Khái niệm “Ấn Độ” từ góc nhìn khu vực học văn hóa – nhân văn

Tài liệu Khái niệm “Ấn Độ” từ góc nhìn khu vực học văn hóa – nhân văn: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 85 KHÁI NIỆM “ẤN ĐỘ” TỪ GÓC NHÌN KHU VỰC HỌC VĂN HÓA – NHÂN VĂN The concept of “India” from culture-humanity perspective of area studies ThS. Lê Nguyễn Hải Vân Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng Tóm tắt Trong quá trình phát triển của ngành Ấn Độ học, các nghiên cứu cổ điển gắn khái niệm Ấn Độ với nền văn minh của toàn bộ tiểu lục địa Nam Á, trong khi ở các nghiên cứu hiện đại (đặc biệt từ sau sự kiện phân chia Ấn Độ – Pakistan năm 1947), thuật ngữ này được giới hạn trong phạm vi nước Cộng hòa Ấn Độ mà không bao gồm các quốc gia khác trên tiểu lục địa. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, việc xác định rõ giới hạn của khái niệm Ấn Độ trong từng bối cảnh nghiên cứu là cần thiết và quan trọng, đặc biệt là ở lĩnh vực văn h...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái niệm “Ấn Độ” từ góc nhìn khu vực học văn hóa – nhân văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 85 KHÁI NIỆM “ẤN ĐỘ” TỪ GÓC NHÌN KHU VỰC HỌC VĂN HÓA – NHÂN VĂN The concept of “India” from culture-humanity perspective of area studies ThS. Lê Nguyễn Hải Vân Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng Tóm tắt Trong quá trình phát triển của ngành Ấn Độ học, các nghiên cứu cổ điển gắn khái niệm Ấn Độ với nền văn minh của toàn bộ tiểu lục địa Nam Á, trong khi ở các nghiên cứu hiện đại (đặc biệt từ sau sự kiện phân chia Ấn Độ – Pakistan năm 1947), thuật ngữ này được giới hạn trong phạm vi nước Cộng hòa Ấn Độ mà không bao gồm các quốc gia khác trên tiểu lục địa. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, việc xác định rõ giới hạn của khái niệm Ấn Độ trong từng bối cảnh nghiên cứu là cần thiết và quan trọng, đặc biệt là ở lĩnh vực văn hóa – nhân văn, bởi ở phương diện này việc xác định tiêu chuẩn đồng nhất để định hình phạm vi một khu vực là phức tạp và mơ hồ hơn cả. Bài viết tập trung phân tích khái niệm Ấn Độ từ góc độ văn hóa – nhân văn trong nghiên cứu khu vực và đề xuất một số điểm lưu ý trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu Ấn Độ học. Từ khóa: Ấn Độ, khái niệm, khu vực học, nhân văn, văn hóa. Abstract In the history of Indian Studies, classic studies aligned the concept of India with the civilization of the entire South Asia subcontinent, while in modern studies (especially after the separation of India and Pakistan in 1947), India refers to the Republic of India, excluding other nations on the subcontinent. Thus, in the process of research and teaching, the precise definition of the term India in specific research context is necessary and important, especially in the field of culture –humanity in which identifying the standard of uniformity to shape the scope of an area is much more complex and obscure. This paper focuses on the concept of India from the perspective of culture and humanity in Area Studies and proposes some important notes in the process of research, teaching and learning about India. Keywords: India, concept, Area Studies, humanity, culture. 1. Đặt vấn đề Khu vực học là lĩnh vực nghiên cứu khá non trẻ so với nhiều ngành khoa học xã hội khác. Tuy vậy, xu thế toàn cầu hóa với quá trình giao lưu hợp tác toàn diện ngày càng được nhân rộng giữa các quốc gia và khu vực trên thế giới đã và đang đưa Khu vực học trở thành ngành nghiên cứu hợp với xu thế thời đại và phục vụ đắc lực cho thực tiễn. Chính vì thế, Khu vực học trong thời gian gần đây cũng là ngành đào tạo phổ biến tại các cơ sở giáo dục bậc cao trên thế giới. Việc hiểu biết toàn diện về các khu vực đặc thù cũng như từng quốc gia Email: lnhvan@ufl.udn.vn SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 86 riêng lẻ là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quá trình hợp tác quốc tế của nước