Chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 93 Chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay Social security policy for labor and employment in Vietnam today Nguyễn Tiến Nghị Trường Đại học Điện lực Việt Nam Nguyen Tien Nghi Electric Power University, vietnam Tóm tắt Bài báo làm rõ quá trình thể chế hóa, thực trạng chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội trong thời gian tới. Bằng phương pháp nghiên cứu phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê Bài viết đã nêu được một số kết quả nhất định trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm đồng thời nêu lên những vướng mắc cần khắc phục trong thời gian tới. Từ khóa: an sinh xã hội, lao động, việc làm, chính sách. Abstract The report’s contents focuses on clarifying process off the institutionalization, the reality so...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 93 Chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay Social security policy for labor and employment in Vietnam today Nguyễn Tiến Nghị Trường Đại học Điện lực Việt Nam Nguyen Tien Nghi Electric Power University, vietnam Tóm tắt Bài báo làm rõ quá trình thể chế hóa, thực trạng chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội trong thời gian tới. Bằng phương pháp nghiên cứu phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê Bài viết đã nêu được một số kết quả nhất định trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm đồng thời nêu lên những vướng mắc cần khắc phục trong thời gian tới. Từ khóa: an sinh xã hội, lao động, việc làm, chính sách. Abstract The report’s contents focuses on clarifying process off the institutionalization, the reality social security policy for labor and employment in Vietnam today. Since then, launched a number of recommendation of social welfare policies in the near future. By means of analysis, comparison and collation, the statistics, the article mentioned a certain number of results in the implementation of social welfare policies for labor an employment, indicated problems need to be fixed in the near future. Keywords: social security, labor, employment, policy. Trải qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới và hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, bên cạnh những thành tựu to lớn mọi mặt mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại, đất nước ta cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về xã hội. An sinh xã hội đối với lao động và việc làm, theo đó, cũng còn gặp nhiều khó khăn. Trong đó, chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm là vấn đề còn có nhiều bức xúc nhất, cần giải quyết thường xuyên để đảm bảo cuộc sống, sự bình đẳng cho nhân dân. 1. Thực trạng của hệ thống an sinh xã hội đối với lao động và việc làm ở nước ta hiện nay Cùng với chính sách phát triển kinh tế, quốc phòng - an ninh, chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm có vị trí quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống tinh thần và vật chất của mỗi hộ gia đình, người lao động và các địa phương, thể hiện đặc trưng và ưu việt của chế độ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ H I ĐỐI VỚI LAO Đ NG VÀ VIỆC LÀM Ở VI T NAM HI N NAY 94 chính trị của đất nước. Quan tâm đến đời sống nhân dân và bảo đảm an sinh xã hội là một trong nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm hàng đầu đặc biệt là trong giai đoạn hậu khủng hoảng hiện nay. Song hành cùng chính sách an sinh xã hội, hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam cũng được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện. Cho đến nay, Việt Nam chưa có một hệ thống an sinh xã hội hoàn chỉnh. Tuy nhiên, Nhà nước đã ban hành trên 50 loại chính sách về an sinh xã hội (do ngành Lao động – Thương binh và xã hội quản lý) liên quan đến lao động và việc làm, từng bước phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Các chính sách này được phân loại theo các trụ cột của hệ thống an sinh xã hội mà Việt Nam theo đuổi, bao gồm: 1.1. Chính sách về thị trường lao động và việc làm bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo Thời gian qua, chính sách về thị trường lao động và việc làm bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo là một trong những trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam. Hệ thống này hiện nay được xây dựng và ban hành tương đối đồng bộ, phù hợp với kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi chúng ta gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Trong chính sách này, hướng cơ bản nhất là phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm mới cho đa số người lao động từ các hộ nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không có nhiều cơ hội tiếp cận được việc làm tốt với thu nhập ổn định và điều kiện làm việc tốt. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhà nước cần thiết ban hành chính sách về trợ giúp xã hội và tạo việc làm là do trình độ học vấn của người lao động thấp, sức khỏe kém, ít thông tin về thị trường lao động, hạn chế về năng lực mặc cả, đàm phán Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, biến động cung – cầu lao động trên thị trường lao động thường xuyên xảy ra, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động ngày càng gia tăng. Do đó, tạo nhiều cơ hội việc làm, tiếp cận thông tin thị trường lao động để tìm được việc làm và nâng cao thu nhập là giải pháp góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo đảm việc làm, hiệu quả và bền vững. Theo đó, trong những năm qua, sự ra đời của một số đạo luật như: Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh, Luật hợp tác xã, đã góp phần tạo cơ sở pháp lý và môi trường thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình và hợp tác xã phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nhằm nâng cao hiệu quả của thành phần doanh nghiệp nhà nước, Việt Nam đã tiến hành sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu theo hướng cổ phần hóa, thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, Do đó, tạo nhiều cơ hội việc làm có thu nhập ổn định thông qua dạy nghề, vay vốn tiếp cận thông tin thị trường lao động tư vấn việc làm và từ doanh nghiệp để có việc làm là giải pháp an toàn tạo thu nhập hiệu quả nhất. Có thể coi đây là những chính sách quan trọng, quyết định đối với tạo việc làm cho lao động xã hội đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo. Ngoài việc ban hành các chính sách, luật pháp, Nhà nước rất coi trọng xây dựng NGUYỄN TIẾN NGHỊ 95 và thực hiện các chương trình mục tiêu để tập trung nguồn lực giải quyết các vấn đề bức xúc nhất về thị trường lao động và việc làm bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo như: Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề (giai đoạn 1998 - 2000, 2001 - 2005, 2006 - 2010, 2012 - 2015); Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo (giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2010, 2011 - 2015); Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững (giai đoạn 2012 - 2015, 2016 - 2020); Chương trình tăng cường nâng cao năng lực đào tạo nghề (giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2010); chương trình đào tạo nghề cho nông thôn, bộ đội xuất ngũ; chương trình 135, Nghị quyết 30a/2008/NQ- CP,Các chương trình này hướng vào hỗ trợ người thất nghiệp, người chưa có việc làm, người nghèo và nhóm xã hội yếu thế tự tạo việc làm hoặc tìm việc làm trên thị trường lao động nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho họ. 1.2. Chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Trong bối cảnh tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, già hóa dân số, việc phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là hai trụ cột cơ bản nhất của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam, góp phần tích cực vào việc ổn định an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện xây dựng chính sách, chế độ, tổ chức triển khai thực hiện các loại hình bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm xã hội thất nghiệp, nghiên cứu thí điểm chính sách bảo hiểm xã hội bổ xung đối với nhóm lao động có thu nhập cao hơn trong nhóm ngành nghề nhất định nhằm tăng cường khả năng tự an sinh), bảo hiểm y tế bắt buộc. Mặt khác, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là một bộ phận quan trọng của của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô đảm bảo cho nền kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong suốt quá trình. Để tổ chức thực hiện, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được quy đinh tại các văn bản luật như: Luật bảo hiểm xã hội, nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiễm xã hội bắt buộc và Thông tư số 03/2007/TT-LĐTBXH ngày 30/01/2007 của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của nghị định số 152/2006/NĐ-CP; Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Mặc dù các văn bản ban hành có giá trị pháp lý khác nhau song đều tập trung vào các nội dung chính là: Xác định đối tượng tham gia, mức đóng và mức chi trả chế độ cho người lao động đang làm việc hoặc hưởng chế độ hưu trí. Đối với bảo hiểm y tế, có thể nói, nội dung của chính sách bảo hiểm y tế hiện nay được thể hiện tập trung nhất trong Luật bảo hiểm y tế và một số văn bản hướng dẫn thi hành khác như Chương trình mục tiêu quốc gia Y tế (giai đoạn 2012 - 2015). Chương trình có mục tiêu: chủ động phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm; phát hiện dịch sớm, dập tắt dịch kịp thời, không để dịch lớn xảy ra; giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết do một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm, góp phần thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ H I ĐỐI VỚI LAO Đ NG VÀ VIỆC LÀM Ở VI T NAM HI N NAY 96 lượng cuộc sống; hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ trung ương đến cơ sở và nâng cao ý thức giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung, chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế tập chung ở hai loại hình cơ bản là: bảo hiểm y tế tự nguyện và bảo hiểm y tế bắt buộc. Nội dung quy đinh về đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, về mức đóng bảo hiểm y tế, về chế độ và phương thức chi trả, về quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm y tế 1.3. Chính sách về ưu đãi, trợ giúp xã hội Đối với chính sách ưu đãi xã hội Chính