Khóa luận Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu

Tài liệu Khóa luận Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu: trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương -------***------- khoá luận tốt nghiệp Đề tài: một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu Giáo viên hướng dẫn : Thầy giáo Phan Anh Tuấn Sinh viên thực hiện : Trần Ngọc Hưng Lớp : Nga - K37C Hà Nội - 2002 Lời cảm ơn Khoá luận được hoàn thành với sự giúp đỡ của rất nhiều thầy giáo, cô giáo, gia đình và bạn bè. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với: Các thầy cô giáo và cán bộ trường Đại học ngoại thương những người đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu và tạo điều kiện học tập cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Các thầy cô giáo đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn khoá luận này, đặc biệt là thầy Phan Anh Tuấn, người đã vất vả theo sát từng bước đi của tôi trong quá trình hoàn thành ý tưởng, nghiên cứu triển khai và hoàn thành khoá luận. Các đồng nghiệp làm công tác nhập khẩu tại công ty Gold...

doc83 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương -------***------- khoá luận tốt nghiệp Đề tài: một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu Giáo viên hướng dẫn : Thầy giáo Phan Anh Tuấn Sinh viên thực hiện : Trần Ngọc Hưng Lớp : Nga - K37C Hà Nội - 2002 Lời cảm ơn Khoá luận được hoàn thành với sự giúp đỡ của rất nhiều thầy giáo, cô giáo, gia đình và bạn bè. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với: Các thầy cô giáo và cán bộ trường Đại học ngoại thương những người đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu và tạo điều kiện học tập cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Các thầy cô giáo đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn khoá luận này, đặc biệt là thầy Phan Anh Tuấn, người đã vất vả theo sát từng bước đi của tôi trong quá trình hoàn thành ý tưởng, nghiên cứu triển khai và hoàn thành khoá luận. Các đồng nghiệp làm công tác nhập khẩu tại công ty Goldenkey Gia đình và bạn bè, những người đã khuyến khích động viên và tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành khoá luận này. Vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, khả năng người viết còn hạn chế nên chắc chắn luận văn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp và chỉ dẫn của các thầy cô giáo, các nhà kinh doanh nhập khẩu có nhiều kinh nghiệm và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin gửi tới các thầy, các cô gia đình và bạn bè những lời chúc tốt đẹp nhất. Mục lục Lời mở đầu: 1 Chương I: hoạt động kinh doanh nhập khẩu và vấn đề quản lý rủi ro trong việc thực hiện ký kết hợp đồng nhập khẩu. 3 1. Một số vấn đề về nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu 3 1.1. Quy trình nhập khẩu 3 1.2. Hợp đồng nhập khẩu 4 1.2.1. Vài nét khái quát về hợp đồng mua bán ngoại thương nói chung và hợp đồng nhập khẩu nói riêng. 4 1.2.2. Nội dung của hợp đồng nhập khẩu. 8 1.2.3. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng nhập khẩu 10 1.2.4. Các chứng từ thường sử dụng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 12 2. Vai trò quản lý rủi ro trong thực hiện và ký kết hợp đồng nhập khẩu. 12 Chương II: Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý trong ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 14 I. Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý khi ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 14 1. Trong quá triònh nghiên cứu thị trường. 14 2. Trong việc lựa chọn ngành xuất khẩu. 14 II. Những rủi ra mà các doanh nghiệp cần chú ý trong khi đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu. 17 1. Trong khi đàm phán để tiến tới ký kết hợp đồng nhập khẩu. 17 2. Trong khi ký kết hợp đồng. 20 2.1. Ngày tháng và địa điểm ký kết hợp đồng. 20 2.2. Các bên tham gia hợp đồng. 21 2.3. Điều khoản đối tượng hợp đồng. 22 2.4. Điều khoản giá cả và thanh toán. 22 2.5. Điều khoản bao bì và ký mã hiệu. 22 2.6. Điều khoản cơ sở giao hàng. 23 2.7. Điều khoản giao hàng. 25 2.8. Điều khoản vận tải. 26 2.9. Điều khoản bảo hành. 26 2.10. Điều khoản bất khả kháng. 27 2.11. Điều khoản kiếu nại. 27 2.12. Điều khoản trọng tải. 27 2.13. Điều khoản luật áp dụng. 29 2.14. Điều khoản chế tài. 29 2.15. Điều khoản khác. 30 III. Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý trong khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 30 1. Đối với nghĩa vụ mà người nhập khẩu phải thực hiện theo hợp đồng. 30 1.1. Về việc mở L/C 30 1.2. Về việc chọn người xuất khẩu nước ngoài giao hàng. 31 1.3. Về việc mua bảo hiểm. 31 1.4. Về việc làm thủ tục nhập khẩu. 33 2. Đối với việc thực hiện nghĩa vụ của người xuất khẩu nước ngoài. 36 Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 37 I. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trước khi ký kết thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 37 1. Trong phương thức đàm phán gián tiếp thông qua thư từ, điện tín. 37 1.1. Về chào hàng. 39 1.2. Về chấp nhận chào hàng. 41 II. Những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro ngược kí kết hợp đồng nhập khẩu. 43 1. Về điều khoản đối tượng của hợp đồng. 44 1.1.Về tên hàng. 44 1.2. Về điều khoản quy cách phẩm chất. 45 1.3. Về điều khoản số lượng. 49 2. Về điều khoản giao hàng. 51 3. Về điều khoản thanh toán. 53 4. Về điều khoản bảo hành. 55 5. Về điều khoản bất khả kháng. 56 III. Những giải pháp hạn chế rủi ro đối với thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 56 1. Những giải pháp đối với nghĩa vụi mà người nhập khẩu thực hiện theo hợp đồng nhập khẩu. 57 2. Những giải pháp đối với việc thực hiện nghĩa vụ nhập khẩu của người xuất khẩu nước ngoài. 62 2.1. Về việc ngườ xuất khẩu giao hàng chậm. 62 2.2. Về việc giao hàng thiếu số lượng, trọng lượng. 64 2.3. Về việc giao hàng kém phẩm chất. 66 2.4.Về việc giao sai loại hàng, sai với quy định trong hợp đồng. 69 2.5. về việc người xuất khẩu lập chứng từ không phù hợp với L/C 70 IV. Một số giái pháp khác đối với các doanh nghiệp khi kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 71 Kết luận 74 Tài liệu tham khảo 76 Lời mở đầu Đứng trước tình hình quốc tế hoá và thương mại hoá nền kinh tế thế giới đồng thời thấy được vai trò quan trọng của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mà Đảng và Nhà nước ta đã ra nghị định 57/1998/NĐ - CP ngày 31/7/1998 cho phép cá nhân và thành phần kinh tế của nước ta đều được phép xuất nhập khẩu hàng hoá trong phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh việc khuyến khích đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì cần để nhập khẩu để tăng cường lực lượng sản xuất. Trước đây sự phát triển của cao của các ngành kinh tế..... là một hoạt động rất cần thiết. Đảm nhận ký kết hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi nhuận là một vấn đề được tất cả các nhà nhập khẩu quan tâm. Tuy nhiên, trong quá trình này do khoảng cách xa về không gian, sự khác biệt giữa các bên về những yếu tố như: ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp và quan trọng nhất là yếu tố quyền lợi, nên các nhà kinh doanh nhập khẩu thường gặp rủi ro, sự cố dẫn đến thiệt hại lớn. Vì vậy, với mong muốn phần nào giúp các nhà khi kinh doanh nhập khẩu tránh được những rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu, đảm bảo được mục đích kinh doanh là lợi nhuận. Tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu". Luận văn gồm 3 chương. Chương I: Hoạt động kinh doanh nhập khẩu và vấn đề quản lý rủi ro trong ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. - Chương II: Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. - Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Luận văn sẽ đi sâu phân tích các khía cạnh về mặt pháp lý cũng như nghiệp vụ khách quan tới một hợp đồng nhập khẩu nhằm đưa ra một số giải pháp hạn chế rủi ro có thể phát sinh trong quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Chương I hoạt động kinh doanh nhập khẩu và vấn đề quản lý rủi ro trong ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 1. Một số vấn đề về nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu 1.1. Quy trình nhập khẩu Bước 1: Những công việc cần phải làm trước khi giao dịch ký kết, thực hiện hợp đồng nhập khẩu 1-Nghiên cứu thị trường 2-Vấn đề lựa chọn người xuất khẩu 3-Lập phương án kinh doanh: Thông qua các bước -Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân. Phân tích những khó khăn và thuận lợi trong kinh doanh. -Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện-phương thức kinh doanh(Phải có tính thuyết phục ) -Đề ra những mục tiêu và những mục tiêu này phải có số liệu cụ thể (Hàng gì, số lượng bao nhiêu, lợi nhuận như thế nào... ) -Đề ra những biện pháp thực hiện -Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế Bước 2: Lựa chọn phương thức đàm phán để ký kết hợp đồng nhập khẩu Có thể đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc đàm phán thông qua thư từ, điện tín, telex... *Các bước giao dịch thông qua phương thức đàm phán gián tiếp: 1- Hỏi giá (Enquiry) 2- Phát giá (offer) 3- Đặt hàng (order) 4- Hoàn giá (Couter-offer) 5- Chấp nhận (Acceptance ) 6- Xác nhận(Confermation) Bước 3:Ký kết hợp đồng nhập khẩu Bước 4:Thực hiện hợp đồng nhập khẩu:Gồm các bước 1- Mở L/C ( Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C) 2- Đôn đốc người xuất khẩu giao hàng 3- Thuê tàu (Nếu hợp đồng quy định ) 4- Mua bảo hiểm 5- Làm thủ tục nhập khẩu:gồm các bước - Xin giấy phép nhập khẩu - Làm thủ tục hải quan - Nhận hàng 1.2. Hợp đồng nhập khẩu 1.2.1. Vài nét khái về hợp đồng mua bán ngoại thương nói chung và hợp đồng nhập khẩu nói riêng Khái niệm về hợp đồng mua bán ngoại thương: Hợp đồng mua bán ngoại thương trước hết là một hợp đồng mua bán, tức là “sự thoả thuận” trong đó một bên (gọi là người bán) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho bên kia (gọi là người mua) một tài sản nhất định (gọi là hàng hoá) còn người mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả một số tiền ngang bằng giá trị số hàng đã nhận “sự thoả thuận” này có thể được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng miệng. Tuy nhiên, luật pháp Việt Nam chỉ coi hình thức văn bản là hợp lệ, mọi hình thức thoả thuận bằng miệng đều bị coi là không hợp pháp và không có giá trị. Có thể nói rằng hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán có yếu tố nước ngoài. Luật pháp các nước khác nhau có cách hiểu về yếu tố nước ngoài khác nhau. Chẳng hạn theo công ước Lahay năm 1964 về hợp đồng mua bán quốc tế những động sản hữu hình thì Hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hóa dc chuyển từ nước này qua nước khác hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng được lập ra ở các nước khác nhau (điều 1 - công ước Lahay 1964) Như vậy, “yếu tố nước ngoài” hay “tính chất quốc tế” của hợp đồng mua bán ngoại thương theo công ước này bao gồm: - Chủ thể ký kết hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, và - Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được chuyển hoặc sẽ được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc - Chào hàng và chấp nhận chào hàng được thành lập ở các nước khác. Nếu các bên ký kết, không có trụ sở thương mại thì dựa vào nơi cư trú của họ. Vấn đề quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định “yếu tố nước ngoài” của hợp đồng mua bán ngoại thương. Công ước Viên của Liên hiệp quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá chỉ đưa ra một tiêu chuẩn để khẳng định “tính chất quốc tế ” của hợp đồng mua bán ngoại thương, đó là các bên ký kết có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau (Điều 1- công ước Viên năm 1980) cũng trong điều 1 này, tại điểm 3, công ước Viên nêu rõ: “Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân số hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vị áp dụng công ước này”. Qua đó ta có thể thấy rằng vấn đề quốc tịch của các bên cũng không được quan tâm khi xác định “yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán ngoại thương” Luật của Pháp xác định “tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán thương mại ” căn cứ vào hai tiêu chuẩn : Tiêu chuẩn kinh tế và tiêu chuẩn pháp lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế thì hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo ra sự di chuyển qua lại biên giới trao đổi tương ứng giữa hai nước, tức là thể hiện được quyền lợi thương mại quốc tế. Theo các tiêu chuẩn pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nói bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch của các bên, nơi thể hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán ... Còn theo luật Việt Nam, nhìn chung để được coi là hợp đồng mua bán ngoại thương, nó phải có các tiêu chuẩn: - Chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau - Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển từ nước này sang nước khác. - Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với 1 trong 2 bên. Qua phân tích ở trên có thể hiểu hợp đồng mua bán ngoại thương là tất cả các hợp đồng mau bán có tính chất quốc tế (yếu tố nước ngoài ). Tính chất này được biểu hiện: + Chủ thể ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương có trụ sở đặt tại các nước khác nhau. + Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng có thể được chuyển qua biên giới quốc gia. + Đồng tiền tính giá và thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên đương sự. - Hợp đồng nhập khẩu thực chất là hợp đồng mua bán ngoại thương. Bất cứ hợp đồng xuất-nhập khẩu nào cũng được coi là hợp đồng mua bán ngoại thương. Tuy nhiên, không phải hợp đồng mua bán ngoại thương nào cũng được coi là hợp đồng nhập khẩu. Xét về tính chất quốc tế của hợp đồng xuất-nhập khẩu khác với hợp đồng mua bán ngoại thương ở chỗ: hàng hoá là đối tượng của hợp đồng xuất-nhập khẩu nhất định phải được chuyển từ khu vực pháp lý này sang khu vực pháp lý khác. Các khu vực pháp lý phải hiểu là chịu sự điều chỉnh cũng như quy định pháp luật khác nhau. Ranh giới giữa các khu vực pháp lý có thể là biên giới quốc gia, hoặc cũng có thể là ranh giới ngăn cách giữa khu chế xuất với phần lãnh thổ còn lại của một quốc gia. