Tài liệu Khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ trong xử lý nước thải lò giết mổ gia súc bằng công nghệ keo tụ – tạo bông: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018 
28 
Khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ trong xử lý nước thải 
lò giết mổ gia súc bằng công nghệ keo tụ – tạo bông 
A study on Auxiliary Coagulant Dosage for Slaughter-House Wastewater Treatment 
by Coagulation-Flocculation Technology 
ThS. Lê Hoàng Việt, Trường Đại học Cần Thơ 
Le Hoang Viet, M.Sc., Can Tho University 
Nguyễn Thị Huyền Trân, Trường Đại học Cần Thơ 
Nguyen Thi Huyen Tran, Can Tho University 
Hoàng Thị Hiếu, Trường Đại học Cần Thơ 
Hoang Thi Hieu, Can Tho University 
PGS.TS. Nguyễn Võ Châu Ngân, Trường Đại học Cần Thơ 
Nguyen Vo Chau Ngan, Assoc. Prof., Ph.D., Can Tho University 
Tóm tắt 
Nghiên cứu này được tiến hành ở qui mô phòng thí nghiệm nhằm khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ 
phù hợp để xử lý nước thải lò giết mổ - một loại nước thải chứa nhiều SS và chất hữu cơ dễ phân hủy 
sinh học. Các kết quả nghiên cứu trên mô hình Jartest cho thấy, hiệu quả keo tụ - tạo bông nước thải lò 
giế...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ trong xử lý nước thải lò giết mổ gia súc bằng công nghệ keo tụ – tạo bông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018 
28 
Khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ trong xử lý nước thải 
lò giết mổ gia súc bằng công nghệ keo tụ – tạo bông 
A study on Auxiliary Coagulant Dosage for Slaughter-House Wastewater Treatment 
by Coagulation-Flocculation Technology 
ThS. Lê Hoàng Việt, Trường Đại học Cần Thơ 
Le Hoang Viet, M.Sc., Can Tho University 
Nguyễn Thị Huyền Trân, Trường Đại học Cần Thơ 
Nguyen Thi Huyen Tran, Can Tho University 
Hoàng Thị Hiếu, Trường Đại học Cần Thơ 
Hoang Thi Hieu, Can Tho University 
PGS.TS. Nguyễn Võ Châu Ngân, Trường Đại học Cần Thơ 
Nguyen Vo Chau Ngan, Assoc. Prof., Ph.D., Can Tho University 
Tóm tắt 
Nghiên cứu này được tiến hành ở qui mô phòng thí nghiệm nhằm khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ 
phù hợp để xử lý nước thải lò giết mổ - một loại nước thải chứa nhiều SS và chất hữu cơ dễ phân hủy 
sinh học. Các kết quả nghiên cứu trên mô hình Jartest cho thấy, hiệu quả keo tụ - tạo bông nước thải lò 
giết mổ với 225 mg/L PAC kết hợp 3 mg/L polymer là tốt nhất, hiệu suất loại bỏ COD đạt 84,91%, độ 
đục đạt 99,55%. Áp dụng các thông số lựa chọn trên vào mô hình bể keo tụ - tạo bông, chúng tôi thấy, 
hiệu suất xử lý COD và Ptổng của nước thải lần lượt đạt 73,39% và 79,31%. Chất lượng nước thải sau xử 
lý keo tụ - tạo bông phù hợp để đưa sang công đoạn xử lý sinh học tiếp theo. 
Từ khóa: bộ Jartest, chất trợ keo tụ, keo tụ - tạo bông, nước thải lò giết mổ. 
Abstract 
This research was conducted at a lab scale model to find out the optimum quantity of auxiliary 
coagulant for treating slaughter-house wastewater - a source of wastewater with high concentration of 
SS and bio-degradable organic compounds. The results of the Jartest testing showed that slaughter-
house wastewater coagulated and flocculated with 225 mg/L PAC, combined with 3 mg/L cationic-
polymer, getting the optimum removal efficiency of turbidity at 99.55%, and COD at 84.91%. Applied 
the chosen parameters into the coagulation-flocculation pilot testing, the treatment efficiency of Ptotal 
and COD were 79.31% and 73.39%, respectively. The treated wastewater after coagulation-flocculation 
process has enough nutrients to access into the next biological treatment steps. 