sách ưu đãi xã hội là một chính sách đặc thù trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay. Đây là chính sách đãi ngộ về vật chất, tinh thần đối với những người có công với nước, với dân, với cách mạng nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ là bộ phận căn cốt của nền an sinnh xã hội, đồng thời thể hiện truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Nội dung cơ bản của chính sách được thể hiện chủ yếu trong Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11, ngày 29/06/2005; Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/07/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Nghị định số 101/2013/NĐ-CP, ngày 04/09/2013 của Chính phủ quy định mức trợ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Chính sách ưu đãi xã hội ở nước ta còn quy định các hình thức ưu đãi khác như: giáo dục và đào tạo, việc làm, dạy nghề, vốn chăm sóc sức khỏe, xây nhà tình nghĩa, hỗ trợ kinh phí mua, sửa chữa nhà thuộc sở hữu nhà nước, thăm hỏi, tặng quà vào các dịp lễ tết, các ngày kỷ niệm, ngày truyền thống, Đối với chính sách trợ giúp xã hội Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước có nhiều biến động nhanh và khó lường, đặc biệt trong điều kiện của Việt Nam, khi hậu quả nặng nề của chiến tranh vẫn còn nặng nề, một bộ phận dân cư khác nhau như người tàn tật, khuyết tật, người già cô đơn, người tâm thần, trẻ em mồ côi, người bị nhiễm HIV, hoặc gặp các rủi ro do thiên tai, không có khả năng tạo thu nhập cần được nhà nước và cộng đồng tạo thu nhập tối thiểu cho người dân, góp phần ổn định cuộc sống, nâng cao năng lực phòng chống rủi ro. Từng bước phấn đấu bảo đảm cho mọi người dân có thu nhập dưới mức sống tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã hội. Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chính sách, pháp luật nhằm trợ giúp cho các nhóm đối tượng nêu trên, cụ thể: Luật người khuyết tật năm 2010 (thay thế pháp lệnh người tàn tật năm 1998); Luật người cao tuổi năm 2009 (thay thế pháp lệnh người cao tuổi năm 2000); Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Nghị định 61/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm Các chính sách trên được nhân dân đồng tình, đang đi vào cuộc sống, tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao và ổn định, là giải pháp quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, bảo đảm việc làm, hiệu quả và bền vững, ổn định xã hội. 2. Kết quả đạt được và hạn chế 2.1. Kết quả đạt được Về thị trường lao động và việc làm Quy mô dạy nghề ở Việt Nam trong NGUYỄN TIẾN NGHỊ 97 những năm trở lại đây tăng nhanh, cơ cấu trình độ chuyển mạnh sang dạy nghề dài hạn (Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề). Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Tổng cục thống kê năm 2015 cả nước có 1.467 cơ sở dạy nghề, 190 trường cao đẳng nghề, 280 trường trung cấp nghề, 997 trung tâm dạy nghề. Sau 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020 đã dạy nghề cho 9,2 triệu lượt người được đào tạo nghề, đạt 95,6% mục tiêu đề ra. Riêng đào tạo sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng đã thu hút được trên 2,4 triệu lao động nông thôn theo Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. Trong thời gian 5 năm 2010 – 2015, tỉ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm đạt 51,6 triệu lao động (dự kiến là 55 triêu lao động). Hiện nay, hệ thống giao dịch thị trường lao động phát triển rất đa dạng, rộng khắp, hoạt động ngày càng sôi động, linh hoạt đáp ứng tốt hơn nhu cầu tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động trên thị trường lao động. Kết quả, hàng năm hơn triệu lao động cả nước được tư vấn việc làm. Kết quả này tạo cơ hội thuận lợi cho người lao động tự tạo việc làm hoặc tìm việc làm trên thị trường lao động, góp phần đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo. Về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế Quy mô đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tăng nhanh. Theo báo cáo của bảo hiểm xã hội Việt Nam đến hết năm 2015, tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 70,2 triệu người, tăng 5,37 triệu người, nhiều hơn 8,3% so với năm 2014. Trong đó, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là 12,1 triệu người; tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 10,3 triệu người. Đặc biệt, số người tham gia bảo hiểm y tế là 70 triệu, chiếm 77% dân số, tăng 8,3% so với năm 2014. Về ưu đãi, trợ giúp xã hội Trong những năm trở lại đây, chính sách ưu đãi xã hội, trợ giúp xã hội của Việt Nam không ngừng mở rộng, bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già; hỗ trợ không chỉ người nghèo mà còn mở rộng phạm vi sang các đối tượng khác. Nguồn lực thực hiện nhóm chính sách này được đa dạng, kết hợp ngân sách trung ương, địa phương và của xã hội. Các hình thức ưu đãi, trợ giúp ngày càng đa dạng, bao gồm tiền mặt hàng tháng, tiền nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội; hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, Tính đến năm 2015, cả nước có gần 2,7 triệu đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng (xấp xỉ 3% dân số; cả nước có 408 cở sở trợ giúp xã hội được thành lập, đã tiếp nhận, nuôi dưỡng, chăm sóc cho hơn 41.450 đối tượng bảo trợ xã hội. Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động ưu đãi và trợ giúp xã hội trong năm 2015 là 3967 tỷ đồng, bao gồm: 2179 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1021 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 767 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. 2.2. Những hạn chế Kết quả đạt được chưa ổn định, thiếu bền vững Chất lượng việc làm còn thấp, trong khi đó khả năng tạo việc làm của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay có xu hướng suy giảm tăng trưởng kinh tế không cao đã ảnh hưởng đến kết quả giải quyết việc làm cho người lao động không bền vững. Thị trường lao động tuy có đổi mới theo hướng phát triển song chưa hoàn thiện. Về cơ bản Việt Nam vẫn là một thị trường lao động dư thừa trong nông CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ H I ĐỐI VỚI LAO Đ NG VÀ VIỆC LÀM Ở VI T NAM HI N NAY 98 nghiệp, nông thôn với chất lượng cung lao động thấp, phân bổ chưa hợp lý và khả năng di chuyển còn bị hạn chế; có sự phân cách lớn giữa lao động thành thị và lao động nông thôn, vùng phát triển kinh tế và vùng kém phát triển kinh tế, năng suất lao động thấp, với điều kiện lao động kém, thu nhập bấp bênh, chưa bền vững Hệ thống thông tin của thị trường lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động cũng như của người sử dụng lao động; nội dung thông tin giới thiệu việc làm chưa phong phú; hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động chưa đầy đủ, cơ sở dữ liệu về thị trường lao động chưa cập nhật kịp thời; theo dõi, giám sát, nắm bắt biến động thị trường lao động chưa thường xuyên Hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm chưa thống nhất giữa các Bộ, ngành và địa phương. Thực hiện chính sách hỗ trợ lao động bị mất việc làm do biến động của xã hội chưa cao, chưa thỏa đáng. Một số các quy định còn hạn chế khả năng tiếp cận việc làm của lao động còn nhiều vướng mắc chưa thông thoáng. Thách thức từ các rủi ro về kinh tế, già hóa dân số Trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề an sinh xã hội bức xúc, mới phát sinh chưa được giải đáp kịp thời một cách toàn diện cả về lý luận lẫn thực tiễn. Hệ thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội theo mô hình hiện nay không bắt kịp với đòi hỏi đặt ra của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh xu hướng phát triển thì các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngà càng có xu hướng gia tăng. Là nước đang phát triển Việt Nam lại có đặc điểm địa – tự nhiên, địa – kinh tế đặc thù nên dễ gặp phải rủi ro, ảnh hưởng đến sinh kế và thu nhập. Đây là một trong những thách thức khách quan buộc các nhà hoạch định chính sách phải tính đến để có thể xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp. Mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân còn nhiều thách thức, vẫn còn gần 30% dân số chưa tham gia bảo hiểm y tế; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm chậm; chất lượng chăm sóc y tế ở nông thôn, vùng sâu vùng xa còn thấp. Triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo còn chậm; vấn đề nhà ở cho các nhóm dân cư (lao động di cư, học sinh, sinh viên; dân tộc thiểu số) còn bất cập. Tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn quốc gia còn thấp, việc lồng ghép với các chương trình chưa thực hiện tốt. Bố trí ngân sách cho các chương trình thông tin cho vùng sâu, vùng xa còn khó khăn; chất lượng các công trình hạ tầng kỹ thuật thông tin còn thấp,... Việt Nam bước vào quá trình già hóa dân số từ năm 2011 và là một trong những nước có tỷ lệ già hóa rất nhanh trên thế giới. Mặc dù mới chỉ bắt đầu. Tuy nhiên, cũng đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống an sinh xã hội hiện hành và trong tương lai. Theo ước tính của Ủy ban quốc gia Người cao tuổi, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ là 16% vào năm 2020 và còn tiếp tục gia tăng vào những năm tiếp theo. Hiện nay, theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội số người được bảo hiểm xã hội chi trả lương hưu tăng dần, nếu vào năm 2005 cả nước có 1,43 triệu người thì đến năm 2015 cả nước 4,154 triệu người cao tuổi đang được lĩnh lương hưu và trợ cấp. Đây là vấn đề đòi hỏi hệ thống chính sách an sinh xã hội cần quan tâm giải quyết. Tóm lại, mặc dù đã đạt được một số NGUYỄN TIẾN NGHỊ 99 thành tựu nhất định. Tuy nhiên, hiện nay những chính sách an sinh xã hội về lao động và việc làm ở Việt Nam còn không ít những hạn chế và bất cập; trong đó hạn chế trước hết là chưa bảo đảm thực hiện (bao phủ) được tất cả các đối tượng cần bảo hiểm và trợ giúp. Thêm vào đó, chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm cũng còn khiêm tốn đối với một quốc gia đang phát triển, nói cách khác là đang ở mức thấp so với nhu cầu thực tiễn của xã hội trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. 