Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 252
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG CHỎM XƯƠNG QUAY 
Lê Nguyên Bình*, Đỗ Phước Hùng**, Trương Trọng Tín** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Chỏm xương quay là cấu trúc có vai trò quan trọng trong chức năng của khớp khuỷu. Sự hiểu 
biết về đặc điểm giải phẫu học của chỏm quay cùng mối liên quan với các cấu trúc lân cận sẽ giúp cho việc điều trị 
trong trường hợp gãy chỏm quay không thể phục hồi giải phẫu (Mason III, IV) một cách tốt nhất. 
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm giải phẫu học của chỏm xương quay và một số đặc điểm các cấu trúc lân 
cận có thể tiên đoán được kích thước chỏm xương quay. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Gồm các khuỷu tay được cắt từ tay tại Bệnh viện 
Chợ Rẫy, Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình và của xác tươi người Việt Nam trưởng thành tại Bộ môn Giải 
Phẫu Học - Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 
Kết quả: Có 34 khuỷu tay được phẫu tích. Đường kính lớn nhất của chỏm quay (Dmax) là: 
23,11mm±1,88mm ; đường kính nhỏ nhất (Dmin): 21,56mm±1,69mm. Đa số chỏm có dạng elip (79,4%), còn lại 
là dạng hình tròn (20,6%). Chiều cao chỏm quay (h): 11,41±1,44mm. Góc nghiêng của chỏm quay trên mặt phẳng 
trán: 3,410±1,78 và trên mặt phẳng đứng dọc: 7,580 ± 3,06. Độ sâu hố chỏm quay trung bình là: 2,25±0,34 mm. 
Đường kính trước sau cổ xương quay: 13,79 ± 1,28 mm. Đường kính trong ngoài cổ xương quay: 13,51±1,41 
mm. Góc cổ thân trung bình: 162,56 ± 3,62 (trên mặt phẳng trán) và 173,43±2,84 (trên mặt phẳng đứng dọc). 
Đường kính lớn nhất và nhỏ nhất (Dmax và Dmin) có tương quan mạnh với khoảng cách từ bờ ngoài chỏm con 
xương cánh tay đến bờ ngoài ròng rọc (CAP-TRO) (r= 0.81). Chiều cao chỏm quay (h) có tương quan mạnh với 
chiều cao khuyết quay của xương trụ (h_trụ) (r= 0,81). 
Kết luận: Các số đo về hình thái học chỏm quay và các cấu trúc lân cận làm cơ sở tham khảo cho việc thiết kế 
chỏm quay nhân tạo. 
Từ khóa: chỏm quay, chỏm con xương cánh tay, chỏm quay nhân tạo, khuyết quay xương trụ. 
ABSTRACT 
RADIAL HEAD: A STUDY OF CLINICAL ANATOMY 
Le Nguyen Binh, Do Phuoc Hung, Truong Trong Tin 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 252 - 258 
Introduction: Radial head is an important structure on the elbow’s movement. In practice, proper treament 
and better outcome need throughout knowledge in morphological features of radial head and the landmarks with 
surrounding structures. 
Objectives: The purpose of the study was to identify anatomical features and correlation of radial head’s 
main features with some features of humeral capitellum and proximal ulna. 
Methods: Serial cases study. We studied thirty fresh cadaveric hands and four amputated upper extremities. 
Results: The maximum diameter (Dmax) is: 23.11mm±1.88mm; the minimum diameter (Dmin): 
21.56mm±1.69mm. Most of the radial head shape is eliptical (79.4%), the other is circular (20.6%). Radial head 
* Khoa Chấn thương chỉnh hình – BV Chợ Rẫy 
** Bộ môn Chấn thương chỉnh hình và Phục hồi chức năng - Đại học Y dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Lê Nguyên Bình, ĐT: 01267455213, Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 253
height (h) is: 11.41±1.44mm. The inclination of radial head relative to its neck is 3.410±1.78 (frontal view) and 
7.580 ±3.06 (sagittal view). Radial head fovealis depth is 2.25±0.34 mm. The anteroposterial diameter of 
radial neck is 13.79±1.28 mm, the mediolateral diameter of radial neck is 13.51±1.41 mm. The angle between 
neck and diaphysis is 162.56±3.62 (frontal view) and 173.43±2.84 (sagittal view). Dmax and Dmin have 
strong correlation with CAP-TRO (r=0.81). Radial height has strong correlation with the height of lesser 
sigmoid notch of the ulna (r=0.81). 
