Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 74
KIỂM SOÁT TÌNH TRẠNG THAY ĐỔI ĐỘ SÂU GÂY MÊ BẰNG BIS 
TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT BỤNG 
Nguyễn Văn Chinh**, Nguyễn Kỳ Tài*, Võ Đức Chiến*, Chung Nguyễn Anh Hùng* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Nghiên cứu này nhằm kiểm tra việc theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS có kiểm soát tình trạng thay đổi 
độ sâu trong gây mê và giúp giảm lượng thuốc mê propofol, ổn định mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê 
cũng như giảm lượng sevoflurane duy trì mê ở phẫu thuật bụng. 
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng 
trên 66 bệnh nhân người cao tuổi từ 65 - 85 được phẫu thuật ở bụng, tất cả khởi mê bằng phương pháp gây mê 
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Nhóm BIS gồm 33 trường hợp và điều 
chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman. Nhóm không BIS gồm 33 trường hợp và điều chỉnh độ mê dựa trên các dấu hiệu 
lâm sàng. Xử lý số liệu bằng phần mền thống kê STATA 13,0. 
Kết quả: Lượng propofol trung bình trong giai đoạn khởi mê nhóm bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2 
mg), ít hơn nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS (67,2 ± 8,1 mg), với p = 0,001, sự thay đổi mạch và huyết áp 
trong quá trình khởi mê cả hai nhóm hầu như ít thay đổi, có mối tương quan tuyến tính nghịch, vừa giữa BIS và 
nồng độ propofol tại não trong quá trình khởi mê (r = -0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến tính BIS = 89 
– 13 × Ce-propofol, lượng sevoflurane trung bình tiêu thụ trong nhóm bệnh nhân sử dụng BIS giảm 20% so với 
nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS, với p = 0,003. 
Kết luận:Nhờ có BIS theo dõi độ sâu trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có hiệu quả và an 
toàn trong quá trình khởi mê ở người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane trong duy trì mê. 
Từ khóa: Chỉ số lưỡng phổ, phẫu thuật bụng, propofol, sevoflurane, kiểm soát nồng độ đích, nồng độ 
propofol huyết tương, nồng độ propofol tại não. 
ABSTRACT 
MONITORING THE STATE TRANSITION OF THE DEPTH ANAESTHESIA BY BIS PECTRAL INDEX 
IN ABDOMINAL SURGERY 
Nguyen Van Chinh, Nguyen Ky Tai, Vo Duc Chien, Chung Nguyen Anh Hung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 74 – 79 
Background: This study to examine whether or not there is monitoring indicators of anesthesia with BIS 
monitoring the state transition of the depth anaesthesia and reduces the anesthetic propofol, stable pulse, blood 
pressure during induction and maintenance of anesthesia reduces sevofluane abdominal surgery. 
Methods: We performed clinical trial randomized 66 patients controlled on elderly people from 65-85 
abdominal surgery, all of induction of anesthesia with intravenous propofol target concentration control and 
maintaining anesthesia with sevoflurane. BIS group includes 33 cases and adjust the scheme Gurman maze. 
None BIS group includes 33 cases and adjust the maze based on clinical signs. Data analysis using STATA 
software 13.0. 
Results: The average amount of propofol in the induction phase patients using BIS (55.2 ± 6.2) mg less than 
the group of patients not using BIS (67.2 ± 8.1) mg with p = 0.001, changes in pulse and blood pressure during 
*Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Thành phố Hồ Chí Minh. 
**Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: PGS. TS. BS Nguyễn Văn Chinh, ĐT: 0903885497, Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 75
induction of anesthesia both groups hardly changed, with a linear inverse correlation, just between BIS and 
propofol concentrations in the brain in the process of induction (r = -0.53, p = 0.001), the linear regression 
equation BIS = 89 - 13 × Ce- propofol, sevoflurane average amount consumed in the group of patients using BIS 
decreased 20%, with p = 0.003. 
Conclusions: Thanks to BIS monitor depth of anesthesia intravenously control target levels are very 
effective and safe during induction of anesthesia in the elderly, 20% reduction in the amount maintaine 
sevoflurane anesthesia. 
