Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ 
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ 
Môc lôc Trang 
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn 
học trung đại Việt Nam 15 
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông 
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ 
người Việt 27 
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai 
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ 
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc 
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại 
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái 
Nguyên hiện nay 79 
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường 
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử 
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho 
học sinh trung học phổ thông 97 
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện 
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên 
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học 
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng 
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên 
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 
Journal of Science and Technology 
 183(07) 
 N¨m 2018 
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh 
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học 
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây 
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất 
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên 
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính 
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học 
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, 
tỉnh Bắc Kạn 183 
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên 
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản 
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại 
học Thái Nguyên 201 
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ 
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may 
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên 
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả 
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 
Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 
 27
LÔ GÍCH CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG “PHI LÔ GÍCH” 
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT 
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương* 
 Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TOM TẮT 
Bài viết này được đưa ra nhằm lí giải sự bất hợp lí, sự “phi lô gích” hình thức trong một số bài ca 
dao, tục ngữ. Để làm được điều đó, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, 
các phương pháp đặc thù (miêu tả, phân tích nghĩa) và phương pháp nghiên cứu liên ngành. Việc lí 
giải sự “phi lô gích” này sẽ đem lại những hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn về ca dao, tục ngữ 
nói riêng và về văn hóa, văn học dân gian nói chung. Từ đó, chứng minh sự phong phú, đa dạng 
nhưng thống nhất trong lối sống, tư duy dân tộc được thể hiện qua ca dao, tục ngữ Việt Nam. 
Từ khóa: phi lô gích, lô gích, ca dao, tục ngữ, tư duy người Việt 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Nếu lô gích “là những mối liên hệ tất yếu có 
tính quy luật giữa các sự vật và các hiện 
tượng trong hiện thực khách quan, cũng như ý 
nghĩ, tư tưởng trong tư duy, trong lập luận 
của con người” [1, tr.5] thì, ngược lại, “phi lô 
gích” lại là sự bất hợp lí trong mối liên hệ 
giữa các sự vật và các hiện tượng trong hiện 
thực, tư duy và lập luận của con người. 
Mặc dù, hiện tượng “phi lô gích” trong ca 
dao, tục ngữ người Việt không phải là phát 
hiện mới vì đã được một số tác giả đề cập. 
Nhất là các nhà nghiên cứu văn học dân gian. 
Tuy vậy, các tác giả mới chỉ nhận thấy mà 
chưa có phương pháp tiếp cận để lí giải hệ 
thống, chính xác. Phải đến tác giả Nguyễn 
Đức Dân [1], phương pháp tiếp cận, lí giải 
có sức thuyết phục mới được đặt ra. Tác giả 
đã sử dụng phép lô gích mệnh đề, xét các 
câu thành ngữ, tục ngữ trong mối quan hệ 
với văn hóa để lí giải hiện tượng trên. Tuy 
nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại một số câu 
tiêu biểu và chưa tìm hiểu trong ca dao. 
Thêm vào đó, tác giả chưa chú ý phân tích, 
lý giải theo phương pháp tiếp cận đặt trong 
ngữ cảnh. Về vấn đề này, Lê Công Tuấn 
cũng có những phát hiện thú vị trong bài viết 
“Về hiện tượng trái nghĩa qua một số câu tục 
ngữ” [2]. Vì vậy, chúng tôi sẽ nghiên cứu 
hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao tục 
ngữ người Việt dựa vào 3 phương pháp tiếp 
cận đã kế thừa từ hai tác giả trên. 
* Tel: 0948210155; Email: 
[email protected] 
LÍ GIẢI CÁC HIỆN TƯỢNG “PHI LÔ 
GÍCH” TRONG CA DAO, TỤC NGỮ 
NGƯỜI VIỆT 
Để lí giải được sự “phi lô gích” trong các câu 
ca dao, tục ngữ có cấu trúc phức tạp, chúng 
tôi thực hiện mã hóa những câu ca dao, tục 
ngữ đó dưới dạng đẳng thức (bất đẳng thức). 