3. Một số kiến nghị trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm trong thời gian tới Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế trong giai đoạn tới. Trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục cải cách thể chể kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên tục từ đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu đảm bảo tốt an sinh xã hội, chăm lo cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống cho người dân. Tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ và người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về các chính sách an sinh xã hội. Tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách an sinh xã hội trên từng lĩnh vực để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội. Thứ hai, đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với mở rộng việc làm đáp ứng phát triển bền vững. Cần tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và có trình độ. Tạo bước đột phá về dạy nghề gắn với nhu cầu của nền kinh tế, của xã hội, nhu cầu việc là của lao động nâng cao chất lượng đào tạo nghề nhằm tạo cơ hội cho mọi người tự tạo việc làm và tìm việc làm trên thị trường lao động. Đặc biệt, mở rộng quy mô dạy nghề cho lao động ở nông thôn, phục vụ có hiệu quả cho chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn tạo nhiều việc làm có thu nhập cao, cải thiện đời sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội. Bảo đảm tạo đủ việc làm, việc làm bền vững, có chất lượng và thu nhập cao cho người lao động, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển thị trường lao động đồng đều giữa các vùng kết nối cung - cầu lao động; tăng lao động làm công ăn lương. Phát triển hệ thống thông tin, phân tích và dự báo thị trường lao động áp dụng công nghệ thông tin hiện đại và nối mạng cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin việc làm giữa các Bộ, ngành, địa phương được thông suốt; thiết lập hệ thống kết nối giữa hướng nghiệp - dạy nghề - thông tin, tư vấn, giới thiệu việc làm - doanh nghiệp, người sử dụng lao động một cách đồng bộ, có hiệu quả. Thứ ba, thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo bền vững. Việt Nam cần áp dụng các giải pháp đồng bộ cả về hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống. Đảm bảo lồng ghép CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ H I ĐỐI VỚI LAO Đ NG VÀ VIỆC LÀM Ở VI T NAM HI N NAY 100 có hiệu quả các chương trình dự án và nguồn lực trên từng địa bàn. Cùng với việc ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động có hiệu quả sự trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững ở những địa phương có tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Triển khai có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Trong đó, gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, không vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội mà gây tác động tiêu cực đến môi trường. Có như vậy mới thực hiện được mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và đảm bảo sinh kế lâu dài cho nhân dân. Thứ tư, trực tiếp sử dụng chính sách an sinh xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện giải pháp này cần nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng đối tượng, bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng của Quỹ bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Rà soát, bổ sung quy định buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Thực hiện tốt công tác hỗ trợ đột xuất, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng. Thứ năm, chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế về thực hiện chính sách an sinh xã hội. Nhà nước cần sớm xây dựng Chiến lược tổng thể về đảm bảo an sinh xã hội trong tình hình mới; cùng với các quốc gia xây dựng một tầm nhìn chung về sự phát triển, xu hướng và vai trò của hệ thống an sinh xã hội trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá; chủ động đề xuất các diễn đàn khu vực và quốc tế nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề an sinh xã hội trong khu vực và toàn cầu; tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý trong lĩnh vực an sinh xã hội cho phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của luật pháp quốc tế; sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hợp tác quốc tế về đảm bảo an sinh xã hội. Tóm lại, thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với lao động và việc làm là chương trình hoạt động trọng tâm của xã hội hiện đại vì mục dân chủ, giàu mạnh, văn minh. Giải quyết đúng đắn, có hiệu quả chính sách an sinh xã hội chính là thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng, quyền “được sống và mưu cầu hạnh phúc” như chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy, làm cơ sở cho sự NGUYỄN TIẾN NGHỊ 101 phát triển bền vững của đất nước trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Chiều (2014), Chính sách ASXH và vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo ASXH ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Định (2004), “Vấn đề ASXH ở Việt Nam: Thực trạng và các giải pháp phát triển”, tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 1. 6. Nguyễn Hải Hữu (2007), Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 7. Lê Quốc Lý (2014), Chính sách an sinh xã hội thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Ngày nhận bài: 15/01/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf111_3453_2215163.pdf
Tài liệu liên quan