Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017
 36
KHÁNG THỂ IgE ĐẶC HIỆU VÀ XÉT NGHIỆM LẨY DA 
TRÊN BỆNH NHÂN MÀY ĐAY 
 Phạm Đình Lâm*, Văn Thế Trung** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Mày đay là một bệnh lý thường gặp, chiếm 20% dân số. Xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu và 
xét nghiệm lẩy da là các xét nghiệm quan trọng trong bệnh lý dị ứng, giúp loại trừ nghi ngờ các dị ứng nguyên 
hô hấp và dị ứng từ thực phẩm ở bệnh nhân mày đay. 
Mục tiêu: Xác định kết quả dương tính của xét nghiệm dị ứng đặc hiệu và mối tương quan với yếu tố lâm 
sàng trên bệnh nhân mày đay. 
Đối tượng và phương pháp: Mô tả hàng loạt ca trên bệnh nhân mày đay tại Bệnh viện Đại học Y 
Dược TpHCM có xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu với 20 dị ứng nguyên (10 hô hấp và 10 thực phẩm) 
bằng máy RIDA qLine® Allergy (R-Biopharm AG, Darmstadt, Đức) và xét nghiệm lẩy da với ba dị ứng 
nguyên tôm, cua, gà. 
Kết quả: Gồm 67 bệnh nhân mày đay, 55,2% bệnh nhân có ít nhất một kết quả IgE huyết thanh dương tính. 
Nhóm dị ứng nguyên hô hấp dương tính 52,2%. Trong đó, mạt Blomia Tropicalis chiếm 43,2%, mạt 
Dermatophagoides farinae 35,8%, mạt D.pterony 34,3%. Chỉ có 6% bệnh nhân mày đay dương tính với dị ứng 
nguyên thực phẩm gồm bạch tuột, mực, tôm, cua, gà và cá mòi. Xét nghiệm lẩy da chỉ có 1 trường hơp dương 
tính với tôm. Qua phân tích hồi quy đa biến, ghi nhận: thời gian tồn tại thương tổn mày đay càng lâu thì khả 
năng có ít nhất một kết quả dương tính trong xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu cao gấp 2,6 lần (OR = 2,6, CI 
95% 1,02 – 6,63, p=0,04). Nữ giới có nguy cơ dị ứng với mạt cao hơn 4,67 lần so với nam giới (OR 4,67, CI 95% 
1,07 – 20,23, p = 0,04). Nhóm có mức độ ngứa nặng thì có nguy cơ dị ứng với mạt cao hơn nhóm ngứa nhẹ (OR 
2,24, CI 95% 1,07 – 4,65, p = 0,03). 
Kết luận: Tỉ lệ kháng thể IgE đặc hiệu dương tính với mạt là cao nhất.Tỉ lệ dương tính với dị ứng nguyên 
thực phẩm thấp. 
Từ khóa: mày đay, xét nghiệm kháng thể IgE đặc hiệu, xét nghiệm lẩy da 
ABSTRACT 
SERUM-SPECIFIC IgE MEASUREMENTS AND SKIN PRICK TEST IN URTICARIA PATIENTS 
Pham Dinh Lam, Van The Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 1 - 2017: 36 - 43 
Background: Urticaria is a common disorder, with a prevalence of approximately 20 percent in the general 
population. Serum-Specific IgE measurements and skin prick test are important tools for the clinician to diagnose 
allergic sensitization and could exclude a panel of aeroallergens and suspect foods in urticaria patients. 
Objectives: to determine the positive results of serum-specific IgE measurements and skin prick test and the 
correlation between these results and clinical symptoms in urticarial patients. 
Methods: A case series study of patients with urticaria at University Medical Center Ho Chi Minh City. 
Diagnosis of urticaria was based on clinical findings. Sera from the patients were analyzed for specific IgE 
antibodies to 20 allergens (10 for inhalant and 10 for food panel) by using RIDA qLine® Allergy (R-Biopharm 
AG, Darmstadt, Germany) and skin prick tests were performed with 3 food allergens (shrimp, crab and chicken). 
* Bệnh viện Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh ** Bộ môn Da Liễu, ĐH Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: TS.BS Văn Thế Trung ĐT: 0908282705 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
 37
Results: Sixty-seven urticarial patients were evaluated. More than half of the patients (55.2%) showed a 
positive reaction to at least one allergen-specific IgE. The positive rate of inhalant allergens was 52.2%.The most 
commonly detected allergen was Blomia Tropicalis 43.2%, Dermatophagoides farina 35.8% and D. pterony 
34.3%. Most patients showed lower positive reactions to food allergens (6%) including octopus, shrimp, crab, 
chicken and sardine. Only one patient showed positive with shrimp allergen in skin prick test. The relationship 
between allergen-specific IgE positive and urticaria clinical were estimated by using logistic regression. High 
correlations were found between serum-Specific IgE positive and duration of wheals (OR = 2.6, CI 95% 1.02 – 
6.63, p = 0.04); between mites-Specific IgE positive and genre (OR 4.67, CI 95% 1.07 - 20.23, p = 0.04); between 
mites-Specific IgE positive and intensity of pruritus (OR 2.24, CI 95% 1.07 - 4.65, p = 0.03). 