ta hiện nay. Tại Việt Nam, các chương trình đào tạo liên quan đến ngành Quốc tế học và Đông phương học cũng không nằm ngoài xu thế chung này, đã và đang được xây dựng theo định hướng nghiên cứu khu vực học để gắn liền với thực tiễn đất nước và quốc tế, nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực có kiến thức toàn diện về một khu vực địa lý trên thế giới, phục vụ cho quá trình hợp tác và hội nhập của đất nước. Bước sang thế kỷ 21, Ấn Độ đang từng bước trở thành một cường quốc lớn trong khu vực và trên thế giới. Bối cảnh mới đã đưa quan hệ Việt - Ấn vốn có truyền thống tốt đẹp nay được thắt chặt hơn bao giờ hết, mở ra rất nhiều cơ hội hợp tác giữa hai nước. Để những cơ hội này phát huy hết hiệu quả trong thực tiễn, việc tìm hiểu nghiên cứu về Ấn Độ một cách toàn diện từ góc độ khu vực học là một yêu cầu không thể thiếu. Những hiểu biết sâu sắc về văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội của “người bạn lớn” này sẽ giúp cho việc hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ gặt hái những thành quả tốt đẹp. Chuyên ngành Ấn Độ học vì thế đang có nhiều cơ hội phát triển hơn bao giờ hết. Là một tiểu ngành của khu vực học, Ấn Độ học lấy quốc gia Ấn Độ làm đối tượng nghiên cứu, mà việc xác định đúng bản chất của đối tượng nghiên cứu là bước không thể thiếu khi tiến hành bất kì nghiên cứu khoa học nào. Vì vậy, việc làm rõ khái niệm Ấn Độ từ phương diện khu vực học sẽ giúp chúng ta có được cách tiếp cận phù hợp trong quá trình nghiên cứu về Ấn Độ. Tuy nhiên, khái niệm khu vực có “tính đa nghĩa và ẩn dụ cao” [2, tr.19] khiến việc định nghĩa khái niệm Ấn Độ từ góc độ khu vực học cũng không hề đơn giản. Khi nghiên cứu quốc gia, khu vực, có ba lĩnh vực cơ bản luôn được quan tâm, gồm: (1) chính trị, (2) kinh tế và (3) văn hóa – nhân văn, trong đó việc xác định tiêu chuẩn đồng nhất để định hình phạm vi một “khu vực” trong lĩnh vực văn hóa - nhân văn là phức tạp và “mơ hồ” hơn cả. Bài viết này tập trung phân tích khái niệm Ấn Độ với tư cách là đối tượng nghiên cứu của Khu vực học trong lĩnh vực văn hóa – nhân văn. Từ đó xác định một số vấn đề cần quan tâm trong việc xác định phạm vi khái niệm Ấn Độ trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu về Ấn Độ học. 2. Giải quyết vấn đề 2.1. Khu vực học và tính liên ngành của Khu vực học 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Khu vực học Khu vực học với tư cách là một bộ môn khoa học đã được định nghĩa như sau: “Khu vực học là bộ môn khoa học liên ngành thuộc lĩnh vực nghiên cứu quốc tế, nó nghiên cứu các vùng lãnh thổ bên ngoài biên giới quốc gia trên các phương diện xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa trong quan hệ với không gian địa lý, nhằm tăng cường nhận thức của con người về tính đa dạng của thế giới và vì lợi ích chung” [2, tr.22]. Khu vực học hình thành từ thế kỷ 19 ở châu Âu trong bối cảnh các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác đã xác lập được vị trí của mình. Mỗi ngành có đối tượng nghiên cứu là một lĩnh vực cụ thể, được coi là những chỉnh thể tồn tại độc lập, và vì vậy cần được tìm hiểu nghiên cứu một cách độc lập. Tuy nhiên, khung lí luận chung của một ngành khoa học xã hội liệu khó có thể áp dụng để nhìn nhận một cách toàn diện tất cả các trường hợp nghiên cứu, LÊ NGUYỄN HẢI VÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 87 khi mà các nền văn hóa xã hội của loài người phát triển không thuần nhất, và mọi hiện tượng văn hóa xã hội đều là kết quả của sự tương tác giữa nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội, lịch sử, biến thiên qua từng giai đoạn và đặc thù theo từng khu vực địa lý. Từ chỗ là lĩnh vực nghiên cứu gắn liền với các nước tư bản chủ nghĩa, phục vụ cho quá trình thuộc địa hóa [2, tr.32], ở buổi ban đầu, nghiên cứu khu vực “thường bị coi là không có tính chuyên môn và do đó, không thực sự mang tính học thuật, điều này làm cho nó phải chịu một địa