoán đầy bất ổn. Từ Mỹ, rối loạn lan san đến Anh, Ireland, Tây Ban Nha, Ấn Độ và Châu Á trở thành một hiện tượng toàn cầu làm giá nhà đất sụt giảm mạnh. Ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ đã làm giá cổ phiếu của Bear Stearns từ tháng 10/2007 đến tháng 4/2008 đã mất 80% giá trị, tương đương số tiền 16,7 tỷ USD vốn hoá thị trường, trước tình hình đó, FED tại Newyork đã bơm tiền ra để cứu Bear Stearns và cuối cùng ngân hàng này được bán lại cho JPMorgan Chase với giá 1,1 tỉ USD. Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà chưa kịp chuyển giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng trăm tỷ USD. Ngày 07/09, chính phủ Mỹ thông qua cơ quan Tài chính nhà đất liên bang tiếp quản 2 công ty trong lĩnh vực cho vay thế chấp là Fannie Mae và Freddie Mac khi 2 công ty này đang chìm trong khủng hoảng với những khoảng nợ xấu khổng lồ và giá cổ phiếu rơi tự do. Sau đó, lại đến lượt Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 tại Mỹ đã lỗ tới 6,7 tỉ USD trong 2 qu ý đầu năm và giá cổ phiếu của công ty giảm từ 67 1 Thời báo kinh tế Sài Gòn 22 USD xuống dưới 4 USD/cổ phần. Sau nỗ lực sáp nhập mua bán không thành, Lehman Brothers phải nộp đơn phá sản khi không được sự giải cứu từ Chính phủ. Ngân hàng thương mại lớn thứ 2 của Mỹ Bank of America đã tung 50 tỷ USD mua lại Merrill Lynch, công ty tài chính đang ngập đầu trong khủng hoảng. Thêm vào cú sốc trên thị trường tài chính, tập đoàn tài chính bảo hiểm hàng đầu thế giới AIG cũng trượt tới bờ vực phá sản, cuối cùng FED đã chi ra 85 USD dưới dạng cho vay khẩn cấp trong 2 năm để giải cứu AIG. Vào ngày thứ tư 17/09 vừa qua, cổ phiếu của những ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới là Morgan Stanley và Goldman Sachs đã rớt lần lượt là 46% và 26% trong vòng 1 ngày. Hiện nay, 2 ngân hàng này đang nộp đơn xin chuyển đổi mô hình thành tập đòan ngân hàng thay vì ngân hàng đầu tư như trước đây để có thể tiếp cận các chính sách ưu đãi của FED nhưng đồng thời cũng chịu sự chi phối nhiều hơn từ FED và một số cơ quan chính phủ. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị trái phiếu cho toàn thị trường lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD. Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ chứng khoán hóa của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động. Cổ phiếu các ngân hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007. Trong danh sách 25 công ty thua lỗ lớn nhất của S&P có đến 16 công ty tài chính. Các công ty viễn thông, tiêu dùng, công nghệ thông tin, và y tế cũng nằm trong số những công ty đứng đầu về thua lỗ . Ngoại trừ năng lượng, hầu như không có lĩnh vực nào là không bị ảnh hưởng. Ngày 16/01/2008, thị trường chứng khoán toàn cầu sụt giảm bởi vấn đề suy thoái kinh tế Mỹ, chỉ số Nikkei 225 của Nhật giảm điểm mạnh nhất trong vòng 2 năm qua và giảm 11,8% tính từ đầu năm, chỉ số CSI 300 của Trung Quốc, chỉ số Hang Seng của Hồng Kông đều sụt giảm mạnh. Cho đến nay, chỉ số thị trường chứng khoán Mỹ đã giảm gần 20% so với tháng 9/2007. Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã tiến hành các biện pháp làm tăng tính thanh khoản của thị trường tín dụng như mua vào các loại công trái Mỹ, trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ đảm bảo theo tín dụng nhà ở. Bắt đầu từ ngày 18/09/2007, FED 23 tiến hành cắt giảm lãi suất liên ngân hàng đến 6 lần để cứu thị trường, tổng mức cắt giảm cho đến nay là 3,25%, lãi suất hiện nay là 2%. Để kích thích tiêu dùng khi nền kinh tế suy thoái, chính phủ Mỹ còn thông qua kế hoạch hoàn thuế cho người dân trị giá 152 tỷ USD do tiêu dùng của người dân chiếm đến 70% giá trị nền kinh tế Mỹ. Chưa hết, hiện nay Mỹ đã phải dùng đến tiền thuế của dân để trợ giúp các công ty tư nhân nổi cộm là vụ Bear Stearns, AIG, Fannie Mae và Freddie Mac… Bộ trưởng tài chính Mỹ Henry Paulson và Chủ tịch FED Ben Bernanke đã trình quốc hội kế hoạch hành động khẩn cấp để cứu nguy nền kinh tế, cơ quan chứng khoán quốc gia Mỹ ban hành lệnh cấm bán khống cổ phiếu để hạn chế sự suy thoái của thị trường chứng khoán. Bộ tài chính Mỹ đang đề xuất khoản tài chính trị giá 700 tỉ USD để giải cứu thị trường tài chính, các nhà phân tích, chuyên gia một thời không ủng hộ việc can thiệp hành chánh giờ cũng gật gù với gói giải pháp này vì họ hiểu rằng nguy cơ quá lớn, nếu không can thiệp thì cái giá phải trả lớn hơn nhiều so với giữ một nguyên tắc không giải quyết được vấn đề gì, những tập đoàn ngân hàng lớn trước đây luôn phản ứng với việc chính phủ một số nước can thiệp vào thị trường tài chính giờ đang “mừng rơi nước mắt” với giải pháp can thiệp thị trường của Chính phủ Mỹ. Ngày 29/09 quyết định quan trọng này đã không được thông qua khiến Phố Wall ngập chìm trong thất vọng với những mức giảm chưa từng có trong lịch sử. Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định rằng kế hoạch này sớm muộn cũng phải được thông qua để giải quyết tình hình ngày càng căng thẳng. 