Keywords: Bispectral index, abdominal surgery, propofol, sevoflururane, target controlled infusion, Cp-
propofol, Ce-propofol. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, người gây mê hồi sức chuẩn bị 
phương pháp gây mê cho bệnh nhân dựa vào 
những yếu tố sinh học của người bệnh như: giới 
tính, tuổi, cân nặng, chỉ số BMI và dấu hiệu lâm 
sàng. Trong lúc phẫu thuật, quá trình gây mê 
được điều chỉnh dựa vào kinh nghiệm của người 
gây mê hồi sức, kết hợp với các dấu hiệu sinh 
tồn có được từ các thiết bị hỗ trợ. Do đó, người 
gây mê hồi sức, dựa trên kinh nghiệm chủ quan 
của bản thân, phải tổng hợp tất cả thông tin từ 
các thiết bị, cùng với những thông tin sinh học, 
dấu hiệu lâm sàng để đưa ra quyết định điều 
chỉnh trong quá trình gây mê. 
Nghiên cứu nhằm phát triển thêm phương 
pháp để theo dõi sự thay đổi các giai đoạn trong 
quá trình gây mê và đáp ứng cá nhân của mỗi 
bệnh nhân đối với quá trình gây mê. Bằng cách 
theo dõi đáp ứng khác nhau của bệnh nhân 
trong quá trình gây mê, liều lượng thuốc mê cho 
bệnh nhân sẽ được tối ưu hóa cho từng bệnh 
nhân. Kết quả nghiên cứu này sẽ được áp dụng 
để kiểm soát tốt hơn quá trình gây mê như là 
tránh gây mê nông hoặc quá sâu, ngăn ngừa tỉnh 
mê trong khi phẫu thuật và rút ngắn thời gian 
tỉnh mê. Hơn nữa, nghiên cứu này sẽ được áp 
dụng để phát triển thiết bị mới trong tương lai 
để theo dõi độ mê sâu bằng cách kết hợp tín hiệu 
EEG và dữ liệu sinh học của bệnh nhân để cá 
nhân hóa chỉ số độ sâu gây mê cho từng bệnh 
nhân, điều này sẽ làm giảm sự đánh giá chủ 
quan bằng kinh nghiệm của người gây mê. 
Chính vì thế theo hướng dẫn của BIS giúp kiểm 
soát nồng độ propofol hiệu quả khi khởi mê, ổn 
định mạch, huyết áp, đảm bảo độ mê đủ sâu để 
tiến hành đặt nội khí quản an toàn và trong quá 
trình duy trì mê tránh nguy cơ thức tỉnh, giảm 
lượng thuốc mê thể khí, thiết lập nguyên tắc 
dùng thuốc vận mạch, xử trí thay đổi huyết 
động một cách kịp thời(15,16,17) 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tổng lượng trung bình propofol 
trong quá trình khởi mê. 
Lượng sevoflurane tiêu thụ trung bình trong 
quá trình duy trì mê. 
Xác định mối tương quan giữa BIS với nồng 
độ thuốc mê propofol tại não trong quá trình 
khởi mê. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối 
chứng, không mù. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân từ 65 - 85 tuổi, được phẫu 
thuật bụng từ tháng 11 - 2015 đến 6 - 2018, tại Bv 
Nguyễn Tri Phương, có ASAII-III, thời gian 
phẫu thuật < 4 giờ, không dị ứng với propofol, 
không suy tim nặng (phân suất tống máu < 
35%), BMI < 23, men gan (SGOT, SGPT) < 2 lần 
bình thường, Creatinine máu < 200 umol/l, 
không rối loạn đông máu, nghe và trả lời bằng 
tiếng Việt. 
Phương pháp tiến hành 
Tại phòng phẫu thuật bệnh nhân được gắn 
các thiết bị theo dõi như ECG, Sp02, đặt đường 
truyền tĩnh mạch kim 18G, huyết áp động mạch 
không xâm lấn. Nhóm bệnh nhân theo dõi độ 
mê bằng BIS chuẩn bị như sau: lau trán bênh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 76
nhân bằng alcool, đợi khô để dán điện cực như 
đề nghị của nhà sản xuất, trong gây mê nên duy 
trì BIS 40 - 60. 
Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: 33 
trường hợp được theo dõi bằng BIS (nhóm I), 33 
trường hợp theo dõi độ mê dựa trên dấu hiệu 
lâm sàng (nhóm II). Tất cả bệnh nhân hai nhóm 
được khởi mê từ từ bằng TCI, cài đặt nồng độ 
propofol ban đầu Cp = 2 mcg/ml, sau mỗi phút 
tăng lên 0,5 mcg/ml. Đối với nhóm I, khi BIS = 50 
chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg đợi 3 phút 
đặt nội khí quản, còn nhóm II khi OASS = 1, 
chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg cũng đợi 3 
phút đặt nội khí quản. 
Cả 2 nhóm duy trì thuốc mê thể khí 
sevoflurane và oxy, với lưu lượng khí mới 2 
lít/phút và có theo dõi nồng độ khí mê, CO2 bằng 
máy gây mê Dragger. Nhóm I điều chỉnh độ mê 
theo sơ đồ Gurman, nhóm II chỉnh độ mê dựa 
trên dấu hiệu lâm sàng và duy trì mạch, huyết 
áp trong khoảng ± 20% so với giá trị ban đầu. 
Dùng các thuốc vận mạch như nicardipine, 
ephedrine khi cần, tắt sevoflurane sau khi đóng 
da xong. 
Ghi nhận các trị số nồng độ Cp-propofol, 
Ce-propofol, mạch, huyết áp tại các thời điểm 
khởi mê, % sevoflurane tại các thời điểm duy 
trì mê và BIS tại các thời điểm suốt quá trình 
phẫu thuật. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Tất cả phương pháp thống kê và phân tích 
được thực hiện bằng phần mềm STADA 13.0. 
Biến số định lượng có phân phối chuẩn được 
trình bày bằng giá trị trung bình, độ phân tán 
với độ lệch chuẩn. Nếu không có phân phối 
chuẩn được trình bày bằng giá trị trung vị, và 
mô tả độ phân tán bằng giá trị lớn nhất và nhỏ 
nhất hoặc bằng khoảng tứ phân vị. So sánh sự 
khác biệt giữa các tỉ lệ (biến số định tính) dùng 
phép kiểm chi bình phương (X2). So sánh sự 
khác biệt giữa các trung bình (biến số định 
lượng) của 2 mẫu độc lập dùng phép kiểm t. 
Hệ số tương quan r (theo Pearson) để đánh giá 
sự tương quan giữa 2 biến số định lượng liên 
tục. p < 0,05 được coi là sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của bệnh nhân trước phẫu 
thuật 
Bảng 1. Đặc điểm chung của bệnh nhân trước phẫu thuật 
Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p 
Giới tính 
Nam (TH, %) 16 (48,48) 19 (57,58) 
0,459
Nữ (TH, %) 17 (51,52) 14 (42,42) 
Tuổi (năm) 
TB ± ĐLC 71,6 ± 5,5 70,8 ± 6,8 0,6074 
Cân nặng (kg) 
TB ± ĐLC 46,2 ± 5,1 44,6 ± 5,4 0,2489 
BMI (kg/m
2
) 
TB ± ĐLC 18,7 ±1,8 18,7 ±1,7 0,6974 
TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn, TH: trường hợp. 