Conclusions: The features of radial head and surrounding landmarks provide a remarkable data for 
designing the proper radial head prosthetics. 
Keywords: radial head, capitellum, radial head prosthetic, lesser sigmoid notch. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chỏm xương quay đóng vai trò như một yếu 
tố giữ vững thứ phát chống lại sự vẹo ngoài của 
khuỷu và chống bán trật ra sau khi khuỷu gấp(6). 
Chỏm quay chịu xấp xỉ 30% lực chống vẹo ngoài 
của khuỷu và chịu 60% lực truyền tải qua khớp 
khuỷu khi khuỷu gấp và 20% lực truyền tải khi 
khuỷu duỗi(13). Gãy chỏm xương quay chiếm 1/3 
các tổn thương khớp khuỷu ở người lớn và có 
xuất độ 2,5 đến 2,8 trên 10000 người lớn mỗi 
năm(3,5). Việc điều trị gãy chỏm xương quay là 
một thách thức với các bác sĩ lâm sàng bởi vì 
không phải lúc nào cũng có thể bảo tồn được 
chỏm xương quay, đặc biệt trong trường hợp 
gãy nát (Mason III, IV). Theo Tejwani,các 
phương pháp điều trị như kết hợp xương cho 
thấy các kết quả còn nhiều hạn chế, trong khi 
phương pháp cắt chỏm quay có thể sự di chuyển 
lên trên của xương quay, hậu quả về lâu dài sẽ 
gây ra tổn thương Essex- Lopressti(10,11,16). Từ 
những khó khăn đó, phương pháp thay chỏm 
xương quay nhân tạo ra đời. Đây là phương 
pháp hữu ích trong các trường hợp gãy chỏm 
xương quay không thể phục hồi bằng phương 
pháp kết hợp xương(4,16). 1941, Speed(8) mô tả lần 
đầu tiên việc thay chỏm xương quay bằng chỏm 
quay nhân tạo từ kim loại, tuy nhiên kết quả đạt 
được còn khiêm tốn. Yếu tố quyết định thành 
công trong phẫu thuật thay chỏm xương quay 
nhân tạo chính là sự tương thích với kích thước 
và hình dáng giải phẫu của chỏm xương quay 
cũng như việc định hướng chính xác. 
Trong thực tế lâm sàng, việc xác định các số 
đo về hình thái học chỏm xương quay trong 
phẫu thuật thay chỏm thường khó khăn do 
chỏm xương quay gãy nát, vì vậy một số tác giả 
thực hiện đo trên chỏm xương quay đối diện, 
tuy nhiên các số đo này được tính trên các 
phương tiện hình ảnh học nên có thể gây ra sai 
lệch(7). Để đáp ứng được sự tương thích đó, cần 
có một nghiên cứu xác định hình thái giải phẫu 
chỏm xương quay nhằm tạo thuận lợi cho việc 
chế tạo trang thiết bị trong phẫu thuật thay chỏm 
quay nhân tạo và xác định các yếu tố gián tiếp 
như sự tương quan của chỏm xương quay với 
các cấu trúc lân cận, từ đó giúp tiên đoán chính 
xác hình thái học của chỏm xương quay. 
Tại Việt Nam, Nguyễn Minh Tùng(14) báo cáo 
hồi cứu cho thấy tỉ lệ cắt chỏm quay là 25%, 
trong đó các kết quả theo dõi xa có đến 20% là 
trung bình và xấu. Tuy nhiên lại chưa có nghiên 
cứu nào về đặc điểm giải phẫu của chỏm xương 
quay làm nền tảng cho việc thay chỏm quay 
nhân tạo. Từ thực tế đó, chúng tôi quyết định 
tiến hành nghiên cứu "Khảo sát đặc điểm giải 
phẫu ứng dụng chỏm xương quay". 
Mục Tiêu nghiên cứu 
Xác định các đặc điểm giải phẫu học của 
chỏm xương quay và một số đặc điểm các cấu 
trúc lân cận có thể tiên đoán được kích thước 
chỏm xương quay. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 254
Đối tượng nghiên cứu 
- Các chỏm quay trên xác tươi tại bộ môn 
Giải phẫu học –Đại học y dược TP Hồ Chí Minh. 