Conclusions: Serum-specific IgE measurements were highest positive in inhalant allergens, especial mites. 
Positive rates for response to food allergens were low. 
Key words: Urticaria, serum specific IgE mesurements, skin prick test 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mày đay gồm sẩn phù, mảng phù nhất thời, 
thường ngứa và hay tái phát, là bệnh lý thường 
gặp, chiếm tỉ lệ khoảng 20% của dân số. Tại bệnh 
viện Da Liễu Thành phố Hồ Chí Minh, bệnh 
mày đay đứng thứ ba sau bệnh chàm và mụn 
trứng cá, chiếm 37.306 lượt khám trong năm 
2014 và tăng gấp đôi so với năm 2012. 
Tại Việt Nam hiện đã thực hiện các xét 
nghiệm để giúp tìm ra dị ứng nguyên trong 
các bệnh dị ứng. Theo hướng dẫn của Hiệp 
hội Dị ứng và Miễn dịch Lâm sàng Anh quốc 
(BSACI) về quản lý mày đay mạn tính và phù 
mạch thì xét nghiệm IgE huyết thanh đặc hiệu 
hoặc xét nghiệm lẩy da tìm các nguyên nhân 
dị ứng từ thức ăn vẫn được ưu tiên hàng đầu 
để giúp bệnh nhân loại trừ nghi ngờ nguyên 
nhân gây dị ứng từ thực phẩm(6). Các xét 
nghiệm này đã được thực hiện tại nhiều cơ sở 
y tế ở Việt Nam nhưng chưa có nghiên cứu 
đánh giá kết quả dương tính cũng như mối 
liên quan với các yếu tố dịch tễ, lâm sàng của 
bệnh nhân mày đay.Do đó, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu “Kháng thể IgE đặc hiệu và 
xét nghiệm lẩy da trên bệnh nhân mày đay”. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định kết quả dương tính của xét nghiệm 
dị ứngđặc hiệu và mối tương quan với yếu tố 
lâm sàng trên bệnh nhân mày đay khám tại Bệnh 
viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ 
tháng 11/2015 đến tháng 4/2016. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đại học 
Y DượcThành phố Hồ Chí Minh được chẩn đoán 
bệnh mày đay qua khám lâm sàng. Các bệnh 
nhân được làm xét nghiệm lẩy da với ba dị ứng 
nguyên thực phẩm tôm, cua, gà và xét nghiệm 
IgE huyết thanh đặc hiệu với 20 dị ứng nguyên. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca. 
Các bước tiến hành 
+ Thu thập thông tin các bệnh nhân được 
chẩn đoán mày đay trên 18 tuổi. 
+ Làm xét nghiệm lẩy da với dị ứng nguyên 
tôm, cua và gà. 
+ Làm xét nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu 
với 20 dị ứng nguyên. 
+ Phân tích số liệu theo phần mềm SPSS 16.0 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu : 
 Đặc điểm dịch tễ 
Mẫu nghiên cứu gồm 67 bệnh nhân mày 
đay. 
Nhóm tuổi 30 – 39 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 
(34,4%) phù hợp với y văn. Theo Fitzpatrick, hai 
đỉnh tuổi có tần suất mắc bệnh cao là sơ sinh đến 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017
 38
9 tuổi và 30-40 tuổi. Trong mẫu nghiên cứu, nữ 
giới chiếm 82,4% (51 người) gấp 3,19 lần so với 
nam giới. Chỉ có 29,9% bệnh nhân sống tại 
Thành phố Hồ Chí Minh, còn lại 70,1% sống tại 
các tỉnh thành khác. 
Bảng 1: Phân bố theo nhóm tuổi (N = 67) 
Nhóm tuổi Tần số Tỉ lệ (%) 
18 – 29 tuổi 22 32,8% 
30 – 39 tuổi 23 34,4% 
40 – 49 tuổi 14 20,9% 
≥ 50 tuổi 8 11,9% 
Đặc điểm lâm sàng 
Có 40,3% bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu 
khai có dị ứng với một hoặc nhiều loại thức ăn. 
Trong đó, chủ yếu là dị ứng với tôm, cua, gà và 
các hải sản khác. Tiền sử gia đình bị mày đay thì 
có 26,9% bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có 
cha mẹ, con, anh chị em ruột trong gia đình bị 
bệnh mày đay. Tỉ lệ mày đay mãn tính chiếm 
64,2% gấp đôi so với mày đay cấp tính. Chỉ có 
17,9% bệnh nhân có biểu hiện phù mạch kèm 
theo, chủ yếu vùng mắt và môi. 