Lượng propofol trong quá trình khởi mê của 
hai nhóm 
Bảng 2. Lượng propofol trong quá trình khởi mê của 
hai nhóm 
Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p 
Liều propofol (mg) 
TB ± ĐLC 
55,2 ± 6,2 67,2 ± 8,1 0,001 
Sự thay đổi mạch tại các thời điểm của hai 
nhóm trong quá trình khởi mê 
Bảng 3. Sự thay đổi mạch tại các thời điểm của hai 
nhóm trong quá trình khởi mê 
Thời điểm 
Mạch 
Nhóm BIS 
(lần/phút) 
Không BIS 
(lần/phút) 
p 
T2 72 ± 0,9 69,3 ± 0,7 0,02 
T3 71 ± 0,8 69,6 ± 0,9 0,34 
T4 70 ± 0,6 68,7 ± 0,8 0,25 
T5 69,6 ± 0,8 68,5 ± 0,7 0,29 
T6 69,6 ± 0,8 67,2 ± 0,6 0,02 
Sự thay đổi huyết áp trung bình tại các thời 
điểm của hai nhóm trong quá trình khởi mê 
Bảng 4. Sự thay đổi huyết áp trung bình tại các thời 
điểm của hai nhóm trong quá trình khởi mê 
Thời điểm HATB 
Nhóm BIS 
(mmHg) 
Không BIS 
(mmHg) 
P 
T2 100 ± 8 97 ± 7 0,07 
T3 95 ± 8 93 ± 6 0,65 
T4 90 ± 7 88 ± 7 0,22 
T5 88 ±6 85 ± 7 0,09 
T6 88 ± 6 76 ± 6 0,001 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 77
Nồng độ propofol tại não (Ce- propofol) và BIS 
tại các thời điểm khởi mê 
Bảng 5. Nồng độ propofol tại não (Ce- propofol) và 
BIS tại các thời điểm khởi mê 
Thời điểm Ce propofol (mcg/ml) BIS 
T3 
TB ± ĐLC 
NN-LN 
1,1 ± 0,1 
9 – 1,3 
87,4 ± 3,1 
82 - 91 
T4 
TB ± ĐLC 
NN-LN 
1,4 ± 0,26 
1,1 - 1,7 
79,7 ± 5,0 
74 - 86 
T5 
TB ± ĐLC 
NN-LN 
1,7 ± 0,3 
1,3 - 2,1 
68,5 ± 4,7 
64 -74 
T6 
TB ± ĐLC 
NN-LN 
2,0 ± 0,4 
1,5 – 2,5 
50 
NN: nhỏ nhất , LN lớn nhất. 
Thời gian phẫu thuật, lượng sevoflurane trong 
giai đoạn duy trì mê 
Bảng 6. Thời gian phẫu thuật, lượng sevoflurane 
trong giai đoạn duy trì mê 
 Nhóm BIS Không BIS p 
Lượng sevoflurane 
(ml/giờ) 
23,9 ± 6,2 29,9 ± 9,2 0,0031 
BÀN LUẬN 
Lượng thuốc propofol trong giai đoạn khởi mê 
với TCI có sử dụng BIS và không sử dụng BIS 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá 
khởi mê bằng propofol dưới hướng dẫn của BIS, 
tổng liều propofol trung bình (bảng 2) nhóm 
bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2 mg), còn 
nhóm bệnh nhân không có sử dụng BIS (67,2 ± 
8,1 mg) khi khởi mê. 
Tác giả Ercan Gurses(5), thấy rằng nhóm 
dùng BIS giảm được 43% lượng propofol trong 
giai đoạn khởi mê so với nhóm dùng dấu hiệu 
lâm sàng để theo dõi độ mê lần lượt với lượng 
propofol là 84,3 ± 11,4 mg so với 147 ± 12,1 mg 
(nhóm không có BIS). 
Nghiên cứu của Liu(13), khi phân tích kết quả 
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đánh giá hiệu 
quả của BIS trong gây mê phẫu thuật về trong 
ngày: tiêu thụ propofol ít hơn có ý nghĩa trong 
nhóm được gây mê bằng BIS so với nhóm chứng 
(1253 mg so với 946 mg ở nhóm BIS). 
Theo Gan(6), trong một thử nghiệm lâm sàng 
ngẫu nhiên, có nhóm chứng, mù, đa trung tâm 
về BIS cho thấy giảm 23% propofol sử dụng và 
giúp điều chỉnh propofol trong phẫu thuật 
(nhóm BIS lượng propofol truyền là 116 
mcg/kg/phút so với nhóm không BIS là 136 
mcg/kg/phút). 
Tác giả Villeret I(20) với nồng độ ce-propofol 
0,9 mcg/ml có thể sử dụng an toàn để gây mê đặt 
nội khí quản với bệnh nhân người cao tuổi. 
Tại Việt Nam, tác giả Châu Thị Mỹ An(4), cho 
thấy liều khởi mê 1,6 - 2,1 mg/kg, p = 0,001). 