- Các chỏm quay trên chi được cắt từ cánh 
tay do bệnh lí hoặc chấn thương động mạch, 
hoặc cắt do ung thư xương, phần mềm tại 
bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Chấn thương 
chỉnh hình. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
+ Xác có biến dạng vùng khuỷu. 
+ Có bằng chứng can thiệp phẫu thuật 
vùng khuỷu. 
+ Có bằng chứng u, viêm xương 
vùng khuỷu. 
Cỡ mẫu: 34 khuỷu tay. 
Phương pháp nghiên cứu 
Hình 1: Các kích thước chỏm quay được khảo sát. 
Với từng mẫu nghiên cứu, chúng tôi phẫu 
tích trên khuỷu tay xác tươi, bộc lộ chỏm quay, 
cắt các dây chằng và bao khớp xung quanh. 
Đánh dấu vị trí trước sau, trong, ngoài. Cắt đầu 
trên xương quay 5 cm dưới lồi củ quay, gắn 
chỏm quay cắt được lên chân đế theo hướng đã 
xác định, gắn chân đế + chỏm vào trục tọa độ 90-
90 chuẩn bị trước. Sau đó chúng tôi đo các kích 
thước của chỏm quay, các góc đo được đo trực 
tiếp bằng thước đo góc và chụp hình ở tư thế 
quy ước, các kích thước chỏm con và đo khuyết 
quay xương trụ (khuyết sigma nhỏ), xác định lại 
các góc đo bằng phần mềm Coreldraw 6.0 và xử 
lý, phân tích số liệu trên máy tính. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm hình thái học chỏm quay và cổ xương 
quay 
Đường kính lớn nhất của chỏm quay Dmax 
là: 23,11 ± 1,88 mm (18,50 – 25,53), đường kính 
này chúng tôi ghi nhận được nằm trên đường 
chéo ở vị trí đo trước trong đến sau ngoài, vị trí 
này theo nghiên cứu của chúng tôi là hằng định 
(34/34 mẫu), 
Đường kính nhỏ nhất của chỏm quay Dmin 
là: 21,56 ± 1,69 mm (17,81 – 24,07), chúng tôi ghi 
nhận số đo này trong các mẫu là ở vị trí trước 
ngoài đến sau trong (34/34 mẫu). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 255
Chúng tôi xác định hiệu số của Dmax-Dmin 
để làm căn cứ xác định hình dáng chỏm quay là 
hình tròn hay elip(2), nếu hiệu số này <= 1mm là 
dạng chỏm tròn, nếu >1mm là chỏm dạng elip. 
Kết quả có 27 trong 34 mẫu (chiếm 79,4%) có 
dạng elip và 7 mẫu có dạng hình tròn (chiếm 
20,6%). Tâm chỏm quay hơi lệch ra sau so với 
đường thẳng này trên những mẫu chỏm quay có 
dạng elip, và nằm trên đường thẳng này với 
những chỏm quay có dạng hình tròn, kết quả 
này ghi nhận trên 25/27 mẫu chỏm quay elip, và 
7/7 chỏm quay hình tròn 
Đường kính chỏm quay trước sau là: 22,76 ± 
1,90 mm, đường kính chỏm quay trong ngoài là: 
22,52 ± 1,85 mm 
Chiều cao chỏm quay ở vị trí trước, ngoài, 
sau, trong như trong bảng. 
Bảng 1: Chiều cao chỏm quay 
Chiều cao chỏm 
quay 
Kích thước (mm) Độ lệch chuẩn 
Trước 9,50 1,52 
Ngoài 8,79 1,46 
Sau 9,45 1,49 
Trong 11,41 1,44 
Góc nghiêng của chỏm quay trên mặt phẳng 
trán: 3,41 ± 1,78. Góc nghiêng của chỏm quay 
trên mặt phẳng đứng dọc: 7,58 ± 3,06.Chỏm quay 
nghiêng vào trong so với cổ xương quay (trên 
mặt phẳng trán) và nghiêng ra trước (trên mặt 
phẳng đứng dọc). 