Keywords: Jartest apparatus, auxiliary coagulant, coagulation-flocculation, slaughter-house wastewater. 
LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN 
29 
1. Giới thiệu 
Hiện nay đời sống vật chất của con 
người được nâng cao dẫn đến nhu cầu tiêu 
thụ hàng hóa trong đó có lương thực, thực 
phẩm ngày càng tăng. Một trong những 
nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho 
con người là các sản phẩm chế biến từ thịt 
gia súc, gia cầm. Vì vậy, các hoạt động 
nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm diễn ra 
ngày càng nhiều với qui mô lớn để đáp ứng 
nhu cầu này. 
Lượng nước trung bình sử dụng để giết 
mổ một con heo có thể lên đến 0,5 m3 sinh 
ra nước thải chứa chất hữu cơ, các chất rắn 
như vụn xương, thịt vụn, mỡ, lông, móng, 
phân Nồng độ BOD5 của nước thải giết 
mổ gia súc, gia cầm có thể lên đến 1.800 
mg/L, COD là 2.700 mg/L và SS là 810 
mg/L (Lâm Minh Triết và ctv., 2008). Với 
tải lượng các chất ô nhiễm cao, nước thải 
giết mổ cần được xử lý phù hợp để không 
gây ô nhiễm nguồn tiếp nhận. Nhưng hiện 
nay, hầu hết các cơ sở giết mổ gia súc, gia 
cầm chưa có hệ thống xử lý nước thải hoặc 
đã có song vận hành chưa hiệu quả. 
Ở Việt Nam, để loại bỏ phần lớn chất 
rắn lơ lửng và dầu mỡ cùng một phần chất 
hữu cơ trong nước thải lò giết mổ, Lâm 
Minh Triết và ctv. (2008) đã đề xuất các 
hình thức xử lý bao gồm tuyển nổi, keo tụ - 
tạo bông. Hà và Hương (2017) đã nghiên 
cứu xử lý nước thải lò giết mổ bằng quy 
trình keo tụ và ghi nhận các loại phèn 
nhôm có hiệu suất xử lý chất hữu cơ và 
dưỡng chất trên 90%. Tuy nhiên, chưa có 
ghi nhận về những nghiên cứu sử dụng 
chất trợ keo tụ để làm tăng hiệu suất xử lý 
nước thải lò giết mổ. 
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm 
tìm ra liều lượng chất trợ keo tụ phù hợp về 
mặt kỹ thuật và kinh tế, để thiết kế và vận 
hành bể keo tụ - tạo bông trong xử lý nước 
thải có nồng độ ô nhiễm cao từ các lò giết 
mổ, góp phần bảo vệ môi trường. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng 
nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện tại các 
phòng thí nghiệm của Bộ môn Kỹ thuật 
Môi trường, Khoa Môi trường và Tài 
nguyên Thiên nhiên, Trường Đại học Cần 
Thơ trong khoảng thời gian từ tháng 01 
đến tháng 4 năm 2017. 
Đối tượng thí nghiệm là nước thải của 
hoạt động giết mổ (chủ yếu giết mổ heo) 
được thu thập từ hố thu nước thải của cơ 
sở chế biến thực phẩm tại phường An 
Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần 
Thơ. Thời gian lấy mẫu khoảng 5 giờ sáng 
hàng ngày. 
2.2. Hóa chất, thiết bị 
2.2.1. Hóa chất 
Chất keo tụ gồm phèn sắt 
[FeCl3.6H2O] độ tinh khiết ≥ 99% và PAC 
[Aln(OH)mCl3n-m] độ tinh khiết ≥ 30%; cả 
hai đều có xuất xứ Trung Quốc. 
Chất trợ keo tụ được sử dụng là 
polymer cation specfloc C-1492 HMW, 
Anh quốc. 
2.2.2. Thiết bị 
Thiết bị Jartest: các thí nghiệm xác 
định thông số vận hành của chất keo tụ 
thực hiện trên bộ Jartest ET750 Lovibond 
với cốc chứa 1 L. 
Mô hình bể keo tụ - tạo bông: thiết kế 
với lưu lượng nước thải Q = 0,4 L/phút 
bằng thủy tinh dày 5 mm, có hệ thống cánh 
khuấy truyền động bằng motor. Mô hình có 
hai phần kết hợp với nhau: (i) bể keo tụ 
(gồm 1 ngăn khuấy trộn hóa chất và 2 ngăn 
tạo bông), và (ii) bể lắng cơ học theo 
phương ngang. 
KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC 
30 
Bảng 1. Thông số thiết kế của mô hình 
Bể keo tụ 
Thông số 
Ngăn trộn 
hóa chất 
Ngăn khuấy 
nhanh 
Ngăn khuấy 
chậm 
Ngăn lắng 
Thời gian phản ứng (phút) 1 - 2 10 - 30 10 - 30 - 
Thời gian lưu (phút) 1,5 13 13 60 
Thể tích (L) 0,6 5,2 5,2 24 
Kích thước (m × m) 0,1 × 0,1 0,15 × 0,175 0,15 × 0,175 0,15 × 0,8 
Chiều cao mực nước (m) 0,06 0,2 0,2 20 
Vận tốc khuấy (vòng/phút) 150 80 40 - 
Hình 1. Sơ đồ bố trí các thí nghiệm định hướng trên bộ Jartest 
LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN 
31 
Thiết bị phân tích mẫu: các chỉ tiêu 
đầu vào và đầu ra của mẫu nước được 
phân tích bằng những phương pháp phù 
hợp với tiêu chuẩn theo quy định của 
APHA, AWWA, WEF (2005) tại các 
phòng thí nghiệm Kỹ thuật Môi trường, 
Đại học Cần Thơ. 
3. Kết quả - thảo luận 
3.1. Thành phần và tính chất nước 
thải lò giết mổ 
Mẫu nước thải được lấy tại hố thu nước 
thải của lò giết mổ trong 03 ngày liên tiếp 
(từ 15 - 17/01/2017) để phân tích các chỉ 
tiêu ô nhiễm làm cơ sở cho việc xem xét đặc 
điểm của nước thải có phù hợp với phương 
án xử lý được đề xuất hay không. 
Bảng 2. Thành phần, đặc điểm của nước thải thí nghiệm 
Chỉ tiêu Đơn vị 
Nồng độ trung bình 
(n = 3) 
QCVN 62-MT:2016 
/BTNMT (cột B)* 
pH - 6,51 ± 0,02 5,5 - 9,0 
DO mg/L 0,13 ± 0,11 - 
Độ đục NTU 633,33 ± 34,12 - 
SS mg/L 214,80 ± 26,57 150 
BOD5 mg/L 1523,30 ± 64,26 100 
COD mg/L 2649,00 ± 565,77 300 
TKN mg/L 151,54 ± 36,15 150 
Ptổng mg/L 32,00 ± 2,00 - 
Tổng Coliform MPN/100 mL 4,90×105 ± 0,75×105 5.000 
Note: * Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi 
Về cảm quan, nước thải có màu đỏ của 
máu, nhiều cặn lơ lửng, mỡ, lông và có mùi 
hôi. Kết quả phân tích cho thấy, nước thải 
bị ô nhiễm hữu cơ, hàm lượng cặn lơ lửng 
và máu cao cần phải có biện pháp xử lý sơ 
cấp phù hợp để giảm tải cho công đoạn xử 
lý sinh học. Nước thải có pH nằm trong 
khoảng 6,5 - 7,5 thích hợp cho việc sử dụng 
FeCl3.6H2O và PAC keo tụ nước thải. 
3.2. Kết quả thí nghiệm định hướng 
Thí nghiệm định hướng được thực 
hiện một lần trên bộ Jartest để chọn loại và 
liều lượng phèn thích hợp cho keo tụ nước 
thải lò giết mổ. Thí nghiệm tiến hành với 
liều lượng FeCl3.6H2O được thay đổi ở các 
khoảng liều lượng biến thiên từ 400 đến 
650 mg/L, đối với PAC là từ 150 đến 400 
mg/L (mỗi mức liều lượng cách nhau 50 
mg/L). Trong quá trình thí nghiệm, quan 
sát bông cặn và quá trình lắng, lấy mẫu 
nước đo độ đục để đánh giá hiệu quả keo tụ 
và phân tích COD của mẫu nước thải có độ 
đục thấp nhất để đánh giá khả năng loại bỏ 
chất hữu cơ của biện pháp keo tụ. 