Các phạm trù sẽ được kí hiệu bằng các chữ 
cái với mối quan hệ thứ bậc hiển nhiên giữa 
yếu tố trội và yếu tố kém. Dựa vào các phép 
toán mệnh đề, ngữ cảnh và văn hóa Việt để 
phân tích và tìm ra bản chất của chúng. 
Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa 
lượng - chất 
Hiện tượng “phi lô gích” khi nói đến con 
người trong lao động sản xuất được thể hiện 
trong các câu tục ngữ sau: 
(1) Một người lo hơn kho người làm. [3, tr.335] 
(2) Khôn độc không bằng ngốc đàn. [4, tr.332] 
Câu tục ngữ (1) đã đề cao trí tuệ cá nhân (một 
người lo) trong sự so sánh với sức mạnh của 
tập thể (kho người làm). Câu (2) đề cao tinh 
thần tập thể (ngốc đàn) hơn trí tuệ cá nhân 
(khôn độc). Như vậy, đã có sự “mâu thuẫn” 
giữa (1) với (2). Sự “mâu thuẫn” này có thể lí 
giải như sau: 
Câu tục ngữ (1) đề cập đến phạm trù số 
lượng, trí tuệ, sự cần cù và được thể hiện 
bằng những từ ngữ mang nghĩa biểu trưng 
tương ứng (một người/ kho người; biết lo; hay 
làm). Trong phạm trù số lượng, một người 
mang yếu tố kém (kí hiệu là –x), kho người 
Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 
 28
mang yếu tố trội (kí hiệu là x). Có thể khái 
quát thành hệ thức sau: 
Số lượng kém + trí tuệ > số lượng trội + sự 
cần cù 
- x + A > x + B (mà: –x < x với mọi trường 
hợp) -> A > B (nghĩa là: trí tuệ > sự cần cù). 
Trong câu (2) đề cập đến phạm trù: số lượng 
(độc/ đàn), phẩm chất, trí tuệ (khôn/ ngốc). 
Có thể khái quát như sau: 
Trí tuệ trội + số lượng kém < số lượng trội + 
trí tuệ kém 
A –x 2A < 2x 
 A < x (x được đề cao) 
Nghĩa là: phạm trù số lượng (trội) được đánh 
giá cao hơn phạm trù trí tuệ. Như vậy, câu tục 
ngữ (1) không có sự mâu thuẫn với (2). Bởi 
câu (1) đề cao trí tuệ trên sự cần cù, câu (2) 
đề cao phạm trù số lượng trên phẩm chất, trí 
tuệ. Có thể hiểu như sau: 
 Sự cần cù trí tuệ. 
Sự cần cù là đức tính nổi bật dễ thấy ở người 
lao động. Đức tính chăm chỉ, chịu thương 
chịu khó được đánh giá rất cao và có thể bù 
đắp được những mặt thiếu sót khác (cần cù bù 
thông minh). Tuy nhiên, khi đem ra so sánh 
với phạm trù số lượng (tính cộng đồng tập 
thể), sự cần cù lại kém quan trọng hơn. Tương 
tự như vậy, phạm trù trí tuệ khi đứng riêng rẽ 
được đánh giá cao (hoa thơm ai chẳng nâng 
niu, người khôn ai chẳng kính yêu mọi bề [7, 
tr.138]). Đặc biệt, khi so sánh trí tuệ, sự cần 
cù với số lượng, phạm trù số lượng được đặt 
cao hơn. Bởi, xuất phát từ lối sống trọng tình 
và cách ứng xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi 
trọng cộng đồng, tập thể. Tính cộng đồng 
nhấn mạnh vào sự đồng nhất giữa các thành 
viên. Lối sống này đã làm cho ý thức về con 
người cá nhân bị thủ tiêu. Tính cộng đồng này 
khiến cho khái niệm “giá trị” trở nên tương 
đối. Cái tốt nhưng nếu tốt riêng rẽ thì sẽ trở 
thành cái xấu (khôn độc không bằng ngốc 
đàn). Ngược lại, cái xấu nhưng mà xấu tập 
thể thì trở nên bình thường. Người Việt có 
câu: “toét mắt là tại hướng đình, cả làng toét 
mắt chứ mình em đâu!”. Chính lối sống này 
đã kéo theo các quan niệm: xấu đều hơn tốt 
lỏi [6, tr.89]; chết một đống còn hơn sống một 
người [7, tr.74]. Tính chất nước đôi chính là 
một đặc điểm tính cách của dân tộc Việt: 
người Việt đồng thời vừa có tin thần đoàn kết 
tương trợ lại vừa có óc tư hữu, ích kỉ, cào 
bằng; vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có 
óc bè phái. 
Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa số 
lượng toàn vẹn và số lượng không toàn vẹn 
(3) Thà rằng ăn cả quả sung 
Còn hơn ăn nửa trái hồng dở dang. [5] 
Cha ông ta đề cao sự toàn vẹn trong cấu trúc 
so sánh với sự không toàn vẹn. Như vậy, một 
sự vật, hiện tượng dù có chất lượng tốt (trái 
hồng) nhưng không còn toàn vẹn, đầy đủ (dở 
dang) sẽ bị đánh giá kém hơn sự nguyên vẹn 
của sự vật, hiện tượng có chất lượng kém (cả 
quả sung). 
Bên cạnh đó lại có những câu đề cao chất 
lượng hơn số lượng: 
(4) Thà rằng ăn nửa trái hồng 
Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè. [4, tr.405] 
Trong cấu trúc so sánh và phép đối (nửa/ cả, 
trái hồng/ chùm sung), cha ông đề cao sự 
không toàn vẹn của sự vật có chất lượng tốt 
(nửa trái hồng) hơn sự vật có cấu tạo toàn 
vẹn nhưng chất lượng kém hơn (cả chùm 
sung). Như vậy, câu ca dao (4) và (5) đề cập 
đến hai phạm trù: số lượng (cả, nửa), chất 
lượng (chát của quả sung, ngọt của trái hồng). 
Ta có hệ thức sau: 
(3) Số lượng toàn vẹn + chất lượng kém > Số 
lượng không toàn vẹn + chất lượng trội. 
x - A > -x + A (vì -A -x + A) 
-> x > -x (x được đề cao. Nghĩa là đề cao tính 
toàn vẹn) 
(4) Số lượng không toàn vẹn + chất lượng trội 
> số lượng toàn vẹn + chất lượng kém. 
-x + A > x - A (vì -x x – A) 
-> A > -A (A được đê cao. Nghĩa là phạm trù 
chất lượng được đề cao hơn so với phạm trù 
số lượng). 
Điều này có thể lí giải thông qua văn hóa, lối 
sống của người Việt. Người Việt là dân tộc 
trọng tình, trọng nghĩa. Trong cuộc sống, 
người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn 
thiên về tình và rất coi trọng sự toàn vẹn, đặc 
Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 
 29
biệt là sự toàn vẹn trong vấn đề tình cảm, 
không chấp nhận sự lập lờ nước đôi và thiên 
về tính dứt khoát. Tình cảm phải được phân 
định rõ ràng. Vì thế mà ông cha ta có câu: Có 
yêu thì nói rằng yêu/ Không yêu thì nói một 
điều cho xong/ Làm chi dở đục dở trong/ Lờ 
lờ nước hến cho lòng tương tư [6, tr.300]. 