Nguyễn Văn Chinh(15), đánh giá sự thay đổi 
BIS trong gây mê TCI trên phẫu thuật tổng quát 
đã cho thấy liều khởi mê 1,47 ± 0,06 mg/kg. 
Nguyễn Thị Như Hà(17), liều trung bình trong 
lúc khởi mê 100 ± 1,2 mg nhóm BIS, so với 125 
mg ± 2,1 mg nhóm không sử dụng BIS. 
 Đánh giá sự thay đổi mạch, huyết áp trung 
bình quá trình khởi mê của hai nhóm 
Sự thay đổi mạch 
Trong quá trình khởi mê cả hai nhóm, một 
nhóm có hướng dẫn sử dụng BIS để theo dõi và 
một nhóm được đánh giá dựa vào mức độ an 
thần theo thang điểm OAA/S vì có lẽ chúng tôi 
khởi mê từ từ theo từng nấc nên từ giai đoạn T3 
đến giai đoạn T5 (bảng 3) mạch hầu như không 
thay đổi, giai đoạn T2 mạch cao hơn nhẹ ở nhóm 
BN sử dụng BIS (nhóm BN sử dụng BIS: 72 ± 0,9; 
nhóm BN không sử dụng BIS: 69,3 ± 0,7, p = 
0,02), nhưng đến giai đoạn T6 (BIS: 69,6 ± 0,8; 
không BIS: 67,2 ± 0,6, p = 0,02) mạch ở nhóm BIS 
giảm nhẹ, còn nhóm không sử dụng BIS thì BN 
ngủ sâu hơn nhiều vì có thể do đánh giá chủ 
quan dựa vào mức độ an thần (OAA/S=1) của 
chúng tôi ở mỗi bệnh nhân khác nhau. 
Nghiên cứu của Ali (2009)(1), thực hiện trên 
90 bệnh nhân chia ngẫu nhiên 3 nhóm, so sánh 
hiệu quả của 3 kỹ thuật gây mê (sevoflurane (s), 
isoflurane (i), gây mê kiểm soát nồng độ đích 
bằng propofol (p), đánh giá dựa trên huyết động 
và tính hồi phục cho những bệnh nhân u tuyến 
yên được phẫu thuật nội soi qua đường mũi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 78
dưới sự hướng dẫn của BIS. Tác giả đã kết luận 
bệnh nhân sử dụng nhóm propofol thì ổn định 
mạch, huyết áp khi đặt nội khí quản. 
Sự thay đổi về huyết áp trung bình 
Trong nghiên cứu của chúng tôi sự thay đổi 
huyết áp tương đối ổn định, huyết áp trung bình 
từ thời điểm T3 đến T5 thay đổi nhưng không có 
ý nghịa thống kê (bảng 4), nhưng đến thời điểm 
T6 (BIS: 88 ± 6 mmHg; không BIS: 76 ± 6 mmHg, 
p = 0,001) thì huyết áp trung bình nhóm bệnh 
nhân không sử dụng BIS giảm nhiều hơn có thể 
là lúc này lượng propofol lên não nhiều hơn, 
ngủ sâu hơn. 
Tác giả Liu(12), nhận thấy huyết áp trung bình 
khi khởi mê nhóm S1 (Ce-propofol: 2,7 mcg/ml) 
thấp hơn nhẹ so với nhóm S3 (Ce-propofol: 2,8 
mcg/ml). 
Tác giả Jung(9), mô tả một trường hợp 79 tuổi 
tụt huyết áp nặng (60/30 mmHg) kèm theo 
ngưng thở 6 phút và mạch còn 30 lần/phút, cũng 
như tác giả XU Chuan-Ya(22), cũng báo cáo có 7 
trường hợp tụt huyết áp sau khi tiêm propofol. 
Điều này có thể lý giải do thiết kế nghiên cứu 
khác nhau, chúng tôi dùng hệ thống kiểm soát 
nồng độ đích TCI còn tác giả truyền liên tục hay 
lặp lại. 
Xét về mối tương quan giữa BIS và nồng độ 
propofol tại não trong giai đoạn khởi mê. 