Bảng 2: Một số đặc điểm lâm sàng liên quan đến độ 
nặng của mày đay (N = 67) 
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) 
1 – 10 thương tổn 37 55,2% 
10 – 20 thương tổn 14 20,9% 
> 20 thương tổn 16 23,9% 
1 lần trong ngày 24 35,8% 
2 - 3 lần trong ngày 37 55,2% 
> 3 lần trong ngày 6 9,0% 
Thương tổn < 1cm 21 31,3% 
Thương tổn 1 – 2cm 27 40,3% 
Thương tổn > 2cm 19 28,4% 
Thương tổn < 4 giờ 44 65,7% 
Thương tổn 4 – 12 giờ 19 28,4% 
Thương tổn > 12 giờ 4 5,9% 
Ngứa nhẹ 21 31,3% 
Ngứa trung bình 31 46,3% 
Ngứa nặng 15 22,4% 
Các bệnh nhân mày đay trong mẫu nghiên 
cứu có từ 1 đến 10 thương tổn chiếm đa số 55,2% 
và đa số có mức độ ngứa trung bình chiếm tỉ lệ 
46,3%. Các thương tổn này phần lớn có kích 
thước từ 1 đến 2cm chiếm 40,3%, xuất hiện từ 1 
đến 3 lần trong ngày chiếm đại đa số (91%) và 
các thương tổn này tồn tại trên da dưới 4 giờ 
chiếm 65,7%. 
Bảng 3: Phân bố mức độ nặng của bệnh theo 
Breneman và CS (N = 67) 
Mức độ nặng Tần số Tỉ lệ (%) 
Nhẹ (1 - 4 điểm) 9 13,8% 
Trung bình (5 - 9 điểm) 38 56,7% 
Nặng (≥ 10 điểm) 20 29,9% 
Trong mẫu nghiên cứu, các bệnh nhân mày 
đay được phân loại nhiều nhất là mức độ trung 
bình chiếm 56,7%, kế đến là mức độ nặng chiếm 
29,9% trường hợp, và ít nhất là mức độ nhẹ 
chiếm 13,8%. 
 Kết quả xét nghiệm 
 Xét nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu 
Tỉ lệ xét nghiệm huyết thanh IgE có ít nhất 
một kết quả dương tính chiếm 55,2%. Trong đó, 
nhóm dị ứng nguyên hô hấp dương tính chiếm 
tỉ lệ cao 52,2%, nhóm dị ứng nguyên thực phẩm 
dương tính chiếm ti lệ thấp hơn 6,0%. Tác giả 
Nguyễn Thị Diệu Thúy và CS lấy mẫu ở 143 trẻ 
bị mày đay cấp tính dưới 15 tuổi tại bệnh viện 
Nhi Trung Ương Hà Nội, có 68 trẻ được làm xét 
nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu với 20 loại dị 
ứng nguyên, trong đó có 13 dị ứng nguyên thực 
phẩm và 7 dị ứng nguyên hô hấp. Kết quả định 
lượng kháng thể IgE đặc hiệu trong nghiên cứu 
của tác giả Nguyễn Thị Diệu Thúy và CS cho 
thấy có 48,4% trẻ có kháng thể IgE đặc hiệu. Kết 
quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của tác 
giả Nguyễn Thị Diệu Thúy và CS. Tác giả Shin 
và CS tại Seoul Hàn Quốc xét nghiệm huyết 
thanh IgE đặc hiệu trên 245 bệnh nhân mày đay 
chỉ có 37,1% bệnh nhân có ít nhất một kết quả 
dương tính, thấp hơn so với kết quả của chúng 
tôi(7). Kết quả dương tính không có khác biệt giữa 
bệnh nhân mày đay cấp tính và mạn tính (38,3% 
và 34,2%), giống như nghiên cứu của chúng tôi 
là 58,3% (14/24) và 53,5% (23/43) theo bảng 7. Tác 
giả Chung và CS ghi nhận 51,7% bệnh nhân xét 
nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu có ít nhất một 
kết quả dương tính(2). Kết quả này gần tương 
đồng với kết quả của chúng tôi. Tỉ lệ dương tính 
ở bệnh nhân mày đay cấp tính là 53,0% và bệnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
 39
nhân mày đay mạn tính là 49.5%, khác biệt cũng 
không có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, vẫn có 
kết quả nghiên cứu cao hơn nghiên cứu của 
chúng tôi. Nghiên cứu của tác giả Ga trên 707 
bệnh nhân mày đay mạn tính làm xét nghiệm 
huyết thanh IgE đặc hiệu trên 35 dị ứng nguyên, 
có 78,3% bệnh nhân dương tính(3). Tác giả Zeng 
nghiên cứu trên 437 trẻ thấy rằng tỉ lệ dương 
tính với IgE đặc hiệu là 69,1%(8). Một số tác giả 
nước ngoài thực hiện nghiên cứu trên trẻ em và 
có tỉ lệ kết quả dương tính cao. Tuy nhiên do ở 
Việt Nam trẻ em chủ yếu khám tại bệnh viện 
Nhi hoặc tại phòng khám chuyên khoa Nhi, do 
đó trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ chọn làm 
nghiên cứu trên người trưởng thành. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi giống như kết quả một 
số nghiên cứu khác cho thấy nhóm dân số mắc 
bệnh nhiều nhất là nhóm thanh niên trẻ, nữ mắc 
bệnh mày đay nhiều hơn nam và có phương 
hướng giảm dần theo nhóm tuổi. 