Đối với thí nghiệm keo tụ bằng phèn 
sắt, khi cho FeCl3.6H2O vào khuấy và để 
lắng các bông cặn bắt đầu hình thành, từ 
liều lượng 400 mg/L đến 550 mg/L 
FeCl3.6H2O các bông cặn lớn dần và lắng 
tốt, độ đục của nước thải sau keo tụ giảm 
mạnh. Độ đục của nước thải giảm là do 
FeCl3.6H2O tạo nên các ion Fe3+ có khả 
KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC 
32 
năng trung hòa điện tích các hạt keo, làm 
mất tính ổn định của các hạt keo, do đó các 
hạt keo có thể kết với nhau tạo thành bông 
cặn và lắng xuống. Thêm vào đó, 
FeCl3.6H2O còn tạo các phức hay phản ứng 
với alkalinity của nước thải, hình thành 
Fe(OH)3 kết tủa hấp phụ các hạt keo và kéo 
theo chất rắn lơ lửng trong nước thải lắng 
xuống. Ở liều lượng từ 550 mg/L đến 650 
mg/L tạo các bông cặn lớn hơn và lắng 
nhanh, tuy nhiên độ đục của nước thải sau 
keo tụ tăng trở lại, điều này cho thấy hiệu 
quả keo tụ của FeCl3.6H2O giảm khi liều 
lượng phèn thêm vào bị dư. Điều này là do 
khi sử dụng chất keo tụ quá liều, lượng 
Fe3+ trong nước tăng cao các hạt keo hút 
nhiều các ion Fe3+ sẽ tái ổn định (mang 
điện tích dương của ion Fe3+); thêm vào đó 
ở liều lượng cao các bông cặn phát triển 
quá lớn, lắng nhanh và bỏ sót lại các bông 
cặn nhỏ làm độ đục tăng. 
Tương ứng với độ đục thấp nhất đạt 
được ở liều lượng 550 mg/L FeCl3.6H2O, 
khi đó COD giảm từ 2750 mg/L xuống còn 
1150 mg/L, đạt hiệu suất loại COD là 
58,18%. 
Hình 2. Độ đục của nước thải và hiệu suất xử lý ở các mức liều lượng FeCl3.6H2O khác nhau 
Hình 3. Độ đục của nước thải và hiệu suất xử lý ở các mức liều lượng PAC khác nhau 
LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN 
33 
Đối với thí nghiệm keo tụ bằng PAC, 
khi cho PAC vào nước thải khuấy và để 
lắng, các bông cặn hình thành và phát triển 
dần: liều lượng PAC từ 150 mg/L đến 250 
mg/L, cho các bông cặn lớn và khả năng 
lắng tốt độ đục giảm rõ rệt; ở liều lượng 
PAC từ 250 mg/L đến 400 mg/L, tạo các 
bông cặn lớn hơn và lắng nhanh nhưng 
trong nước còn nhiều cặn lơ lửng nhỏ 
không kết vào bông cặn lớn nên độ đục của 
nó tăng cao. Sau khi keo tụ nước thải vẫn 
còn màu đỏ của máu. Độ đục của nước thải 
tăng giảm có cơ chế giống thí nghiệm 
FeCl3.6H2O nhưng PAC tạo ra các ion Al3+ 
và Al(OH)3. Độ đục thấp nhất đạt được ở 
liều lượng PAC là 250 mg/L, khi đó COD 
giảm từ 2750 mg/L xuống còn 1250 mg/L 
đạt hiệu suất loại COD là 54,55%. 
Kết quả thí nghiệm cho thấy hiệu quả 
loại bỏ COD và độ đục của FeCl3.6H2O tốt 
hơn PAC, nhưng việc lựa chọn loại phèn 
nào để áp dụng còn phụ thuộc vào chi phí 
hóa chất. Tính toán chi phí hóa chất sử 
dụng cho quá trình xử lý như Bảng 3. 
3.2. Kết quả xử lý COD, TSS, độ màu 
Bảng 3. So sánh chi phí hóa chất sử dụng cho thí nghiệm 
Hóa chất keo tụ Liều lượng sử dụng 
(mg/L) 
Đơn giá hóa chất 
(đồng/kg) 
Chi phí xử lý 
(đồng/m3) 
FeCl3.6H2O 550 42.000 23.100 
PAC 250 17.000 4.250 
Tính toán so sánh trên cho thấy tuy 
khả năng loại bỏ COD của FeCl3.6H2O cao 
hơn PAC, nhưng chi phí hóa chất để keo tụ 
bằng PAC rẻ hơn rất nhiều so với 
FeCl3.6H2O. Do đó, PAC với liều lượng 
250 mg/L được chọn làm chất keo tụ cho 
các thí nghiệm định hướng tiếp theo. Chọn 
lựa này cũng phù hợp với kết quả nghiên 
cứu trước đó của Lê Hoàng Việt và ctv. 