Đường kính trước sau của hố chỏm quay là: 
13,96 ± 1,35mm. Đường kính trong ngoài của hố 
chỏm quay là: 13,75 ± 1,23mm. Độ dày của chu vi 
hố chỏm quay dày nhất ở phía trong trung bình 
là 4,90 ± 0,85mm. Độ sâu hố chỏm quay trung 
bình là: 2,25 ± 0,34mm. 
Đường kính trước sau cổ xương quay: 13,79 
± 1,28mm. Đường kính trong ngoài cổ xương 
quay: 13,51 ± 1,41mm. Góc cổ thân trung bình : 
162,56 ± 3,62 (trên mặt phẳng trán) và 173,43 ± 
2,84 (trên mặt phẳng đứng dọc). Cổ xương quay 
nghiêng ra ngoài và nghiêng ra sau so với thân 
xương quay (34/34 mẫu). 
Đặc điểm các yếu tố tiên đoán kích thước chỏm 
Chúng tôi ghi nhận một số kích thước có liên 
quan như sau: 
Chiều dài xương quay trung bình: 232,02 ± 
11,08 mm. 
Đường kính trước sau chỏm con xương cánh 
tay: 20,37 ± 1,83 mm. 
Đường kính trong ngoài của chỏm con 
xương cánh tay: 16,51 ± 1,30 mm. 
Khoảng cách từ bờ ngoài chỏm con tới bờ 
trong ròng rọc (CAP-TRO): 21,21 ± 1,85 mm. 
Độ cao của khuyết quay ở xương trụ: 
11,18 ± 1,40 mm. 
Dùng phép kiểm định tương quan Pearson, 
chúng tôi ghi nhận sự tương quan giữa các yếu 
tố như trong bảng: 
Bảng 2: Hệ số tương quang các yếu tố tiên đoán kích 
thước chỏm 
Yếu tố liên quan 
Hệ số tương 
quan 
CAP-TRO với Dmax 0,77 
CAP-TRO với Dmin 0,81 
Đường kính chỏm con trước sau với Dmax 0,69 
Đường kính chỏm con trước sau với 
Dmin 
0,59 
Đường kính chỏm con trong ngoài với 
Dmax 
0,44 
Đường kính chỏm con trong ngoài với 
Dmin 
0,48 
Chiều cao chỏm quay với chiều cao 
khuyết quay xương trụ 
0,81 
Chiều cao chỏm quay với chiều dài 
xương quay 
0,44 
Từ đó chúng tôi lập phương trình hồi quy để 
có công thức dự đoán cho các kích thước Dmax, 
Dmin, và chiều cao h. 
Dmax = 0,78 CAP-TRO + 6.45 (mm). 
Dmin = 0,73 CAP-TRO + 5,9 (mm). 
H = 0,83 h_tru + 2,12 (mm). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 256
BÀN LUẬN 
Đặc điểm hình thái học chỏm quay 
Về hình dáng của chỏm quay: chỏm quay có 
dạng hình tròn hay elip, đây là câu hỏi được đặt 
ra từ rất lâu và cũng chưa có sự thống nhất. Kết 
quả ghi nhận được 27 trong 34 mẫu (chiếm 
79,4%) có dạng elip và 7 mẫu có dạng hình tròn 
(chiếm 20,6%). Trong các mẫu có dạng chỏm 
elip, đường kính lớn nhất ghi nhận tại vị trí 
trước trong đến sau ngoài, còn đường kính nhỏ 
nhất ghi nhận tại vị trí trước ngoài đến sau trong 
(27/27 mẫu). Tương đồng với kết luận của King 
và Beredjeklian(1): đa số chỏm không phải hình 
tròn mà có dạng elip. Điều này khác biệt so với 
nghiên cứu của Captier: 57% chỏm hình elip và 
43% chỏm hình tròn. Từ đó chúng tôi cho rằng, 
chỏm quay ở người Việt Nam có dạng hình elip, 
gợi ý thiết kế một chỏm quay nhân tạo có dạng 
elip sẽ phù hợp hơn về cơ sinh học. 