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta có thể xem xét ví dụ sau đây: Một công ty A của Nhật Bản đã ký kết hợp đồng mua bán vải với công ty dệt Nam Định, Việt Nam. Hợp đồng quy định hàng hoá là đối tượng của hợp đồng này sẽ được chuyển cho công ty May Hà Nội, là công ty đã ký kết hợp đồng may gia công cho công ty A của Nhật Bản. Hợp đồng ký kết giữa công ty A của Nhật bản với công ty dệt Nam định của Việt Nam là một hợp đồng mua bán ngoại thương. Tuy nhiên, công ty A của Nhật Bản không thể coi hợp đồng này là hợp đồng nhập khẩu vì vải là đối tượng của hợp đồng không chuyển qua bất cứ một danh giới pháp lý nào, tức không chuyển vào nước Nhật và không phải làm thủ tục nhập khẩu vải. * Đặc điểm của hợp đồng nhập khẩu. Hợp đồng nhập khẩu là hợp đồng mua bán ngoại thương. Chính vì vậy tính chất quốc tế cũng là đặc điểm nổi bật nhất của hợp đồng nhập khẩu, thể hiện ở một số nội dung sau: . Hợp đồng nhập khẩu mang tính chất thương mại, tính chất kinh doanh (nghĩa là mục đích ký kết mang tính chất thương mại) . Trụ sở của hợp đồng nhập khẩu là các bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. . Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng nhập khẩu được chuyển từ khu vực pháp lý này sang khu vực pháp lý khác. Sở dĩ có khái niệm khu vực pháp lý là do sự phát triển và ngày càng mở rộng của các khu chế xuất (là các khu công nghiệp tập trung, chuyên sản xuất hàng xuất khẩu được hoạt động theo quy chế khu chế xuất tại Việt nam ). Theo quy định khu chế xuất, khu chế xuất nằm trong lãnh thổ quốc gia, song nếu hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán được di chuyển qua ranh giới pháp lý, ngăn cách khu chế xuất với phần lãnh thổ còn lại của quốc gia đó thì nó cũng được coi là biểu hiện tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán, với một bên là chủ thể trong nước và một bên kia là các xí nghiệp của khu chế xuất. . Tiền tệ để dùng thanh toán giữa bên mua và bên bán có thể là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên. . Luật điều chỉnh hợp đồng (luật áp dụng cho hợp đồng mang tính chất đa dạng và phức tạp). Khác với hợp đồng mua bán trong nước chỉ phải chịu sự điều chỉnh hợp đồng của luật pháp nước đó, hợp đồng nhập khẩu có thể áp dụng cả luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc điều ước quốc tế. . Tranh chấp phát sinh xung quanh việc ký kết và thực hiện hợp đồng có thể do toà án của một nước hoặc do toà án quốc tế xét xử 1.2.2 Nội dung của hợp đồng nhập khẩu Nói chung nội dung của hợp đồng nhập khẩu thường có các mục sau: - Về ngày tháng và địa điểm ký kết hợp đồng - Về các bên tham gia hợp đồng - Về các điều khoản đối tượng của hợp đồng - Về điều khoản bao bì và ký mã hiệu - Về điều khoản điều kiện giao hàng - Về điều khoản giá cả - Về điều khoản giao hàng - Về điều khoản vận tải - Về điều khoản thanh toán - Về điều khoản bảo hành - Về điều khoản quy định trường hợp miễn trách - Về điều khoản khiếu nại - Về điều khoản trọng tài - Về điều khoản chế tài Hợp đồng nhập khẩu có hình thức như sau: Hợp đồng Số:............... Ngày... tháng... năm... Giữa: Địa chỉ: Điện tín: Telex: Dưới đây gọi tắt là: “người bán ” Điện thoại: Fax: Và: Địa chỉ: Điện tín: Telex: Dưới đây gọi tắt là: ”Người mua “ Điện thoại: Fax: Đã thoả thuận ký kết hợp đồng với những điều kiện dưới đây: (Hợp đồng nhập khẩu có thể dài ngắn khác nhau tuỳ thuộc vào số điều kiện thoả thuận nhiều hay ít giữa hai bên). Thông thường hợp đồng nhập khẩu có những khoản mục sau: 1. Tên hàng 2. Số lượng 3. Chất lượng 4. Bao bì và ký mã hiệu 5. Giao hàng 6. Điều kiện cơ sở giao hàng 7. Thanh toán 8. Bảo hành 9. Khiếu nại 10. Trọng tài 11. Trường hợp bất khả kháng 12. Chế tài Hợp đồng có hiệu lực từ: Làm tại Ngày... tháng... năm... Hợp đồng làm thành... bản gốc bằng tiếng... mỗi bên giữ... bản. Người bán Ngươì mua 1.2.3. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng nhập khẩu Khi ký kết hợp đồng nhập khẩu, người nhập khẩu cần nẵm được những quy định của pháp luật về điều kiện hiệu lực của hợp đồng nhập khẩu. Một hợp đồng nhập khẩu muốn có hiệu lực phải thoả mãn 4 điều kiện đó là: - Chủ thể của hợp đồng phải hợp pháp: Chủ thể của hợp đồng phải hợp pháp có nghĩa là các doanh nghiệp (công ty, hãng... ) phải được thành lập một cách hợp pháp và có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp Việt Nam muốn được ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu thì phải có giấy phép xuất nhập khẩu. Nếu không có giấy phép xuất nhập khẩu mà ký kết với doanh nghiệp nước ngoài thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực. Chủ thể là doanh nghiệp nước ngoài cũng phải hợp pháp. Nếu không may ký kết với doanh nghiệp nước ngoài, sau đó mới phát hiện doanh nghiệp này không phải là chủ thể hợp pháp thì cần phải tuyên bố hợp đồng vô hiệu để khỏi phải thực hiện hợp đồng. Bởi vì nếu vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng có khi sẽ bị thiệt hại và có đòi được tiền thì cũng mất rất nhiều thời gian và chi phí. - Hình thức của hợp đồng nhập khẩu phải hợp pháp Tuỳ theo luật pháp của các nước quy định hình thức của hợp đồng có thể bằng miệng, bằng văn bản, hoặc bằng bất kỳ hình thức nào khác hay hình thức của hợp đồng bắt buộc phải được lập thành văn bản. Công ước Viên 1980 trong điều 11 có quy định rằng:Hợp đồng mua bán ngoại thương có thể được ký kết bằng miệng và không phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào khác về mặt hình thức của hợp đồng, nhưng ở điều 96 thì lại cho phép các quốc gia bảo lưu không áp dụng điều 11 nếu luật pháp quốc gia quy định hình thức mua bán bằng văn bản là bắt buộc đối với hợp đồng mua bán ngoại thương. Luật pháp Việt Nam quy định, hợp đồng mua bán ngoại thương phải được ký kết bằng văn bản mới có hiệu lực. Ngoài ra nó còn quy định cụ thể thêm rằng: mọi sửa đổi, bổ xung mua bán hợp đồng ngoại thương cũng phải được làm bằng văn bản (thư từ, điện tín, fax, telex) cũng được coi là văn bản. Mọi hình thức thoả thuận bằng miệng đều được coi là không hợp pháp và không có giá trị. Vì vậy, khi ký kết một hợp đồng nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhất thiết ký kết hợp đồng bằng văn bản, nếu không hợp đồng đó được coi là không hợp pháp và người nhập khẩu sẽ phải gánh chịu những rủi ro pháp lý phát sinh. - Nội dung của hợp đồng nhập khẩu phải hợp pháp. Thứ nhất, nội dung của hợp đồng hợp pháp khi hợp đồng có đủ các điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Luật pháp mỗi nước quy định một khắc và các điều khoản chủ yếu của hợp đồng nhập khẩu. Luật pháp Việt Nam quy định rằng điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán ngoại thương gồm có các điều khoản tên hàng, số lượng, quy cách phẩm chất, thời hạn và địa điểm giao hàng, giá cả và điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán. Thứ hai, để cho nội dung của hợp đồng nhập khẩu hợp pháp thì đối tượng của hợp đồng phải hợp pháp. Vì vậy người nhập chủ yếu chỉ ký kết những hợp đồng nhập khẩu những mặt hàng không thuộc diện cấm nhập khảu của nước mình, cũng như không thuộc diện cấm xuất khẩu của nước người xuất khẩu. Nếu ký hợp đồng nhập khẩu một mặt hàng được phép nhập khẩu của nước mình nhưng thuộc diện cấm xuâts khẩu của nước người xuất khẩu (và ngược lại)thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực. Từ đó, người nhập khẩu phải thường xuyên theo dõi danh mục hàng cấm xuất nhập khẩu để tránh ký kết các hợp đồng nhập khẩu các mặt hàng này. - Hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện cho phép các bên hoàn toàn tự do thoả thuận về những vấn đề liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các bên trong khuôn khổ pháp luật. Theo nguyên tắc này, tất cả các hợp đồng được ký trên cơ sở dùng bạo lực, do bị đe doạ, bị lừa bịp hoắc do có sự nhầm lẫn đều được coi là vô hiệu. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng, người nhập khẩu không thể dùng ưu thế của mình để đe doạ người xuất khẩu hay không dùng thủ đoạn lừa bịp người xuất khẩu và ngược lại, người nhập khẩu cũng cần phải chú ý không để tình trạng đó diễn ra đối với mình. Việc ký kết như thế sẽ làm cho hợp đồng không có hiệu lực. Và nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng như thế sẽ có thể bị thiệt hại lớn. 1.2.4. Các chứng từ thường sử dụng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. - Hoá đơn thương mại - Vận đơn đường biển - Chứng từ bảo hiểm - Giấy chứng nhận phẩm chất - Giấy chứng nhận số lượng - Giấy chứng nhận xuất sứ - Giấy chứng nhận kiểm dịch và giấy chứng nhận vệ sinh - Phiếu đóng gói Ngoài ra còn có: Biên bản giám định dưới tàu, biên bản giám định kết toán nhận hàng với tàu, biên bản hàng đổ vỡ, giấy chứng nhận hàng thiếu, thư dự kháng, biên bản giám định trong lượng - số lượng trong các bao kiện, kháng nghị hàng hải, biên bản giám định tổn thất chung... 2. Vai trò quản lý rủi ro trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu Vấn đề quản lý rủi ro trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công của thương vụ, của doanh nghiệp nói riêng và sự ổn định và phát triển của nền kinh tế nói chung. Đối với các doanh nghiệp việc quản lý rủi ro trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng trước hết làm cho thương vụ thành công tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp, nâng cao uy tín trong thương trường, điều đó cũng đồng nghĩa với việc mở rộng các mối quan hệ kinh doanh... Mối quan hệ của các doanh nghiệp luôn được thể hiện bằng những hợp đồng. Việc hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp có thể phát sinh khi đàm phán ký kết hợp đồng đảm bảo cho thương vụ thành công là điều cần thiết phải làm. Chương ii Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu i. Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý trước khi ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 1. Trong quá trình nghiên cứu thị trường Chuẩn bị ký kết hợp đồng nhập khẩu là một vấn đề quan trọng cán các doanh nghiệp để có thể thành công với hợp đồng nhập khẩu của mình. trước hết ngươi nhập khẩu phải nghiên cứu kỹ tình hình thị trường trong nước. Nếu nghiên cứu kỹ sẽ ảnh hưởng tốt đến hợp đồng nhập khẩu, còn ngược lại nó sẽ gây ra những rủi ro cho các nhà nhập khẩu. Ví dụ như nhập khẩu mặt hàng bị cấm nhập khẩu. Bên cạnh đó người nhập khẩu cũng phải nghiên cứu kỹ nước xuất khẩu để có thể tránh được những ruỉ ro ảnh hưởng đến hiệu quả của hợp đồng nhập khẩu. Người nhập khẩu phải xem xét mặt hàng đó có được bảna khỏi nước xuất khẩu hay không. mặt khác, loại hàng của nước xuất khẩu có đáp ứng được thị hiếu, công dụng mà thị trường nước mình đang cần hay không. Hơn nữa người xuất khẩu phải tìm hiểu giá cả của hàng hoá đó so với giá cả của các hàng hoá cùng loại ở các nước khác có phải là giá cả cạnh tranh hay không. Có nghiên cứu kỹ như vậy thì mới có thể tránh khỏi được những sơ suất khi đàm phán ký kết hợp đồng, nhằm hạn chế những thiệt hại có thể phát sinh sau này. 2. Trong việc lựa chọn người xuất khẩu Nghiên cứu thị trường là vấn đề quan trọng và cần thiết, tuy nhiên kết quả của thương vụ còn phụ thuộc nhiều vào bạn hàng của mình. Lựa chọn người xuất khẩu không phải là vấn đề đơn giản. Rất nhièu trường hợp các nhà nhập khẩu gặp phải nhiều rủi ro do không chú ý lựa chọn người xuất khẩu, những rủi ro này có thể phát sinh từ những vấn đề sau: - Vấn đề về tư cánh pháp lý của người xuất khẩu: Người xuất khẩu nước ngoài có thể là thương nhân cá thể hay thương nhân tập thể (pháp nhân ). Thương nhân cá thể: thường tồn tại dưới hình thức hãng buôn hoặc công ty gồm một thành viên. Khi xem xét tư cách pháp lý của thương nhan này, điều quan trọng là phải kiểm tra xem thương nhân này có được thành lập hợp pháp, có đăng ký kinh doanh hay không. Thương nhân tập thể (pháp nhân ): Là một tổ chức được thành lập theo pháp luật và được dùng danh nghĩa của mình tham gia độc lập các quan hệ pháp luật. Một tổ chức muốn thừa nhận là pháp nhan phải có 4 điều kiện: - Phải có tài sản riêng - Phải là tổ chức được thành lập hợp pháp - Phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. - Phải dùng danh nghĩa riêng của mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Việc xác định tư cách pháp lý của người xuất khẩu nước ngoài đóng vai trò quan trọng vào thành công của thương vụ. Nếu việc này không thực hiện tốt sẽ ây ra những rủi ro như là người xuất khẩu nước ngoài không đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý thì hợp đồng được ký kết sẽ không có hiệu lực và người nhập khẩu sẽ rất khó giải quyết khi có tranh chấp sảy ra. Ngoài ra, do không tìm hiểu kỹ người xuất khẩu người nhập khẩu sẽ có thể ký kết hợp đồng với những công ty "Ma" và do đó khó tránh khỏi những thiệt hại phát sinh sau này. -Về uy tín của người xuất khẩu nước ngoài: Uy tín của một doanh nghiệp thể hiện thái độ kinh doanh của doanh nhgiệp đó trên trường. Nó được xác định một phần dựa trên mối quan hệ xã hội của chính doanh nhgiệp đó. Một doanh nghiệp có quan hệ rộng rãi, được bạn hàng tin cậy là có uy tín trong kinh doanh. Giao dịch với một doanh nghiệp có uy tín, người nhập khẩu có thể yên tâm không bị lừa đảo hay gian lận trong quá trình kinh doanh. Người nhập khẩu nếu không lựa chọn người xuất khẩu có uy tín có thể dẫn đến bị lừa. Tuy nhiên sự tin cậy vào bạn hàng cũng chỉ nên tương đối vì không loại trừ trường hợp do bức bách, không có lối thoát mà một bạn hàng tin cậy, có uy tín đột nhiên bội tín. - Về lĩnh vực kinh doanh, vốn và cơ sở sản xuất của người xuất khẩu nước ngoài: Những vấn đề này cần được xác định vì có thể do ttrường hợp người xuất khẩu thiếu vốn để giao hàng hay không có khả năng giao hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng do hàng hoá không thuộc lĩnh vực kinh doanh của người xuất khẩu làm cho người nhập khẩu bị lỡ cơ hội kinh doanh. Khi xác định khả năng tài chính của nhà xuất khẩu, người nhập nên xem xét cả tài khoản của người xuất khẩu tại ngân hàng thường giao dịch và tài sản riêng của người xuất khẩu. Điều này là cần thiết vì không ít truòng hợp người xuất khẩu có tài khoản trong ngân hàng nhưng khả năng thanh toán không đáng kể, người nhập khẩu không xem xét kỹ sẽ gặp phải những rủi ro khi tranh chấp phát sinh. - Về hình thức tổ chức công ty của người xuất khẩu nước ngoài. Trong trường hợp người xuất khẩu nước ngoài là một công ty, có một vấn đề mà người nhập khẩu cần chú ý là hình thức pháp lý của công ty đó. Nếu xác định được điều này, người nhập khẩu sẽ biết được người chịu trách nhiệm chính đối với những nghĩa vụ của công ty, mức độ chịu trách nhiệm của các thành viên đối với các khoản nợ của công ty đi đến đâu. Chẳng hạn, nếu là một công ty trách nhiệm vô hạn thì khi toàn bộ tài sản của công ty trang trải không hết nợ thì các chủ nợ có quyền đòi trả nợ từ tài sản của các thành viên trong công ty.... Ngoài ra do sự qui định khắc nhau của pháp luật các nước về hình thức pháp lý của công ty, việc nghiên cứu hình thức pháp lý của công ty, cũng giúp người nhập khẩu tránh được các công ty “ma” là những công ty có thể được thành lập hợp pháp nhưng không có mục đích kinh doanh... Có thể nói, chọn được người xuất khẩu tin cậy, mạnh về tài chính, có khẳ năng cung cấp hàng lớn, có uy tín kinh doanh trên thương trường là bước đầu đảm bảo cho việc nhập khẩu có thể thành công, đật được hiệu quả cao. Khi lựa chọn người xuất khẩu, người nhập khẩu không nên chỉ xác định vào lời quảng cáo, tự giới thiệu của người xuất khẩu. Người nhập khẩu có thể thông qua sách báo, người thứ ba như phòng thương mại, các sứ quán, lãnh sự quán, dịch vụ cung cấp thông tin hay thông qua các thương nhân khác để tìm hiểu, thu thập thông tin cần thiết về người xuất khẩu nước ngoài. Phương pháp này mang lại cho người nhập khẩu những thông tin thực tế, chính xác, tuy nhiên sử dụng phương pháp này rất tốn kém về thừi gian và tiền bạc. Hiện nay do các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu thường có văn phòng đại diện ở nước ngoài, khoảng cách giữa người bán và người mua được rút ngắn lại, do đó việc tìm hiểu và lựa chọn người xuất khẩu thuận lợi và có hiệu quả hơn rất nhiều. II. Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý trong khi đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu. 1. Trong khi đàm phán để tiến tới ký kết hợp đồng nhập khẩu Đàm phán, ký kết hợp đồng là quá trình trao đổi ý kiến để đi đến thống nhất về những nội dung trong kinh doanh như phương thức giao dịch, điều kiện giao dịch... Do giao dịch ngoại thương được tiến hành giữa các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại các quốc gia khác nhau, nên khi tiến hành đàm phán các nhà đàm phán thường gặp phải một số khó khăn nhất định, những khó khăn này nếu không khắc phục sẽ gây ra những rủi ro cho doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải chú ý đến những khó khăn sau: - Sự khác biệt về luận pháp và chính sách giữa các nước: Mỗi quốc gia đều có một hệ thống luật pháp riêng biệt để điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại thương nói chung và hợp đồng nhập khẩu nói riêng. Mỗi hệ thống luật pháp lại có những đặc điểm riêng biệt, có thể là cùng một vấn đề nhưng luật pháp mỗi nước có cách giải thích khác nhau. Sự thay đổi về luật pháp và chính sách có thể gây cho những nhà kinh doanh nhập khẩu những tình huống bất lợi. Chẳng hạn khi các bên đàm phán xong, đã ký hợp đồng, luật pháp nước người xuất khẩu lại đưa ra chính sách cấp xuất khẩu mặt hàng đó làm cho người xuất khẩu không thể giao hàng được gây lãng phí tiền bạc và thời gian cho cả hai bên. - Khó khăn trong việc thu thập thông tin: Do điều kiện khoảng cách không gian giữa các bên đàm phán, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu ở rất xa nhau nên các bên thường gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin chính xác. Có nhiều trường hợp do thiếu hoặc sai lệch thông tin, các nhà kinh doanh đã vấp phải những công ty “Ma “, những công ty đang gặp khó khăn về tài chính... Tuy nhiên, hiện nay vấn đề thu thập thông tin đã trở nên bớt nan giải do được sự trợ giúp của hệ thống thông tin liên lạc ngày càng hiện đại. - Sự biến động đột xuất của tình hình thị trường: Sự biến động đột xuất của thị trường đôi khi cũng gây ra những tình huống bất ngờ, ngoài ý muốn chủ quan của các bên. Chẳng hạn do thời tiết thay đổi bất thường đưa người xuất khẩu nước ngoài không gom đủ số hàng cần giao, và gây cho người nhập khẩu những thiệt hại phát sinh do hợp đồng không được thực hiện. - Sự khác nhau giữa các bên về văn hoá và ngôn ngữ: Yếu tố văn hoá truyền thống và hiện tại ảnh hưởng rất lớn đến việc nhận thức, hành vi và cách cư xử của mỗi người. Sự khác biệt về văn hoá ứng xử cũng là sự ngăn trở đối với các bên. Trong thương mại quốc tế, ngôn ngữ chung được sử dụng nhiều nhất là tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy nhiên tất cả các nhà kinh doanh không phải đều sử dụng thành thạo ntoại ngữ, nhất là ngôn ngữ thương mại và luật pháp nên ngôn ngữ cũng là một nguyên nhân gây cho các nhà kinh doanh hiểu không chính xác nội dung giao dịch. - Sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa các bên: Lợi ích của mỗi bên ký kết hợp đồng thường khác biệt nhau, có khi lợi ích của bên này lại là lợi ích của bên kia và ngược lại. Đã có những trường hợp đàm phán, ký kết một bên đưa đối phương vào tình thế quá bất lợi nên khi thực hiện hợp đồng đối phương đã vi phạm cam kết của mình để đạt được quyền lợi. Do có những khó khăn như vậy, bước vào đàm phán, người nhập khẩu nên có sự chuẩn bị kỹ càng. Người nhập khẩu cũng phải nên tìm hiểu rõ đối phương cũng như cá nhân người đại diện cho đối phương. Người nhập khẩu cần phải chuẩn bị cho mình phương án, mục đích cho mỗi đợt đàm phán để không lúng túng trước những đề nghị bất ngờ của đối phương, và đạt được kết quả đàm phán như mong muốn. Nếu người nhập khẩu biết khai thác sử dụng những khác biệt về văn hoá, về quyền lợi... của hai bên để phục vụ cho đàm phán, thì việc đàm phán kinh doanh sẽ đạt hiệu quả cao hơn. * Phương thức đàm phán a- Phương thức đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp Phương thức đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp ( còn gọi là đàm phán trực tiếp) là phương thức đàm phán mà các bên gặp gỡ nhau trực tiếp để trao đổi các vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Phương thức này đậưc biệt quan trọng vì nó rút ngắn được thời gian giao dịch, giúp các bên có thể giải quyết cặn kẽ về các điều khoản giao dịch để đi đến thống nhất các điều khoản của hợp đồng, tạo cơ sở cho việc ký kết hợp đồng. Tuy nhiên do khoảng cách không gian giữa các bên ký kết hợp đồng xuất-nhập khẩu thường xa nhau nên việc đàm phán trực tiếp không phải bao giờ cũng giúp cho giao dịch đạt hiệu quả cao. Hơn nữa phương pháp đàm phán này đòi hỏi chi phí rất tốn kém, thủ tục rườm rà và đôi khi doanh nghiệp chỉ sử dụng phương pháp này đối với những hợp đồng có giá trị lớn, tính chất phức tạp. Trong phương thức này, thời diểm các bên hoàn toàn thống nhất với nhau về các vấn đề đã nêu ra trong quá trình đàm phán và cùng nhau ký vào bản dự thảo hợp đồng được coi là thời điểm ký kết hợp đồng. Ngày và nơi ký kết hợp đồng cũng sẽ được xác định theo ngày và nơi các bên cùng ký vào hợp đồng đó. b- Phương thức đàm phán thông qua thư từ, điện tín, telex.... Phương thức đàm phán thông qua thư từ, điện tín, telex ( còn gọi là phương pháp đàm phán gián tiếp) là phương thức đàm phán mà trong đó các vấn đề liên quan tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng được các bên thoả thuận thông qua việc trao đổi bằng thư từ, điện tín, telex... Phương thức đàm phán này hay sử dụng rộng rãi trong mua bán quốc tế bởi nó khắc phục được một số nhược điểm của phương pháp đàm phán trực tiếp. Phương pháp này cho phép các bên có thể đàm phán mà không phải gặp gỡ trực tiếp do đó có thể giảm bớt được chi phí đàm phán, nó còn giúp các bên có thời gian nghiên cứu kỹ những điều kiện của nhau. Tuy nhiên đây cũng là nhược điểm của phương pháp này, vì các bên phải mất mhiều thời gian chờ đợi mà có thể bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh. 2. Những vấn đề cần chú ý trong khi ký kết hợp đồng nhập khẩu Nội dung cơ bản của hợp đồng nhập khẩu là những điều kiện mua bán, mà bên mua (bên nhập khẩu) thoả thuận với bên bán (bên xuất khẩu). Để thương thảo hợp đồng được tốt, cần nắm vững các điều kiện thương mại quốc tế, chỉ một sự mơ hồ hoặc thiếu chính xác nào đó trong viẹc vận dụng điều kiện thương mại là có thể mang lại sự bất lợi cho doanh nghiệp của mình, dẫn tới các vụ tranh chấp, kiện tụng làm tăng chi phí trong kinh doanh. Do vậy để ký kết hợp đồng nhập khẩu mà đạt được thoả thuận về nội dung hợp đồng nhập khẩu như mong muốn quả là thành công của các nhà nhập khẩu. Khi đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu cần phải chú ý tới một số vấn đề sau như: Về ngày tháng và địa điểm ký kết hợp đồng, về các bên tham gia hợp đồng, về điều khoản đối tượng của hợp đồng, về điều khoản bao bì và ký mã hiệu, về điều khoản cơ sở giao hàng... Việc chú ý tới các vấn đề đó nhằm xây dựng một nội dung hoàn chỉnh, rõ ràng, nhằm xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, đồng thời cũng có thể giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh sau naỳ. 2.1 Ngày tháng và địa điểm ký kết hợp đồng Nếu hợp đồng được ký kết thông qua phương thức đàm phán gặp gỡ trực tiếp thì điều khoản này phải được xác định rõ ràng để tránh những rắc rối nảy sinh sau này đối với những vấn đề liên quan tới thời điểm ký kết hợp đồng. Nếu hợp đồng được ký kết thông qua thư từ, điện tín, telex, fax... , người nhập khẩu cũng cần phải chú ý tới ngày tháng và địa điểm ký kết hợp đồng, vì đó là cơ sở để xác định nhiều yếu tố khác có liên quan như giá cả hàng hoá, thời hạn giao hàng, thời hạn thanh toán hoặc mở L/C, luật áp dụng, thẩm quyền của cơ quan xét xử tranh chấp... Việc xác định hai yếu tố ngày tháng và địa điểm ký kết hợp đồng trong phương thức đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp là rất đơn giản. Song trong phương thức đàm phán gián tiếp, việc xác định hai yếu tố này lại là một việc hoàn toàn không đơn giản. Trong tập quán thương mại quốc tế hiện nay tồn tại hai thuyết mà dựa vào đó người ta xác định thời gian và địa diểm ký kết hợp đồng. Đó là thuyết Tống phát và thuyết Tiếp thu. Theo thuyết Tống phát, ngày và nơi ký kết hợp đồng là ngày và nơi mà người được chào hàng gửi đi thư chấp nhận chào hàng vô điều kiện Anh, Mỹ, Thuỵ Sỹ, Nhật là những nước theo thuyết này. Theo thuyết Tiếp thu, ngày và nơi hợp đồng được ký kết là ngày và nơi mà người