2.1.2 Giá dầu tăng kỷ lục: Giá dầu cũng là một nhân tố có tầm ảnh hưởng chính đến tình hình lạm phát nền kinh tế. Tính từ tháng 02/2002 đến nay, USD hạ giá gần 25% trong khi giá dầu tăng lên gần 500%. Những ngày đầu tháng 7/2008 này, giá dầu vươn đến mức kỷ lục 146 USD/thùng, mức giá này gần gấp đôi so với năm ngoái. Điều này được lý giải một phần do áp lực cung cầu - được cho là mất cân đối khi nguồn cung của vàng đen là có giới hạn trong khi cầu luôn phát triển. Mặt khác, chính sách neo giữ tỷ giá (cụ thể là 24 mở rộng cung tiền) các đồng tiền với USD của các quốc gia Châu Á và Trung Đông đã làm cho các đồng tiền này giảm giá tương đối so với USD khiến nhu cầu nhập khẩu của Mỹ ngày càng cao, cộng với tác động cắt giảm lãi suất thời gian vừa qua khiến nhu cầu hàng hoá tăng cao, chính điều này khiến các nước này tăng xuất khẩu, thu hút được đầu tư và dẫn đến tăng trưởng nóng đẩy giá dầu mỏ lên mức kỷ lục. Giá dầu tăng cao khiến tất cả các quốc gia đều bị ảnh hưởng, các quốc gia phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu (sẽ phải vận chuyển hàng hoá) sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên, Trung Quốc và nhiều quốc gia Châu Á khác có mô hình sản xuất dựa trên mức độ chi phí năng lượng nhất định nên sẻ bị tổn thương có thể làm giảm đi thành tích họ đã đạt được trong thời gian vừa qua, ngược lại hàng hoá các nước này tăng lại gây tác động ngược lại cho các nước phát triển khác vì họ phải phụ thuộc vào nhiều hàng hoá rẻ nhập khẩu từ Châu Á. Trung Quốc và nhiều công ty Châu Á sẽ bị ảnh hưởng nặng nề từ tác động kép của giá dầu mỏ tăng và USD giảm giá vì sẽ khó khăn trong vấn đề cạnh tranh với các quốc gia khác như Mexico, Canada, Đông Âu, Tây Âu… bởi họ không phải nhập khẩu nguyên liệu và máy móc, không phải tốn chi phí vận chuyển đi xa. USD mất giá còn làm nhiều công ty tại Châu Á đang phải chịu áp lực lớn từ đồng nội tệ tăng giá so với USD, lợi nhuận giảm do lương tăng và giá năng lượng cao. 2.1.3 Lạm phát đe dọa: Lạm phát đang đe dọa xuất phát từ giá dầu tăng cao và suy thoái kinh tế ảnh hưởng đến toàn cầu, ECB đã tăng lãi suất lên 4,25% trong cố gắng kềm chế tỷ lệ lạm phát và vẫn đảm bảo để tăng trưởng. Tín hiệu này đã tác động đến FED và có lẽ Mỹ cũng phải xem xét đến vấn đề lãi suất của mình sau một loạt đợt cắt giảm trong thời gian vừa qua và chính sách tiền tệ mở rộng để khắc phục một phần khủng hoảng tín dụng. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất tăng cao sẽ là mối quan tâm mà FED không thể trì hoãn, giá cả tăng cũng là mối bận tâm lớn khi khủng hoảng tài chính chưa kết thúc. 25 2.1.4 Ảnh hưởng của suy thoái Mỹ đến các nền kinh tế khác: Mỹ là một cường quốc nên những khó khăn của Mỹ không chỉ là khó khăn riêng mà chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình hình các nền kinh tế trên toàn cầu bởi không thể có một thị trường chi tiêu đến 9.000 tỷ USD/năm (nếu so sánh 1.000 tỷ của Trung Quốc và 600 triệu USD của Ấn Độ thì quả là một con số khổng lồ). GDP của Mỹ chiếm đến 25% GDP toàn cầu thế nên sự suy giảm của nền kinh tế Mỹ đánh dấu sự đi xuống tương đối của kinh tế toàn cầu nhất là trong giao dịch tài chính quốc tế. Bởi nếu sản lượng và nhu cầu của Mỹ giảm thì chi tiêu cá nhân và tiêu dùng vốn sẽ giảm, và chắc chắn ảnh hưởng đến hàng nhập khẩu. Kinh tế Trung Quốc, Canada, Mexico, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á chắc chắn sẽ bị kéo chậm lại, các quốc gia làm gia công trung gian cho Trung Quốc xuất khẩu qua Mỹ cũng bị ảnh hưởng theo. 2.1.5 Tình hình kinh tế Việt Nam từ giữa năm 2007 đến nay: Tình hình chung: Kinh tế Việt Nam đang dần hội nhập với nền kinh tế thế giới nên không tránh khỏi những ảnh hưởng từ tình hình kinh tế thế giới. Sau khi gia nhập WTO vào cuối năm 2006, năm 2007 Việt Nam đã có những thành quả đáng kể từ kinh tế đến xã hội, thị trường tài chính chứng khoán tăng nóng gây đột biến về tăng trưởng tín dụng và cung tiền trong nền kinh tế. Những nhân tố trên góp phần vào nguyên nhân gây tác động xấu đến thực trạng kinh tế xã hội năm 2008. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều bất ổn, giá dầu leo thang, tăng trưởng GDP Việt Nam giảm từ 7,4% trong Quí 1 còn 5,8% trong quí 2. Xuất khẩu tăng trưởng thấp do nhu cầu thế giới cũng giảm. Ảnh hưởng từ chính sách thắt chặt tiền tệ làm nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tiếp cận nguồn vốn vay để đầu tư và hoạt động nữa. Nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa như các doanh nghiệp xuất khẩu tại Đồng bằng sông Cửu Long là một ví dụ. Chính sách tài khóa cũng đã thể hiện tác dụng khi tổng số vốn tiết giảm gần 51.500 tỷ đồng. Trong đó, cắt giảm chi tiêu công, chi tiêu ngân sách thường xuyên là 6000 tỷ 26 đồng, giãn tiến độ giải ngân bằng nguồn vốn trái phiếu chính phủ là 10.300 tỷ đồng. Đầu tư công không hiệu quả, việc cắt giảm trong lĩnh vực này đã diễn ra, Tập đoàn tàu thủy Việt Nam đã cắt giảm 6.300 tỷ đồng, công ty hàng hải cắt giảm 6.213 tỷ đồng, tập đoàn dầu khí tiết giảm 6.645 tỷ đồng, tập đoàn bưu chính viễn thông tiết giảm 1.868 tỷ đồng. Việc cắt giảm là một bước đi cần thiết trong cuộc chiến chống lạm phát nhưng cái giá phải trả là chậm tăng trưởng. Hạ tầng cơ sở cụ thể là giao thông và mạng lưới điện làm cản trở hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Nếu cắt điện sẽ gây thiệt hại khoảng 0,5USD/kwh và theo tính toán của EVN, năm 2008 Việt Nam có thể thiếu 8,6 tỷ kwh, hai thông tin này có thể đưa cho ta một con số đáng ngạc nhiên 4,3 tỷ USD hay 72.240 tỷ đồng2. Cơ sở hạ tầng kho bãi cảng biển không phát triển theo kịp nhu cầu trao đổi hàng hóa dẫn tới tình trạng tắc nghẽn, tăng phí lưu kho... Tăng trưởng: Có thể thấy sau khi gia nhập WTO một năm, tốc độ tăng trưởng của nhiều nước đều tăng lên như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, các nước ở châu Mỹ Latinh như Argentina và Brazil tuy giảm tốc độ tăng trưởng nhưng bù lại đạt được một tỷ lệ lạm phát thấp hơn rất nhiều. Chỉ riêng Việt Nam và Thái Lan thì tốc độ tăng trưởng giảm mà lại gia tăng lạm phát. Đồng thời, xét về thâm hụt thương mại thì một số nước cùng trình độ với Việt Nam do mở cửa mạnh mẽ với hàng hóa nước ngoài nên bị thâm hụt thương mại nhiều hơn, nhưng cũng có một số nước giảm được thâm hụt như Malaysia, Argentina và gia tăng thặng dư thương mại như Trung Quốc. 2 Xem bài thiếu điện – cắt điện Năm 2008 Việt Nam có thiếu điện 27 Bảng 1: MỘT SỐ DỮ LIỆU VĨ MÔ CỦA CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN TRƯỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP WTO 3 Quốc gia Gia nhập WTO % tăng GDP % tăng lạm phát Cán cân thương mại (tỉ USD) Một năm trước gia nhập WTO Một năm sau nhập WTO Một năm trước gia nhập WTO Một năm sau nhập WTO Một năm gia nhập WTO Một năm sau nhập WTO Argentina 1-1-1995 5,84 5,53 4,18 0,16 -10,98 -6,76 Brazil 1-1-1995 5,85 2,15 2.075,83 16 -1,68 -23,50 Trung Quốc 11-12-2001 8,4 9,1 0,4 -0,77 20,52 35,42 Thái Lan 1-1-1995 8,99 5,91 5,08 5,87 -7,8 -14,35 Indonesia 1-1-1995 7,54 7,82 8,52 7 -3 -7,3 Malaysia 1-1-1995 9,21 10 3,7 3,48 -5,63 -4,46 Campuchia 13-10-2004 8,51 13,3 1,15 5,86 -0,17 -0,27 Việt Nam 11-1-2007 8,19 7,0 7,5 28 -0,24 -20 Một điều có thể thấy không kém phần quan trọng là do ảnh hưởng từ sức mua của các thị trường do lạm phát tăng cao trong bối cảnh giá nhiên liệu tăng kỷ lục đã khiến sức mua phần nào bị giảm xuống. Điều này được thể hiện qua việc giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng lên là do giá tăng chứ không phải là tăng lượng xuất khẩu. Thậm chí, một số mặt hàng chủ lực còn giảm đi, cụ thể so với cùng kỳ năm trước, tính đến hết tháng 7, than đá giảm 22,7% về lượng, cà phê giảm 25,9%, cao su giảm 13,4%, dầu thô đạt 7,8 triệu tấn giảm 12%, gạo giảm 6,8%. Nếu loại bỏ tác động của việc tăng giá trên thị trường quốc tế, tăng trưởng thật sự của xuất khẩu chỉ còn khoảng 20%, thấp hơn mức 37,7% mà tổng cục thống kê công bố. 3 Đến sau, lại chậm sửa mình – TBKTSG 24 – 07 – 2008 28 Đồ thị 1: Tăng trưởng GDP% theo năm Đồ thị 2: Vốn FDI cam kết và thực hiện theo năm Lạm phát: Số liệu được công bố gần đây cho thấy các chỉ số kinh tế vĩ mô đang được cải thiện và không xấu hơn nhiều nữa, CPI giảm dần đều từ 3,9% tháng 5 xuống còn 2,1% trong tháng 6 và chỉ còn tăng 1,13% trong tháng 7. Mặc dù đã có những nỗ lực kềm chế lạm phát, CPI tính từ đầu năm đến tháng 7/08 tăng 19,7% và dự báo đến cuối năm khoảng 25%. Trong tháng 07, giá xăng, dầu diesel và dầu hỏa tăng bình quân 31%, 14,3% và 43,9% được dự báo là sẽ tác động trực tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát từ đây đến cuối năm tuy trong tháng 8 chính phủ đã có động thái giảm bớt giá xăng và dầu 2000đ/lít. Xét về góc độ tích cực, động thái này có nghĩa quan trọng thông qua việc dần dần trả lại thị trường vận động như chính bản thân nó vốn có, tránh được tình trạng buôn lậu, xài không hiệu quả nguồn nhiên liệu đắt tiền được nhà nước bảo hộ giá. Rõ ràng, lạm phát ở Việt Nam còn do những nguyên nhân nội tại của nền kinh tế như đầu tư công chưa hiệu quả, tăng trưởng tín dụng nóng, chính sách tiền tệ và tài khóa được mở rộng trong khoảng thời gian khá lâu. Có thể hiểu rằng phần lớn các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn do chi phí đầu vào bị đội lên, đặc biệt là các ngành vận 29 tải. Tuy nhiên, diễn biến CPI trong các tháng gần đây cho thấy mức lạm phát đã có xu hướng giảm, thể hiện qua đường trung bình 3 tháng. Đồ thị 3: Tăng trưởng CPI theo năm Đồ thị 4: Tăng trưởng CPI theo tháng Thâm hụt thương mại: Điều đáng lưu ý là giá trị xuất khẩu và nhập khẩu không thay đổi so với tháng 6, nhập khẩu khoảng 7,05 tỷ USD (tăng nhẹ khoảng 1,8% so với tháng trước), đưa kim ngạch nhập khẩu lên 51,9 tỷ USD. Trong khi đó, xuất khẩu tăng không đáng kể đạt 6,25 tỷ USD tăng 0,8% so với tháng trước, xuất khẩu sản phẩm đá quý và kim loại quý tăng hơn 5 lần, một phần trong số này là vàng được tái xuất. Một điểm quan trọng là kim ngạch xuất khẩu tăng lên chủ yếu do giá chứ không phải do lượng. Tuy nhiên, khủng hoảng cán cân thanh toán khó có khả năng xảy ra do thâm hụt thương mại trong các tháng đầu năm là do nhập khẩu máy móc thiết bị của các dự án đầu tư nước ngoài và nó sẽ được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn và các nguồn kiều hối. Nguồn dự trữ chính thức khoảng 20,7 tỷ USD tuy còn khiêm tốn nhưng cũng tạm xóa đi những lo ngại trước sức ép của một cuộc tấn công tiền tệ. Cán cân thương mại thâm hụt lũy kế đến thời điểm này là 15 tỷ USD nhưng nếu thâm hụt thương mại trong 5 tháng còn lại 30 của năm 2008 bình quân 1 tỷ USD/tháng thì mục tiêu nhập siêu không quá 20 tỷ USD là có thể chấp nhận được. Đồ thị 5: Cán cân thương mại theo năm Đồ thị 6: Cán cân thương mại theo tháng Đồ thị 7: Tài khoản vãng lai Đồ thị 8: Tài khoản vốn 31 Đồ thị 9: Cán cân thanh toán Tỷ giá Việc chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách đồng tiền yếu nhằm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nhưng việc giữ chính sách này trong một thời gian dài là không phù hợp và tạo ra những tác động không mong muốn trong việc phối hợp thực hiện các chính sách tiền tệ. Trong thời gian qua, Mỹ đã cắt giảm lãi suất từ 5,25% xuống còn 2% do tác động của những biến động xấu của nền kinh tế làm cho đồng USD ngày càng trở nên mất giá so với các đồng tiền khác trên thế giới, trong vòng hơn 2 năm, đồng USD mất giá hơn 30%, tháng 10 năm 2005 1EUR = 1,2 USD nhưng đến tháng 6 năm 2008 1EUR = 1,5 hay 1,6 USD. Điều này đã khiến cho các quốc gia xuất khẩu nhiều sang Mỹ gặp khó khăn, Việt Nam cũng vậy do thị trường Mỹ chiếm 1/5 thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Một thực tế nhìn thấy rõ trong thời gian qua là việc SBV thực hiện việc bơm tiền đồng vào hệ thống ngân hàng để thu hút USD từ cán cân thanh toán thặng dư do dòng vào quá lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, hỗ trợ phát triển chính thức và kiều hối. Việc thực hiện chính sách neo tỷ giá vào đồng USD có tác dụng tích cực vào năm 2000 do Việt Nam rơi vào trạng thái giảm phát. Nhưng trong bối cảnh dòng ngoại tệ chảy vào ngày một nhiều thì việc này đã ngày càng tạo ra một khối lượng phương tiện 32 thanh toán ngày càng lớn trong nền kinh tế với mức cung tiền tăng trưởng bình quân 30,9% từ năm 2000 đến năm 2007. Tuy nhiên, để vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho các ngân hàng, ngân hàng nhà nước phải bắt buộc thực hiện tăng lãi suất cơ bản để thu hút tiền trong dân cư về mà không phải bỏ tiền ra để thu mua USD về nữa khiến tiền đồng khan hiếm. Về lâu dài, tiền tệ tăng giá là một giải pháp hữu hiệu bổ trợ cho chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm tác động của lạm phát. Tuy nhiên thực tế thì tiền đồng đang có dấu hiệu giảm giá, số liệu thống kê tháng 6 cho thấy giá USD tăng 5,02%, ngày 11 tháng 6, SBV cũng tăng tỷ giá lên 16.624 đồng/USD (tăng trong biên độ tối đa 2%), những ngày cuối tháng 5 tỷ giá ngoài thị trường chợ đen còn được ghi nhận giao dịch ở mức trên 18.000 đồng/USD. Có thể thấy rõ điều này qua chênh lệch lãi suất giữa VND và USD (14% và 2%). Nói tóm lại, lạm phát cao trong điều kiện tỷ giá danh nghĩa được giữ tương đối ổn định về cơ bản làm cho giá trị thực của đồng tiền tăng, tạo ra tăng trưởng nhập khẩu, thâm hụt thương mại và tình trạng khan hiếm USD. Với nhận định đó, lạm phát là mấu chốt vấn đề cần phải giải quyết đầu tiên chứ không phải là tỷ giá, từ đó sức ép phá giá đồng tiền sẽ biến mất. Mặc dù vậy, việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa cũng có ý nghĩa nhất định nhưng không phải cơ bản, yếu tố cơ bản là tín dụng và lãi suất ngân hàng. Đồ thị 10: Tỷ giá theo năm Đồ thị 11: Tỷ giá theo tháng 33 Lãi suất – Ngân hàng: Từ tháng 07 năm 2006 đến tháng nay, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh lãi suất cơ bản nhiều lần từ 8,25% lên đến 14%, nhiền nhất là từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2008, lãi suất cơ bản điều chỉnh tăng từ 8,75% đến 14%. Lãi suất là một công cụ nhà nước sử dụng để kềm chế lạm phát, tuy nhiên lạm phát 7 tháng đầu năm đã lên đến 27% tạo ra lãi suất âm là một thách thức cho các ngân hàng dù lãi suất huy động đã ở mức khá cao. Mặt khác, khống chế tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tối đa 30% đã gây ra nhiều khó khăn cho ngân hàng. Ngân hàng trong thời điểm hiện nay gặp rất nhiều khó khăn: các khoản tín dụng bất động sản và chứng khoán năm ngoái khó thu hồi do tình trạng đóng băng; lãi suất huy động cao (17% đến 19%) nhưng đầu ra bị hạn chế cả về trần lãi suất (21%) và cả về tỷ lệ tăng trưởng tín dụng (30%); thu nhập giảm mà chi phí điều hành và hoạt động không đổi. Đồ thị 12: Lãi suất huy động của các ngân hàng 34 Đồ thị 13: Lãi suất tiền gửi và cho vay Đồ thị 14: Tăng trưởng cung tiền Việc cắt giảm cung tiền đột ngột từ cuối năm 2007 đến nay thông qua việc khống chế cho vay đầu tư chứng khoán, yêu cầu các NH mua tín phiếu bắt buộc, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tạm dừng mua USD trên thị trường liên ngân hàng ngay lập tức tạo nên cú sốc về nhu cầu thanh khoản trong các ngân hàng, sự sụt giảm trong thị trường chứng khoán và bất động sản khiến khó khăn của ngân hàng càng thêm trầm trọng. Hệ thống ngân hàng sắp tới có thể sẽ phải chứng kiến những khó khăn không mấy dễ chịu: thị trường chứng khoán, bất động sản sẽ làm gia tăng các khoản nợ không hoạt động. Sắp tới, SBV sẽ tăng cường các hoạt động giám sát và quản lý rủi ro với các NHTM và tăng cường các tiêu chí an toàn như giới hạn tỷ lệ các khoản tiền gửi ngắn hạn dùng để cho vay trung dài hạn thấp hơn hiện tại (hiện tại là 40%). Cùng với sự tốt lên của các chỉ số kinh tế, những căng thẳng trên thị trường ngoại tệ đã giảm bớt do ngân hàng nhà nước đã có những biện pháp để ổn định thị trường này. Giá xăng dầu tuy đã giảm 2000đ/lít nhưng cao hơn so với đầu năm nhiều nên vẫn còn sức ép lên mặt bằng giá mới và lạm phát. Quyết tâm chống lạm phát và tính nhất quán trong chính sách thắt lưng buộc bụng là một yếu tố duy trì niềm tin của các định chế tài chính và các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, một sự đánh đổi tăng 35 trưởng trong ngắn hạn để đổi lấy một sự tăng trưởng bền vững trong dài hạn hoàn toàn là một đánh đổi đáng thực hiện. Có thể thấy những khó khăn trên có thể là chỉ trong ngắn hạn cho thời điểm cuối năm 2008 và có thể đầu năm 2009 vì các chính sách thắt chặt tiền tệ và giảm chi tiêu đang được thực hiện là mạnh tay đối với nền kinh tế, có thể vào cuối năm 2009, khi lạm phát đã được kềm chế ở mức vừa phải, nền kinh tế sẽ lấy lại được đà tăng trưởng. Có thể tin tưởng được điều này qua cam kết đầu tư của các nhà đầu tư đối với nền kinh tế Việt Nam, vốn đăng k ý đầu tư trong 7 tháng đầu năm 2008 đạt tới 45,2 tỷ USD trong khi cả năm 2007 chỉ đạt 21,3 tỷ USD4. 2.2 Biến động giá vàng trên thế giới và Việt Nam 2.2.1 Biến động giá vàng trước 2007 trên thị trường quốc tế: Vàng như đã biết là một hàng hóa có giá trị bền vững, làm vật ngang giá chung để trao đổi dù ở bất cứ nơi đâu, điều này thể hiện ở chỗ vàng hội đủ năm chức năng của tiền tệ: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới. Do đó, biến động giá vàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư nói riêng và người dân trên khắp thế giới. Trong lịch sử giá vàng thế giới thời điểm 21/01/1981 là thời điểm giá vàng đạt mức kỷ lục 875USD/ounce. Nguyên nhân bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ suy yếu, lạm phát gia tăng, Mỹ sa lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam và phải bán vàng với khối lượng trị giá 3,5 tỷ USD. Động thái đó làm dự trữ vàng của Mỹ giảm mạnh và đồng USD buộc phải thả nổi sau quyết định ngày 15/08/1971, Mỹ đơn phương vô hiệu hóa thỏa thuận Bretton Woods và sau đó vào ngày 18/12/1973 Mỹ lại phải tuyên bố phá giá đồng USD 10% đánh dấu thời kỳ lạm phát tràn lan và mở đầu giai đoạn giá vàng leo thang ngày một cao, từ 232USD/ounce năm 1972 đến 875USD/ounce ngày 21/01/1981. 