Về đặc điểm các kích thước chỏm quay 
Bảng 3: Kích thước chỏm quay 
Nghiên cứu Số mẫu Dmax Dmin Chiều cao 
King
(7)
 28 24,3 ± 2,4 22,6 ± 2,4 
Captier
(2)
 96 21,7 ± 2,7 20,2 ± 2,7 15,9 ± 2,3 
Beredjiklian
(1)
 46 23 22 12 
Mahaisavariya
(12)
 40 20,5 20,5 12,9 ± 1,4 
Swiezkowski
(15)
 17 23,36 ± 1,14 10,14 ± 1,38 
Chúng tôi 34 23,11 ± 1,88 21,56 ± 1,69 11,41 ± 1,44 
Đường kính lớn nhất và nhỏ nhất trong 
nghiên cứu chúng tôi nhỏ hơn so với nghiên cứu 
của King(7) (đo trực tiếp trên xác tươi),và lớn hơn 
so với của Captier(2) (đo trên xác khô) (p<0,05), 
điều này có thể khác biệt do chủng tộc (khi so 
sánh với King), kích thước của chúng tôi hơi lớn 
hơn so với Captier, điều này được lý giải do mặt 
khớp chỏm quay được bao bọc một lớp sụn, các 
mẫu đo xương khô bị mất lớp sụn này làm cho 
số đo bị nhỏ đi so với thực tế.So với nghiên cứu 
của Mahaisavariya trên người châu Á, chúng tôi 
ghi nhận có sự khác biệt (p< 0,05) có ý nghĩa 
thống kê, điều này được lý giải vì tác giả sử 
dụng phương pháp đo đường kính trên CT-3D, 
phương pháp này được King và Beredjiklian cho 
rằng sẽ làm nhỏ kích thước thật sự vì không đo 
được lớp sụn của chỏm quay, hơn nữa tác giả 
Mahaisavariya giả định chỏm hình tròn nên chỉ 
tính đường kính trung bình bằng thuật toán, từ 
đó khó so sánh hình dạng chỏm như trong 
nghiên cứu của chúng tôi. 
Về chiều cao chỏm quay, kích thước chiều 
cao được tính là chiều cao tại vị trí phía trong của 
chỏm quay, do đây là vị trí có chiều cao lớn nhất 
(p<0,05), lại là vùng tiếp khớp với xương trụ(17). 
Chiều cao chỏm quay có vai trò rất quan trọng 
về mặt cơ sinh học, việc bảo tồn chiều cao chỏm 
quay là cần thiết để tránh các biến chứng ở cả 
khuỷu và cổ tay. Khi chiều cao chỏm quay giảm 
đi, sự di chuyển lên trên của chỏm quay về lâu 
dài sẽ làm trật khớp quay trụ dưới, gọi là tổn 
thương Essex-Lopressti(2). Ciều cao chỏm quay 
trong nghiên cứu của chúng tôi tương ứng với vị 
trí bên trong, đây cũng là vị trí có diện tiếp khớp 
với xương trụ theo nghiên cứu của Thái Hồng 
Phong và cs (2016)(17). Điều này cho thấy sự liên 
quan mật thiết về hình thái cũng như chức năng 
của phần bên trong chỏm quay với khớp quay 
trụ trên. So sánh với các nghiên cứu khác, chúng 
tôi nhận thấy chiều cao chỏm quay ở người Việt 
Nam là 11,41 mm (SD 1,44mm), kích thước này 
là khá nhỏ so với nghiên cứu của Captier(2) (đo 
trực tiếp trên xương khô) (p<0,05), cũng như nhỏ 
hơn so với các tác giả khác sử dụng MRI 
(Mahaisavariya(12))và CT-scan, điều này được 
giải thích do có sự khác biệt về chủng tộc so với 
Captier,King(7) (người châu Âu). 
Về góc nghiêng chỏm quay: kết quả của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 257
chúng tôi cũng tương đồng với tác giả 
Swieszkowski (p>0,05), và cũng cùng nhận định 
về góc nghiêng của chỏm quay so với cổ xương 
quay (p<0,01). Độ sâu của hố chỏm quay trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 2,25mm tương đồng 
với King và hơi lớn hơn so với Swiezskowski. 