vị thấp kém trong các trường đại học” [4, tr.7]. Câu chuyện tranh luận Khu vực học có phải là một ngành khoa học nghiên cứu hay không vẫn luôn sôi nổi ở thời kỳ này. Bước sang thế kỷ 20, bối cảnh phức tạp và gay cấn của thế giới đã khiến cho nhận thức khoa học thay đổi và vai trò của Khu vực học trong việc giải quyết các nhu cầu thực tiễn của xã hội ngày càng được nhìn nhận xứng đáng. “Khu vực học đang trở thành một trào lưu nghiên cứu và đào tạo phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới, thành một lĩnh vực có phương pháp tiếp cận riêng, có khả năng cung cấp tri thức để giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn mà các khoa học chuyên ngành, để duy trì sự khác biệt và độc lập với các chuyên ngành khác, không thể giải quyết được” [4, tr.1]. Với tư cách là ngành khoa học cung cấp những hiểu biết toàn diện mang tính hệ thống về các quốc gia, khu vực trên thế giới, khu vực học cũng đã trở thành một ngành được quan tâm tại Việt Nam, đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới mở cửa hội nhập. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và định hướng hội nhập quốc tế của nước ta, việc nghiên cứu và giảng dạy khu vực học ngày càng được mở rộng và đóng vai trò quan trọng. 2.1.2. Tính liên ngành của Khu vực học Đặc trưng quan trọng nhất của Khu vực học và làm cho nó khác biệt với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác cũng như tạo cho nó vị thế quan trọng trong bối cảnh thế giới hiện nay là tính liên ngành. Khái niệm liên ngành (inter- disciplinary) thể hiện hoạt động nghiên cứu theo mô hình “hợp tác học thuật” giữa các học giả từ hai hay nhiều chuyên ngành cùng sự kết hợp của các phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành này để có thể nhận thức và lý giải toàn diện về một đối tượng (ở đây là khu vực địa lý). Đối tượng nghiên cứu của khu vực học là các khu vực địa lý, ở tầm quốc gia hoặc khu vực. Mỗi thực thể này là một chỉnh thể tổng hòa của nhiều yếu tố: địa lý tự nhiên, môi trường, dân cư, xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế tương tác với nhau trong các diễn tiến lịch sử khác biệt. Mọi hiện tượng lịch sử, văn hóa, xã hội đều là hệ quả của rất nhiều yếu tố và cũng mang nhiều tính chất đặc điểm được quy định bởi các yếu tố đó. Vì vậy, Khu vực học, để có thể đưa ra cái nhìn toàn diện về một quốc gia hay một khu vực, “đòi hỏi phải vận dụng tổng hợp các kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau trong khi làm sáng tỏ bản chất của các hiện tượng xã hội của khu vực” [2, tr.22]. Việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu theo hướng liên ngành vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu của các ngành nghiên cứu khác nhau của Khu vực học đã tạo ra các sản phẩm khoa học có “tính pha trộn, lai ghép” [2, tr.23], thể hiện hiểu biết toàn diện về các khu vực, các nền văn hóa và xã hội khác nhau trên thế giới, có đóng góp không nhỏ vào kho tàng tri thức nhân loại. 2.2. Khái niệm “Ấn Độ” trong Ấn Độ học 2.2.1. Ngành nghiên cứu Ấn Độ học Việc nghiên cứu và tìm hiểu về nền SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 88 văn hóa, tư tưởng triết học và văn học nghệ thuật rực rỡ của Ấn Độ đã bắt đầu từ rất lâu trong lịch sử. Chẳng hạn như các nhà sư Trung Quốc hành hương đến Ấn Độ trong đó nổi bật nhất là Pháp Hiển (thế kỷ 4) và Huyền Trang (thế kỷ 7) đã có những ghi chép về chuyến đi của mình. Những ghi chép này trở thành một nguồn tài liệu quý trong nghiên cứu lịch sử và văn hóa Ấn Độ. Ngoài ra, còn có các học giả Ả Rập, về sau là các thương nhân, nhà truyền giáo và các học giả phương Tây tiếp cận và tìm hiểu về nền văn hóa này. Ấn Độ học với tư cách là một ngành nghiên cứu mang tính học thuật được thành lập một cách chính thức tại các trường đại học lớn của châu Âu vào khoảng cuối thế kỷ thứ 18 với tên gọi Indology. Vào thời kỳ đầu, các nghiên cứu Ấn Độ học tập trung chủ yếu vào lĩnh vực ngôn