4 Tổng kết kinh tế Việt Nam tháng 7 năm 2008 – CT Chứng khoán Thăng Long 36 Đến thời điểm 1989-1999, khi chuẩn bị thành lập khối đồng tiền chung Châu Âu, tổng lượng dự trữ vàng bán ra khoảng 3,5 ngàn tấn làm giá vàng giảm mạnh và đến ngày 1/7/1999, giá vàng rớt xuống còn 252,8USD/ounce. Khi xảy ra sự kiện khủng bố ngày 11/09/2001, giá vàng tại thị trường London và NewYork trong tháng 09/2001 đạt mức 291USD/ounce. Kể từ đó trở đi, giá vàng bắt đầu biến động lên xuống thất thường, biên độ dao động không còn cao nhưng xu hướng chung là đi lên. Giá vàng trong khoảng thời gian tháng 5 năm 2002 đạt 315 – 317 USD/ounce, tăng 13-14% so với đầu năm 2000 và tăng hơn 15% so với cùng kỳ năm trước. Đến cuối năm 2002, giá vàng thế giới tăng mạnh, đạt 349,3USD/ounce. Bước sang năm 2003, khi Mỹ đe dọa tấn công Iraq, giá vàng liên tục tăng giá, biên độ dao động mở rộng. Tháng 01/2003, giá vàng thế giới còn xoay quanh mức 345USD/ounce thì sang tháng 2 tăng khoảng 380USD/ounce do tâm l ý sợ xảy ra chiến tranh nên các nhà đầu tư và đầu cơ vào cuộc và nắm giữ vàng để bảo đảm tài sản. Tuy nhiên, khi Mỹ chính thức tấn công Iraq, giá vàng không tăng mà ngược lại còn giảm xuống mức 330USD/ounce vào cuối tháng 03, điều này có thể l ý giải được là do giá vàng chạy trước do tâm l ý đầu cơ, khi sự kiện chính thức xảy ra thì không còn tác động mạnh nữa hoặc là tác động ngược chiều ban đầu. Đồng thời, trong hai ngày đầu tiên khi liên minh Mỹ-Anh tấn công Iraq, chính quyền Bush thông báo về sự kết thúc nhanh của cuộc chiến khiến giới đầu tư trên thị trường chứng khoán lạc quan dẫn đến vàng tiếp tục bị bán ra với khối lượng lớn làm giá vàng giảm mạnh. Đến khi Mỹ chiếm được Iarq vào tháng 5 năm 2003, giá vàng lại trở lại đà tăng từ 344,6USD ngày 8/5 lên 369USD/ounce ngày 22/05/2003. Đến cuối năm 2003, đạt mức 384USD/ounce vào thời điểm tháng 10/2003 và 417USD/ounce vào tháng 12/2003, tăng 20,9% so với đầu năm. Năm 2005, 2006 giá vàng biến động và lập những kỷ lục mới, tăng 17,3% năm 2005 và vượt qua mức 500USD/ounce vào cuối năm 2005. Từ lúc đó, thế giới chứng kiến một sự leo thang của giá vàng. Ngày 02/12/2005, giá vàng thế giới đạt 37 506,5USD/ounce. Sau đó, ngày 8/12 tăng lên 518,45USD/ounce. Những ngày sau đó, giá vàng tăng lên mức rất cao, lên đến 523USD/ounce ngày 9/12 và 536,5USD/ounce vào ngày 12/12. Sang năm 2006, giá vàng có xu hướng tăng đột biến với tốc độ cao từ tháng 3/2006 và đạt mức giá kỷ lục 730USD/ounce vào ngày 12/05/2006 – mức giá cao nhất kể thời điểm kỷ lục 850 USD/ounce tháng 1/1981. 2.2.2 Biến động giá vàng Việt Nam trước 2007: Tháng 2/1989, giá vàng tại Việt Nam là 3.450.000 đồng/lượng nhưng vào tháng 10/1989 lại giảm xuống mức 1.650.000 đồng/lượng. Sau đó tăng lai đến đạt 2.450.000 đồng/lượng ngày 31/12/1989. Năm 1990, giá vàng trong mấy tháng đầu năm giảm nhẹ và tăng dần vào các tháng cuối năm, đạt mức kỷ lục cũ 3.500.000 đồng/lượng. Việc tăng giảm trong giai đoạn này của giá vàng xuất phát từ biến động giá vàng thế giới, quan hệ cung-cầu trong nước và cơ chế quản l ý vĩ mô của chính phủ. Qua năm 1991, giá vàng tăng và biên độ dao động lớn hơn so với giá thế giới. Năm 1992, giá vàng giảm mạnh trong khi lạm phát của nền kinh tế là 17,5%. Giá vàng giảm từ 5.500.000 đồng/lượng xuống còn 4.340.000 đồng/lượng vào cuối năm. Điều này xuất phát từ việc giảm giá của thị trường vàng thế giới cùng cơ chế quản l ý cấp phép chỉ cho phép nhập khẩu vàng nhỏ giọt trong năm 1991 đã không đủ đáp ứng thị trường trong nước. Từ năm 2001 đến 2006, giá vàng trong nước liên tục biến động theo chiều hướng tăng dần cùng với xu hướng gia tăng của giá vàng thế giới. Nếu mức tăng giá vàng trong nước giai đoạn 12/1995 đến 12/2000 là 6,67% thì giai đoạn tháng 12/2000 đến 12/2005 tăng đến 102,52%. Trong giai đoạn này, giá vàng trong nước luôn cao hơn mức quy đổi theo giá thế giới vài nghìn đồng/chỉ. Tuy nhiên, có thời điểm giá vàng trong nước thấp hơn thế giới như thời điểm 31/12/2005, giá vàng trong nước bán ra là 891.000 đồng/chỉ so với giá thế giới 472USD/ounce là thấp hơn đến 13.000 đồng/chỉ chưa kể phí gia công, thuế nhập khẩu, vận chuyển…Trong tháng 12/2005, giá vàng tăng liên tục theo đà tăng của giá vàng thế giới. Giá vàng trong nước tăng liên tục và đạt trên 15.000.000 38 đồng/lượng vào ngày 12/5/2006 tương đương mức tăng 55,6% so với đầu năm. Kể từ sau mức tăng kỷ lục này, giá vàng biến động giảm. Đến ngày 30/9/2006, giá vàng trong nước đứng ở mức 11.700.000 đồng/lượng, sau đó tiếp tục giảm trong tháng 10 và tăng lại vào những tháng cuối năm 2006 và xoay quanh mức 12.250.000 đồng/lượng. 2.2.3 Tổng hợp biến động giá vàng thế giới từ năm 2007 đến nay: Hình 1: Biểu đồ và dữ liệu giá vàng năm 2007 39 Bước qua năm 2007, các chuyên gia kinh tế nhận định giá vàng sẽ biến động mạnh sôi động hơn sau một thời gian chỉ lẩn quẩn quanh mức 620USD/ounce. Năm 2007 tập trung rất nhiều các yếu tố có lợi cho giá vàng. Đồng USD biến động bất lợi khiến USD trở nên thất thế so với vàng làm nhu cầu mua vàng dự trữ ngày càng cao. Trong những ngày đầu năm 2007, giá vàng bất ngờ giảm 10USD/ounce do đồng USD mạnh lên khiến các quỹ đầu tư ồ ạt bán ra khi giá dầu cũng giảm đột ngột xuống còn 59USD/thùng do thời tiết ấm lên. Đến 04/01/2007, giá vàng giao ngay trên thị trường Châu Á chỉ còn 628USD/ounce (lúc ngày 1EUR đổi được 1,3159USD). Tuy 40 nhiên, bước qua tháng 2, giá vàng tăng trở lại vượt ngưỡng kháng cự 660USD/ounce và các chuyên gia dự đoán giá vàng sẽ vượt qua mức kỷ lục năm 2006. Sau một thời gian điều chỉnh giảm giá, ngày 9/3/07 giá vàng tăng lại mức 650USD/ounce. Trong tháng 3, giá vàng đã liên tục đi lên mặc dù có thời gian chựng lại. Cuối tháng 3, giá vàng đạt mức 660USD/ounce do sản lượng vàng thế giới giảm trong khi các nhà đầu cơ tiếp tục tung tiền ra tích trữ. So với cùng kỳ năm trước, giá vàng trên nhiều