(2015), Đào Minh Trung và ctv. (2016). 
3.3. Kết quả thí nghiệm Jartest 
3.3.1. Thí nghiệm xác định liều lượng 
polymer thích hợp hỗ trợ quá trình keo tụ 
Hiệu quả của quá trình keo tụ bằng các 
loại phèn có thể tăng cao khi sử dụng chất 
trợ keo tụ là polymer. Giá thành của 
polymer tuy cao, nhưng liều lượng sử dụng 
rất thấp (chỉ vài mg/L), nên việc bổ sung 
polymer không làm tăng đáng kể chi phí 
nhưng làm tăng hiệu quả loại bỏ độ đục và 
COD của quá trình keo tụ. Thí nghiệm này 
tiến hành trên bộ Jartest với liều lượng chất 
keo tụ PAC cố định ở tất cả các cốc là 250 
mg/L, liều lượng chất trợ keo tụ polymer 
bổ sung vào các cốc biến thiên từ 2 - 4 
mg/L. Trong quá trình thí nghiệm, quan sát 
quá trình tạo bông, lắng, lấy mẫu nước đo 
pH, độ đục và COD làm cơ sở để đánh giá 
hiệu quả keo tụ của PAC kết hợp với 
polymer. 
Thông số pH của nước thải đầu vào là 
6,3, sau khi qua xử lý keo tụ biến thiên 
không nhiều, lần lượt đạt các giá trị 5,9; 
6,0; 6,1; 5,8; 5,9; 5,8 tương ứng với các 
ngưỡng liều lượng chất trợ keo tụ là 0,0 
mg/L, 2,0 mg/L, 2,5 mg/L, 3,0 mg/L, 3,5 
mg/L và 4,0 mg/L. Wang và ctv. (2005) ghi 
nhận ngưỡng pH phù hợp để keo tụ nước 
thải bằng phèn sắt là 4,0 - 6,5 và > 8,5. Như 
vậy, các giá trị pH ghi nhận được trong thí 
KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC 
34 
nghiệm này đều nằm trong khoảng phù hợp 
để tiến hành keo tụ nước thải. 
Độ đục của nước thải đầu vào là 549 
NTU, sau keo tụ giảm mạnh nhưng không 
có chiều hướng rõ rệt. Khi cho polymer vào 
theo cách tăng liều lượng thì bông cặn hình 
thành càng lớn và nhiều, các bông cặn lắng 
xuống làm giảm độ đục của nước thải. Tiếp 
tục tăng lượng polymer, các hạt keo sẽ tái 
ổn định, bông cặn được hình thành lớn hơn 
và lắng rất nhanh nên có thể bỏ sót lại các 
bông cặn nhỏ làm tăng độ đục của nước. 
Hình 4. Độ đục của nước thải khi kết hợp PAC các mức polymer khác nhau 
Hình 5. COD của nước thải khi kết hợp PAC các mức polymer khác nhau 
Ở các cốc có chất trợ keo tụ liều lượng 
từ 0,0 đến 2,5 mg/L hiệu quả keo tụ giảm, 
COD của nước thải sau keo tụ cao hơn khi 
không bổ sung polymer. Điều này do các 
polymer cũng là các hợp chất hữu cơ, nếu 
liều lượng chưa đủ sẽ không thể tạo cầu nối 
các hạt keo, làm cho hiệu quả loại bỏ COD 
giảm. Ở liều lượng polymer 3,0 mg/L cho 
hiệu quả loại bỏ COD cao nhất (hiệu suất 
xử lý đạt 72,87%), do lượng polymer đó đã 
đủ để tạo cầu nối hạt keo làm tăng khả năng 
lắng. Hiệu suất xử lý này thấp hơn kết quả 
nghiên cứu của Ha và Huong (2017) nhưng 
cao hơn ghi nhận của Metcalf & Eddy 
LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN 
35 
(1991) từ 30 - 60%. Khi tiếp tục tăng liều 
lượng polymer, các bông cặn nhỏ có thể bị 
bỏ sót lại theo cơ chế đã giải thích ở trên 
làm giảm hiệu quả loại bỏ COD. 