Chúng tôi thấy rằng thiết diện cổ xương 
quay có hình tròn với đường kính trung bình 
là:13,65 ± 1,34 mm. Đường kính cổ chiếm 59,17% 
so với đường kính lớn nhất của chỏm quay. Điều 
này gợi ý cho việc thiết kế phần chuôi của chỏm 
quay nhân tạo như sau: phần chuôi của chỏm 
quay có kích thước phải nhỏ hơn 60% đường 
kính lớn nhất của chỏm quay (chưa tính kích 
thước 2 vỏ xương). Điều này giúp tránh được 
biến chứng gây vỡ cổ xương quay khi khoan 
lòng tủy trong lúc đặt chuôi của chỏm nhân tạo. 
Đây cũng là điều chưa được ghi nhận trong các 
nghiên cứu trước đây. 
Về đặc điểm góc cổ thân: Góc cổ thân trên 
mặt phẳng trán trong nghiên cứu của chúng tôi 
nhỏ hơn so với kết quả của Captier (p<0,01). 
Ngoài ra trong nghiên cứu của Captier, tác giả 
kiểm định mối liên hệ giữa góc cổ thân và hình 
dạng chỏm từ đó kết luận góc cổ thân lớn có liên 
quan đến chỏm dạng elip và ngược lại, góc cổ 
thân nhỏ có liên quan đến chỏm dạng hình tròn. 
Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi khi 
dùng phép kiểm ANOVA chúng tôi không nhận 
thấy có sự tương quan này. Ngoài ra, một điểm 
khác trong nghiên cứu của chúng tôi mà chưa 
tác giả nào đề cập đó là đánh giá góc cổ thân ở 
mặt phẳng bên. Trong 34/34 mẫu, chúng tôi đều 
ghi nhận cổ xương quay trung bình 173.43 độ 
hơi ngả sau so với thân xương, đây cũng là điểm 
cần chú ý trong thiết kế chỏm quay nhân tạo. 
Đặc điểm các yếu tố tiên đoán kích thước chỏm 
Theo Leclerc (2013)(9) khảo sát trên 50 khuỷu 
tay bằng CT-scan, tác giả ghi nhận có mối liên hệ 
chặt giữa khoảng cách từ bờ ngoài chỏm con đến 
bờ ngoài ròng rọc xương cánh tay (CAP-
TROridge) và đường kính lớn nhất và đường 
kính nhỏ nhất (Dmax và Dmin) lần lượt theo 
phương trình : 
Dmax = 0,9794 x CAP-TROCHridge + 2,2363 
(mm). 
Dmin = 0,9612 x CAP-TROCHridge + 1,3996 
(mm). 
Chúng tôi cũng sử dụng phương trình hồi 
quy tuyến tính để tìm mối liên hệ của các kích 
thước trên ở người Việt Nam và được các 
phương trình hồi quy như sau: 
Dmax = 0,78 CAP-TRO + 6,45. 
Dmin = 0,73 CAP-TRO + 5,9. 
Chiều cao chỏm quay (H)= 0,83 x Chiều cao 
khuyết quay + 2,12 (mm). 
Các phương trình hồi qui trên đều có tương 
quan mạnh (r> 0,8), từ đó chúng tôi cũng có cùng 
nhận định với Leclerc(9) về vai trò của khoảng 
cách CAP-TRO trong việc tiên đoán các đường 
kính lớn nhất và nhỏ nhât của chỏm quay, đặc 
biệt hữu ích trong trường hợp gãy nát chỏm. 
KẾT LUẬN 
Chỏm quay có vai trò quan trọng trong bảo 
đảm chức năng vận động của chi trên, việc phục 
hồi gần giống với hình thái học của chỏm quay 
trong trường hợp không thể bảo tồn chỏm quay 
là một yêu cầu cần thiết đối với các phẫu thuật 
viên để có thể mang lại kết quả tốt nhất cho bệnh 
nhân có chỉ định thay chỏm quay. Do cấu trúc 
phức tạp của chỏm quay và khớp quay trụ trên 
cũng như khớp khuỷu, cùng với sự gia tăng của 
các chấn thương liên quan đến chỏm quay nói 
riêng và vùng khuỷu nói chung, cũng như độ 
nặng của chấn thương tăng dần, việc có các số 
đo làm nền tảng chế tạo chỏm quay nhân tạo 
cũng như dự đoán kích thước chỏm quay sẽ 
giúp ích rất nhiều trong việc thiết kế chỏm quay 
phù hợp giải phẫu và cơ sinh học, là một yêu cầu 
thiết thực và mang tính thời sự. Từ nghiên cứu 
của chúng tôi có thể góp phần làm cơ sở tham 
khảo để sản xuất chỏm quay nhân tạo phù hợp 
người Việt Nam với các đặc điểm nổi bật đã 
được nêu. Khi chỏm quay gãy nát không hồi 
phục, các mốc giải phẫu đã nêu như khoảng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 258
cách CAP-TRO, chiều cao khuyết quay có thể 
xem như “kim chỉ nam” định hướng trước và 
trong phẫu thuật để có thể lựa chọn chỏm quay 
phù hợp nhất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Beredjiklian P K, Nalbantoglu U, Potter H G, Hotchkiss R N 
(1999), "Prosthetic radial head components and proximal 
radial morphology: a mismatch". J Shoulder Elbow Surg, 8 (5), 
pp. 471-5. 