thị trường đã tăng 17-18%, nguyên nhân được cho là do tâm l ý lo ngại thị trường bất động sản Mỹ rơi vào suy thoái khiến các nhà đầu tư đổ xô vào vàng. Sang tháng 9/2007, giá vàng kỳ hạn tháng 12 tại Newyork đã tăng 10,2USD lên mức 728USD/ounce vào ngày 24/09, mức giá cao nhất trong vòng 16 tháng qua. Giá vàng thế giới tăng cao bắt nguồn từ những thông tin bất ổn về hoạt động của công ty cho vay cầm cố Northern Rock (Anh) và kỳ vọng cắt giảm lãi suất của FED. Giá vàng giao ngay tại London mở cửa ở mức giá 712,2USD/ounce. Từ ngày 18/09/07 đến thời điểm hiện nay, FED đã bảy lần cắt giảm lãi suất. Mỗi lần cắt giảm lãi suất giá vàng đều có ảnh hưởng nhất định chủ yếu là xu hướng tăng. Sau đây là bảng tổng hợp các đợt cắt giảm lãi suất của FED: 41 Bảng 2: CÁC ĐỢT CẮT GIẢM LÃI SUẤT CỦA FED Ngày Tăng Giảm Lãi suất 18/09/07 -50 4,75% 31/10/07 -25 4,50% 11/12/07 -25 4,25% 22/01/08 -75 3,50% 30/01/08 -50 3,00% 18/03/08 -75 2,25% 05/2008 -25 2,00% Sáng ngày 18/9/2007, giá vàng ở mức 715,95-716,45USD/ounce, như vậy giá vàng đã tăng gần 10 USD/ounce kể từ khi thị trường lo ngại hành động cắt giảm lãi suất USD. Ngày 31/10/2007, Cục dự trữ liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất thêm 0,25% (còn 4,5%) nhằm mục đích hỗ trợ nền kinh tế trong tình trạng khó khăn, điều này đã làm cho vàng tăng liên tục từ mức 758.85 USD/ounce ngày 15/10 lên đến 789.50 USD/ounce ngày 31/10. Đến ngày 11/12/07, thị trường tài chính lại chứng kiến sự cắt giảm lãi suất thêm 0,25% xuống còn 4,25%, do đã dự đoán trước nên giá vàng đã tăng 17 USD từ ngày 7/12 đến ngày 10/12/07 lên mức 809.50 USD/ounce. Dự đoán nền kinh tế Mỹ đang trong bối cảnh khủng hoảng tín dụng và lạm phát gia tăng thì đầu tư vào vàng vẫn là công cụ bảo toàn tài sản hiệu quả nhất, chính vì lẽ đó mà vàng tiếp tục tăng chứ không giảm như nhiều người dự đoán. Trong năm 2007, FED cắt giảm lãi suất 1% xuống còn 4,25%, trong khi đó ECB đã nâng lãi suất hai lần lên 4%, chính điều đó đã tác động mạnh làm vàng tăng giá do tâm l ý lo ngại khủng hoảng kinh tế và lạm phát. Qua tuần đầu tiên của tháng 12/2007, giá vàng tăng mạnh lên mức 843,2USD/ounce (mức cao nhất trong 7 tuần gần đó) do USD giảm giá so với EUR và dầu tăng giá lên 96,62USD/thùng. Ngày 28/12/07, kết thúc phiên tại Newyork, giá vàng trở về mức 833,5-834,1USD/ounce. Như vậy, giá vàng đã tăng trên 30% trong 42 năm 2007, đạt mức cao nhất trong 28 năm qua khi giá vàng chỉ còn cách mức kỷ lục trong lịch sử 20USD/ounce. Hình 2: Biểu đồ và dữ liệu giá vàng năm 2008 43 Qua năm 2008, thế giới lại chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục chưa từng thấy của giá vàng, các kỷ lục cũ đều bị phá vỡ với một mức tăng gây bất ngờ cho cả thế giới bởi những yếu tố khác nhau trong đó yếu tố tỷ giá và sức mạnh của nền kinh tế Mỹ vẫn là động lực số 1 đẩy giá vàng tiến về phía trước. Ngày 8/1/2008, tại Newyork, giá vàng thỏi giao tháng 2/2008 tăng 1,4USD/ounce tương đương 0,15% và chốt ngày giao dịch ở mức giá 881,7USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn liên tục trồi sụt với biên độ rộng, giá vàng tăng mạnh đầu phiên giao dịch đạt mức 894,4USD/ounce, tạo một kỷ lục mới trong lịch sử. Ngày 10/1/2008, giá vàng tại NYMEX tăng 2 USD lên 883,7USD/ounce. Sức tăng của giá vàng một phần bị cản lại bởi sự hồi phục của USD do thông tin ECB sẽ không tăng lãi suất đồng EUR trong năm nay vì sợ tăng trưởng kinh tế Châu Âu chậm lại. Ngày 22/01/08, FED quyết định cắt giảm 75 điểm phần trăm để hạ lãi suất qua đêm từ 4,25% xuống còn 3,5%, ngày 30/01/08, lãi suất USD từ mức 3,5% lại bị hạ xuống còn 3%, USD mất giá mạnh mẽ so với EUR làm giá vàng giao ngay trên thị trường Newyork tăng lên 923,25 USD/ounce ngày cuối tháng 01/08, vàng kỳ hạn tăng kỷ lục lên mức 936,61USD/ounce. Giá vàng tăng liên tục trong suốt tháng 2 chỉ có một vài phiên điều chỉnh giảm giá, cuối tháng 2 vàng chốt tại mức 971,50 USD/ounce. Kể từ khi FED bắt đầu cắt giảm lãi suất vào ngày 18/9/2007 năm ngoái đến nay đã đưa lãi suất USD từ mức 5,25% xuống còn 3%, giá vàng đã tăng thêm 31%. Theo số liệu thống kê của Hội đồng vàng thế giới, giới đầu tư quốc tế đã đổ một số tiền kỷ lục 8,1 tỷ USD vào thị trường vàng trong qu ý 4 năm ngoái. Những tuần lễ trong tháng 2 được xem là tuần lễ lịch sử của giá vàng. Những diễn biến khó tin xảy ra do tác động đặc biệt mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ. Trong cơn cuồng phong này, giá vàng đã tạm nghỉ nhưng ngay sau đó giá vàng tăng không mệt mỏi. Sang tháng 3, các nhà đầu tư lại tiếp tục sửng sốt vì cơn bão giá vàng, sự lên xuống đột ngột khiến cho thị trường này hấp dẫn hơn bao giờ hết. Giá vàng giao ngay tại thị trường Mỹ phiên ngày 11/3 dừng ở mức 976USD/ounce, tăng 4,2USD/ounce. Giới đầu tư quốc tế sau khi bán ra để thu lời bù đắp cho thua lỗ trên thị trường chứng khoán đã bắt đầu mua vàng vào trở lại. Áp lực 44 lạm phát cao và mất giá của USD vẫn là những nhân tố thúc đẩy hoạt động đầu tư vào vàng. Giá vàng kỳ hạn tại Mỹ lúc đó lên đến mức 987,8USD/ounce do USD mất giá và thiết lập một đáy mới chưa từng có với EUR (1 EUR đổi 1,5495USD). Đến ngày 14/03/2008, từ lúc mở cửa thị trường, giá vàng luôn dao động ở mức cao từ 995USD/ounce trở lên, có lúc giá vượt mức lịch sử 1000 USD/ounce. Kể từ đó, đồ thị giá vàng trở thành một đường thẳng đứng hướng lên, phá kỷ lục vừa thiết lập hôm 14/3. Nguyên nhân khiến giá vàng liên tục leo thang là do các ngân hàng đầu tư của Mỹ đang rúng động và lo lắng khi một ngân hàng đầu tư khổng lồ trong thị trường tài chính như Bear Steasrn Co.Inc đứng trước nguy cơ vỡ nợ và phá sản đồng thời đồng USD lại tiếp tục mất giá so với EUR. Lúc này có thể nói rằng nền kinh tế nước Mỹ rất ảm đạm, như một bóng mây che phủ những đầu óc lạc quan nhất, và