ngữ, văn học, lịch sử, văn hóa và triết học Ấn Độ thời kỳ cổ - trung đại tại nhiều trường đại học ở châu Âu và Mỹ. Khoảng từ nửa sau thế kỷ 19, các học giả Ấn Độ được đào tạo từ các trường đại học do Vương quốc Anh thiết lập tại Ấn Độ bắt đầu tiếp cận với các phương pháp cùng kết quả nghiên cứu của giới nghiên cứu phương Tây và tham gia vào lĩnh vực này [8]. Nghiên cứu Ấn Độ học có thể chia thành hai trường phái lớn gồm các nhà nghiên cứu Âu-Mỹ và các nhà nghiên cứu Ấn Độ và gốc Ấn Độ. Nghiên cứu Ấn Độ học của các học giả châu Âu, đặc biệt ở thời kỳ đầu mang tính định kiến cao, chịu ảnh hưởng của học thuyết chủng tộc, hình thành các lý thuyết chia cắt xã hội Ấn Độ để phục vụ cho quá trình thuộc địa hóa và cai trị của chủ nghĩa thực dân từ thế kỷ 18, 19. Trường phái châu Mỹ tìm hiểu về nhiều khía cạnh xã hội hơn, tuy nhiên cũng phân tích qua lăng kính mâu thuẫn giữa các tôn giáo hoặc đẳng cấp, đề cao giá trị Phật giáo và phê phán sự bất bình đẳng của xã hội Hindu giáo. Trong khi đó, các học giả Ấn Độ và Ấn kiều tham gia nghiên cứu Ấn Độ học với nỗ lực thay đổi cái nhìn mà họ cho là đầy định kiến đó, đưa ra cách tiếp cận từ bên trong về các vấn đề tại Ấn Độ, khẳng định các giá trị và tính thống nhất của một Ấn Độ với chiều dài lịch sử và bề dày văn hóa đầy gắn kết mà họ tự hào [9]. Từ nửa sau thế kỷ 20 trở lại đây, cùng với việc Cộng hòa Ấn Độ trở thành một cường quốc đang lên trong thế kỷ 21, việc nghiên cứu về Ấn Độ không còn chỉ tập trung vào các lĩnh vực truyền thống của Ấn Độ học cổ điển (Classical Indology) như ngôn ngữ, tư tưởng triết học, văn học và xã hội mà được mở rộng và đào sâu trên nhiều phương diện như kinh tế, chính trị, đối ngoại... của Ấn Độ học hiện đại (Modern Indology hoặc South Asian Studies). Khái niệm Nam Á (South Asia) bắt đầu được sử dụng rộng rãi kể từ sau sự kiện Partition năm 1947 với sự phân chia Ấn Độ và Pakistan. “Trong nhiều thế kỷ, ‘Ấn Độ’ vẫn là thuật ngữ quan trọng thường được sử dụng để chỉ nền văn minh trên tiểu lục địa như một chỉnh thể thống nhất về địa lý và văn hóa. Đây vẫn là thuật ngữ hữu dụng, thuận tiện và chính xác để chỉ nền văn minh gần 5000 năm của tiểu lục địa cùng những thành quả của nó. Liên quan đến những sự kiện sau Partition, khái niệm Ấn Độ được sử dụng không bao gồm Pakistan” [10; tr.223]. Theo đó, các nghiên cứu thuộc lĩnh vực của Ấn Độ học cổ điển vẫn gắn khái niệm Ấn Độ với toàn bộ tiểu lục địa Nam Á ở góc độ địa – văn hóa. Trong khi đó các nghiên cứu Ấn Độ học hiện đại cho rằng, khái niệm Ấn Độ giới hạn trong phạm vi nước Cộng hòa Ấn Độ, phân biệt rõ với khái niệm Nam Á với tư LÊ NGUYỄN HẢI VÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 89 cách là một khu vực gồm nhiều quốc gia. Tại các trường đại học cũng như các cơ sở nghiên cứu của Việt Nam, nghiên cứu Ấn Độ học chưa được định nghĩa một cách thống nhất. Chẳng hạn như Bộ môn Ấn Độ học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn TP.HCM hướng đến đầu ra của sinh viên có khả năng làm việc công tác trong các lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu về Ấn Độ học, làm việc tại các công ty Ấn Độ đầu tư tại Việt Nam [5]; trong khi đó, Bộ môn Ấn Độ học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội có mục tiêu đào tạo kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành Nam Á, sinh viên sau khi ra trường có thể công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp liên quan đến các quốc gia Nam Á [6]. Như vậy có thể thấy, khái niệm và phạm vi nghiên cứu của Ấn Độ học tại các trường đại học của Việt Nam chưa có sự thống nhất về mặt phạm vi, cũng như chưa có sự phân ngành cụ thể giữa Ấn Độ học cổ điển và hiện đại. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy, trao đổi học thuật và tìm hiểu các tài liệu trong và ngoài nước, việc giải thích và cắt nghĩa khái niệm Ấn Độ, đặc biệt là từ khung tham chiếu của Khu vực học (tức là trả lời câu hỏi: Ấn Độ ở đây là một quốc gia hay khu vực) là cần thiết trong từng bối cảnh nghiên cứu cụ thể. 2.2.2. Khái niệm Ấn Độ từ góc nhìn khu vực học văn hóa – nhân văn Khu vực là một khái niệm có nội hàm ngữ nghĩa khá mơ hồ và khó xác định. Nội hàm của khái niệm khu vực thay đổi theo ngữ cảnh mà nó được sử dụng. Vì vậy, khi tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về một khu vực cụ thể, việc xác định giới hạn của khu vực đó là một bước quan trọng. Trong đó, hai vấn đề căn bản nhất là phạm vi của khu vực và các tiêu chí xác định khu vực đó. Nếu như khu vực học chính trị và kinh tế có thể lấy biên giới quốc gia hiện đại làm phạm vi đối tượng nghiên cứu một cách cơ bản, thì với khu vực học văn hóa – nhân văn việc tìm ra nét đồng nhất của một khu vực địa lý (tức là tìm ra bản sắc văn hóa dân tộc) là không hề đơn giản và luôn gây tranh cãi bởi tính chất vừa thống nhất vừa đa dạng của văn hóa. Ấn Độ là một quốc gia, một nền văn hóa - Nơi mà mọi thứ đều tồn tại ở những thái cực đối lập nhưng lại cũng dung hòa với nhau theo một cách rất riêng. Đặc trưng đa sắc tộc, đa ngôn ngữ, đa tôn giáo, đa văn hóa của đất nước này, cùng một lịch sử trải qua hàng nghìn năm với những biến động to lớn, những cuộc tiếp xúc giao thoa văn hóa, đã làm cho việc nghiên cứu về Ấn Độ một cách toàn diện từ góc độ khu vực học văn hóa - nhân văn là một thách thức không hề nhỏ. Chính hoàn cảnh phức tạp của đối tượng nghiên cứu này khiến cho với mỗi bối cảnh, mục đích khác nhau của mỗi nghiên cứu, nội hàm của khái niệm Ấn Độ lại có những biến đổi nhất định. Để xác định rõ ràng giới hạn của Ấn Độ trong nghiên cứu Ấn Độ học ở lĩnh vực văn hóa – nhân văn, chúng ta cũng cần xuất phát từ hai vấn đề căn bản của khái niệm khu vực như đã nêu là phạm vi và tiêu chí xác định. Thứ nhất, về phạm vi khái niệm Ấn Độ Theo tác giả Lương Văn Kế, khái niệm khu vực theo tiêu chí không gian – chức năng được biểu thị qua 5 mức độ từ thấp đến cao gồm có: (1) một khoảng đất nhỏ, (2) một địa phương hay đơn vị hành chính trong một quốc gia, (3) lãnh thổ một quốc gia, (4) lãnh thổ các quốc gia liền kề nhau có chung một nét tương đồng nào đó, và (5) không gian xuyên quốc gia của các quốc gia cùng tham gia vào một hiệp ước song phương hay đa phương nào đó. Theo SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 90 đó, chỉ có hai cấp độ quốc gia và khu vực liên quốc gia là thuộc phạm vi nghiên cứu của khu vực học trong đó quốc gia là cấp độ căn bản [3, tr.196-197]. Ấn Độ học, theo định nghĩa khu vực học, là ngành nghiên cứu toàn diện về đất nước Ấn Độ trên tất cả các phương diện trong mối quan hệ hữu cơ giữa chúng để tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Khái niệm Ấn Độ trong thường thức ngày nay là tên gọi của một quốc gia nằm ở khu vực Nam Á, có diện tích lớn thứ 7 thế giới và dân số đứng thứ hai thế giới. Phạm vi lãnh thổ quốc gia đương đại ở đây thường được dùng làm giới hạn cho đối tượng nghiên cứu của Ấn Độ học. Giới hạn trên trùng khít với phạm vi các nghiên cứu về thể chế, chính trị, hành chính quốc gia, kinh tế của Ấn Độ với tư cách là một quốc gia hiện đại. Tuy nhiên, trở lại với tính liên ngành của khu vực học, ngành Ấn Độ học không chỉ dừng lại ở mảng nghiên cứu này mà còn tìm hiểu nó trong mối liên hệ với các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, xã hội của Ấn Độ. Sự phức tạp của khái niệm bắt đầu xuất hiện từ đây. Trong suốt chiều dài lịch sử, quốc gia Ấn Độ có những thay đổi đáng kể về phạm vi. Trong lịch sử nghiên cứu, cuộc tranh luận về sự tồn tại của một chỉnh thế mang tên Ấn Độ với tư cách là một quốc gia đã từng làm tốn không ít giấy mực của các học giả. Một bên là các học giả phương Tây, đại diện cho tư tưởng thực dân khai sáng thuộc địa, cho rằng trước khi thực dân Anh thành lập Đế chế Ấn Độ thuộc Anh (British Raj), chưa bao giờ tồn tại một quốc gia Ấn Độ thống nhất. Nhóm thứ hai là các học giả dân tộc chủ nghĩa của Ấn Độ nỗ lực phản biện