2. Captier G, Canovas F, Mercier N, Thomas E, Bonnel F (2002), 
"Biometry of the radial head: biomechanical implications in 
pronation and supination". Surg Radiol Anat, 24 (5), pp. 295-
301. 
3. Duckworth A D, Clement N D, Jenkins P J, Aitken S A, Court-
Brown C M, et al. "The Epidemiology of Radial Head and 
Neck Fractures". Journal of Hand Surgery, 37 (1), pp. 112-119. 
4. Furry K L, Clinkscales C M (1998), "Comminuted fractures of 
the radial head Arthroplasty versus internal fixation". Clin 
Orthop Relat Res, (353), pp. 40-52. 
5. Kaas Laurens, van Riet Roger P, Vroemen Jos P A M, 
Eygendaal Denise "The epidemiology of radial head 
fractures". Journal of Shoulder and Elbow Surgery, 19 (4), pp. 520-
523. 
6. Kapandji A (2001), "Biomechanics of pronation and supination 
of the forearm". Hand clinics, 17 (1), pp. 111-22, vii. 
7. King G J, Zarzour Z D, Patterson S D, Johnson J A (2001), "An 
anthropometric study of the radial head: implications in the 
design of a prosthesis". J Arthroplasty, 16 (1), pp. 112-6. 
8. Koslowsky T C, Beyer F, Germund I, Mader K, Jergas M, et al. 
(2007), "Morphometric parameters of the radial neck: an 
anatomical study". Surg Radiol Anat, 29 (4), pp. 279-84. 
9. Leclerc A E, Deluce S, Ferreira L, Desai S, King G J, et al. 
(2013), "Measurements of the ispilateral capitellum can 
reliably predict the diameter of the radial head". J Shoulder 
Elbow Surg, 22 (12), pp. 1724-8. 
10. Leppilahti J, Jalovaara P (2000), "Early excision of the radial 
head for fracture". Int Orthop, 24 (3), pp. 160-2. 
11. Lindenhovius A L, Felsch Q, Doornberg J N, Ring D, Kloen P 
(2007), "Open reduction and internal fixation compared with 
excision for unstable displaced fractures of the radial head". J 
Hand Surg Am, 32 (5), pp. 630-6. 
12. Mahaisavariya B, Saekee B, Sitthiseripratip K, Oris P, Tongdee 
T, et al. (2004), "Morphology of the radial head: a reverse 
engineering based evaluation using three-dimensional 
anatomical data of radial bone". Proc Inst Mech Eng H, 218 (1), 
pp. 79-84. 
13. Morrey B F, An K N, Stormont T J (1988), "Force transmission 
through the radial head". J Bone Joint Surg Am, 70 (2), pp. 250-
6. 
14. Swieszkowski W, Skalski K, Pomianowski S, Kedzior K 
(2001), "The anatomic features of the radial head and their 
implication for prosthesis design". Clin Biomech (Bristol, Avon), 
16 (10), pp. 880-7. 
15. Tejwani N C, Mehta H (2007), "Fractures of the radial head 
and neck: current concepts in management". J Am Acad Orthop 
Surg, 15 (7), pp. 380-7. 
16. Thái Hồng Phong, Đỗ Phước Hùng (2016), "Nghiên cứu giải 
phẫu vùng không tiếp khớp của chỏm quay ở khớp quay trụ trên". 
Ngày nhận bài báo: 06/12/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018