Bảng 4: Kết quả dương tính của xét nghiệm huyết 
thanh IgE đặc hiệu tương ứng với từng loại dị ứng 
nguyên hô hấp (N = 67) 
Dị ứng nguyên Tần số Tỉ lệ (%) 
Mạt pteronyssinus 23 34,3% 
Mạt farinae 24 35,8% 
Mạt blomia 29 43,2% 
Lông mèo 2 3,0% 
Lông chó 0 0,0% 
Lông chuột 1 1,5% 
Gián 4 6,0% 
Lông chim 1 1,5% 
Bụi cỏ 12 17,9% 
Đất 1 1,5% 
Trong nhóm dị ứng nguyên hô hấp, mạt 
dương tính với tỉ lệ cao. Mạt Blomia Tropicalis 
dương tính với tỉ lệ cao nhất chiếm 43,2%, kế đến 
là mạt Dermatophagoides pteronyssinus (34,3%) 
và mạt D.farinae (35,8%). Dị ứng nguyên hô hấp 
dương tính với tỉ lệ cao chiếm 52,2% bệnh nhân 
mày đay. Trong nhóm dị ứng nguyên hô hấp thì 
mạt chiếm tỉ lệ 78,3% rất cao trong nghiên cứu 
của chúng tôi (mạt pteronyssinus chiếm 34,3%, 
mạt farinae chiếm 35,8% và mạt blomia chiếm 
43,2%) còn lại là lông chim, lông chó, lông mèo, 
gián, và bụi cỏ. Theo tác giả Zeng, các loại dị ứng 
nguyên thường gặp nhất là mạt nhà (farinae), 
sữa, lông chó mèo. Kháng thể IgE đặc hiệu hay 
gặp nhất ở trẻ em là mạt nhà, gặp ở 86% trẻ viêm 
mũi dị ứng, 41,2% viêm da cơ địa, 27,6% viêm da 
cơ địa và 20% mày đay. Kháng thể IgE với lông 
chó và lông mèo gặp ở 23,5% trẻ viêm da cơ địa 
và 18,1% trẻ viêm da cơ địa. Nghiên cứu của tác 
giả Zeng chỉ ra kháng thể IgE đặc hiệu đối với 
sữa, thịt bò, thịt cừu trên trẻ mày đay dao động 
từ 14 đến 24%. Đối với các dị ứng nguyên hô hấp 
thì dương tính ở trẻ dưới 3 tuổi cao hơn trẻ trên 3 
tuổi, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01)(8). 
Nghiên cứu của tác giả Ga kết quả dương tính 
vẫn chủ yếu là mạt farinae 31,8%, mạt 
pteronyssinus 24,5%, bụi nhà 24,0%, lông mèo 
9,3%(3). Tác giả Chung và CS ghi nhận, cả bệnh 
nhân mày đay cấp tính và mạn tính dị ứng 
nguyên mạt farinae chiếm tỉ lệ cao nhất, kế đến 
là mạt pteronyssinus và bụi nhà(2). Tác giả Shin 
và CS cũng ghi nhận trong nhóm có kết quả 
dương tính, gặp nhiều nhất là mạt farinae 25,9%, 
thứ hai là mạt pteronyssinus 22,4%, thứ ba là 
mạt nhà 11,4%, thứ tư là mugwort 5,7%, thứ năm 
là gián 5,3%, không có khác biệt giữa mày đay 
cấp tính và mạn tính(7). Theo tác giả Lee và CS, 
mạt farinae chiếm tỉ lệ dương tính cao nhất 
(24,3%) trong các bệnh nhân mày đay mạn tính, 
kế đến là mạt pteronyssinus (21,4%), bụi nhà 
(7,1%) và tôm 4,3%(4). Các tác giả đều ghi nhận dị 
ứng nguyên hay gặp ở các bệnh nhân có bệnh lý 
da do miễn dịch như viêm da cơ địa dị ứng, mày 
đay là nhóm mạt nhà gồm mạt farinae, mạt 
pteronyssinus. Nhóm mạt này cũng là nguyên 
nhân chính gây nên tình trạng dị ứng ở các bệnh 
nhân hen và viêm mũi mạn tính(7). 
Bảng 5: Kết quả dương tính của xét nghiệm huyết 
thanh IgE đặc hiệu tương ứng với từng loại dị ứng 
nguyên thực phẩm (N = 67). 