Nghiên cứu của chúng tôi thấy tương quan 
giữa BIS và nồng độ propofol tại não (Ce 
propofol) là mối tương quan nghịch, vừa (r = -
0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến tính 
BIS = 89 – 13 × Ce-propofol. 
Tác giả Irwin(7), khi nghiên trên 60 bệnh 
nhân phẫu thuật tổng quát, đã thấy được sự 
liên quan giữa nồng độ hiệu quả của propofol 
50 (CP50) là 2,66 mcg/ml, tương ứng với giá trị 
BIS là 68. 
Nguyễn Thị Như Hà(17), nghiên cứu đánh giá 
hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật tim 
trên người lớn đã thấy có mối tương quan 
nghịch, yếu giữa BIS và nồng độ propofol tại não 
Ce -propofol (r = -0,27, p = 0,027) trong giai đoạn 
khởi mê. 
Lượng thuốc sevoflurane sử dụng trong quá 
trình duy trì mê của hai nhóm 
Lượng sevoflurane trong nghiên cứu của 
chúng tôi giảm 20%. 
Jeliish(8), sevoflurane thích hợp hơn propofol 
trong quá trình duy trì mê phẫu thuật nội soi ở 
bệnh nhân cao tuổi. 
Tác giả Nabaweya(14), 60 bệnh nhân lớn tuổi 
phẫu thuật tổng quát, đã giảm 32% lượng 
sevoflurane, BIS 50 - 60, giai đoạn duy trì và 55 - 
70 gần kết thúc cuộc phẫu thuật. 
Tác giả Sebel(19), bệnh nhân phẫu thuật tổng 
quát đã giảm 20 - 30% lượng sevoflurane. 
Tác giả Nguyễn Thị Như Hà(17), nghiên cứu 
hiệu quả của theo dõi BIS trên sự tiêu thụ 
sevoflurane trong phẫu thuật tim người lớn đã 
tiết kiệm 17% lượng thuốc mê sevoflurane. 
KẾT LUẬN 
Xác định mức độ mê của người bệnh là 
một yêu cầu cần thiết và quan trọng. Quá trình 
này đòi hỏi phải có những điểm mốc hướng 
dẫn quá trình gây mê, đi từ mê nông (độ mê 
quá nhẹ), đến độ mê sâu (tức độ mê quá 
nhiều), hay ngược lại, làm sao cho phù hợp với 
từng loại phẫu thuật và từng giai đoạn của 
phẫu thuật, cho từng người bệnh. Hơn nữa, 
một khi đã xác định được độ mê chính xác thì 
người gây mê có thể dùng một số lượng thuốc 
mê ít nhất, nhưng phải đủ đảm bảo cho cuộc 
phẫu thuật tiến hành thuận lợi và quan trọng 
nhất là phải đảm bảo được an toàn cho bệnh 
nhân, tránh dùng thuốc gây mê quá nhiều, bởi 
vì hầu hết thuốc mê đều là thuốc độc, những 
thuốc này thường gây độc hại, gây ra những 
tai biến, biến chứng rất nguy hại cho người 
bệnh. Nghiên cứu này, gây mê trong phẫu 
thuật bụng ở người cao tuổi, khi theo dõi độ 
mê bằng chỉ số BIS bằng phương pháp gây mê 
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có hiệu 
quả và an toàn trong quá trình khởi mê ở 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 79
người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane 
trong duy trì mê. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ali Z, Prabhakar H, Bithal PK, Dash HH ( 2009), “Bispectral 
index-guided administration of anesthesia for transsphenoidal 
resection of pituitary tumors: a comparison of 3 anesthetic 
techniques”, J Neurosurg Anesthesiol, 21, pp.10-15. 
2. Alkire MT, Hudezt AG, Tononi G (2008), “Target controlled 
infusion in anaesthetic practice”, Consciousne Astra Zeneca, pp.1-20. 
3. Cazalà JBLJ, Servin F (2009), Anesthetic agents used in TCI, 2nd 
Edition, pp. 33. 
4. Châu Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh (2011), “Gây mê tĩnh mạch 
toàn diện bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trong phẫu 
thuật bụng”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 15 (3), tr.179-181. 