Không chỉ trong tình cảm mà trong những 
phương diện khác, sự toàn vẹn, đầy đủ vẫn 
được đề cao: khôn cho người ta rái, dại cho 
người ta thương, dở dở ương ương cho người 
ta ghét [3, tr.259]. Bên cạnh đó, người Việt 
cũng đề cao phạm trù chất lượng. Trong đó 
nhiều câu ca dao, tục ngữ có kết cấu so sánh 
đã phản ánh rõ điều này. Chẳng hạn, người 
Việt thường nói: “một nghề cho chín còn hơn 
chín nghề” (một nghề mà tinh thông, thành 
thạo còn hơn nhiều nghề); “trăm ông sao 
chẳng bằng một ông trăng” (dù có số lượng 
nhiều nhưng sức chất lượng ánh sáng kém 
cũng không được đánh giá cao bằng số lượng 
thấp nhưng có chất lượng chiếu sáng tốt) 
Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa tính 
cố định, bất biến và thiên biến vạn hóa 
Trước hết, đó là “mâu thuẫn” trong quan niệm 
về sự giàu nghèo. Một mặt, ca dao tục ngữ đề 
cập đến sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt giữa 
các tầng lớp nhân dân: 
(5) Đã giàu thì lại giàu thêm, 
Đã khó, lại khó cả đêm lẫn ngày. [4, tr.285] 
(6) Giàu từ trong trứng giàu ra, 
Khó từ ngã bảy ngã ba khó về. [6, tr.437] 
Cả hai câu ca dao trên đều sử dụng cấu trúc 
đối lập để nói lên sự than trách bất công trong 
xã hội. Trách sao, người giàu thì càng giàu. 
Người nghèo thì lại ngày càng nghèo. Sự 
phân biệt giàu nghèo và khoảng cách giữa hai 
giai cấp ngày càng xa. Mặt khác, lại có câu: 
(7) Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. [4, tr.372] 
Câu tục ngữ ý nói sự giàu nghèo không riêng 
gì một ai. Có lúc đang giầu mà hóa nghèo, 
hoặc có lúc đang nghèo mà nhờ làm ăn tiết 
kiệm trở nên giàu có. Sự “mâu thuẫn” này là 
bởi hiện thực xã hội được phản ánh trong ca 
dao, tục ngữ. Đó là sự phân hóa giàu nghèo rõ 
rệt trong xã hội phong kiến. Từ chỗ cho rằng 
số phận con người không thể thay đổi được 
nên người dân nghèo có tư tưởng tự ti, an phận 
thủ thường, người sang tại phận. Đây là quan 
niệm duy tâm về số phận con người. Trước 
hoàn cảnh đó, ông cha ta đưa ra những lời an ủi, 
khích lệ: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời thể hiện tư 
tưởng biện chứng, thời cuộc thay đổi, cuộc sống 
con người cũng thay đổi, không có cái gì là vĩnh 
viễn. Người Việt có khả năng thích nghi cao với 
mọi hoàn cảnh (lối sống linh hoạt), có tinh thần 
lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Tính cách ấy 
suy cho cùng, cũng được bắt nguồn từ tư tưởng 
triết lý âm – dương. Từ đó người Việt có được 
triết lí sống quân bình. Điều đó cũng có nghĩa, 
bất kì việc gì đều phải có điểm dừng, không quá 
thấp và không quá cao (cuộc đời như cảnh phù 
du, sớm còn tối mất công phu nhọc nhằn [6, 
tr.85]). Và chính triết lí sống quân bình này đã 
tạo nên tính cách lạc quan, tự tin ở người Việt, 
luôn cho rằng sự vật hiện tượng thay đổi, không 
có cái gì là bất biến (người có lúc vinh lúc nhục, 
nước có lúc đục lúc trong [3, tr.361]). 
Trí tuệ, khả năng của con người (khôn – dại) 
được đề cập trong ca dao, tục ngữ dưới nhiều 
góc độ: 
(8) Khôn từ trong trứng khôn ra 
Dại đến già vẫn dại [4, tr.329] 
(9) Dốt đến đâu học lâu cũng biết [4, tr.322] 
Giữa (8) có sự mâu thuẫn với (9) khi cho rằng 
trí tuệ khôn, dại ở mỗi người là sự cố định, 
bất biến. Ngược lại, (9) lại cho rằng trí tuệ có 
thể thay đổi và do nhiều yếu tố đem lại (học, 
sự kiên trì nỗ lực). 