thật sự cuộc suy thoái đã bắt đầu diễn ra, động thái FED tiếp tục cắt giảm lãi suất để kích thích kinh tế hồi phục phát triển đã cho thấy điều đó. Những dự đoán về một đợt cắt giảm lãi suất sẽ tiếp tục khiến giới đầu tư đô xô vào vàng bán tháo USD. Ngày 17/3/08, kỷ lục lại tiếp tục bị phá vỡ, gia vàng thế giới tăng lên đến mức 1030,8USD/ounce trong khi USD tiếp tục trượt giá. Khi thông tin về ngân hàng Bear Stearns chính thức bị phá sản và Tập đoàn JP Morgan chính thức mua lại ngân hàng này được công bố, thị trường tài chính Mỹ thật sự bị sốc. Các nhà đầu tư bắt đầu lo ngại thật sự đến sức khỏe của các tập đoàn tài chính và Ngân hàng của họ. Thị trường chứng khoán Mỹ tụt dốc, căn bệnh nhanh chóng lây lan san các nước khác và Châu Á cũng bị ảnh hưởng nặng nề do nhiều tổ chức và tập đoàn lớn ở khu vực này (nhất là Trung Quốc) nắm giữ một khối lượng lớn chứng khoán bảo đảm bằng bất động sản của các ngân hàng đầu tư của Mỹ. Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán khắp nơi trên thế giới bán tháo cổ phiếu và chuyển sang thị trường hàng hóa trú ẩn do không còn sự lựa chọn nào khác trong thời điểm này. Giá vàng giao kỳ hạn của Mỹ sau khi vọt lên đỉnh 1033,9USD/ounce đã quay đầu rơi mạnh trở lại. Sở dĩ có hiện tượng này xảy ra là do sau khi chuyển vốn sang thị trường hàng hóa, giới đầu tư ngay lập tức đẩy mạnh 45 bán ra khi giá cả tăng vọt nhằm chốt lời hiện thực hóa lợi nhuận, bù đắp lại những khoản thua lỗ trên thị trường chứng khoán. Kết quả là chốt phiên giao dịch tại Mỹ, giá vàng kỳ hạn tăng 3,1USD/ounce lên 1002,6USD/ounce, đánh dấu mức đóng cửa lần đầu tiên trên 1000USD/ounce của giá vàng. Giá vàng giao ngay kết thúc phiên ở mức 1003,6USD/ounce sau khi đạt đỉnh 1017,4USD/ounce. Tuy nhiên, theo giới phân tích, xu hướng bán vàng ra để chốt lời chỉ là tạm thời vì hiện tại vàng trở thành kênh đầu tư lưu trữ giá trị bền vững nhất trong trường hợp kinh tế suy thoái. Ngày 18/03, thông tin cắt giảm lãi suất 0,75% còn 2,25% chính thức công bố thì giá vàng đạt 1006,75 USD/ounce, ngay sau đó, giá vàng giảm nhanh chóng xuống còn 958.50 USD/ounce ngày 19/03 và 925 USD/ounce ngày 20/03. Trên thị trường quốc tế giá vàng giao ngay còn 928,8USD/ounce tức giảm 41,05USD/ounce so với phiên liền trước đó. Sau khi FED quyết định cắt giảm lãi suất dữ dội và liên tiếp từ 19/9/07 ở mức 5,25% xuống còn 2,25%, giới đầu tư quốc tế nghi ngờ rằng sẽ có hàng loạt các biện pháp bất ngờ và mạnh mẽ từ FED nữa mà những quyết định đó có thể tác động gián tiếp tiêu cực đến việc đầu cơ vàng, ví dụ như cảnh cáo và điều tra các quỹ đầu tư có sử dụng những biện pháp không minh bạch để đẩy giá vàng lên vì mục đích đầu cơ hay không? Đồng thời, cũng xảy ra những lo ngại rằng khi nền kinh tế suy thoái thật sự, lạm phát tăng cao thì đúng là vàng là tài sản an toàn nhất để gìn giữ giá trị nhưng với một mức giá cao như thế thì có cơ hội đầu tư nữa không khi mà những hàng hóa khác như dầu và thực phẩm là những sản phẩm tối cần thiết hơn, những lo ngại trên nghe có vẻ logic vì khi thế giới nắm giữ vàng trong tay mà những nhu yếu phẩm không đủ thì vẫn vô nghĩa. Tâm l ý này lập tức lan tỏa rộng rãi trên khắp các sàn giao dịch vàng quốc tế do đó đã xảy ra hiện tượng bán tháo vàng để quay lại đầu tư các mặt hàng thay thế khác như dầu hoặc thực phẩm. Đến 25/3/08, giá vàng lại đi lên với mức mở đầu ngày là 925USD/ounce, sau đó nó tiếp tục thẳng tiến vượt qua mức 940USD/ounce trên thị trường Châu Á phiên sáng 26/3 và chạm mức 951,9USD/ounce vào ngày 27/3/08. Trong những ngày cuối tháng 3, giá vàng không 46 có những chuyển biến bất ngờ khi vẫn xoay quanh mức 940-950USD/ounce. Giá vàng tăng giảm bất thường từ tháng 4 đến tháng 7 nhưng vẫn ở mức cao từ trên 850 đến 950 USD/ounce do những thông tin bất ổn về thị trường nhà đất của Mỹ. Tháng 8, giá vàng giảm lao dốc không cưỡng được do USD sau một thời gian dài giảm giá thì quay lại phục hồi đồng thời những tin tức về thị trường tài chính được cải thiện khiến nhà đầu tư bán vàng ra. Ngày 1/8 giá vàng còn ở mức 912.50 USD/ounce, đến ngày 8/8 giá vàng còn 852.50 USD/ounce, giá vàng giảm đến ngày 11/09 chỉ còn 740.75 USD/ounce do những thông tin về kinh tế Mỹ khả quan làm cho giới kinh doanh phấn khởi cũng như các quỹ đầu tư chuyển đổi từ vàng sang chứng khoán. Những ngày cuối tháng 9, bắt nguồn từ vụ sụp đổ của AIG và Lehman Brothers, ngày 16/09, giá vàng biến động khiến người theo dõi giá vàng dù sát sao nhất cũng phải bất ngờ, giá vàng trong 3 giờ đồng hồ tại phiên giao dịch Newyork đã tăng vọt 120 USD/ounce, mức cao nhất trong lịch sử biến động giá vàng từ trước đến nay. Từ đó, giá vàng mỗi ngày biến động với biên độ rộng hơn 50 USD/ngày do tình hình tài chính trên thị trường Mỹ ngày càng phức tạp, Bộ tài chính và Chủ tịch FED phải đệ trình những gói giải pháp cứu nguy khẩn cấp mà sẽ khiến ngân sách thâm hụt và lạm phát cao. 2.2.4 Tổng hợp biến động giá vàng tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay: Cùng với xu hướng giá của thế giới, giá vàng Việt Nam giai đoạn này biến động khá phức tạp, những kỷ lục mới đã được thiết lập và không ít quỹ đầu tư, nhà đầu cơ phải sửng sốt vì sự bứt phá ngoạn mục này. Ngày đầu năm 2007, giá vàng SJC tại Hà Nội mua vào – bán ra là 12.310.000 - 12.390.000 đồng/lượng chủ yếu do giá vàng thế giới tăng, những ngày tiếp theo, giá vàng trong nước giảm 80.000 – 100.000 đồng/lượng do ảnh hưởng của giá vàng thế giới. Sang tháng 3, giá vàng tăng trở lại 12.770.000 – 12.840.000 đồng/lượng nhưng sức mua trên thị trường cũng không biến động nhiều. So với biến động của thế giới, giá vàng tại Việt Nam không tăng nhiều, hầu như chỉ xoay quanh mức 12.700.000 – 12.780.000 đồng/lượng. Tháng 9/2007, giá vàng thế giới tăng cao do những bất ổn về 47 