5. Ercan Gurses et al (2004) “Assessing Propofol Induction of 
Anesthesia Dose Using Bispectral Index Analysis”, Anesth 
Analg, 98, pp. 128-31. 
6. Gan TJ, Glass PS, Windsor A et al (1997) “Bispectral index 
monitoring allows faster emergence and improved recov-ery 
from propofol, alfentanil, and nitrous oxide anesthesia”, 
Anesthesiology, 84, pp. 808-815. 
7. Irwin MG, Hui TW, Milne SE & Kenny GN (2002) “Propofol 
effective concentration 50 and its relationship to bispectral 
index”. Anaesthesia, 57, pp. 242–248. 
8. Jellish WS, Lien CA, Fontenot HJ, Hall R (1996) “The 
comparative effects of sevoflurane versus propofol in the 
induction and maintenance of anesthesia in adult patients.”, 82, 
pp.479-485. 
9. Jung M. Hofmann C. Kiesslich R. Brackertz A (2000). “Improved 
sedation in diagnostic and therapeutic ERCP: propofol is an 
alternative to midazolam.” Endoscopy, 32, pp. 233-238. 
10. Kirkpatrick T, Cockshott ID, Douglas EJ (1988). “Pharmacoki-
netics of propofol (Diprivan) in elderly patients”, Br J Anaesth, 
60, pp. 146-150. 
11. Lichtenstein DR. Jagannath S. Baron TH et al. (2008). “Sedation 
and anesthesia in GI endoscopy.” Gastrointest Endosc, 68, pp. 
815-826. 
12. Liu SH, Wei W, Ding GN (2009) “Relationship between depth of 
anesthesia and effect-site concentration of propofol during 
induction with the target-controlled infusion technique in 
elderly patients”, Chinese Medical Journal, 122, pp.935-940. 
13. Liu SS (2004) “Effects of Bispectral Index monitoring on 
ambulatory anesthesia: a meta-analysis of randomized 
controlled trials and a cost analysis”. Anesthesiology, 101, pp.311-315. 
14. Nabaweya Mostafa Kamal, S.H. Omar, et al (2009) “Bispectral 
index monitoring taillors clinical anesthetic delivery and 
reduces anesthetic drug consumption”. J.Med. Sci, 9, pp.10-16. 
15. Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn Văn Chừng (2013), “Theo dõi BIS 
trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích”, Tạp chí Y Học, 
Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 17 (1), tr. 169-173. 
16. Nguyễn Thị Quý (2012) “Gây mê tĩnh mạch với kiểm soát nồng 
độ đích” Tạp chí Y Học thành phố Hố Chí Minh, 16 (2), tr. 15-27. 
17. Nguyễn Thị Như Hà, Nguyễn Thị Qúy (2013), “Đánh giá lợi ích 
của BIS trong việc theo dõi độ sâu gây mê trong quá trình phẫu 
thuật tim hở”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 885 (21) tr.97. 
18. Schnider TW et al (2000), “The influence of method of 
administration and covariates on pharmacokinetics of propofol 
in adult volunteers” Anesth. 93, pp. 1085-1094. 
19. Sebel PS, (2001) “Can you monitor depth of anesthesia”. 
International Anesthesia Reserch Society Review Course Lectures, pp 
95-97. 
20. Villeret I, Laffon M, Ferrandière M et al “Which propofol target 
concentration for ASA III elderly patients for conscious sedation 
combined with regional anaesthesia?” Ann Fr Anesth Reanim. 22 
(3), pp.196-201. 
21. Wiczling P, Bieda K, Przybyłowski K (2016), “Pharmacokinetics 
and Pharmacodynamics of Propofol and Fentanyl in Patients 
Undergoing Abdominal Aortic Surgery ”- A Study of 
Pharmacodynamic Drug-Drug Interactions. Biopharm Drug 
Dispos. 37(5): 252-63. 
22. XU Chuan-ya, WU Xin-min, LU Wei, (2010), “Effect of 
remifentanyl on propofol pharmacokinetics with target 
controled infusion in elderly patients” Journal of Peking 
University (Health Sciences), pp.1671-1679. 
Ngày nhận bài báo: 31/07/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/10/2018