Sự “mâu thuẫn” này xuất phát từ ngữ cảnh sử 
dụng của mỗi câu ca dao, tục ngữ và tư tưởng 
biện chứng của cha ông ta. Trí tuệ của con 
người là do học hành, sự kiên trì khổ luyện 
mà có được. Việc học luôn đòi hỏi sự nỗ lực 
và quyết tâm cao của mỗi người, học hành vất 
vả kết quả ngọt bùi. Vấn đề dại – khôn là hai 
thái cực có không ít quan niệm, sự nhìn nhận 
khác nhau. Người trí tuệ kém, nhưng không 
ngừng nỗ lực trau dồi kiến thức thì học lâu 
cũng biết, thay đổi được sự kém hiểu biết của 
bản thân. Bởi thế mà ông cha ta có câu có học 
mới hay, có cày mới biết; học hay cày giỏi 
[5]. Quá trình học tập không diễn ra trong một 
khoảng thời gian cụ thể mà kéo dài cả đời 
Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 
 30
người, học khôn đến chết, học nết đến già. 
Bắt đầu học từ những điều cơ bản trong cuộc 
sống để có được cách ăn ở, giao tiếp, cách đối 
nhân xử thế sao cho tế nhị, văn minh (học ăn 
học nói, học gói học mở [3, tr.236]), có học 
mới biết điều hay lẽ phải trong cuộc sống 
(học là học để làm người, biết điều hơn thiệt 
biết lời thị phi; dẫu rằng thông hoạt, chẳng 
học cũng hư đời, tài trí bằng trời, chẳng học 
cũng phải khổ [5]). Như vậy, trí tuệ và khả 
năng của mỗi người ngoài yếu tố di truyền có 
sẵn thì giáo dục, sự kiên trì, nỗ lực là yếu tố 
quan trọng để phát triển trí tuệ cá nhân. 
Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa nội 
dung và hình thức 
Con người là sự tổng hòa của hai mặt nội 
dung và hình thức. Sự kết hợp của hai yếu tố 
đó làm nên vẻ đẹp toàn diện của con người. 
Hiện tượng “phi lô gích” trước hết là “mâu 
thuẫn” khi đề cập đến vẻ đẹp của con người. 
Một mặt, có những câu ca dao tục ngữ đề cao 
vẻ đẹp nội dung và cho rằng nội dung sẽ 
quyết định hình thức bên ngoài. Phẩm chất 
đạo đức, tính cách được đánh giá cao hơn hẳn 
vẻ đẹp bề ngoài và làm nên giá trị con người: 
(10) Cái nết đánh chết cái đẹp. [4, tr.327] 
(11) Tốt gỗ hơn tốt nước sơn 
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. [6, tr.99] 
Tốt gỗ > tốt nước sơn, đẹp nết > đẹp người 
 -> Nội dung > hình thức 
Trái lại, cũng không ít những câu lại đề cao 
vẻ đẹp bên ngoài, vẻ đẹp hình thức. Giá trị, 
phẩm chất của con người do hình thức bên 
ngoài quyết định: 
(12) Người tốt về lụa, lúa tốt về phân, chân 
tốt về hài, tai tốt về hoa. [4, tr.221] 
(13) Cái răng cái tóc là góc con người. [6, tr.72] 
Về mặt hình thức, hai nhóm trên có sự “mâu 
thuẫn”, nhưng thực chất chúng lại bổ sung và 
thể hiện cách nhìn đa chiều của nhân dân ta về 
con người. Một mặt, ông cha ta cho rằng, nội 
dung quyết định hình thức: giá trị của “gỗ” và 
“nết” hơn hẳn giá trị của “sơn” và “người”. 