chào hàng nhận được thư chấp nhận chào hàng vô điều kiện từ người được chào hàng. Các nước theo thuyết này là Pháp, áo, Đức. Theo tập quán, các doanh nghiệp Việt Nam thường áp dụng thuyết Tiếp thu, do vậy khi giao dịch với bạn hàng ở các nước Anh, Mỹ, Thuỵ Sỹ, Nhật, doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam cần phải đặc biệt lưu ý tới sự khác biệt này để tranh sự nhầm lẫn (có thể do vô tình hay cố ý ) về thời điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng gây ra những tranh chấp không đáng có. 2.2 Về các bên tham gia hợp đồng: Chủ thể của hợp đồng nhập khẩu phải được ghi rõ ràng như là một điều khoản không thể thiếu được. Một hợp đồng nếu thiếu điều khoản này sẽ được coi là vô hiệu vì không thể xác định được chủ thể của hợp đồng. ở điều khoản này người nhập khẩu cần chú ý tới những vấn đề sau: - Ghi đúng tên, địa chỉ, quốc tịch của các bên chủ thể hợp đồng (chú ý ghi nguyên văn, không dịch tên của các chủ thể ). Ngoài ra ghi thêm số điện thoại, số telex, số tài khoản... vì đây là những vấn đề có liên quan tới việc liên lạc, thông báo, giải quyết tranh chấp sau này. - Ghi rõ họ tên, chức vụ người đại diện các bên để dễ dàng cho việc xác định them quyền của người đại diện ký kết hựp đồng. 3. Về điều khoản đối tượng của hợp đồng Trong khi quy định nếu ta không quy định cụ thể, chính xác thì rất rễ phát sinh những rủi ro. Đối tượng của hợp đồng có thể là hàng đặc định hoạc hàng đồng loại. Hàng đặc định (specific goods) là hàng có những dấu hiệu đặc biệt làm cho người ta có thể phân biệt nó với hàng hoá khác. Thường tại thời điểm ký kết hợp đồng, người nhập khẩu đã xem xét và chấp nhận toàn bộ lô hàng đó nhưng chưa nhận hàng. Hàng đồng loại (generic goods) là những hàng hoá được xác định theo đơn vị đo lường (đơn vị trọng lượng, thể tích, dung tích... )như hàng lương thực, nguyên liệu... Nhóm điều khoản đối tượng của hợp đồng thường bao gồm các điều khoản về tên hàng, qui cách, phẩm chất, số lượng, trọng lượng. Đây là nhóm điều khoản nói nên yêu cầu đối với hàng hoá là đối tượng của hợp đồng. 2.4 Về điều khoản thanh toán Đây là điều khoản quan trọng của hợp đồng nhập khẩu và cũng rất rễ gây ra những rủi ro. Những rủi ro có thể phát sinh từ điều khoản này đó là việc quy định phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán và địa điển thanh toán. Đặc biệt ở đây yêu cầu cần chú ý đến phương thức thanh toán, tuỳ theo tình hình cụ thể, bạn hàng mà lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp. 2.5 Về điều khoản bao bì và ký mã hiệu Đối với điều khoản bao bì, người nhập khẩu nên chú ý tới các vấn đề: Chất lượng bao bì, phương thức cung cấp bao bì, giá cả bao bì, các quy định vè bao bì. Nếu hàng hoá giao có bao bì, người nhập khẩu phải quy định ký mã hiệu thích hựp để cá biệt hoá hàng hoá và thuận lợi cho việc giao nhận, chuyên chở, bảo quản và chuyển tải hàng hoá. Ký mã hiệu phải dễ thấy, không tác động đến phẩm chất hàng hoá, thống nhất, ngắn gọn trên các kiện hàng, không phai màu và không dễ thấm nước. Nội dung của ký mã hiệu phải đáp ứng được các yêu cầu: - Đủ những dấu hiệu cần thiết cho người nhận hàng: Tên người nhận, tên người gửi, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, số hợp đồng, số hiệu chuyến hàng... - Đủ những chi tiết cần thiết cho việc vận chuyển hàng hoá: tên nước và địa điểm hàng đi, tên nước và địa điểm hàng đến, tên tàu, số vận đơn. - Đủ những dấu hiệu hướng dẫn cách xếp đặt, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá trên đường vận chuyển như:dỡ vỡ, mở ở chỗ nào, không lật ngược được... Quy định điều khoản này chặt chẽ, nếu hàng bị hư hại, hao hụt hoặc giao nhầm lẫn do lỗi của bao bì hoặc kẻ ký mã hiệu, người nhập khẩu có quyền đòi người xuất khẩu bồi thường. 2.6 Về điều kiện cơ sở giao hàng: Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc giao nhận giữa bên bán và bên mua. Những cơ sở đó là: - Sự phân chia giữa người bán và người mua trong việc giao nhận hàng, thuê phương tiện vận tải, bốc hàng, dỡ hàng, mua bảo hiểm, làm thủ tục hải quan, nộp thuế xuất nhập khẩu... ) - Sự phân chia giữa hai bên các chi phí trong việc giao nhận hàng (chi phí vận tải, bốc hàng, dỡ hàng, lưu kho, bảo hiểm, thuế... ) - Thời điểm chuyển rủi ro hàng hoá từ người bán sang người mua. Để diễn đạt các nội dung trên, quá trình buôn bán quốc tế đã làm nảy sinh một số thuật ngữ nhất định như: giao tại xưởng(EXW), giao trên boong tàu (FOB), tiền hàng + cước phí + bảo hiểm (CIF)... Có nhiều cách giải thích các thuật ngữ trên, nhưng cách giải thích được nhiều người áp dụng hơn cả là “Quy tắc quốc tế giải thích các điều kiện thương mại - Incoterms do phòng thương mại đưa ra năm 1936 và đã được sửa đổi 5 lần (bản sửa đổi gần đây nhất là Incoterms 2000). Khi áp dụng Incoterms người nhập khẩu cần chú ý tới 4 điểm sau: - Incoterms không có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng xuất nhập khẩu. Nó chỉ có giá trị bổ xung cho hợp đồng. Do vậy nó chỉ được áp dụng khi các bên dẫn chiếu đến trong hợp đồng. - Phải quy định rõ ràng theo Incoterms nào (vì có rất nhiều bản Incoterms) - Incoterms chỉ có giá trị tuỳ ý, nên ngay cả khi hợp đồng đã dẫn chiếu tới Incoterms, các bên vẫn có thể thoả thuận với nhau để thay đổi một số nội dung cụ thể nào đó. Việc quy định về điều kiện cơ sở giao hàng, có một đặc điểm nữa mà người nhập khẩu cần chú ý, đó là khi hàng hoá đang trong Container thì có sử dụng điều kiện FOB, CIF (Incoterms 2000)được hay không, trong khi trong thực tế nhiều hợp đồng ký như vậy. FOB và CIF là hai điều kiện cơ sở giao hàng thông dụng. Khi áp dụng hai điều kiện này thời điểm di chuyển rủi do về hàng hoá từ người bán sang người mua là khi hàng qua khỏi lan can tàu tại cảng bố hàng. Trong khi đó, việc giao nhận hàng hoá đóng trong container được tiến hành theo hai phương pháp: Phương pháp 1: Nếu giao hàng nguyên (Full container load - FCL), người gửi hàng giao nguyên một hay nhiều container đã niêm phong kẹp chì cho hãng vận tải tại bãi container (Container yard - CY) do hai bên thảo thuận ở nơi gửi hàng. Người vận tải sẽ vận chuyển các container đó và giao cho người vận CY ở nơi đến trong tình trạng container còn nguyên cặp chì. Phương pháp 2:Nếu là giao hàng lẻ (Less than Container load - LCL), chủ hàng lẻ sẽ giao hàng của mình cho người vận tải tại trạm giao nhận, đóng gói container (Container Freight Station - CFS). Người vận tải sẽ đóng gói lô hàng lẻ vào containerrooif niêm phong cặp chì vận chuyển đến nơi đến. Tại nơi đến, người vận tải đưa container về CFS < dỡ hàng và giao cho người nhận. Như vậy, diểm giao hàng khi chuyên chở hàng hoá bằng containerlaf CY hoặc CFS. Tại đây, người vận tải hàng nhận hàng và cấp chứng từ thì người bán hết trách nhiệm và hàng được coi là đã giao cho người mua. Do đó nếu sử dụng điều kiện FOB và CIF thì rủi ro về hàng hoá đã chuyển từ người xuất khẩu sang người nhập khẩu khi người vận tải nhận hàng ở CY hoặc CFS. Và nếu tổn thất hàng hoá xảy ra trên quãng đường từ CY hay CFS đến lan can tàu thuộc rủi ro được bảo hiểm, người nhập khẩu vẫn không được bồi thường vì tại điểm tổn thất người nhập khẩu vẫn chưa có quyền lợi bảo hiểm. Điều này có thể tránh được nếu người nhập khẩu sử dụng FCA(Free Carrier) hay CIF (Cots and insurance paid to) và CFR. Tương tự như vậy đối với hai điều khoản CPT(Carriage paid to) và CFR (Cost and Freight). Như vậy khi người nhập khẩu hàng hoá trong container, người nhập khẩu nên ký các hợp đồng theo các điều kiện FCA, CIP, CPT thay vì FOB, CIF, hay CFR. Thông thường, người ta không đưa điều kiện giao hàng thành một điều khoản riêng trong hợp đồng mà ghép chung vơí điều khoản giá cả. Và đây là một điều khoản không thể thiếu được trong hợp đồng xuất nhập khẩu. 2.7 Về điều khoản giá cả: Điều khoản giá cả là mội điều khoản đặc biệt trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Khi ký kết hợp đồng nhập khẩu, về điều khoản giá cả, người nhập khẩu cần nêu rõ cả đơn giá và tổng trị giá hàng hoá, ghi rõ điều kiện cơ sở giao hàng liên quan tới giá đó, đồng tiền tính giá... Theo nguyên tắc thì các bên trong hợp đồng có thể thoả thuận chọn bất cứ một đồng tiền nào làm đồng tiền tính giá. Người nhập khẩu thường muốn xác định giá cả bằng đồng tiền đang có xu hướng mất giá:bởi nếu sau khi mức giá hàng đã được xác định, đồng tiền mới mất giá thì họ mới có lợi. Tuy nhiên trên thực tế, việc lựa chọn đồng tiền tính giá phụ thuộc vào người có uy thế hơn trên thị trường. Do trên thế giới, rất nhiều nước có tên đơn vị tiền tệ giống nhau như Mỹ, Hồng Kông, Singapore đều có đơn vị tiền tệ là Dola, Pháp, Thuỵ sỹ có đơn vị tiền tệ là Frăng, người nhập khẩu cần xác định chính xác tên gọi của đồng tiền như: Đola Mỹ, Đola Hồng Kông, Frăng Pháp, Frăng Hồng Kông, Frăng Thuỵ Sỹ... Người nhập khẩu cũng nên dự đoán xu hướng biến động của đồng tiền tính giá để có biện pháp bảo đảm giá cả, tránh thiệt hại. Giá cả là yếu tố quan trọng trong việc quyết định thành công của một giao dịch. Khi xác định giá cả của hàng hoá, người nhập khẩu nhất thiết phải nắm được mức giá chung của thế giới, xu hướng biến động của giá cả, và các chi phí cấu thành nên giá hàng (chẳng hạn như giá cả hàng hoá đã tính tới chi phí vận tải, chi phí bao bì... ). Có như vậy người nhập khẩu mới tìm ra giải pháp tránh những thiệt hại do sự biến động của giá cả gây nên. 2.8 Về điều khoản về giao hàng: Nội dung cơ bản của điều khoản giao hàng là xác định thời hạn và địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và việc thông báo giao hàng. Nói chung điều khoản giao hàng liên quan chặt chẽ tới việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Điều khoản này phải được quy định rõ trong hợp đồng để hạn chế các tranh chấp sau này. 2.9 Về điều khoản vận tải: Khi nhập khẩu theo điều kiện CIF hoặc FCR cảng Việt Nam, do không có quyền thuê tàu nên người nhập khẩu thường gặp những rủi ro do không quy định thêm về tàu biển. Thực tế, trên thị trường người xuất khẩu nhiều khi muốn giảm chi phí bằng cách thuê tàu có giá cước rẻ, thường là tàu già. Để ngăn cản việc làm đó, người nhập khẩu có thể quy định trong hợp đồng như: ”Tàu dưới 15 tuổi, được đăng kiểm vào loại A... ”Một số nhà nhập khẩu do không tính đến khả năng như vậy nên đã không quy định điều khoản về tàu. Cuối cùng tàu đắm do không có khả năng đi biển và các doanh nghiệp nhập khẩu đó bị tổn thất. Mặt khác, người nhập khẩu cần quy định về thời gian dỡ hàng ở cảng đến cho phù hợp, mức thưởng phạt dỡ hàng, tránh bị phạt do dỡ hàng chậm. 2.10 Về điều khoản quy định về trường hợp miễn trách Trường hợp miễn trách là những trường hợp mà nếu xảy ra, các bên đương sự được hoàn toàn hoặc trong một chừng mục nào đó, miễn hay hoãn thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. Đó là những trường hợp xảy ra một cách khách quan sau khi ký kết hợp đồng các bên không lường trước được và phải có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng. Quy định trượng hợp miễn trách (còn gọi là “Trường hợp bất khả kháng “ hoặc “Trường hợp miễn trách nhiệm ”), các bên có thể đưa ra tiêu chuẩn để xác định một trường hợp là miễn trách nhiệm . ở điều khoản này người nhập khẩu phải thoả thuận với người xuất khẩu cách giải quyết khi gặp trường hợp bất khả kháng. 