hoạt động cho vay cầm cố của công ty Northern Rock và kỳ vọng cắt giảm lãi suất của FED làm giá vàng trong nước cũng ảnh hưởng theo tăng lên đến 13.820.000đồng/lượng. Ngày 1/11/2007, ngày đầu tiên sau khi FED tiếp tục cắt giảm 0,25% lãi suất cơ bản đồng USD, giá vàng trong nước lại tăng lên mức 15.320.000 đồng/lượng. Trong 2 tháng từ tháng 9 đến tháng 11, giá vàng trong nước đã tăng lên mức 1.500.000 đồng/lượng. Sau đợt cắt giảm lãi suất ngày 11/12/07, giá vàng tăng kết hợp với nhu cầu tăng cao, ngày 17/12/07, SJC bán ra thị trường ở mức kỷ lục 20.000 lượng vàng. Ngày 18/12/07, SJC mở cửa ở mức 15.560.000 sau đó giảm xuống mức 15.540.000 đồng/lượng trước khi tăng lên 15.800.000 đồng/lượng vào cuối giờ chiều. Theo giới kinh doanh vàng, nhu cầu vàng trong nước gia tăng đã đẩy giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới 30.000-40.000 đồng/lượng, tuy nhiên SJC và các ngân hàng lập tức nhập nguyên liệu dập vàng miếng đáp ứng nhu cầu thị trường. Cuối tháng 12, giá vàng trong nước tiếp tục tăng và vượt mốc 16.000.000 đồng/lượng do giá vàng thế giới tiếp tục tăng. Qua năm 2008, giá vàng tiếp tục leo thang, trên thị trường thế giới ngày 8/1 giá vàng tăng lên mức 890 USD/ounce thì trong nước đạt 17.050.000 đồng/lượng. Giá vàng thời điểm này đi lên mạnh mẽ, một phần ảnh hưởng do các nhân tố kinh tế của các cường quốc đang suy thoái, một phần tăng lên là do giới đầu cơ quốc tế đang đổ tiền vào mạnh mẽ để thu lợi nhuận trong những cơ hội đặc biệt nhạy cảm này. Sáng 15/1, SJC niêm yết giá mua bán là 17.540.000-17.640.000 đồng/lượng. Sáng 31/1, giá vàng trong nước lại quay đầu xuống sau ảnh hưởng của giá vàng thế giới khi FED quyết định cắt giảm lãi suất từ 3,5% xuống còn 3%. Giá vàng giữa tháng 2 giảm nhẹ xuống mức 17.660.000 đồng/lượng. Thị trường trong những ngày đầu năm liên tục dao động trong biên độ hẹp giữa 17.450.000-17.770.000 đồng/lượng do giá vàng thế giới ảnh hưởng giữa 2 luồng thông tin IMF sẽ bán vàng ra và USD sẽ mất giá do quyết định giảm lãi suất của FED. Sáng 15/2, SJC công bố giá vàng giao dịch tại mức 17.580.000- 17.660.000 đồng/lượng. Những ngày cuối tháng 2 được ghi nhớ là thời điểm lịch sử 48 của giá vàng thế giới lẫn Việt Nam. Sáng 25/2, giá vàng trong nước đạt mức 18.000.000 đồng/lượng từ cuối tuần trước và đóng cửa ở mức 18.260.000 đồng/lượng vào cuối giờ chiều. Ngày 26/2, giá vàng tiếp tục giảm và thậm chí rớt xuống dưới mức 18.000.000 đồng/lượng do mất giá theo vàng thế giới. Nhưng ngày 27/2, giá vàng Bảo Tín Minh Châu đã lên đến mức 18.740.000 đồng/lượng, đến ngày thứ năm 28/2 giá vàng giảm nhẹ để chờ đợi tình hình. Tuy nhiên, đến ngày 29/2, thị trường vàng trong nước lại tăng tốc mạnh và vượt qua mức 19.000.000 đồng/lượng và thiết lập mức 19.100.000 đồng/lượng. Như vậy, chỉ trong tuần cuối tháng 2, giá vàng đã liên tục xác lập mức giá kỷ lục theo sát giá vàng thế giới cũng chạm các đỉnh kỷ lục. Trong khi đó, giá dầu thô cũng chạm ngưỡng cao của lịch sử giá dầu và USD đã bốn lần vỡ đáy. Qua tháng 3, giá vàng SJC niêm yết giá vàng lúc 10 giờ sáng 12/3 ở mức 18.550.000- 18.660.000 đồng/lượng, giảm gần 100.000 đồng/lượng so với hôm trước. Việc điều chỉnh giảm liên tục của giá vàng Việt Nam cộng với sự tăng nhẹ của giá vàng thế giới đã khiến giá vàng trong nước về gần ngang bằng với giá thế giới. Ngày 17/3, giá vàng trong nước tiếp tục leo thang khi 11 giờ SJC niêm yết lại giá vàng tại mức 19.300.000- 19.430.000 đồng/lượng, các cửa hàng bán lẻ tại TP.HCM và Hà Nội cũng cập nhật và thay đổi liên tục bảng giá theo SJC, giá cao nhất lên đến 19.500.000 đồng/lượng. Tình hình thị trường vàng tăng quá nhanh khiến cho giới đầu tư cũng như người dân phản ứng thận trọng. Khác với những đợt tăng giá trước, sức mua vàng miếng đợt này không tăng vì giá đã quá cao. FED cắt giảm lãi suất chiết khấu một lần nữa vào ngày 18/03 còn 2,25%, giới đầu tư phải bán vàng bù lỗ cho danh mục đầu tư chứng khoán. Giá vàng thế giới giảm mạnh, giá vàng trong nước ngày 18/3 cũng giảm theo. Lúc 10 giờ sáng giá vàng SJC niêm yết ở mức 19.070.000-19.170.000 đồng/lượng, giảm 330.000 đồng/lượng so với hôm trước. Tiếp theo đó, giá vàng ngày 20/3 rơi thẳng xuống giảm 1.000.000 đồng/lượng làm chóng mặt ngay cả các nhà đầu tư bản lĩnh nhất, chỉ trong một đêm, giá vàng thế giới giảm tương đương 1.500.000 đồng/lượng kéo giá vàng trong nước giảm theo 1.000.000 đồng/lượng. Diễn biến này gây nhiều lo ngại và hoang 49 mang, bất ngờ thật sự cho các nhà đầu tư vàng. Ngày tiếp theo đó, vàng mất mốc 18.000.000 đồng/lượng, kết quả từ đà đi xuống của giá vàng thế giới. Đầu giờ ngày 23/3, SJC mở cửa với giá 17.950.000-18.100.000 đồng/lượng, sau đó vàng giảm và được điều chỉnh xuống mức 17.800.000-17.950.000 đồng/lượng, giảm 150.000 đồng/lượng. Có thể thấy trong thời gian này, giá vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng thế giới gần 500.000 đồng/lượng và cách biệt giữa giá mua và giá bán rất cao thường là 150.000-200.000 đồng/lượng bởi l ý do giá vàng biến động quá bất ngờ và Việt Nam là đất nước nhập khẩu trên 95% nhu cầu tiêu thụ nên các doanh nghiệp và ngân hàng kinh doanh vàng lo sợ vàng biến động bất ngờ nên để giá mua vào thấp hơn giá bán rất nhiều. Ngày 24/3, giá vàng trong nước vẫn cao hơn giá thế giới quy đổi tương đương 500.000 đồng/lượng, giá vàng SJC bán ra đầu ngày là 18.100.000 đồng nhưng đến thời điểm 14 giờ lại giảm xuống còn 17.800.000 đồng/lượng, giảm đột ngột 300.000 đồng/lượng so với khi mở cửa tuy nhiên đến cuối ngày lại tăng lại lên mức 18.100.00 đồng/lượng. Các ngân hàng, doanh nghiệp kinh doanh vàng liên tục thay đổi giá mua – bán theo tình hình thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuan van da chinh sua theo yeu cau cua HD cham luan van.pdf
Tài liệu liên quan