lại quan điểm trên và chứng minh Ấn Độ là một chỉnh thể tồn tại tương đối gắn kết và bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Tuy nhiên, cho dù có thực sự tồn tại một Ấn Độ thống nhất trước khi thực dân Anh thiết lập British Raj hay không, thì chỉ với sự kiện Partition năm 1947 chia tách British Raj thành Ấn Độ và Pakistan, cùng sự kiện Đông Pakistan tách thành quốc gia độc lập Bangladesh năm 1971, chúng ta vẫn cần đặt câu hỏi: Ấn Độ, với tư cách là đối tượng nghiên cứu của ngành Ấn Độ học, là một quốc gia hay một khu vực liên quốc gia (gồm ít nhất là Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh)? Và theo đó, Ấn Độ học là nghiên cứu ở cấp độ đất nước học hay khu vực học? Đa phần nhận thức về Ấn Độ hiện nay vẫn ngầm hiểu Ấn Độ với phạm vi nước Cộng hòa Ấn Độ bởi “tuy khu vực học là tổng hợp của nhiều khoa học xã hội và nhân văn như vậy, nhưng dù thế nào thì màu sắc chính trị vẫn rất mạnh mẽ.” [2, tr.58]. Dù vậy, vẫn cần nhìn nhận rằng việc nghiên cứu Ấn Độ học truyền thống tập trung vào các vấn đề ngôn ngữ, triết học tư tưởng, văn học nghệ thuật của nền văn minh Ấn Độ - những giá trị không chỉ gói trọn trong phạm vi quốc gia Ấn Độ hiện đại. Việc giới hạn phạm vi của cách hiểu về khái niệm Ấn Độ là một quốc gia hay một khu vực là lựa chọn mang tính cá nhân bởi “một khu vực không phải là thực thể bất biến, mà nó luôn biến đổi theo thời gian, do đó cần khảo sát khu vực theo con mắt động cả về chiều thời gian lẫn không gian.” [2, tr.58]. Điều nên chú ý là trong các bối cảnh tìm hiểu cụ thể về đối tượng này hay phân tích các tài liệu nghiên cứu của các học giả đi trước, cần hiểu và xác định giới hạn cụ thể về Ấn Độ trong ngữ cảnh cụ thể mà chúng ta đang tìm hiểu, để tránh sự “lệch pha” về mặt phạm vi khái niệm. Thứ hai, về tiêu chí xác định khái niệm Ấn Độ Để “vẽ” được phạm vi ranh giới của LÊ NGUYỄN HẢI VÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 91 một khu vực, cần có tiêu chí xác định, một tiêu chuẩn hay nét đặc trưng đồng nhất để xác định khu vực đó. Ấn Độ là quốc gia đa sắc dân tộc, tôn giáo – tín ngưỡng, có một nền văn minh lịch sử lâu đời đã tạo nên một nền văn hóa đa dạng hay thậm chí có thể xem là một tập hợp của nhiều nền văn hóa. Chính vì vậy, việc xác định phạm vi Ấn Độ dựa vào tiêu chí đồng nhất về mặt văn hóa, hay nói cách khác là việc xác định bản sắc văn hóa dân tộc của Ấn Độ thật không dễ dàng. Có thể lấy vấn đề ngôn ngữ làm một ví dụ. Theo Điều tra dân số năm 2011 của Chính phủ Ấn Độ1, nước này có 1369 ngôn ngữ, trong đó có 121 ngôn ngữ chính có trên 10.000 người sử dụng [7]. Với một số lượng ngôn ngữ khổng lồ như vậy, việc làm cho các cộng đồng người với tiếng nói khác nhau cảm thấy mình cùng thuộc về một chỉnh thể văn hóa chung là một điều khá khó khăn. Chính phủ cũng không thể chọn ra một ngôn ngữ làm quốc ngữ bởi việc làm này có thể để lại hậu quả khôn lường (trường hợp Đông Pakistan – với tiếng Bengali là bản ngữ – tách ra khỏi Pakistan mà một trong những nguyên nhân chính là do chính phủ Tây Pakistan muốn sử dụng tiếng Urdu của Tây Pakistan làm quốc ngữ, là một bài học mà Ấn Độ không muốn lặp lại). Mặc dù tiếng Hindi được sử dụng khá phổ biến, nhưng ý đồ sử dụng tiếng Hindi làm quốc ngữ của chính quyền trung ương vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của các bang phía Nam với phong trào Dravidian. Vì vậy, để tránh các xung đột có thể xảy ra, chính phủ cho phép mỗi bang tại Ấn Độ được lựa chọn một ngôn ngữ chính thức riêng (ví dụ: bang Tây Bengal có ngôn ngữ chính là tiếng Bengali, bang Tamil Nadu có ngôn ngữ chính là tiếng Tamil), còn tiếng Anh cùng tiếng Hindi được công nhận là ngôn ngữ chính thức theo Hiến pháp. Chúng ta có thể phân tích một tình huống giả định như sau: một người Tamil đến bang Tây Bengal buộc phải giao tiếp bằng tiếng Anh vì không hiểu ngôn ngữ bản địa và trải nghiệm một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt, trong