2.11 Về điều khoản khiếu nại Về điều khoản khiếu nại, người nhập khẩu cần quy định rõ là khi có tranh chấp phát sinh, hai bên có thể giải quyết tranh chấp trước với nhau bằng khiếu nại hay không, đồng thời phải quy định thể thức khiếu nại, thời hạn khiếu nại, (về số lượng, phẩm chất hàng hoá, về hàng giao chậm... )thời hạn người xuất khẩu phải trả lời khiếu nại của người nhập khẩu... Người nhập khẩu nên quy định thời hạn khiếu nại hợp lý cho tờng tranh chấp cụ thể để đảm bảo đủ khoảng thời gian có thể phát hiện thấy sự vi phạm của hợp đồng của người xuất khẩu, thời gian lập bộ hồ sơ khiếu nại, thời gian gửi bộ hồ sơ khiếu nại đến tận tay người xuất khẩu, có như vậy người nhập khẩu mới có thể đảm bảo mình sẽ không bỏ lỡ thời hạn khiếu nại và đảm bảo được quyền lợi khiếu nại của mình. 2.12 Về điều khoản trọng tài Trong hợp đồng xuất nhập khẩu, khi có tranh chấp xảy ra, nếu các bên không giải quyết bằng con đường thương lượng thì sẽ phát sinh việc kiện tụng. Các bên có thể kiện ra toà án hoặc trọng tài, nhyưng trong hai biện pháp đó, biện pháp trọng tài thường được sử dụng nhiều hơn, do nó có rất nhiều ưu điểm so với biện pháp toà ấn như:thủ tục đơn giản, xét sử kín, tiết kiệm được thời gian... Về mặt lý thuyết thì hợp đồng xuất nhập khẩu không bắt buộc phải có điều khoản trọng tài nhưng nếu nó không được thoả thuận hay thoả thuận không chặt chẽ thì dễ đưa việc giải quyết tranh chấp vào chỗ bế tắc. Thực tế chứng minh rằng có rất nhiều hợp đồng trong khi ký kết quên không ghi điều khoản trọng tài, kết quả là khi có tranh chấp xảy ra, bên vi phạm khăng khăng không chịu đưa tranh chấp ra cơ quan trọng tài, lấy cớ là hợp đồng không quy định điều khoản đó. Vì vậy, một điều khoản trọng tài hợp lý và chặt chẽ sẽ giúp cho các bên giải quyết rứt điểm và nhanh chóng tranh chấp phát sinh. Điều khoản trọng tài (hay còn gọi là thoả hiệp trọng tài )có thể được ghi trong hợp đồng hoặc có thể được hai bên thoả thuận bổ xung vào hợp đồng khi có tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên sẽ rất phức tạp cho cả hai bên nếu thoả hiệp trọng tài được quy định khi đã có tranh chấp xảy ra vì lúc đó sự bất đồng về quyền lợi sẽ khiến các bên khó có thiện chí để lựa chọn tổ chưcs trọng tài phù hợp. Như vậy cách tốt nhất là người nhập khẩu nên đưa điều khoản trọng tài thành mộy điều khoản của hợp đồng ngay từ khi hợp đồng được ký kết. Khi quy định về điều khoản của trọng tài phải xác định một loại hình trọng tài nhất định: Nếu chọn trọng tài quy chế (institutional Arbitration), tức là trọng tài hoạt động thường xuyên theo một quy chế định sẵn thì nên chọn luôn quy tắc tố tụng của trọng tài đó, chứ không nên chọn tổ chức trọng tài A và quy tắc tố tụng của trọng tài B, vì như vậy sẽ gây rất nhiều khó khăn , thậm chí còn nhiều mâu thuẫn dẫn đến chõ không có tổ chức trọng tài nào có thẩm quyền xét xử. Khi chọn tổ chức trọng tài quy chế cũng phải quy định đúng tên tổ chức trọng tài. Nếu quy định không đúng tên của tổ chức trọng tài quy chế có thể dẫn đến các tranh chấp sau này và có khi bị từ chối thụ lý đơn kiện. Trong thực tế đã có doanh nghiệp Việt Nam khi ký kết hợp đồng quy định “Các tranh chấp phát sinh nếu giải quyết với nhau không được thì sẽ được đưa ra Hội đồng trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam “. Tuy nhiên, bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam chỉ có trung tâm trọng tài Quốc tế. Vì vậy, khi doanh nghiệp Việt Nam kiện ra trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam, thì nước ngoài đã phản đối và họ cho rằng không chọn trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam, vì vậy Trung tâm trọng tài Quốc tế tại Việt Nam không có thẩm quyền đối với vụ tranh chấp này. - Nếu chọn một trọng tài vụ việc thì người nhập khẩu cần quy định cụ thể về: *Trình tự tiến hành trọng tài (gồm việc tổ chức uỷ ban trọng tài, tiến hành xét xử, tài quyết, chi phí trọng tài... ) *Luật dùng để xét xử nội dung tranh chấp. *Tính chất của phán quyết trọng tài có giá trị trung thẩm không. 2.13 Về điều khoản luật áp dụng Đây là một điều khoản quan trọng, khi có tranh chấp phát sinh nếu không quy định điều khoản này thì rất khó giải quyết cho hai bên. 2.14 Về điều khoản chế tài: Chế tài là điều khoản quy định biện pháp xử lý khi các bên vi phạm hợp đồng. Điều kiện này có thể làm cho các bên từ bỏ ý định không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không tốt hợp đồng. Có bốn hình thức chế tài: -Chế tài phạt -Chế tài bồi thường thiệt hại -Chế tài thực sự -Chế tài hợp đồng Thực tế, nếu các bên không quy định điều khoản chế tài, khi có tranh chấp xảy ra, các bên có thể áp dụng chế tài theo luật điều chỉnh hợp đồng. Tuy nhiên, nếu quy định chặt chẽ từng trường hợp khi các bên vi phạm sẽ áp dụng chế tài nào, người nhập khẩu sẽ gặp ít rủi ro hơn khi người xuất khẩu vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng. Trên đây là những điểm chung nhất về hợp đồng nhập khẩu mà người nhập khẩu cần lưu ý khi đàm phán, ký kết một hợp đồng nhập khẩu. Trong từng trường hợp cụ thể, tuỳ vào tính chất hàng hoá, mối quan hệ giữa người nhập khẩu vớingười xuất khẩu, tình hình thị trường, tương quan giữa hai bên thị trường... người nhập khẩu có thể bớt đi hoặc thêm vào hợp đồng của mình một số điều khoản, hoặc có thể quan tâm hơn một số điều khoản nào đó trong hợp đồng. Chẳng hạn trong hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ, người nhập khẩu cần quy định thêm các điều khoản sau: *Điều khoản bằng phát minh sáng chế hoặc bản quyền *Các điều khoản về tài liệu kỹ thuật, quy định về việc lắp ráp 2.15 Điều khoản khác Trong nhiều trường hợp để tránh rủi ro có thể xảy ra nên quy định một số điều khoản kem theo. iii. Những rủi ro mà các doanh nghiệp cần chú ý trong khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 1. Đối với nghĩa vụ mà người nhập khẩu phải thực hiện theo hợp đồng. 1.1 Về việc mở L/C: L/C là phương thức thanh toán được sử dụng nhiều hiện nay do những ưu điểm của nó. Theo phương thức này người nhập khẩu phải mở L/C. Căn cứ để mở L/C là hợp đồng nhập khẩu, do vậy nội dung của L/C phải phù hợp với hợp đồng nhập khẩu. Rất nhiều trường hợp người nhập khẩu mở L/C với nội dung không phù hợp với hợp đồng nhập khẩu dẫn đến tổn thất sảy ra. 2. Về việc đôn đốc người xuất khẩu nước ngoài giao hàng. Trong nhiều trường hợp người xuất khẩu giao hàng chậm. Việc giao hàng chậm này có thể gây ra những thiệt hại lớn cho người nhập khẩu. Do vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, người nhập khẩu nhất thiết phải đôn đốc người xuất khẩu giao hàng đúng thời hạn. Hơn nữa, việc đôn đốc người xuất khẩu giao hàng sẽ là một căn cứ giúp người nhập khẩu được miễn trách nếu quá thời hạn giao hàng một khoảng thời gian rất định mà hàng vẫn chưa được giao và người nhập khẩu do không thể chờ thêm được nữa đã huỷ hợp đồng. Thông thường, trong trường hợp người xuất khẩu chậm giao hàng, người nhập khẩu phải gửi đi một bức điện gia hạn đến một ngày nào đó buộc người xuất khẩu giao hàng. Bức điện này là bằng chứng thể hiện thiện chí hợp tác của người nhập khẩu trong giao dịch. Người nhập khẩu sẽ chỉ huỷ bỏ hợp đồng nếu hết thời hạn gia thêm đó mà người xuất khẩu vẫn không giao hàng. Lúc này, những bức điện giục người xuất khẩu và gia hạn giao hàng sẽ là một phần của bộ hồ sơ giúp cho ngươì nhập khẩu khiếu nại hay khởi kiện người xuất khẩu không giao hàng. 1.3 Về việc mua bảo hiểm. Việc mua bảo hiểm có thể là nghĩa vụ của người xuất khẩu nếu hợp đồng quy định theo điều kiện giao hàng là CIF hay CIP. Trong trường hợp này giá cả của hàng hoá bao gồm cả phần bảo hiểm hàng hoá mà người xuất khẩu mua cho người nhập khẩu hưởng và nếu trên đường vạan chuyển hàng hoá đó có gặp phải rủi ro đã được bảo hiểm, người nhập khẩu có quyền đòi Công ty bảo hiểm bồi thường những tổn thất do những rủi ro đó gây lên. Đối với những hợp đồng ký theo những điều kiện cơ sở giao hàng như FOB, FCA... , những điều kiện cơ sở giao hàng mà theo đó giá cả của hàng hoá chỉ gồm tiền hàng và chi phí đưa hàng qua lan can tàu (FOB)hay chi phí đưa hàng đến tay người vận tải (FCA)... , không bao gồm phí bảo hiểm hàng hoá, các doanh nghiệp nhập khẩu dễ nhận thấy điểm giao hàng ở nước người xuất khẩu sang nước người nhập khẩu, nghĩa là người nhập khẩu sẽ phải chịu rủi ro về hàng hoá trong quá trình vận chuyển hàng hoá từ người xuất khẩu về nước mình. Vì vậy để tránh các rủi ro, người nhập khẩu vẫn thường mua bảo hiểm. Riêng đối với trường hợp đồng mua bán ký kết theo điều kiện giao hàng CFR (tiền hàng và cước phí ) người nhập khẩu cần phải đặc biệt quan tâm, bởi khác với điều kiện FOB hay FCA, theo điều kiện CFR, nơi chuyển chi phí khác với nơi chuyển rủi ro về hàng hoá. Theo điều kiện CFR, người nhập khẩu phải chịu: Mọi chi phí có liên quan đến hàng hoá cho đến khi hàng hoá được giao lên tàu tại cảng bốc hàng, cùng với cước phí và các chi phí nảy sinh từ việc ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá để đưa hàng tới cảng quy định. Mọi rủi ro về mất mát hoặc hư hại hàng, cho tới khi hàng qua khỏi lan can tàu tại cảng bốc hàng. Như vậy theo điều kiện này, điểm chuyển chi phí là cảng đến, còn điểm chuyển rủi ro về hàng hoá lại ở cảng đi. Không ít nhà kinh doanh nhập khẩu đã nhầm lẫn điểm này rằng theo điều kiện CFR, người xuất khẩu hàng hoá sẽ chịu trách nhiệm về hàng hoá cho tới khi hàng đã giao tại cảng đến. Chính vì vậy họ đã không mua bảo hiểm và gặp rủi ro. Qua những phân tích trên đây, cần phải thấy rằng với những hợp đồng theo các điều kiện giao hàng như FOB, FCA... và đặc biệt là CFR người nhập khẩu nên mua bảo hiểm cho hàng hoá để tránh rủi ro về tổn thất hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Khi mua bảo hiểm, người nhập khẩu nên mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm có uy tín, ở các địa điểm thuận lợi để thuận lợi và dễ dàng trong việc tiến hành đòi bồi thường từ công ty bảo hiểm sau này khi người nhập khẩu gặp phải các rủi ro tổn thất do các rủi ro đã được bảo hiểm. Ngoài ra người nhập khẩu cũng cần chú ý mua bảo hiểm của hàng hoá phải tuỳ theo tính chất và đặc điểm của hàng hoá, tính chất của bao bì, phương thức xếp hàng, khoảng cách chuyên chở, thời tiết, khí hậu, tình hình an ninh, chính trị những nơi mà phương tiện sẽ đi qua, loại phương tiện chuyên chở, ... để lựa chọn được các điều khoản bảo hiểm thích hợp nhất. Chẳng hạn, đối với những mặt hàng dễ hư hỏng đổ vỡ như thuốc men, hay hàng thuỷ tinh... nên chọn điều khoản bảo hiểm C rồi mua thêm bảo hiểm một số rủi ro phụ như vỡ hay mất trộm, mất cắp, nếu hàng đó phải chuyển tải dọc đường... mua như vậy, người nhập khẩu sẽ tiết kiệm được chi phí bảo hiểm mà vẫn đảm bảo được quyền lợi bảo hiểm. 1.4 Về làm thủ tục nhập khẩu. *Xin giấy phép xuất nhập khẩu Người nhập khẩu phải xin giấy phép nhập khẩu đối với những mặt hàng mà nhà nước quy định phải xin giấy phép. *Làm thủ tục hải quan: Trong hầu hết các hợp đồng xuất nhập khẩu, làm thủ tục hải quan là nghĩa vụ theo hợp đồng của người nhập khẩu. Người nhập khẩu không thực hiện nghĩa vụ này, hàng hoá sẽ không được thông quan vào nước người nhập khẩu. Điều đó có nghĩa là hợp đồng chấm rứt và người nhập khẩu sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý phát sinh do việc không thực hiện nghĩa vụ của mình. ở Việt Nam, khi hàng đến cảng đích, người nhập khẩu phải tiến hành mở tờ khai hải quan. Công việc này bao gồm việc khai chi tiết vào tờ khai hải quan và xuất trình các chứng từ hàng hoá như hợp đồng mua bán, thông báo hàng đến, hoá đơn thươnh mại, bảng kê chi tiết hàng hoá, giấy phép nhập khẩu chuyến, xác nhận của cơ quan quản lý chuyên ngành (nếu hàng phải xin xác nhận của cơ quan quản lý chuyên ngành (nếu hàng thuộc diện xin xác nhận của cơ quan quản lý chuyên ngành )... tới cơ quan hải. Cơ quan hải quan sẽ có trách nhiệm kiểm hoá hàng. Nếu hàng hoá phù hợp với tờ khai hải quan và bộ chứng từ, cơ quan hải quan sẽ đóng dấu lên tờ khai hải quan chứng từ nhận hàng hoá đã hoàn tất thủ tục hải quan và hàng hoá sẽ được thông quan. *Nhận hàng: Nhận hàng là một nghĩa vụ của người nhập khẩu khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Khi đã ký kết hợp đồng, người nhập khẩu không thể viện vào các lý do như gặp khó khăn về tài chính, khó khăn trong việc thuê tàu (trong trường hợp mua hàng theo giá FOB), không xin được giấy phép nhập khẩu để từ chối nhận hàng. Việc người nhập khẩu từ chối như vậy vẫn bị coi là vi phạm hợp đồng. Vì vậy khi đã ký kết hợp đồng nhập khẩu, dù có gặp nhiều khó khăn, người nhập khẩu vẫn phải cố gắng nhận hàng để tránh các tranh chấp phatsinh sau này. ở Việt Nam, thông thường khi tàu đến cảng đích, cơ quan vận tải hoặc đại lý vận tải sẽ gửi cho người nhập khẩu một tờ “Thông báo hàng đến “. Người nhập khẩu nhận được tờ thông báo trên, phải mang vận đơn gốc đến đại lý tàu biển để đổi lấy “Lệnh giao hàng của hãng tàu “. Sau khi đã có lệnh giao hàng này, người nhập khẩu đến kho cảng và làm các thủ tục nhận hàng * Các chứng từ cần có khi nhận hàng: Việc lập các chứng từ trong quá trình thực hiện hợp đồng là việc làm rất cần thiết, bởi các chứng từ này sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để người nhập khẩu có thể tiến hành các thủ tục pháp lý đòi bồi thường khi hàng hoá gặp tổn thất trên đường vận chuyển, có sự thiếu hụt về số lượng hay phẩm chất không phù hợp với hợp đồng... Tuỳ theo từng trường hợp, người nhập khẩu phải có các chứng từ sau: 1- Biên bản giám định dưới tàu (Survey Report):Là biên bản giám định do cơ quan vận tải mời cơ quan giám định lập khi nhận hàng với tàu trong trường hợp hàng có thể bị tổn thất, xếp đặt không theo lô, theo vận đơn. 2- Biên bản kết toán nhận hàng vơi tàu (Report on Receipt Cargo-ROROC): Là biên bản đượ lập sau khi dỡ hàng xong giữa tàu và người dỡ hàng. Biên bản này là chứng từ xác định số, trọng lượng hàng hoá thực tế giao nhận giữa người chuyên chở và người nhận hàng. Vì vậy nó sẽ là một bằng chứng quan trọng để chứng minh việc người chuyên chở có hoàn thành nghĩa vụ về việc chuyên chở về mặt số lượng, trọng lượng hay không. Trong trường hợp mà có sự không thống nhất về sự thiếu hụt của hàng hoá giữa người chuyên chở và người nhạn hàng, tức là trường hợp mà thuyền trưởng ghi bảo lưu biên bản kết toán nhận hàng với tàu thì người nhận hàng phải có quyết toán báo lại (Correction Advice). Kết toán báo lại này do đại lý của hãng tàu cùng với người dỡ hàng trực tiếp từ tàu cảng lập. Kết toán báo lại này sẽ là chứng từ khẳng định số trọng lượng hàng hoá thực tế đã giao nhận giữa người chuyên chử và người nhận hàng, vì vậy trong trường hợp này nó là bằng chứng chứng minh người chuyên chở có hoàn thành nghĩa vụ chuyên chở về mặt số lượng - trọng lượng hàng hoá hay không. 