Dị ứng nguyên Tần số Tỉ lệ (%) 
Tôm 1 1,5% 
Cua 1 1,5% 
Mực 2 3,0% 
Cá thu 1 1,5% 
Cá mòi 1 1,5% 
Cá ngừ 0 0,0% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017
 40
Dị ứng nguyên Tần số Tỉ lệ (%) 
Bò 0 0,0% 
Gà 1 1,5% 
Lòng đỏ trứng 0 0,0% 
Rau 1 1,5% 
Trong nhóm dị ứng nguyên thực phẩm, bạch 
tuộc và mực dương tính 3%, tôm, cua, gà đều 
dương tính với tỉ lệ 1,5%. Các tác giả nước ngoài 
ghi nhận tỉ lệ dương tính với dị ứng nguyên thực 
phẩm rất thấp. Tác giả Shin và CS ghi nhận trong 
số các dị ứng nguyên thực phẩm thì thường gặp 
nhất là tôm, cua, tiếp theo là nấm mốc, bò và 
gạo(7). Tác giả Chung và CS ghi nhận các dị ứng 
nguyên thực phẩm gồm đậu nành, gà, nấm, cá 
ngừ và cá hồi, chủ yếu trong nhóm mày đay 
mạn tính(2). Theo tác giả Nguyễn Thị Diệu Thúy 
và CS, có 42,4% dương tính với sữa và các thành 
phần của sữa, tiếp đến là lông chó, mèo 15,2%, 
mạt nhà 12,1%; các dị ứng nguyên khác chiếm tỉ 
lệ rất thấp(5). Trẻ em dương tính nhiều với các dị 
ứng nguyên sữa, trứng và thịt bò, còn người lớn 
thì dương tính nhiều với dị ứng nguyên tôm và 
cua. Kết quả này có thể được giải thích là sữa và 
thịt bò là thực phẩm chính trong thời kỳ trẻ nhỏ, 
dần dần được dung nạp theo thời gian, và trong 
giai đoạn trưởng thành thì dùng nhiều với các 
sinh vật biển(7). Kết quả của chúng tôi tương tự 
như các nghiên cứu trên thế giới, ở người lớn, dị 
ứng nguyên hô hấp cao hơn dị ứng nguyên thực 
phẩm. Điều này có thể giải thích là bệnh nhân 
dần dung nạp với dị ứng nguyên thực phẩm, 
trong khi đó, phơi nhiễm ngày càng nhiều với 
các dị ứng nguyên hô hấp mới(7). 
 Xét nghiệm lẩy da 
Tỉ lệ dương tính của các dị ứng nguyên thực 
phẩm trong xét nghiệm lẩy da rất thấp. Dị ứng 
nguyên tôm dương tính một trường hợp chiếm 
tỉ lệ 1,5%, còn dị ứng nguyên cua và gà thì không 
có trường hợp nào dương tính. Kết quả của 
chúng tôi vẫn đáng tin cậy vì: 
Xét nghiệm này được thực hiện trong bệnh 
viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh là 
một bệnh viện lớn, có uy tín tại thành phố Hồ 
Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam. 
Trong quy trình làm xét nghiệm lẩy da, 
chúng tôi không sử dụng dị ứng nguyên thực 
phẩm tươi mà chúng tôi sử dụng bộ kit của 
hãng Stallergenes được bệnh viện đặt hàng và 
nhập khẩu chính thức. Bộ kit là sản phẩm 
thương mại nên đã được chuẩn hóa và kiểm 
tra chất lượng tốt. 
Tất cả các xét nghiệm lẩy da đều do cùng 
một kỹ thuật viên thực hiện. Kỹ thuật viên này 
đã được đào tạo chính thức từ nhân viên của 
hãng Stallergenes và đã thực hiện kỹ thuật lẩy 
da hơn ba năm nay. 
Tỉ lệ dương tính của xét nghiệm lẩy da với 
dị ứng nguyên thực phẩm thấp, mà cỡ mẫu 
nghiên cứu của chúng tôi thấp do giới hạn về 
mặt thời gian. 
Xét nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu cũng 
chỉ có 1 trường hợp dương tính với tôm, tuy 
nhiên hai kết quả này dương tính trên hai bệnh 
nhân khác nhau. 
Từ trước đến nay, chưa có nghiên cứu và 
tổng kết về xét nghiệm lẩy da tại Việt Nam. Theo 
các tác giả trên thế giới kết quả lẩy da với dị ứng 
nguyên thực phẩm cũng không cao. Tác giả 
Caliskaner nghiên cứu trên 259 bệnh nhân mày 
đay mạn tính được làm xét nghiệm lẩy da với 56 
dị ứng nguyên thường gặp tại Thổ Nhĩ Kỳ. Chỉ 
có 27,4% bệnh nhân có ít nhất một kết quả 
dương tính, phần lớn là bệnh nhân mày đay 
mạn tính dương tính với mạt (chiếm 24,7%). Các 
dị ứng nguyên khác dương tính không cao như 
phấn hoa (7,7%), gián (0,8%) ở bệnh nhân mày 
đay và không đề cập đến dị ứng nguyên thực 
phẩm (1). Tác giả Ga nghiên cứu trên 304 bệnh 
nhân mày đay mạn tính có làm xét nghiệm lẩy 
da với 54 dị ứng nguyên, có 78,3% bệnh nhân 
dương tính, kết quả chủ yếu dương tính là mạt 
farinae 52.0%, mạt pteronyssinus 47,7%, gián 
27,3%(3). Tuy nhiên tác giả không đề cập đến tỉ lệ 
dương tính với dị ứng nguyên thực phẩm. Dị 
ứng nguyên thực phẩm thay đổi, khác nhau ở trẻ 
em và người lớn. Ở trẻ em dương tính với dị ứng 
nguyên thực phẩm cao hơn người lớn và đặc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
 41
biệt là với các dị ứng nguyên sữa, trứng, thịt bò 
là nguồn dinh dưỡng chính trong thời kỳ thơ ấu, 
dần dần được dung nạp theo thời gian. Còn 
người lớn thì dương tính nhiều với dị ứng 
nguyên tôm, cua do trong giai đoạn trưởng 
thành thì dùng nhiều với các sinh vật biển(7). 