khi một người Bangladesh – người nước ngoài, không mang quốc tịch Ấn Độ – lại hoàn toàn có thể hiểu được ngôn ngữ ở đây và có những trải nghiệm văn hóa không khác gì ở quê hương của mình. Bởi trước năm 1947, Bangladesh là phần phía Đông của vùng Bengal, và về mặt lịch sử văn hóa, nó nằm trong tổng thể của vùng văn hóa Bengal cùng với bang Tây Bengal của Ấn Độ ngày nay. Ranh giới quốc gia hiện đại khiến cho người vùng Tây Bengal và người Bangladesh vốn cùng một bản sắc văn hóa trở thành công dân của hai quốc gia khác nhau. Trong khi đó, người Tây Bengal với người Tamil Nadu, dù có cùng một tư cách công dân Ấn Độ, lại có phông văn hóa hoàn toàn khác biệt. Vậy điều gì làm nên bản sắc văn hóa dân tộc của Ấn Độ – nếu chúng ta xem Ấn Độ là một quốc gia? Khi mà công dân trong quốc gia này có nền tảng văn hóa xa lạ với người cùng một nước, lại có cùng một truyền thống với công dân của một quốc gia khác. Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, bản sắc văn hóa (cultural identity) và bản sắc dân tộc (national identity)2 là vấn đề mà các quốc gia đang đặt nhiều sự quan tâm. Nếu như tính cách là sự thể hiện “cái tôi” của một cá nhân cụ thể thì bản sắc chính là sự thể hiện “cái tôi” vĩ mô của mỗi nền văn hóa, là nét riêng phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. “Trong quan hệ quốc tế, bản sắc văn hóa dân tộc được xem như “cái thẻ căn cước”, là cốt cách của mỗi dân tộc thể hiện trên mọi phương diện quan hệ ngoại giao về kinh tế, chính trị, SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 92 văn hóa và xã hội” [1, tr.67]. Bản sắc văn hóa dân tộc ngày nay còn đóng vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia trong việc xác lập và khẳng định sự tồn tại của mình. Đối với một đất nước mà sự đa dạng và đối nghịch của các giá trị được đẩy lên đến đỉnh điểm như Ấn Độ, việc xác định (hay thậm chí thiết lập mới) thứ gọi là tính Ấn Độ (Indianness) đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các nhóm khác nhau trong xã hội, ngăn ngừa nguy cơ xung đột có thể xảy ra. Chính phủ Ấn Độ vẫn luôn nhấn mạnh tuyên ngôn “Thống nhất trong đa dạng” (Unity in diversity) như “hòn đá tảng” để xác lập bản sắc dân tộc của mình, nói cách khác là “sợi chỉ” kết nối, là “chất keo” gắn kết tất cả các mảng màu quá đa dạng và khác biệt trong Ấn Độ lại thành một chỉnh thể đơn nhất có cùng một bản sắc. Tuy vậy việc chứng minh tính thống nhất trong đa dạng của các nền văn hóa, các cộng đồng người, các khu vực trong bản thân quốc gia Ấn Độ chưa bao giờ là một việc đơn giản. Để xác lập được bản sắc văn hóa một cách vững vàng, cần tìm được câu trả lời cho câu hỏi: Ai là người Ấn Độ? Dĩ nhiên câu trả lời cần được nhìn nhận từ góc độ bản sắc văn hóa chứ không phải tư cách công dân được quy định trên giấy tờ hành chính. Bởi trong nghiên cứu khu vực học ở cấp độ quốc gia, hay còn gọi là đất nước học, “khái niệm quốc gia ở đây không đơn thuần là ‘nhà nước’ với tính cách một đơn vị địa lý chính trị (tiếng Anh: state), cũng không chỉ là ‘nation’ (quốc gia/ dân tộc) mang màu sắc văn hóa, mà là một chỉnh thể đất nước (tiếng Anh: country) có thể bao gồm cả hai khái niệm Nation và State trong tiếng Anh” [2, tr.21]. Tóm lại, khi nghiên cứu và tìm hiểu về Ấn Độ từ góc độ khu vực học văn hóa – nhân văn, cần hiểu rằng phạm vi của khái niệm Ấn Độ rất rộng và phức tạp so với một Ấn Độ nhìn từ phương diện khu vực học chính trị và kinh tế. Vì vậy, cần tránh việc đánh đồng phạm vi khái niệm Ấn Độ về mặt văn hóa – nhân văn với biên giới lãnh thổ của quốc gia Cộng hòa Ấn Độ ngày nay. Mặt khác, cũng không nên đồng nhất Ấn Độ trong nghiên cứu khu vực học văn hóa – nhân văn với toàn bộ khu vực Nam Á. Bởi trên thực tế, bản thân nhiều quốc gia Nam Á có lịch sử phát triển tương đối độc lập với các vương triều tại Ấn Độ, nhưng vẫn nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Nếu chúng ta dùng tiêu chí văn hóa theo hướng xác định tất cả các vùng chịu ảnh hưởng đậm nét của văn hóa Ấn Độ đều nằm trong phạm vi khái niệm Ấn Độ thì không chỉ Nam Á mà phần lớn khu vực Đông Nam Á cũng có thể được bao gồm trong khái niệm này bởi đây là nơi chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ, là nơi lưu giữ các giá trị thậm chí đã mất đi tại Ấn Độ (chính là Phật giáo). 