Mặt khác, khi nhìn nhận một con người cũng 
cần quan tâm tới hình thức bên ngoài của họ, 
người đẹp vì lụa, hài, hoa, răng, tóc. Và, hơn 
thế nữa, giữa hình thức và nội dung có mối 
quan hệ biện chứng, thống nhất: 
(14) Trông mặt mà bắt hình dong 
Con lợn có béo thì lòng mới ngon. [6, tr.118] 
(15) Người khôn dồn ra mặt. [4, tr.309] 
Mặt khác, có quan điểm ngược lại khi cho 
rằng mối quan hệ giữa hình thức và nội dung 
là không thống nhất: 
(16) Biết người biết mặt khó biết lòng. [5] 
(17) Xanh vỏ đỏ lòng. [6, tr.87] 
Các câu ca dao, tục ngữ trên đây không phải 
mâu thuẫn mà thực chất đều là những nhận 
định khách quan, đúng đắn của cha ông về 
con người với những góc nhìn khác nhau. 
Tùy từng trường hợp, từng ngữ cảnh mà 
chúng được sử dụng. Trước hết, xét nhóm câu 
có quan niệm về đánh giá tính nết, năng lực 
thông qua hình dáng bên ngoài. Điều này 
được thể hiện trong nhân tướng học (xem 
tướng mạo dự đoán về vận mệnh của con 
người) hoặt thuật xem tử vi (dựa vào can chi, 
ngũ hành). Có thể tìm thấy rất nhiều câu ca 
dao, tục ngữ hoặc thành ngữ liên quan đến 
nhân tướng học, chẳng hạn: người khôn con 
mắt đen sì, người dại con mắt nửa chì nửa 
thau [6, tr.212]; những ngươi béo trục béo 
tròn, ăn vụng như chớp đánh con cả ngày [6, 
tr.119]; quân tử lông chân, tiểu nhân lông 
bụng [7, tr.29] Bởi vậy, người xưa có câu 
trông mặt đặt tên. Nhưng, vẻ bề ngoài và 
phẩm chất bên trong không phải lúc nào cũng 
thống nhất với nhau. Bởi thế, mặt khác, cha 
ông ta cũng khuyên chúng ta đừng để hình 
thức bên ngoài “đánh lừa”: biết người biết 
mặt khó biết lòng; họa hổ, họa bì, nan họa 
cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm [7, tr.29]. Đây 
là quan điểm biện chứng, đa chiều của người 
xưa về cách nhìn nhận, đánh giá con người. 
Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa quan 
hệ họ hàng, huyết thống và khoảng cách 
Ca dao tục ngữ về quan hệ họ hàng, huyết 
thống chiếm một số lượng lớn. Trong đó, 
chứa đựng nhiều “mâu thuẫn” về mối quan hệ 
máu mủ giữa các thành viên trong gia đình, 
dòng họ: 
(18) Một giọt máu đào hơn ao nước lã. 
 [6, tr.401] 
Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 
 31
(19) Bán anh em xa, mua láng giềng gần. 
 [4, tr.263] 
(18) Một giọt + máu đào > ao + nước lã 
 -x + A > x – A (trong đó: -x: một/ x: 
ao; A: máu đào/ -A: nước lã) 
 2A > 2x A > x (*) 
(19) Anh em + xa < láng giềng + gần 
 A – m < -A + m (Trong đó: A: Anh 
em/ -A: láng giềng; -m: xa/ m: gần) 
 2A A < m (**) 
Từ (*) và (**) => m > A > x Hay: khoảng 
cách gần > họ hàng > số lượng lớn. 