Chúng tôi nhận thấy xét nghiệm lẩy da vẫn 
cần được tiếp tục nghiên cứu để phát huy tính 
ưu việt của nó bên cạnh xét nghiệm huyết thanh 
IgE đặc hiệu: 
Xét nghiệm lẩy da giúp rút ngắn thời gian 
chờ đợi kết quả của bệnh nhân, chỉ cần thời gian 
15 phút là có kết quả ngay, trong khi làm xét 
nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu cần hơn một 
buổi mới có kết quả xét nghiệm. Đặc biệt các 
bệnh nhân đến từ các tỉnh khác thì xét nghiệm 
lẩy da phù hợp hơn. 
Xét nghiệm lẩy da có chi phí giá thành thấp 
hơn cho những bệnh nhân cần xác định một 
hoặc vài dị ứng nguyên thực phẩm mà bệnh 
nhân nghi ngờ, trong khi xét nghiệm huyết 
thanh IgE đặc hiệu phải làm một kit 20 dị ứng 
nguyên nên chi phí cao hơn. 
Bệnh nhân thấy trực tiếp kết quả xét nghiệm 
nên cũng hiểu rõ mình có dị ứng hay không dị 
ứng với dị ứng nguyên mà bệnh nhân nghi ngờ 
lâu nay, giúp giải tỏa tâm lý kiêng khem của 
người Việt Nam. 
Trên thế giới, xét nghiệm lẩy da được chọn 
lựa để đánh giá tình trạng dị ứng với một số dị 
ứng nguyên không thường gặp mà trong bộ kit 
làm sẵn của xét nghiệm huyết thanh IgE đặc 
hiệu không có(9). 
Chi phí đầu tư thấp, dễ dàng áp dụng cho 
các bệnh viện lớn tại các tỉnh thành trong cả 
nước, giúp bệnh nhân tìm ra được chế độ ăn 
uống phù hợp và đầy đủ dinh dưỡng. Xét 
nghiệm lẩy da vẫn được xem là xét nghiệm đầu 
tiên để đánh giá dị ứng với thực phẩm(9), giúp 
sàng lọc bệnh nhân để xác định xem có cần làm 
thử nghiệm dị ứng thức ăn qua đường miệng. 
Theo bảng 7, có 40,3% (27/67) bệnh nhân 
mày đay có dị ứng với thức ăn, cứ khoảng hai 
người đến khám vì mày đay thì có một người 
kiêng ăn. Do đó kết quả xét nghiệm kháng thể 
IgE đặc hiệu cho dị ứng nguyên thực phẩm hay 
kết quả xét nghiệm lẩy da với dị ứng nguyên 
thực phẩm góp phần giải tỏa bớt tâm lý căng 
thẳng cho bệnh nhân mày đay có nên tiếp tục 
kiêng những thức ăn đặc biệt đó. Theo hướng 
dẫn của Hiệp hội Dị ứng và Miễn dịch Lâm sàng 
Anh quốc (BSACI) về quản lý mày đay mạn tính 
và phù mạch thì xét nghiệm huyết thanh IgE đặc 
hiệu hoặc xét nghiệm lẩy da tìm các nguyên 
nhân dị ứng từ thức ăn vẫn được ưu tiên hàng 
đầu để giúp bệnh nhân loại trừ nghi ngờ nguyên 
nhân gây dị ứng từ thực phẩm(6). 