3. Kết luận Nghiên cứu Ấn Độ học ngày nay đã khác với buổi đầu từ thế kỷ 18 rất xa. Các nghiên cứu về Ấn Độ không chỉ dừng lại ở vấn đề ngôn ngữ và văn hóa mà được đặt trong một tổng thể các lĩnh vực đa chiều nhưng không biệt lập mà tương tác qua lại. Việc xác định cách hiểu về phạm vi cùng tiêu chí xác định phạm vi của khái niệm Ấn Độ từ góc độ khu vực học là rất quan trọng. Trong các hệ quy chiếu khác nhau, khái niệm này lại có sự thay đổi nhất định, và việc xác định phạm vi khái niệm ở phương diện văn hóa - nhân văn là vô cùng phức tạp. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập Ấn Độ học, người nghiên cứu, người dạy và người học đều không nên đồng nhất khái niệm Ấn Độ với nước Cộng hòa Ấn Độ hiện đại hay toàn bộ khu vực Nam Á mà cần xem xét LÊ NGUYỄN HẢI VÂN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 93 từng trường hợp cụ thể với sự kết hợp các tiêu chí về phạm vi thời gian (thời kỳ cổ đại, trung đại, cận hiện đại, hậu độc lập) và vấn đề nghiên cứu (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, lịch sử) nhằm xác định rõ nội hàm của khái niệm Ấn Độ được sử dụng ở cấp độ quốc gia (nước Cộng hòa Ấn Độ ngày nay) hay khu vực liên quốc gia (một vùng văn hóa lâu đời bao trùm nhiều quốc gia ở thời kỳ hiện đại) để có để đạt đến những lí giải trọn vẹn và sâu sắc về vấn đề mình đang tìm hiểu. Chú thích: 1 Các cuộc Điều tra Dân số được Chính phủ Ấn Độ thực hiện 10 năm 1 lần. Số liệu năm 2011 được công bố vào tháng 6 năm 2018 hiện là số liệu được cập nhật nhất. 2 Bài viết tạm sử dụng khái niệm bản sắc để dịch khái niệm identity trong tiếng Anh. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này không hoàn toàn trùng khớp nhau và trong tiếng Việt hiện nay chưa có từ nào có nghĩa để diễn tả trọn vẹn khái niệm identity và khái niệm bản sắc vẫn được sử dụng phổ biến nhất để chuyển ngữ cho identity trong các văn bản tiếng Việt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Thị Hương (2010). Một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa dân tộc. Triết học, số 10 (233), tr.66-72. 2. Lương Văn Kế (2010). Nhập môn Khu vực học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Lương Văn Kế (2012). Quốc tế học và khu vực học: Những khía cạnh phương pháp luận. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 28, tr.194-209. 4. Trịnh Cẩm Lan (2007). Sự hình thành và phát triển nghiên cứu khu vực ở Mỹ và châu Âu. Đề tài QX-05.09. Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Website Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 15/11/2018 tại aspx?TopicId=83b88760-b49a-4ec7-b87d- 0334ae3d3e6f 6. Website Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Truy cập ngày 15/11/2018 tại article/39/bo-mon-an-do-hoc.html 7. Census Data 2011: General note. Census of India. Truy cập ngày 15/11/2018 tại uage_MTs.html 8. Kumar, Shiv (2012). Documentation and information services in centres of Sanskrit and Indological Studies in India – A Study (Luận án tiến sĩ). Panjab University. Truy cập ngày 19/12/2017 tại 9. Pattanaik, Devdutt (2016). Four types of Indology. Mid-day. Truy cập ngày 20/12/2017 tại articles/devdutt-pattanaik-four-types-of- indology/16973156 10. Patterson, M.L.P và Jacob, L.A. (1965). South Asian Area Studies and the Library [with Discussion]. The Library Quarterly. Vol.35. No.4. Proceedings of the Thirtieth Annual Conference of the Graduate Library School. May 20-22: Area Studies and the Library (Oct., 1965). pp.223-238. Ngày nhận bài: 16/01/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf88_0018_2214993.pdf
Tài liệu liên quan