Như vậy, phạm trù họ hàng, huyết thống được 
cha ông ta coi trọng và xếp cao hơn phạm trù 
số lượng. Sự coi trọng này còn được nhắc đến 
trong các câu: máu loãng còn hơn nước lã, 
chín đời họ mẹ còn hơn người dưng [4, 
tr.232]; khác máu, tanh lòng [6, tr.87]. Sống 
với các mối quan hệ họ hàng, người Việt luôn 
đề cao ý thức đoàn kết, tinh thần tương thần 
tương ái, che chở nội tộc: xẩy cha còn chú, 
xẩy mẹ bú dì; dìu dắt, làm chỗ dựa cho nhau 
về mặt chính trị: một người làm quan, cả họ 
được nhờ [3, tr.335]. Sở dĩ đề cao quan hệ họ 
hàng, huyết thống vì văn hóa người Việt là 
văn hóa “trọng nghĩa tình”, văn hóa “dòng 
họ”. Tuy nhiên, nếu đặt trong mối tương quan 
so sánh với phạm trù khoảng cách sẽ thấy 
rằng, trong cuộc sống phạm trù khoảng cách 
gắn liền ân nghĩa được đề lên rất cao. Các 
mối quan hệ láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau 
được xếp trên nhiều phạm trù khác còn được 
thể hiện qua các câu: phép vua thua lệ làng 
[3, tr.397]. Nhân dân ta quan niệm nhà có 
láng giềng nhà, đồng có láng giềng đồng Ở 
Việt Nam, để đối phó với môi trường tự 
nhiên, đáp ứng nhu cầu cần đông người của 
nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ, người 
Việt truyền thống phải làm đổi công cho 
nhau. Đồng thời để đối phó với môi trường xã 
hôi (nạn trộm cướp) cả làng hợp sức mới 
có hiệu quả. Chính vì vậy, người Việt Nam 
liên kết chặt chẽ đến mức bán anh em xa, 
mua láng giềng gần. Nguyên tắc này bổ sung 
cho nguyên tắc một giọt máu đào hơn ao 
nước lã: người Việt Nam không thể thiếu 
được anh em họ hàng, nhưng đồng thời cũng 
không thể thiếu được bà con hàng xóm. 
Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa vật 
chất và ý thức 
Hiện tượng “mâu thuẫn” xảy ra khi một mặt, 
đồng tiền có thể thực hiện được những việc 
tưởng chừng như không thể. Tiền của có sức 
trao đổi vạn năng, có được có quyền lực, chi 
phối tình cảm và trí tuệ con người: 
(20) Có tiền, mua tiên cũng được 
Không tiền mua lược cũng không xong. 
 [4, tr.269] 
(21) Lắm tiền nhiều bạc là tiên trên đời. 
[4, tr.269] 
(22) Kim ngân phá lệ luật. [4, tr.270] 
(23) Tiền bạc đi trước, mực thước đi sau. 
[6, tr.123] 
(24) Khôn như tiên không tiền cũng dại 
Dại như chó có của cũng khôn. [4, tr.272] 
(25) Hết tiền tài, nhân nghĩa tận. [4, tr.270] 
Mặt khác, ca dao tục ngữ cũng cho rằng đồng 
tiền không phải là vạn năng, là quan trọng 
nhất. Của cải vật chất lúc này đã không còn ở 
vị trí tối thượng, có sức mạnh phi thường nữa, 
mà khi so với những giá trị khác, vật chất đã 
trở thành thứ yếu: 
(26) Bạc đeo đầy mình không bằng thông 
minh sáng suốt. [3, tr.47] 
(27) Một kho vàng không bằng một nang chữ. 
[4, tr.323] 
(28) Tốt danh hơn lành áo. [6, tr.89] 
(29) Một mặt người bằng mười mặt của. 
 [4, tr.269] 
Như vậy, có thể thấy của cải vật chất là thiết 
thực, đáng quý nhưng khi đem ra so sánh, 
phạm trù vật chất được xếp phía sau nhiều giá 
trị khác: vật chất của cải xếp phía sau trí tuệ, 
tri thức. Điều đó cho thấy người Việt coi giá 
trị tinh thần cao hơn giá trị vật chất; sự thông 
minh, sáng suốt và chữ nghĩa có giá trị hơn 
vàng. Bởi vậy, dân gian có câu: chẳng tham 
vựa lúa anh đầy, tham năm ba chữ cho tày thế 
gian... Của cải vật chất cũng có giá trị kém 
hơn danh tiếng, bởi người Việt coi trọng danh 
Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 
 32
dự (hổ chết để da, người ta chết để tiếng [3, 
tr.239]) vì người Việt quan niệm rằng: trăm 
năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng hãy 
còn trơ trơ. Nói về con người và giá trị con 
người, tục ngữ ta thường so sánh người và 
của bao giờ cũng đặt người trên cao hơn rất 
nhiều: người sống hơn đống vàng [3, tr.365]. 