4 - Biên bản hàng đổ vỡ hư hỏng (Cargo Outturn Report - COR):Là biên bản được lập khi tiến hành dỡ hàng, phát hiện thấy hàng hoá bị dỡ vỡ , hư hỏng. Trên biên bản này ghi đầy đủ hàng hoá bị đổ vỡ, hư hỏng, số lượng hàng bị tổn thất. Như vậy, nhìn vào COR chủ hàng có thể biết được tình trạng và mức độ tổn thất của hàng hoá do tàu gây nên. COR được lập giữa tàu và người dỡ hàng. 5-Giấy chứng nhận hàng thiếu (Certificate of shortlanded Cargo ):Là giấy chứng nhận do đại lý của hãng tàu cấp cho người nhận hàng trong trường hợp khi tàu đã rời khỏi cảng mới phát hiện ra sự thiếu hụt về hàng hoá. 6-Biên bản giám định tổn thất thực tế theo COR:Sau khi cơ quan vận tải đã lập COR với tàu, người nhận hàng phải mời cơ quan giám định đến để giám định tổn thất của hàng hoá theo biên bản hàng dỡ vỡ hư hỏng như trên. Kết quả giám định sẽ được ghi vào biên bản giám định hay chứng thư giám định tổn thất thực tế theo COR. Biên bản này cho biết mức độ tổn thất thực tế của hàng hoá và nguyên nhân tổn thất. 7- Thư dự kháng (Letter of Revervation ):Khi nhận hàng hoá nếu nghi ngờ rằng hàng ở bên trong bao kiện không tốt hay khi có tổn thất không rõ rệt, người nhận hàng phải lập thư dự kháng gửi cho thuyền trưởng, người chuyên chở hoặc đại lý của người chuyên chở. 8- Biên bản giám định tổn thất thực tế theo thư dự kháng:Sau khi lập và gửi đi thư dự kháng, người nhận hàng phải mời cơ quan giám định chuyên nghiệp đến giám định tổn thất thực tế ngay theo thư dự kháng. Việc làm giám định này là cần thiết vì nó sẽ xác định được bao nhiêu hàng sẽ tổn thất, mức độ tổn thất thực tế, nguyên nhân gây tổn thất. Kết quả của việc giám định này sẽ được ghi vào biên bản giám định tổn thất thực tế theo thư dự kháng và biên bản giám định này là bằng chứng khẳng định lại thư dự kháng. 9- Biên bản giám định phẩm chất: Khi nhạn hàng, nếu nghi ngờ hàng kém phẩm chất, người nhận hàng mời cơ quan giám định đến giám định chất lượng của hàng hoá. Kết luận của cơ quan giám định là kết quả giám định hàng hoá thực tế với hàng hoá ghi trong hợp đồng, người nhập khẩu có thể căn cứ vào biên bản này để khiếu nại với người xuất khẩu về phẩm chất của hàng hoá. Ngoài những chứng từ trên còn có: Biên bản xác định số - trọng lượng mỗi bao kiện, báo cáo sự cố, kháng nghị hàng hải, bản tuyên bố tổn thất chung, biên bản giám định tổn thất chung. Trên thực tế còn có rất nhiều sự cố xảy ra khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, do đó tuỳ theo từng trường hợp cụ thể và trong các điều kiện cụ thể, người nhập khẩu còn phải thêm những chứng từ khác nữa. Việc lập chứng từ một cách đầy đủ sẽ bảo vệ quyền lợi của mình, bởi chúng là những căn cứ pháp lý xác đáng chứng minh rằng ai là người phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại của người nhập khẩu. 2. Những rủi ro cần chú ý đối với việc thực hiện nghĩa vụ của người xuất khẩu nước ngoài. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ngoài những việc chú ý thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của hợp đồng và những công việc để đảm bảo quyền lợi của mình, người nhập khẩu còn phải chú ý theo dõi sát sao việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của người xuất khẩu nước ngoài. Có như vậy, người nhập khẩu mới có thể phát hiện ngay việc vi phạm hợp đồng của người xuất khẩu và đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời. Chương iii Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu i. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trước khi ký kết, thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 1. Trong phương thức đàm phán trực tiếp để ký kết hợp đồng nhập khẩu Khi sử dụng phương thức này, ngoài trình độ chuyên môn vững vàng người nhập khẩu cần chú ý rằng thái độ mềm mỏng, lịch sự, kiên nhẫn và sự thiện chí hợp tác của người đứng ra đàm phán cũng có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công hay thất bại của một cuộc đàm phán. 2. Trong phương thức đàm phán gián tiếp thông qua thư từ, điện tín, telex, fax... Khi giao dịch bằng thư từ, điện tín, telex... người nhập khẩu cần chú ý trình bày nội dung của thư từ, điện tín thật chính xác, tránh gây sự hiểu lầm do trình bày không rõ ràng, hay do sử dụng ngôn ngữ không hợp lý. Để tránh nhầm lẫn người nhập khẩu nên chú ý tốt một số vấn đề có liên quan tới lĩnh vực thương mại quốc tế vì các nước nhiều khi có các cách hiểu khác nhau về một vấn đề, chẳng hạn như đối với đơn vị đo lường, phương thức trả tiền, phân chia các chi phí trong giao nhận, bốc dỡ....Sự khẩn trương trong giao dịch thư từ cũng cần được chú ý thích đáng vì chính sự không khẩn trương đôi khi sẽ làm cho các doanh nghiệp dễ mất đi cơ hội kinh doanh hay bạn hàng. Như vậy, các nhà kinh doanh nên phúc đáp thư nhận lại một cách không chậm trễ nhằm giữ vững bạn hàng và các mối quan hệ. Để dẫn tốt việc ký hợp đồng khi sử dụng tốt phương pháp đàm phán, thông qua thư từ, điện tín, telex, các bên phải qua các bước đề nghị ký kết hợp đồng (chào hàng) và chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng (chấp nhận chào hàng). Trong quá trình này có rất nhiều vấn đề pháp lý nảy sinh, chủ yếu liên quan tới việc hình thành hợp đồng. Chẳng hạn trong một vụ Houvery và Facey được xử tại toà án nước Anh, công ty A của Anh đã gửi thư cho công ty B của Pháp để đặt mua một lô hàng, nội dung thư có ghi đầy đủ các thông tin về đối tượng hàng đặt mua, số lượng hàng đặt mua, thời hạn và điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán và ở cuối thư công ty A viết “các ngài có thể cung cấp cho chúng tôi lô hàng trên không? Đề nghị các ngài điện trả lời cho chúng tôi với mức giá thấp nhất có thể cho lô hàng trên”. Sau đó công ty B điện trả lời “Với mức giá thấp nhất cho lô hàng trên là 1250 USD/ MT theo điều kiện giao hàng như đã nêu trong bức thư hỏi hàng của các ngài “. Công ty A điện cho công ty B là đồng ý mua lô hàng theo giá đó với các điều kiện như đã nêu trong bức thư đầu. Tuy nhiên giao dịch không được thực hiện và công ty A gửi đơn kiện ra toà án thương mại nước Anh. Trong đơn kiện công ty A lập luận rằng, bức thư đầu tiên do công ty A gửi cho công ty B được hiểu là thư hỏi giá (inquiry); bức thư trả lời của công ty B là thư chào hàng (offer), vì thế bức thư cuối cùng của công ty A gửi cho công ty B phải được hiểu là đã làm phát sinh một hợp đồng mua bán ngoại thương vì đó là thư chấp nhận vô điều kiện thư chào hàng của công ty B (acceptance). Vì vậy công ty B phải đền bù cho công ty A những thiệt hại phát sinh do việc công ty B không thực hiện hợp đồng, cộng với số tiền lãi mà công ty A đáng ra đã được hưởng nếu hợp đồng thực hiện được. Sau khi xem xét vụ án, toà án Anh đã kết luận rằng: Việc công ty A hiểu như vậy chỉ là ý chí đơn phương vì trong bức thư trả lời, công ty B chỉ đưa ra thông báo về mức thấp nhất cho lô hàng mà công ty A đã hỏi mua chứ không phải đưa ra bất cứ một lời chào hàng nào. Như vậy, bức thư đó không thể được hiểu là thư chào hàng. Và hợp đồng vì thế chỉ có thể phát sinh khi thư chào hàng đó được sự đồng ý hoàn toàn của công ty B. Qua ví dụ trên có thể thấy rằng, trong phương thức đàm phán và ký kết hợp đồng qua thư từ, điện tín, telex... một doanh nghiệp nhập khẩu cần lưu ý đến các vấn đề sau: 1.1- Về chào hàng (offer) Chào hàng là lời đề nghị ký kết hợp đồng, có thể do người bán và người mua đưa ra. Nếu chào hàng là do người mua đưa ra, chào hàng đó được gọi là chào hàng mua, còn nếu do người bán đưa ra thì được gọi là chào hàng bán. Khi một chào hàng được phát ra, lời đề nghị ký kết hợp đồng đó có ràng buộc người chào hàng hay không phụ thuộc vào loại chào hàng. Thông thường người ta chia ra làm hai loại chào hàng: * Chào hàng tự do (free offer): là lời đề nghị không chắc chắn về việc ký kết hợp đồng. Nó không ràng buộc trách nhiệm người chào hàng đối cam kết của mình, cùng một lúc, với cùng một lô hàng, người ta có thể chào hàng tự do cho nhiều khách hàng vì việc chấp nhận đơn chào hàng tự do cho dù đúng thời hạn cũng không làm phát sinh hợp đồng. Do vậy người nhập khẩu khi nhận được một đơn chào bán, cần phải xem xét đó có phải là đơn chào hàng tự do hay không để tránh trường hợp nhận được đơn chào hàng tự do lại chấp nhận vô điều kiện đơn chào hàng đó và hiểu lầm rằng hợp đồng đã phát sinh. Ngoài ra người nhập khẩu cũng cần chú ý khi chào mua tự do phải làm rõ đơn chào hàng của mình để tránh sự hiểu lầm cho đối phương. Việc chào hàng tự do có thể làm rõ bằng nhiều cách, ví dụ bằng cách ghi tiêu đề của đơn chào hàng là:“Đơn chào tự do “, hoặc ghi trong nội dung của đơn chào hàng: Chào hàng này không kèm theo sự cam kết nào cả “, hoặc chào chung chung không ghi số lượng, hoặc giá cả hàng hoá. * Chào hàng cố định (firm offer):Là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, nó ràng buộc trách nhiệm người chào hàng đói với cam kết của mình trong một thời hạn nhất định gọi là thời hạn hiệu lực của đơn chào hàng. Trong thời hạn này, nếu người được chào hàng chấp nhận một cách vô điều kiện chào hàng đó thì hợp đồng coi như được ký kết. Tuy nhiên nếu người được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn các điều kiện nêu ra trong đơn chào hàng mà lại gửi cho người chào hàng một bức thư đề nghị sửa đổi, bổ xung một số điều khoản hay đưa ra những điều khoản mới... thì hợp đồng vẫn chưa được coi là đã được ký kết, và bức thư như vậy được coi là đơn chào hàng mới. Trong chào hàng cố địmh, nếu người chào không quy định rõ thời hạn hiệu lực của đơn chào hàng thì thời hạn này sẽ được tính theo thời gian hợp lý, thường phụ thuộc vào tính chất của từng loại hàng hoá, khoảng cách về không gian giữa người chào hàng và người được chào hàng, và đôi khi phụ thuôch vào tập quán thương mại. Đối với loại chào hàng này người nhập khẩu cần chú ý một khi đã chấp nhận hoàn toàn chào hàng cố định, có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết, và nếu không thực hiện hợp đồng thì phải chịu các hình thức pháp luật như: phạt, bồi thường thiệt hại.. Đơn chào hàng dù là tự do hay cố định đều có thể bị huỷ bỏ. Theo quan điểm của Anh và Mĩ, thì chào hàng có thể huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó nếu như bên được chào hàng chưa chấp nhận chào hàng. Còn theo Công ước Viên năm 1980, người chào hàng có thể rút lại đơn chào hàng của mình trong hai trường hợp . Chào hàng có thể được huỷ bỏ nếu như thông bào về việc huỷ đơn chào hàng trước hoặc cùng lúc với đơn chào hàng . Hoặc chào hàng có thể bị huỷ bỏ, nếu như thông bào về việc huỷ bỏ đơn chào hàng của người chào hàng tới tay người được chào hàng trước khi người này gửi đi thông báo chấp nhận chào hàng. Để ràn buộc được trách nhiệm người chào với cam kết của mình, đơn chào hàng phải thoả mãn những điều kiện sau (điều kiện hiệu lực của đơn chào hàng ) . Chủ thể của đơn chào hàng phải hợp pháp . Đối tượng của đơn chào hàng là hàng hoá, dịch vụ phải hợp pháp, được phép lưu thông trên thị trường. . Nội dung của đơn chào hàng phải có đầy đủ các điều khoản chủ yếu của một hợp đồng. Chẳng hạn theo luật của Việt nam, một chào hàng muốn có hiệu lực phải bao gồm những điều khoản chủ yếu của địa điểm giao hàng, giá cả và điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán và điều kiện thanh toán ( Theo điều 6 - Quy định số 299/ TMDL – XNK ngày 9/4/1992 ). . Đơn chào hàng phải được gửi đến tận tay người được chào hàng trong thời hạn hiệu lực của đơn chào hàng. . Người chào hàng không huỷ bỏ đơn chào hàng. Tóm lại: Người nhập khẩu cần chú ý rằng một đơn đặt hàng có hiệu lực nếu chủ thể và đối tượng của đơn chào hàng hợp pháp, đơn chào hàng thể hiện ý muốn ký kết hợp đồng của người chào hàng, nội dung của đơn chào hàng có đầy đủ các yếu tố để ký kết một hợp đồng và đơn chào hàng được truyền đạt đến tận tay người được chào hàng trong thời hạn hiệu lực của đơn chào. 1.2- Về chấp nhận chào hàng ( Acceptance ) Chấp nhận chào hàng là sự đồng ý ký kết hợp đồng dựa trên cơ sở các điều kiện của đơn chào. Chấp nhận chào hàng nếu đến tay người chào hàng trong thời hạn hiệu lực của đơn chào thì ràng buộc trách nhiệm của người chấp nhận chào hàng và hậu quả pháp lý của nó là dẫn đến việc hợp đồng được ký kết giữa người chào hàng và người được chào hàng. Việc chấp nhận chào hàng đến tay người chào hàng ngoài thời hạn hiệu lực của chào hàng có làm phát sinh hợp đồng hay không phụ thuộc vào thiện chí của người chào hàng. Nếu chấp nhận chào hàng được gửi đi trong thời hạn hiệu lực của đơn chào hàng nhưng đến tay người chào hàng ngoài thời hạn, hợp đồng coi như được ký kết nếu người chào hàng im lặng vì im lặng được phép suy đoán là đồng ý. Tức là coi đơn chấp nhận đến chậm khi đã được gửi đi trong thời hạn là đến đúng hạn. Tuy nhiên, hợp đồng sẽ không phát sinh nếu người chào hàng không chậm trễ thông báo bằng văn bản với nội dung thư chấp nhận hàng đến chậm X ngày. Nếu đơn chấp nhận được ký ngoài thời hạn và đến tay người chào hàng