Phân tích mối tương quan 
Bảng 6: Mối tương quan giữa xét nghiệm huyết thanh IgE với các yếu tố dịch tễ (N = 67) 
Yếu tố dịch tễ XN IgE huyết thanh dương tính N (%) XN IgE huyết thanh âm tính N (%) P 
Tuổi 35,35 ± 11,04 36,33 ± 11,28 0,72 (#) 
Giới tính 
Nam 7 (19,9%) 9 (30%) 0,29 (*) 
Nữ 30 (81,1%) 21 (70%) 
Địa chỉ 
TpHCM 10 (27%) 10 (33,3%) 0,57 (*) 
Tỉnh khác 27 (73%) 20 (66,7%) 
 (#) Phép kiểm t (*) Phép kiểm Chi-Square 
Bảng 7: Mối tương quan giữa xét nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu với các yếu tố lâm sàng (N = 67) 
Yếu tố lâm sàng XN IgE huyết thanh dương tính N (%) XN IgE huyết thanh âm tính N (%) P 
Tuổi khởi phát 28,81 ± 10,14 32,83 ± 11,56 0,28 (#) 
Số lần mắc 
bệnh 
Lần đầu 7 (18,9%) 5 (16,7%) 0,81 
Nhiều lần 30 (81,1%) 25 (83,3%) 
Thời gian 
bệnh 
Cấp 14 (37,8%) 10 (33,3%) 0,71 
Mạn 23 (62,2%) 20 (66,7%) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017
 42
Yếu tố lâm sàng XN IgE huyết thanh dương tính N (%) XN IgE huyết thanh âm tính N (%) P 
Phù mạch 
Có 8 (21,6%) 4 (13,3%) 0,38 
Không 29 (78,4%) 26 (86,7%) 
Tiền sử gia 
đình 
Có 8 (21,6%) 10 (33,3%) 0,28 
Không 29 (78,4%) 20 (66,7%) 
Tiền sử dị ứng 
Có 15 (40,5%) 12 (40%) 0,96 
Không 22 (59,5%) 18 (60%) 
Số lượng 
thương tổn 
1 – 10 18 (48,6%) 19 (63,4%) 0,62* 
11 – 20 (24,3%) 5 (16,7%) 
> 20 10 (27%) 6 (20%) 
Số lần lặp 
trong ngày 
1 14 (37,8%) 10 (33,3%) 0,52* 
2 – 3 21 (56,8%) 16 (53,3%) 
> 3 2 (5,4%) 4 (13,3%) 
Kích thước 
thương tổn 
< 1 cm 7 (18,9%) 12 (40,0%) 0,14* 
1 – 2 cm 16 (43,2%) 11 (36,7%) 
> 2 cm 14 (37,8%) 7 (23,3%) 
TG tồn tại 
thương tổn 
1 – 4 giờ 21 (56,8%) 23 (76,7%) 0,09* 
4 – 12 giờ 12 (32,4%) 7 (23,3%) 
> 12 giờ 4 (10,8%) 0 (0%) 
Mức độ ngứa 
Nhẹ 8 (21,6%) 13 (43,3%) 0,17* 
Trung bình 20 (54,1%) 11 (36,7%) 
Nặng 9 (24,3%) 6 (20,0%) 
 Phép kiểm Chi-Square (*) Phép kiểm Fisher (#) Phép kiểm t 
Bảng 8 Mối tương quan giữa kết quả xét nghiệm 
huyết thanh IgE đặc hiệu với các yếu tố dịch tễ, lâm 
sàng bằng hồi quy đa biến (N = 67) 
Đặc điểm 
Đơn biến Đa biến 
p OR (CI 95%) p OR (CI 95%) 
Giới tính 0,29 0,59 – 5,71 
Địa chỉ 0,57 0,47 – 3,86 
Mắc bệnh nhiều 
lần 
0,81 0,24 – 3,04 
Cấp / Mạn 0,71 0,30 – 2,25 
Phù mạch 0,38 0,48 – 6,66 
Gia đình có mày 
đay 
0,28 0,18 – 1,64 
Tiền sử dị ứng 0,96 0,38 – 2,73 
TG thương tổn> 
4 giờ 
0,09 0,86 – 7,28 0,04 
2,6 
(1,02 – 6,63) 
Mức độ ngứa 
nặng 
0,17 0,71 – 6,17 
 Đơn biến : Phép kiểm Chi-Square, biến nhị giá 
 Đa biến : Phân tích hồi quy logistic 
Qua phân tích đơn biến giữa các yếu tố dịch 
tễ, lâm sàng với xét nghiệm huyết thanh IgE đặc 
hiệu, chúng tôi ghi nhận các khác biệt trong kết 
quả không có ý nghĩa thống kê. Nhưng khi phân 
tích hồi quy logistic, chúng tôi ghi nhận thời gian 
thương tổn càng lâu thì khả năng xét nghiệm 
huyết thanh IgE đặc hiệu dương tính cao hơn, 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,04). 
Nhóm bệnh nhân mày đay có thời gian thương 
tổn kéo dài hơn 4 giờ thì khả năng xét nghiệm 
huyết thanh IgE đặc hiệu có kết quả dương tính 
cao gấp 2,6 lần so với nhóm có thời gian thương 
tổn kéo dài dưới 4 giờ (OR=2,6 và CI 95% là 1,02 
– 6,64). Như vậy thời gian thương tổn kéo dài 
liên quan với xét nghiệm huyết thanh IgE đặc 
hiệu dương tính. 
Bệnh mày đay xảy ra ở nữ giới nhiều hơn 
nam giới đã được nhắc nhiều trong các y văn. 