Dựa vào kết quả trên, liều lượng 
polymer 3,0 mg/L kết hợp với 250 mg/L 
PAC được chọn để tiến hành thí nghiệm xác 
định lượng chất keo tụ kết hợp với polymer. 
3.3.2. Thí nghiệm xác định lượng chất 
keo tụ ở khoảng thu hẹp kết hợp với polymer 
Việc sử dụng polymer là chất trợ keo 
tụ có thể làm thay đổi liều lượng PAC cần 
sử dụng, do đó thí nghiệm này được tiến 
hành để xác định lại liều lượng PAC. Kết 
quả của thí nghiệm 1 đã ghi nhận liều 
lượng PAC là 250 mg/L, nên trong thí 
nghiệm này liều lượng PAC được cho biến 
thiên từ 200 đến 300 mg/L; mỗi mức liều 
lượng cách nhau 25 mg/L, riêng liều lượng 
polymer được giữ cố định ở mức 3,0 mg/L. 
Thông số pH của nước thải đầu vào là 
6,5, qua xử lý keo tụ có biến thiên nhưng 
không đều; lần lượt đạt các giá trị 5,7; 6,2; 
6,1; 6,0; 5,9; 5,6 tương ứng với các ngưỡng 
liều lượng chất keo tụ PAC là 200 mg/L, 
225 mg/L, 250 mg/L, 275 mg/L và 300 
mg/L. Như vậy, các giá trị pH đo được 
trong thí nghiệm này đều nằm trong 
khoảng phù hợp ghi nhận bởi Wang và ctv. 
(2005) để tiến hành keo tụ nước thải. 
Hình 6. Độ đục của nước thải sau keo tụ ở liều lượng polymer cố định kết hợp PAC 250 mg/L 
Hình 7. COD của nước thải sau keo tụ ở liều lượng polymer cố định kết hợp PAC 250 mg/L 
KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC 
36 
Kết quả cho thấy, độ đục sau keo tụ 
thấp nhất ở liều lượng 200 mg/L PAC kết 
hợp 3 mg/L polymer (hiệu suất xử lý đạt 
99,55%), còn COD sau keo tụ thấp nhất ở 
liều lượng 225 mg/L PAC kết hợp với 3 
mg/L polymer (hiệu suất xử lý đạt 
84,91%). 
Với mục tiêu chủ yếu là giảm tải nạp 
chất hữu cơ cho các công đoạn tiếp theo 
trong thực tế xử lý nước thải, liều lượng 
PAC 225 mg/L kết hợp với 3 mg/L 
polymer được chọn để tiến hành thí 
nghiệm trên mô hình bể keo tụ - tạo bông. 
3.4. Kết quả thí nghiệm chính thức 
trên mô hình bể keo tụ - tạo bông 
Thí nghiệm này được tiến hành trên 
mô hình bể keo tụ - tạo bông để kiểm 
chứng lại kết quả thí nghiệm đã thực hiện 
trên bộ Jartest. Các thông số thí nghiệm 
bao gồm liều lượng PAC 225 mg/L kết hợp 
với 3 mg/L polymer. Do chỉ có một mô 
hình thí nghiệm nên không bố trí lặp lại mà 
nước thải đầu vào và đầu ra được thu thập, 
phân tích ở 3 ngày liên tiếp. 
Hình 8. COD, TP của nước thải trước và sau khi qua mô hình keo tụ - tạo bông 
Sau quá trình keo tụ - tạo bông, COD 
trong nước thải giảm từ 1740,35 mg/L 
xuống còn 463,16 mg/L, hiệu suất xử lý 
đạt 73,39% cao hơn ghi nhận của Metcalf 
& Eddy (1991) từ 30 - 60%. TP giảm từ 19 
mg/L xuống còn 4 mg/L, hiệu suất xử lý 
đạt 79,31% nằm trong khoảng 70 - 90% 
ghi nhận bởi Metcalf & Eddy (1991). Tuy 
nhiên, hiệu suất này thấp hơn ghi nhận của 
Hà và Hương (2017). 
Mặc dù hàm lượng COD còn khá cao 
nhưng tỉ lệ COD/P trong nước thải sau xử 
lý đạt xấp xỉ 100/1, nên lượng dưỡng chất 
trong nước thải đầu ra của bể keo tụ đủ để 
đưa vào công đoạn xử lý sinh học tiếp theo. 