Và khi buộc phải lựa chọn giữa người và của, 
thông thường sẽ là lấy của che thân, không ai 
lấy thân che của [3, tr.287]. Như vậy, có thể 
thấy sự đa dạng mà thống nhất trong tư tưởng, 
lối sống của người Việt. 
KẾT LUẬN 
Qua các cơ chế lí giải về những hiện tượng 
“phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ; chúng ta 
có thể thấy tư duy đa chiều của cha ông ta gắn 
liền với các hoàn cảnh cụ thể. Điều này cho 
thấy sự biện chứng trong cách đánh giá, cách 
ứng xử tinh tế, mềm dẻo, hài hòa của người 
Việt trước mọi tình huống. Chúng được đúc 
rút và trở thành bài học có ý nghĩa cho mọi 
thế hệ. Nhận biết điều đó nhằm góp phần hình 
thành ý thức giữ gìn, kế thừa và phát huy bản 
sắc văn hóa của dân tộc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Đức Dân (1996), Lô gích và tiếng Việt, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. Lê Công Tuấn (2005), Về hiện tượng trái nghĩa 
qua một số câu tục ngữ, Ngôn ngữ và đời sống số 
7, tr. 34 – 35. 
3. Nguyễn Phương Nga (2014), Từ điển thành 
ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 
4. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri 
(1993), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
5. Hà Thị Hải Huyền (2014), Khảo sát những câu 
tục ngữ Việt có cách nhìn đa chiều về cùng một 
vấn đề,https://text.xemtailieu.com/tai-lieu/ khao-
sat-nhung-cau-tuc-ngu-viet-co-cach-nhin-da-
chieu-ve-cung-mot-van-de-152653.html, truy cập 
ngày 20/4/2018. 
6. Vũ Ngọc Phan (2008), Tục ngữ ca dao dân ca 
Việt Nam, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh. 
7. Nguyễn Hoàng Lan (2001), Tục ngữ Việt Nam, 
Nxb Thanh niên, TP HCM. 
8. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt 
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
SUMMARY 
THE LOGIC OF “NON LOGIC” PHENOMENON 
IN VIETNAMESE FOLK VERSES, PROVERBS 
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong* 
TNU - University of Education 
This article is intended to explain the "non-logic" phenomenon in the system of Vietnamese folk 
verses, proverbs. To do that, we have applied theoretical and specific research methods 
(description, meaning analysis) and interdisciplinary research methods for analysis. The 
explaination of this phenomenon will bring a deeper and more comprehensive understanding of 
folk verses, proverbs in particular and culture, folklore in general. Since then, proof of the 
richness, diversity but unifying in life style, thinking of Vietnamese can be expressed through 
Vietnamese folk verses and proverbs. 
Key words: non-logic, logic, folk verses, proverbs, thinking of Vietnamese people. 
Ngày nhận bài: 27/4/2018; Ngày phản biện: 07/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018 
* Tel: 0948210155; Email: 
[email protected] 
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ 
 SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS 
Content Page 
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal 
sentiments in the Vietnam medieval literature 15 
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional 
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 
1954 – 1975 and some lessons learned 51 
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village 
convention in Thai Nguyen province 57 
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and 
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 
general offensive 69 
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular 
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 
2013 to 2017 91 
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics 
to high school 97 
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai 
district, Thai Nguyen province 105 
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in 
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of 
Medicine and Pharmacy 111 
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s 
thought in building work style for key caders at present period 117 
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai 
Nguyen Medical College and some solutions 129 
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 
Journal of Science and Technology 
 183(07) 
 N¨m 2018 
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at 
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative 
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of 
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development 
for students at Thai Nguyen University of Technology 159 
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching 
and learning 165 
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education 
for students at the center for defense and security education in the current phase 171 
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors 
through intensive reading 177 
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac 
Kan province 183 
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on 
exploitative abuses 189 
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators 
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource 
Center of Thai Nguyen University 201 
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong 
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical 
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the 
business efficiency of Vietnam banks 239