ngoài thời hạn hiệu lực của đơn chào, thì hợp đồng giữa hai bên chưa được ký kết. Nếu người chào hàng muốn được hợp đồng ký kết thì phải điện báo cho người chấp nhận với nội dung là coi đơn chấp nhận được ký kết ngoài thời hạn, đến ngoài thời hạn là đến đúng hạn. Khi nhận được điện này, người chấp nhận cũng phải trả lời bằng văn bản là đồng ý như vậy thì hợp đồng giữa hai bên đã được ký kết. Việc chấp nhận chào hàng phải là chấp nhận hoàn toàn, vô điều kiện thì hợp đồng mới được coi là đã ký kết, vì nếu người được chào hàng lại sửa đổi chào hàng dù ít thôi thì cũng khiến chào hàng ban đầu bị huỷ bỏ và đơn chấp nhận chào hàng được coi là lời chào hàng mới xuất phát từ phía người được chào hàng. Tóm lại, một chấp nhận chào hàng muốn có hiệu lực pháp lý, làm cho hợp đồng được ký kết cần phải thoả mãn các điều kiện dưới đây: . Chấp nhận chào hàng phải được phát ra từ chính người được chào hàng. . Chấp nhận chào hàng phải là sự chấp nhận hoàn toàn, vô điều kiện mọi nội dung của chào hàng. . Chấp nhận phải được gửi tới tận tay người chào hàng trong thời hạn hiệu lực của chào hàng. . Người được chào hàng không huỷ đơn chấp nhận. Trong đàm phán gián tiếp với các bước giao dịch là hỏi giá, phát giá, đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận. Thì khi đó bước giao dịch chấp nhận (tức là đồng ý hoàn toàn tất cả các nhiệm vụ chào hàng mà phiá bên kia đưa ra )là quan trọng nhất. Như vậy người nhập khẩu muốn hợp đồng được ký kết cần phải chú ý đến điều kiện hiệu lực của chấp nhận chào hàng. Thực tế cho thấy có rất nhiều những tranh chấp đã xảy ra do người được chào không hiểu rõ hiệu lực pháp lý của một chấp nhận chào hàng. Ví dụ: Ngày 8/4/1989, Công ty IPI (Pháp) được công ty Petrolex (Việt nam) Chào bán cố định một lượng lớn dầu thô. Đơn chào hàng có năm nội dung (tên hàng, số lượng, phẩm chất, giá cả, thời gian giao hàng tháng 6, tháng 7, tháng 8 năm 1989) có hiệu lực tới 16h 30’ ngày 22/4/1989. Đến 16h30’ ngày 21/4/1989, do biết hôm sau là ngày chủ nhật, Petrolex đã thảo sẵn một bức điện báo cho iPi biết việc chấp nhận mua của bên mua đã dến chậm rồi ( mặc dù chưa nhận được điện báo nhận). Điện của Petrolex được gửi đi ngày 24/4/1989. Vào 23h18’ ngày 21/4/1989 IPI gửi cho Petrolex một bức điện có nội dung: Chấp nhận quyết định ngày 8/4/1989 của bên bán về việc giao hàng tháng 6, tháng 7, tháng 8/1989 và chúng tôi sẽ trở lại vấn đề với một chương trình bốc sót cụ thể. Công ty Việt nam nhìn thấy bức điện vào sáng ngày 23/4/1989 nên cho rằng đơn cho rằng đơn chấp nhận đã đến chậm do đó không có hợp đồng. Trước uỷ ban trọng tài, iPi lập luận rằng việc chấp nhận là đúng hạn (sớm hơn 16h30’) nên hợp đồng đã được thành lập, nay Petrolex không giao hàng thì Petrolex phải bồi thường cho iPi khoản lãi bị bỏ lỡ là 78. 000USD. Tuy nhiên uỷ ban trọng tài đã phân tích là: Điện trả lời của iPi chưa được coi là một chấp nhận vô điều kiện vì iPi mới chỉ trả lời riêng về thời hạn giao chứ chưa đề cập đến nội dung khác của đơn chào hàng. Và ngay về thời gian giao hàng, iPi vẫn còn bảo lưu quyền được “ trở lại vấn đè với một chương trình bốc sót cụ thể ”. Như vậy, dù điện của iPi có trả lời đúng thời hạn thì hợp đồng vẫn chưa thể coi là đã được thành lập. Trên đây là một ví dụ cho thấy rằng người được chào hàng do không hiểu được hiệu lực pháp lý của chấp nhận chào hàng nên đã tự gây ra những thiệt hại lớn cả về vật chất cũng như uy tín của kinh doanh. ii. Những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong việc ký kết hợp đồng nhập khẩu Trong việc ký kết hợp đồng, thực tế cũng đã có nhiều tranh chấp - phát sinh xảy ra gây thiệt hại cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Phần chương II, phần II, mục 2 cũng đã phân tích và đưa ra những vấn đề mà các doanh nghiệp nhập khẩu cần phải chú ý để tránh rủi ro trong việc ký kết hợp đồng nhập khẩu. Dưới đây chỉ đưa ra một số giải pháp trong việc ký kết một số điều khoản quan trọng của hợp đồng như: Điều khoản về đối tượng của hợp đồng, điều khoản về giao hàng, điều khoản về thanh toán, điều khoản về bảo hành, điều khoản về bất khả kháng. 1. Về điều khoản đối tượng của hợp đồng: . Khi qui định điều khoản này, người nhập khẩu cần phải qui định rõ ràng, cụ thể, tránh việc hiểu lầm dẫn đến hàng được giao sau này không đủ tiêu chuẩn hay không phù hợp với mục đích sử dụng của người nhập khẩu. Người nhập khẩu cần phải chú ý đến những vấn đề sau: 1.1- Về tên hàng Điều khoản tên hàng là một đièu khoản quan trọng, có mặt trong tất cả các đơn chào hàng, hay hơp đồng. Tên hàng trong thương mại thường được thể hiện thông qua ngôn ngữ thông dụng (chủ yếu là tiếng Anh). Một mặt hàng có thể có những tên gọi khắc nhau, dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Để tránh sự hiểu lầm, người nhập khẩu cần xác định tên hàng một cách rõ ràng, chính xác. Chẳng hạn đối với hàng nhiều công dụng, người nhập khẩu cần ghi tên hàng kèm theo mục đích mà người nhập khẩu sẽ sử dụng nó. Đã có những ví dụ điển hình về trường hợp này: Ví dụ thứ nhất: Một công ty sơn mài mỹ nghệ của Việt Nam đã ký kết một hợp đồng mua sơn với một công ty của Nhật Bản. Trong thư đặt hàng công ty sơn mài của Việt Nam đã đưa ra yêu cầu là muốn mua loại sơn của Nhật Bản để làm tranh sơn mài và nói rõ rằng chỉ dùng loại sơn này thì tranh sơn mài mới đạt độ bóng nhất định và không bị rạn nứt. Tuy nhiên, khi thực hiện hợp đồng, công ty Nhật đã không giao đúng loai sơn đó mà giao một loại sơn của Hồng Kông, không dùng để làm tranh sơn mài được. Công ty sơn mài của Việt Nam đã khiếu laị công ty của Nhật đề nghị huỷ hợp đồng vì công ty nhật đã giao sai hàng đối với hợp đồng. Ví dụ thứ hai:Một doanh nghiệp của Việt nam nhập khẩu Cao dầu đen về để chế cao su. Nhưng phía doanh nghiệp của Việt nam không ghi tên hàng một cách chính xác, rõ ràng. Ghi tên hàng không kèm theo ghi mục đích mà người nhập khẩu sử dụng nó nên phía nước ngoài đã bán cho ta Cao dầu đen về để chế biến thuốc ghẻ. Qua ví dụ trên ta thấy, việc quy định tên hàng cụ thể, chính xác là một việc rất quan trọng, bởi tên hàng là điều khoản phản ánh chính xác đối tượng mua bán trao đổi. Có thể tuỳ từng loại hàng cụ thể mà sử dụng các cách ghi tên hàng phù hợp. Ngoài cách ghi tên hàng kèm theo mục đích sử dụng của hàng hoá đó như đã đề cạp ở trên còn có cachs ghi sau đây để bảo vệ tên hàng: - Ghi tên thương mại của hàng hoá, kèm theo tên thông thường và ten khoa học của nó. Khi xác định tên hàng theo cách này, cần phải lưu ý sự chính xảc trong dịch thuật . - Ghi tên hàng hoá kèm theo tên địa phương, thường được áp dụng đối với những hàng hoácó tên nổi tiếng về sản xuất hàng hoá đó. Ví dụ:Rượu vang Bordeaux, đồ xứ Giang Tây, thuỷ tinh Bohemia... - Ghi tên hàng kèm theo tên hãng sản xuất ra hàng đó, ví dụ máy giặt Daewoo, máy ảnh Kodak... - Ghi tên hàng kèm theo nhãn hiệu của nó, Ví dụ xe máy Dream ii. - Ghi tên hàng kèm theo quy cách của hàng hoá, là những chi tiết về mặt chất lượng như công suất, kích cỡ, trọng lượng... của hàng hoá. Ví dụ máy in 24 kim, Tivi màu 29 inch... - Và còn rất nhiều cách ghi khác:như ghi tên hàng kèm theo số hiệu, hạng mục trong danh mục hàng hoá, ghi kết hợp với các cách ghi... Tất cả đều với mục đích làm cho các bên không nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng . 1.2- Về điều khoản quy cách phẩm chất: Đây là một điều khoản quan trọng vì nó nói lên mặt chất của đối tượng mua bán trao đổi, nghĩa là tính năng, qyu cách, phẩm chất, kích thước, tác dụng, công suất... Vì vậy nó cần phải được quy định cụ thể và chính xác. Việc quy định quy cách, phẩm chất của hàng hoá là một việc tương đối phức tạp. Có rất nhiều phương pháp khác nhau để xác định phẩm chất của hàng hoá như dựa vào sự mô tả của hàng hoá, dựa vào mẫu hàng, dựa vào tiêu chuẩn, dựa vào nhãn hiệu của hàng hoá, dựa vào tài liệu kỹ thuật... Ký kết hợp đồng nhập khẩu nhà kinh doanh nhập khẩu khi xác định phẩm chất hàng hoá dựa vào phương pháp nào thì cũng phải hết sức cẩn trọng, cân nhắc, suy xét trên mọi khía cạnh để tránh sự tranh chấp, manh lại rủi ro, gây thiệt hại về phía mình. Thực tế đã có những doanh nghiệp của ta nhập khẩu hàng hoá đã xảy ra những tranh chấp về chất lượng hàng dẫn đến gây thiệt hại lớn. Chẳng hạn khi mua bán theo tiêu chuẩn quốc gia, người nhập khẩu cần chú ý quy định số tiêu chuẩn, của nước nào, ngày tháng ban hành tiêu chuẩn quốc gia, ví dụ “Theo tiêu chuẩn quốc gia Nga FOCT 03297 KX ngày 24/7/1994”. Nếu chỉ quy định theo tiêu chuẩn quốc gia Nga, thì khi thực hiện hợp đồng, người xuất khẩu có thể giao hàng theo tiêu chuẩn quốc gia Nga. được ban hành năm 1960 và người nhập khẩu sẽ không có cơ sở để phản đối, để đòi giao hàng theo tiêu chuẩn quóc gia nga mới ban hành năm 1994 chẳng hạn. Hoặc ví dụ khác là: Một doanh nghiệp của Việt nam nhập khẩu Bông theo tiêu chuẩn TOCT 70 của Nga về để kéo sợi. Nhưng hợp đồng lại ghi là TOCT 72, khi đó phía người xuất khẩu nước ngoài đã giao đúng loại Bông theo tiêu chuẩn TOCT 72. Đây là một loại Bông ngắn không thể kéo sợi được mà chỉ dùng để làm chăn Bông. Khi phía đối tác nước ngoài giao hàng cho phía doanh nghiệp Việt Nam và phía Việt Nam thấy hàng giao không phù hợp với mục đích sử dụng đã khởi kiện và đã tốn kém rất nhiều chi phí nhưng vẫn bị thua kiện. Do phía đối tác nước ngoài vẫn thực hiện đúng theo hợp đồng còn về phía Việt Nam vì không tìm hiêủ rõ nội dung của tiêu chuẩn, số hiệu của tiêu chuẩn, ngày tháng năm ban hành nên đã chịu sự rủi ro khi ký kết hợp đồng nhập khẩu của mình. Ngoài ra người nhập khẩu cũng cần phải chú ý rằng:phẩm chất của hàng nhập khẩu còn phải phù hợp với quy định của nước mình. ở Việt Nam, tất cả những hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam phải có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn của Việt Nam về chất lượng, an toàn vệ sinh môi trường. Hàng hoá nhập khẩu khi đến Việt Nam phải được các cơ quan nhà nước kiểm tra chất lượng theo các quy trình của Tổng cục đo lường chất lượng hoặc cơ quan chức năng của bộ quản lý chuyên môn và chỉ đủ điều kiện để cơ quan hải quan làm thủ tục thông quan khi: -- Được cấp giấy xác nhận đạt chất lượng nhập khẩu với những danh mục hàng hoá thuộc “Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu phải kiểm tra nhà nước về chất lượng do bộ khoa học và công nghệ môi trường công bố theo từng thời kỳ “. - Hoặc thông báo miễn kiểm tra chất lượng đối với những hàng thuộc diện miễn kiểm tra là những hàng mang dấu hiệu phù hợp nước người xuất khẩu đã được Tổng cục đo lường chất lượng thừa nhận hay được kiểm tra tại bến đi theo hiệp định của nhà nước đã ký với nước ngoài đã ký với nước ngoài sẽ miễn kiểm tra nhà nước về chất lượng. Như vậy, khi ký kết hợp đồng nhập khẩu, nếu các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đưa ra quy định chất lượng hàng hoá đạt tiêu chuẩn nước người xuất khẩu mà không quan tâm đến đạt tiêu chuẩn chất lượng của hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Khi đến Việt Nam, hàng hoá được kiểm tra không đạt tiêu chuẩn của Việt Nam, hàng hoá không đạt tiêu chuẩn Việt Nam về chất lượng sẽ không được thông quan và người nhập khẩu sẽ phải chịu những rủi ro vì đã không hoàn thành nghĩa vụ của hợp đồng là làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá. Vì vậy các doanh nghiệp nhập khẩu cần chú ý rằng:chất lượng hàng hoá nhập khẩu quy định trong hợp đồng không những phải đạt tiêu chuẩn nhà nước về chất lượng ở nước người xuất khẩu mà còn phải đạt những tiêu chuẩn ở nước mình. Có như vậy người nhập khẩu mới có thể tránh được những rủi ro. Trong điều khoản về phẩm chất của hàng hoá, người nhập khẩu cần phải quy định vấn đề kiểm tra chất lượng của hàng hoá. Dù phẩm chất có được quy định rõ ràng, cụ thể, chính xác, nhưng trong thực tế người nhập khẩu có nhận được hàng theo đúng quy định của hợp đồng hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào người xuất khẩu. Do vậy việc quy định kiểm tra phẩm chất hàng hoá trong một chừng mực nhất định ràng buộc thêm người xuất khẩu và đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu về phẩm chất hàng hoá. Người nhập khẩu có thể có những quy đinh về kiểm tra phẩm chất hàng như sau: -Kiểm tra phẩm chất hàng hoá được tiến hành ở bến đi. - Kiểm tra phẩm chất hàng hoá được tiến hành ở lúc bốc hàng lên tàu do cơ quan giám định Y của nước người xuất khẩu thực hiện. - Kiểm tra phẩm chất hàng hoá được tiến hành ở bến đến. - Kiểm tra hàng hoá được tiến hành ở bến đến do cơ quan giám định X của nước người nhập khẩu thực hiện. - Kiểm tra phẩm chất hàng hoá được tiến hành ở bến đến do cơ quan giám định X của nước người nhập khảu thực hiện là quyết định. V... vv Nếu không kiểm tra gì về phẩm chất của hàng hoá, hoặc quy định phẩm chấthàng hoá được tiến hành ở bến đi là quyết định, người nhập khẩu sẽ gặp nhiều bất lợi khi gặp phải một người xuất khẩu không có thiện chí, bởi vì: - Trường hợp thứ nhất:( hợp đồng không có quy định về việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá) hàng