4. Kết luận - kiến nghị 
Nghiên cứu này đã thực hiện thí 
nghiệm Jartest xử lý nước thải lò giết mổ 
với lượng chất keo tụ PAC là 225 mg/L, 
kết hợp với 3 mg/L chất trợ keo tụ 
polymer, hiệu suất xử lý nước thải đạt tối 
ưu với độ đục loại bỏ 99,55% và COD đạt 
84,91%. 
Ứng dụng xử lý nước thải lò giết mổ 
trên mô hình bể keo tụ - tạo bông với cùng 
liều lượng chất keo tụ và trợ keo tụ, hiệu 
LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN 
37 
suất loại bỏ COD là 73,39% và Ptổng là 
79,31%. Nước thải sau xử lý phù hợp để đưa 
sang các công đoạn xử lý sinh học tiếp theo. 
Quá trình keo tụ - tạo bông sẽ tạo ra 
bùn thải có thể chứa dư lượng hóa chất gây 
độc, do đó cần có thêm những nghiên cứu 
khác để đánh giá thành phần bùn thải, tìm 
hiểu xử lý lượng bùn thải sinh ra từ quá 
trình keo tụ - tạo bông, hạn chế ô nhiễm 
cho nguồn tiếp nhận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. APHA, AWWA, WEF (2005), Standard 
methods for the examination of water and 
waste-water, 21st ed, American Public Health 
Association, American Water Works 
Association, Water Environment Federation, 
Washington DC. 
2. Bui Manh Ha, Duong Thi Giang Huong 
(2017), “Coagulation in treatment of swine 
slaughterhouse wastewater”, GeoScience 
Engineering LXIII(1) 15-21. 
3. Đào Minh Trung, Nguyễn Võ Châu Ngân, 
Ngô Kim Định (2016), “Hiệu quả xử lí nước 
thải dệt nhuộm của chất trợ keo tụ hóa học và 
sinh học”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư 
Phạm TP. HCM, 9(87): 127-137. 
4. Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh Hùng, 
Nguyễn Phước Dân (2008), Xử lý nước thải 
đô thị và công nghiệp, Nxb Đại học Quốc gia 
TP. Hồ Chí Minh. 
5. Lê Hoàng Việt, Nguyễn Võ Châu Ngân, 
Nguyễn Thị Mỹ Phương, Đặng Thị Thúy 
(2014), “Nghiên cứu xử lý nước thải lò giết 
mổ bằng phương pháp keo tụ quy mô phòng 
thí nghiệm và mô hình bể keo tụ tạo bông kết 
hợp lắng”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học 
Cần Thơ, 34a: 108-118. 
6. Lê Hoàng Việt, Nguyễn Võ Châu Ngân, 
Nguyễn Văn Ngâm, Trịnh Dương Sơn Tùng 
(2015), “Xử lý sơ cấp nước thải chế biến cá 
tra bằng phương pháp keo tụ”, Tạp chí Khoa 
học Trường Đại học Cần Thơ, 40a: 101-109. 
7. Metcalf & Eddy (1991), Wastewater 
engineering: Treatment, disposal, reuse, 
McGraw Hill Inc. 
8. Sun M., Yu P. F., Fu1 J. X., Ji X. Q., Jiang T. 
(2017), “Treatment of slaughter wastewater 
by coagulation sedimentation - anaerobic 
biological filter and biological contact 
oxidation process”, IOP Conf. Ser.: Earth 
Environ. Sci. 82 012021. 
9. Trịnh Xuân Lai (2011), Xử lý nước cấp sinh 
hoạt và công nghệ, Nxb Xây dựng Hà Nội. 
10. Văn phòng Chính phủ (2016), Thông tư 
04:2016/TT-BTNMT ban hành QCVN 62-
MT: 2016/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật 
quốc gia về nước thải chăn nuôi, Công báo số 
349+350. 
11. Wang L. K, Yung-Tse Hung, Nazih K. 
Shamas (2005), Physico-chemmical treatment 
processes, Humana Press. 
Ngày nhận bài: 24/10/2017 Biên tập xong: 15/7/2018 Duyệt đăng: 20/7/2018 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 94_2028_2214999.pdf 94_2028_2214999.pdf