Qua phân tích đa biến, chúng tôi cũng nhận thấy 
nữ giới có nguy cơ bị dị ứng với mạt cao gấp 4,67 
lần so với nam giới, khác biệt có ý nghĩa thống 
kê p = 0,04. Kết quả này chưa thấy y văn ghi 
nhận. Tại Việt Nam, nữ giới làm công việc nhà 
nhiều hơn nam giới, hơn nữa theo bảng 1 có 
70,1% (47/67) dân số sống ở tỉnh nên nữ giới tiếp 
xúc nhiều với bụi mạt nhà. Nhóm có mức độ 
ngứa nặng thì có nguy cơ dị ứng với mạt cao 
hơn nhóm ngứa nhẹ 2,24 lần, khác biệt có ý 
nghĩa thống kê, p = 0,03. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
 43
Bảng 9 Mối tương quan giữa kết quả xét nghiệm huyết thanh IgE đặc hiệu có nhóm mạt dương tính với các yếu 
tố dịch tễ, lâm sàng bằng hồi quy đa biến (N = 67) 
Yếu tố dịch tễ 
Đơn biến Đa biến 
p OR (CI 95%) p OR (CI 95%) 
Giới tính 0,13 0,75 – 8,15 0,04 4,67 (1,07 – 20,23) 
Địa chỉ 0,47 0,54 – 4,53 
Mắc bệnh nhiều lần 0,86 0,26 – 3,13 
Cấp / Mạn 0,81 0,41 – 3,07 
Phù mạch 0,15 0,69 – 9,61 
Gia đình có mày đay 0,38 0,21 – 1,84 
Tiền sử dị ứng 0,58 0,49 – 3,51 
TG thương tổn > 4 giờ 0,12 0,80 – 6,29 
Mức độ ngứa nặng 0,09 0,83 – 7,86 0,03 2,24 (1,07 – 4,65) 
Đơn biến : Phép kiểm Chi-Square, biến nhị giá Đa biến : Phân tích hồi quy logistic 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ bệnh nhân mày đay có ít nhất một kết 
quả dương tính chiếm 55,2%. 
Nhóm dị ứng nguyên hô hấp dương tính tỉ 
lệ cao 52,2% số bệnh nhân mày đay. Mạt chiếm tỉ 
lệ rất cao, mạt blomia 43,2%, mạt farinae 35,8%, 
mạt pteronyssinus 34,3%. 
Chỉ có 6% bệnh nhân mày đay dương tính 
với dị ứng nguyên thực phẩm. Mực chiếm cao 
nhất, kế đến là tôm, cua, gà và cá mòi. 
Xét nghiệm lẩy da với nhóm thực phẩm tỉ lệ 
âm tính cao nên giúp bệnh nhân loại bỏ bớt 
những thực phẩm ăn kiêng không cần thiết. 
Qua phân tích hồi quy đa biến, ghi nhận: 
Thương tổn hồng ban, sẩn phù tồn tại trên 
da càng lâu thì khả năng có ít nhất một kết quả 
dương tính trong xét nghiệm IgE huyết thanh 
đặc hiệu cao gấp 2,6, khác biệt có ý nghĩa thống 
kê lần p=0,04. 
Nữ giới có nguy cơ dị ứng với mạt cao hơn 
4,67 lần so với nam giới, khác biệt có ý nghĩa 
thống kê p = 0,04. 
Nhóm có mức độ ngứa nặng thì có nguy cơ 
dị ứng với mạt cao hơn nhóm ngứa nhẹ, khác 
biệt có ý nghĩa thống kê p = 0,03. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Caliskaner Z, Ozturk S, Turan M, et al. (2004), "Skin test 
positivity to aeroallergens in the patients with chronic 
urticaria without allergic respiratory disease", J Investig 
Allergol Clin Immunol, 14 (1), pp. 50-4. 
2. Chung HC, Ahn SK (2015), "Comparison of MAST-CLA 
System Results and Allergen Detection Rates between Acute 
and Chronic Urticaria Patients in Gangwon,Yeongseo 
Province, Korea", J Dermatol, 53 (5), pp. 374-80. 
3. Ga YL, Hae YC, Ki BM, et al. (2010), "Analysis of the results in 
recent 10 year allergen test about patients with urticaria", 
Ewha Med J Vol, No.2, pp. 71-80. 
4. Lee GY, Choi HY, Myung KB, et al. (2010), "Analysis of the 
Results in Recent 10-year Allergen Test about Patients with 
Urticaria", Ewha Med J Vol, 33 (2), pp. 71–80. 
5. Nguyễn Thị Diệu Thúy, Lê Thị Minh Hương (2013), "Nguyên 
nhân mày đay cấp ở trẻ em", Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 
Tập17, tr.232-4. 
6. Powell RJ, Leech SC, Till S, et al. (2015), "BSACI guideline for 
the management of chronic urticaria and angioedema", 
Clinical Et Experimental Allergy, 45, pp. 547-65. 
7. Shin JW, Jin SP, Lee JH, et al. (2010), "Analysis of MAST-CLA 
Results as a Diagnostic Tool in Allergic Skin Diseases", Ann 
Dermatol, 22 (1), pp. 35-40. 
8. Zeng YH, Zhang D, Shu Y, et al. (2009), "Detection of serum 
specific IgE in 437 children with allergic disease", Zhongguo 
Dang Dai Er Ke Za Zhi, 11 (7), pp. 543-5. 
9. Zuberbier T, Asero R, Bindslev-Jensen C, et al. (2009), 
"EAACI/GA(2)LEN/EDF/WAO guideline: management of 
urticaria", Allergy, 64 (10), pp. 1427-43. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017