có như thế nào thì giao như thế đó, Sau này người nhập khẩu phát hiện được hàng thiếu phẩm chất thì sẽ tính. - Trường hợp thứ hai: (Hợp đồng quy định việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá là ở bến đi) người xuất khẩu không buộc phải mời giám định chuyên nghiệp mà có thể tự mình kiểm tra phẩm chất hàng hoá và như thế ngay cả khi hàng xấu, người xuất khẩu cũng có thể đưa ra kết luận là hàng phù hợp với phẩm chất hàng ghi trong hợp đồng. -Trường hợp thứ ba: (Hợp đồng quy định phẩm chất hàng hoá ở bến đi là quyết định):trường hợp này tương tự như trường hợp thứ hai, chỉ có điều khắc là kết quả kiểm tra này ràng buộc người nhập khẩu sẽ rất khó khăn trong việc bác lại kết quả kiểm tra đó. Nếu quy định việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá là ở bến đến, hoặc việc kiểm tra phẩm chất hàng được tiến hành ở bến đến do cơ quan giám X của nước người nhập khẩu thực hiện, hoặc kiểm tra hàng hóa ở bến đến là quyết định thì cũng chưa hoàn toàn bảo đảm chắc chắn người xuáat khẩu sẽ giao hàng đúng phẩm chất. Bởi vì do người xuất khẩu không phải kiểm tra hàng ở bến đi và khi không có hàng tốt, người xuất khẩu vẫn cứ giao hàng kém phẩm chất để lấy tiền hàng hoá đã, nếu ở bến đến người xuất khẩu không phát hiện ra thì người xuất khẩu chat lọt, còn nếu người nhập khẩu phát hiện ra thì cũng phải mất nhiều thời gian mới có thể giải quyết được, hoặc trong trường hợp người nhập khẩu không tiến hành đủ thủ tục pháp lý, đủ bằng chứng, người bán vẫn có thể bác lại rằng người bán đã giao hàng đúng phẩm chất. Từ những điểm nêu trên đối với người nhập khẩu, cách quy định tốt nhất về kiểm tra hàng hoá là: - Kiểm tra phẩm chất hàng hoá ở bến đi trước lúc hàng lên tàu (lên phương tiện vận tải )do người nhập khẩu tiến hành. Hoặc - Kiểm tra hàng hoá ở bến đi do cơ quan giám định Y của nước người xuất khẩu tiến hành, ở bến đến người mua mời cơ quan giám định phẩm chất hàng hoá và kết quả của lần giám định này là quyết định. Tuy nhiên, quy định theo cách nào tuỳ thuộc vào người xuất khẩu là ai, ưu thế của họ trên thương trường như thế nào và quan trọng nhất là tuỳ thuộc vào kết quả của đàm phán giữa hai bên. 1.3- Về điều khoản số lượng: Đây là điều khoản quy định mặt lượng của hàng hoá được mua bán. Trong điều khoản này, ng]ời nhập khẩu phải tính đến đơn vị tính số lượng, bởi vì đơn vị tính số lượng là một trong những nguyên nhân hay dẫn đến sự hiểu lầm giữa các bên giao dịch. Sở dĩ như vậy là vì trong buôn bán quốc tế, nhiều đơn vị đo lường có cùng một tên gọi nhưng ở mỗi nước lại có một nội dung khắc nhau. Ví dụ một bao bông ở Ai Cập là 330 kg, ở Brãin là 180 kg... Hơn nữa, việc áp dụng đồng thời nhiều hệ thống đo lường (các đơn vị hệ mét, các hệ thống đo lường của Anh, Mỹ... )trong buôn bán quốc tế cũng là một nguyên nhâ n đáng kể khác. Chẳng hạn như theo hệ thống Mét tấn (Metric ton), 1MT =1000kg, nhưng theo hệ thống đo lường củÂnh, Mỹ 1 Short ton =907, 184 kg và một Long ton =1016, 047 kg. Như vậy, khi quy định điều khoản số lượng, người nhập khẩu nên quy định rõ đơn vị số lượng và hiểu rõ nội dung các đơn vị đó ở từng thị trường để tránh nhầm lẫn có thể xảy ra. Ngoài ra, từng loại hàng hoá cụ thể đều có những đặc điểm riêng mà người nhập khẩu cần chú ý tới khi quy định điều khoản số lượng, trọng lượng để tránh những rắc rối có thể xảy ra sau này. Chẳng hạn đối với những hàng hoá tính số lượng theo cái, chiếc, ... người nhập khẩu cần chú ý quy định hàng hoá một cách cụ thể (ví dụ, trong hợp đồng nhập khẩu máy chop X- quang quy định “số lượng 3 máy “) để buộc người xuất khẩu giao đúng số lượng như trong hợp đồng. Đối với những hàng hoá có khối lượng lớn, có thể quy định số lượng một cách phỏng chừng (Ví dụ trong hợp đồng nhập khẩu bông quy định “khoảng 3000 MT “). Quy định phỏng chừng như vậy, tức là người nhập khẩu đã giúp người xuất khẩu tránh được những khó khăn sau này trong việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, khi quy định trọng lượng phỏng chừng như vậy, người nhập khẩu cần chú ý tới địa điểm xác định số lượng, trọng lượng. Nếu lấy trọng lượng được xác định ở nơi gửi hàng (trọng lượng bốc - shipped weight) làm cơ sở để xem xét người xuất khẩu chấp hành hợp đồng, hoặc để thanh toán tiền hàng thì người nhập khẩu phải chịu rủi ro xảy ra trong quá trình chuyên chở hàng hoá. Vì vậy khi quy định số lượng hàng hoá theo dung sai, người nhập khẩu nên quy định số lượng, trọng lượng tại cảng đến. Ngoài ra người nhập khẩu trong từng trường hợp cụ thể còn nên chú ý quy định giá hàng của khoản dung sai để tránh không cho người xuất khẩu lợi dụng sự biến động giá cả của thị trường để làm lơị cho mình. Đối với hàng hoá dễ hút ẩm, hay có độ ẩm không ổn định, trọng lượng của nó trong thời tiết ẩm thường lớn hơn trong thời tiết khô hanh nên có khi người xuât khẩu đã lợi dụng đặc điểm này để giao hàng đủ trọng lượng nhưng thực tế lại là giao thiếu vì hàng hoá có độ ẩm cao. Chẳng hạn trong một hợp đồng nhập khẩu Lưu huỳnh quy định giao hành 17000 MT, độ ẩm tối đa là 0. 5%. Tuy nhiên, người nhập khẩu đã nhận được 17850MT với độ ẩm rất cao là 6. 43%. Có thể thấy rằng Lưu huỳnh tuy giao vượt quá số lượng quy định của hợp đồng là 850 MT nhưng nếu tính trọng lượng của lưu huỳnh theo như quy định trong hợp đồng là 0. 5%, người xuất khẩu mới giao 16791 MT và thiếu 209 MT Lưu huỳnh so với hợp đồng. Người xuất khẩu vì vậy đã phải bồi thường thiẹt hại cho người nhập khẩu. Giả sử trong trường hợp này, người nhập khẩu quên không quy định độ ẩm cho lưu huỳnh là 0. 5%thì việc đòi người xuất khẩu bồi thường thiệt hại là rất khó thực hiện vì giữa hai bên đã không quy định độ ẩm tiêu chuẩn, người xuất khẩu có thể chỉ quan tâm đến việc giao đủ trọng lượng hàng mà không cần quan tâm đến đô ẩm của hàng là bao nhiêu. Vì vậy, trong hợp đồng nhập khẩu, loại hàng dễ hút ẩm, người nhập khẩu cần chú ý quy định độ ẩm tiêu chuẩn để trọng lượng của hàng hoá được tính theo trọng lượng thương mại - trọng lượng hàng hoá có độ ẩm tiêu chuẩn. Như vậy người nhập khẩu mới có thể tránh được những tranh cháp phát sinh sau này. 2. Về điều khoản giao hàng * Về thời hạn giao hàng: Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người xuất khẩu phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Người nhập khẩu cần quy định trong hợp đồng với người xuất khẩu thời hạn giao hàng một cách cụ thể và rõ ràng, chẳng hạn giao hàng chậm nhất là ngày 30/1/2000, hoặc tháng 3/2000 hoặc quý i/2000... Không nên quy định thời hạn giao hàng một cách chung chung, chẳng hạn như giao hàng nhanh, giao hàng ngay lập tức, giao hàng càng sớm càng tốt... Bởi cách quy định chung chung như vậy được giải thích ở từng nơi, từng vùng, từng nghành là khác nhau. Ví dụ: ở Mỹ “giao ngay “là giao trong vòng 5 ngày kể từ khi ký kết hợp đồng, nhưng trong bản “Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ - UCP 500”của phòng thương mại quốc tế giải thích, từ ngữ đó được hiểu là: yêu cầu gửi hàng trong thừi gian 30 ngày kể từ ngày mở thư tín dụng. Người nhập khẩu còn có thể quy định thời hạn giao hàng còn phụ thuộc vào các điều kiện khác: Ví dụ như giao hàng trong vòng 30 ngày sau khi mở L/C... nhưng cần phải chú ý rằng sau đó phải quy định cụ thể thời hạn mở L/C. * Về việc quy định giao hàng thành bao nhiêu chuyến: Việc quy định rõ ràng số chuyến chuyển hàng sẽ giúp người nhập khẩu chủ động trong việc nhận hàng, có trước các kế hoạch hoặc sử dụng hàng... do đó người nhập khẩu nên quy định rõ ràng và cụ thể giao hàng sẽ được giao thành bao nhiêu chuyến. * Về việc tải dọc hàng: Nếu quy định cho phép chuyển tải hàng hoá dọc đường vận chuyển, người nhập khẩu sẽ gặp nhiều rủi ro như nhầm lẫn, mất mát hàng hoá trong lúc chuyển tải. Vì thế, người nhập khẩu tốt nhất nên quy định hàng hoá không được phép chuyển tải. * Về địa điểm giao hàng: Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức chuyên chở hàng hoá và điêù kiện cơ sở giao hàng. Vì vậy người nhập khẩu cần xác định địa điểm giao hàng sao cho phù hợp với điều kiện cơ sở giao hàng và phương thức chuyên chở hàng hoá. Người nhập khẩu nên xác định rõ ràng cả cảng đi và cảng đến (ví dụ CiF hải phòng thì chỉ biết cảng đến chứ không biết cảng đi ). * Về thông báo giao hàng: Người nhập khẩu nên có những thoả thuận về nghĩa vụ thông báo giao hàng của người xuất khẩu . Thoả thuận này quy đinh về số lần thông báo và nội dung cần thông báo. Thông báo giao hàng giúp cho người nhập khẩu theo dõi được tình hình thực hiện hợp đồng của người xuất khẩu, dự kiến được ngày hàng về cảng, số lượng hàng hoá thực giao, tên đại lý tàu biển ở cảng đến... , căn cứ vào đó để người nhập khẩu chuẩn bị trước các thủ tục nhập khẩu, chuẩn bị thước phương tiện vận tải, kho tàng và như vậy người nhập khẩu có thể hoàn thành nghĩa vụ nhập hàng của mình một cách dễ dàng hơn. Vì vậy quy định điều khoản giao hàng một cách rõ ràng và cụ thể sẽ giúp người nhập khẩu bảo vệ quyền lợi của mình. 3. Về điều khoản thanh toán Trong trường hợp quy định thanh toán bằng thư tín dụng (letter of credit-L/C), người nhập khẩu cần chú ý tới các vấn đề sau: * Lựa chọn ngân hàng mở L/C: Người nhập khẩu tốt nhất nên lựa chọn một nhân hàng trong nước thông thạo nghiệp vụ ngân hàng, có uy tín cao ở trong nước cũng như tren thế giới. Như thế, người nhập khẩu không những tạo cho người xuất khẩu cảm thấy yên tâm rằng mình chắc chắn sẽ được thanh toán mà còn tạo được ấn tượng tốt cho người xuất khẩu về sự đứng đắn trong quan hệ làm ăn cuả công ty mình. Hơn nữa, người xuất khẩu cũng không yêu cầu L/C phải được xác nhận tại một ngân hàng nổi tiếng trên thế giới, do đó người nhập khẩu không phải chịu phí xác nhậm L/C và thực hiện nghĩa vụ thanh toán sau này được dễ dàng hơn. Việc mở L/C đòi hỏi người nhập khẩu phải ký trước tiền ký quỹ và trả thủ tục phí. Nếu lựa chọn ngân hàng trong nước, người nhập khẩu không những nâng cao được uy tín của ngân hàng trong nước, mà còn tránh được sự đọng vốn ở nước ngoài. * Lựa chọn L/C dùng để thanh toán: Thông thường người xuất khẩu thích lựa chọn L/C không huỷ ngang, có xác nhận và miễn truy đòi vì nó đảm bảo cho người xuất khẩu chắc chắn thu được tiền hàng và không phải truy hoàn lại tiền. Tuy nhiên, người nhập khẩu chỉ nên sử dụng L/C không huỷ ngang vì nếu đồng ý sử dụng loại L/C có xác nhận sẽ phải chịu xác nhận phí rất cao. Người ra khi lựa chọn L/C, người nhập khẩu nên hạn chế loại L/C chuyển nhượng vì nếu L/C được chuyển nhượng cho một thương nhân không đáng tin cậy thì hợp đồng sẽ không được đảm bảo thi hành tốt, có thể dẫn tới những rắc rối sau này cho người nhập khẩu. Trong trường hợp phải dùng L/C chuyển nhượng, người nhập khẩu nên có ý tránh việc chuyển nhượng cho người thứ ba không cùng quốc gia so với ngươì được hưởng lợi đầu tiên vì động đến luật pháp của quốc gia về việc chuyển nhượng rất phức tạp, quy định rõ chi phí hưởng lợi do người hưởng lợi chịu. * Thời hạn hiệu lực của L/C: Là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn phù hợp với L/C. Thời hạn của L/C tính từ ngày mở đến ngày hết hạn hiệu lực của L/C. Khi xác định thời hạn hiệu lực của L/C, cần phải chú ý rằng ngày giao hàng phải là ngày trong thời hạn hiệu lực của L/C. Ngày giao hàng cách ngày mở L/C một khoảng cách hợp lý để người xuất khẩu chuẩn bị, kiểm tra bộ chứng từ thanh toán và luân chuyển nó đến ngân hàng trả tiền. Như vậy khi quy định thời hạn hiệu lực của L/C, người nhập khẩu cần nên xác định thời hạn mở L/C một cách hợp lý để tránh đọng vốn và chủ yếu là để người xuất khẩu sớm giao hàng. * Bộ chứng từ thanh toán mà người xuất khẩu phải trình cho ngân hàng trả tiền: Là nội dung chính của một thư tín dụng, bởi bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng với những điều của thư tín dụng. Nếu bộ chứng từ đó phù hợp với thư tín dụng, ngân hàng sẽ tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Bộ chứng từ này gồm những loại nào, nhiều hay ít phụ thuộc vào yêu cầu của người nhập khẩu và các yêu cầu này phải được thoả thuận trong hợp đồng. Khi quy định bộ chứng từ thanh toán trong hợp đồng, người nhập khẩu cần chú ý xác định các loại chứng tờ cần thiết, số lượng của mỗi loại, yêu cầu về việc ký phát từng loại đó... - Việc áp dụng “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 500 bản sửa đổi năm 1993 “Đây là văn bản pháp lý thông dụng về tín dụng chứng từ của phòng Thương mại Quốc tế. Tuy nhiên, việc sử dụng bản quy tắc này mang tính chất tuỳ ý. Do vậy, nếu các bên tham gia muốn áp dụng thì phải dẫn chiếu tới trong hợp đồng. Và chính vì nó là quy phạm tuỳ ý, nên ngay cả khi dẫn chiếu tới trong hợp đồng, các bên vẫn có thể thoả thuận để sửa đổi một hay nhiều nội dung nào đó. Ngoài ra cũng giống như Incoterms, khi dẫn chiếu cần phải chú ý ghi cụ thể là “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 500, bản sửa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc174. Han che rui ro trong ky ket hop dong NK.doc
Tài liệu liên quan