Tài liệu Kết quả xa của tạo niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo và bàn về chất liệu tạo hình niệu đạo sau: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
52 KẾT QUẢ XA CỦA TẠO NIỆU ĐẠO SAU BẰNG VẠT NIÊM MẠC BAO 
QUI ĐẦU HÌNH ĐẢO VÀ BÀN VỀ CHẤT LIỆU TẠO HÌNH NIỆU ĐẠO SAU 
Trần Ngọc Bích* 
 * Khoa phẫu thuật Nhi, Bệnh viện Việt - Đức 
TÓM TẮT 
Tại Bệnh viện Việt -Đức, một bệnh nhân nam 6 tuổi bị tai nạn, vỡ xương chậu, chít hẹp - mất đoạn niệu 
đạo sau đã được mổ nối niệu đạo 1 lần thất bại(5-2001), được mổ lần hai (tháng 11-2001) được tạo hình thay 
thế đoạn niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo với đường mổ qua khớp mu. Kết quả ban đầu 
và theo dõi sau 21 tháng là tốt. 
SUMMARY 
RESULT OF RECONSTRUTION OF POSTERIEUR URETHRA BY MUCOSAL ISLAND 
FLAP FROM PREPUCE 
Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 350 - 353 
This is case study of a 6 year old boy suffering from a pelvic fracture and a posterior urethral 
...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 634 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả xa của tạo niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo và bàn về chất liệu tạo hình niệu đạo sau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
52 KẾT QUẢ XA CỦA TẠO NIỆU ĐẠO SAU BẰNG VẠT NIÊM MẠC BAO 
QUI ĐẦU HÌNH ĐẢO VÀ BÀN VỀ CHẤT LIỆU TẠO HÌNH NIỆU ĐẠO SAU 
Trần Ngọc Bích* 
 * Khoa phẫu thuật Nhi, Bệnh viện Việt - Đức 
TÓM TẮT 
Tại Bệnh viện Việt -Đức, một bệnh nhân nam 6 tuổi bị tai nạn, vỡ xương chậu, chít hẹp - mất đoạn niệu 
đạo sau đã được mổ nối niệu đạo 1 lần thất bại(5-2001), được mổ lần hai (tháng 11-2001) được tạo hình thay 
thế đoạn niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo với đường mổ qua khớp mu. Kết quả ban đầu 
và theo dõi sau 21 tháng là tốt. 
SUMMARY 
RESULT OF RECONSTRUTION OF POSTERIEUR URETHRA BY MUCOSAL ISLAND 
FLAP FROM PREPUCE 
Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 350 - 353 
This is case study of a 6 year old boy suffering from a pelvic fracture and a posterior urethral 
stricture.Initially he was treated in Việt -Đức hospital May 2001 with end to end anastomosis. This operation 
was unsuccessful.He undewwent re-operation in november 2001.We used a mucosal island flap from prepuce 
to repair the defect via a transpubic approach. The result after 21 months is good. 
Key words : Posterior urethral stricture. Island flap. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Hẹp niệu đạo sau là bệnh lý có nhiều khó khăn 
trong điều trị đặc biệt khi bị mất đoạn niệu đạo hoặc 
đã mổ khâu nối niệu đạo nhưng chưa thành công. 
Nguyên nhân bệnh thường do tai nạn gây vỡ xương 
chậu kèm đứt đôi niệu đạo. Trong những trường hợp 
niệu đạo sau bị mất đoạn hoặc mổ 1 vài lần không đạt 
kết quả thì việc khâu nối niệu đạo tận tận khó thực 
hiện được và bệnh nhân (BN) nếu không được tạo 
hình thêm một đoạn niệu đạo sau thì thường phải 
chịu dẫn lưu bàng quang vĩnh viễn bằng những loại 
kỹ thuật khác nhau(6). Việc nghiên cứu tìm các chất 
liệu tạo hình thay thế niệu đạo sau là cần thiết và 
quan trọng.Theo y văn, đã có những chất liệu được sử 
dụng để tạo hình niệu đạo sau như vạt da có cuống 
mạch lấy từ đùi, từ tầng sinh môn(9), từ da bìu (7) 
hoặc bằng ruột thừa còn cuống mạch(4).Tháng 11-
2001, tại Khoa Phẫu thuật nhi Bệnh viện Việt -Đức, 
Chúng tôi đã nghiên cứu và dùng vạt niêm mạc bao 
qui đầu hình đảo để tạo hình thay thế đoạn niệu đạo 
sau. Kỹ thuật mổ thực hiện thuận lợi và kết quả theo 
dõi sau hơn một năm là tốt. Chúng tôi xin trình bày 
kỹ thuật mổ này và bàn về chỉ định sử dụng vạt niêm 
mạc bao qui đầu hình đảo cùng những loại chất liệu 
khác đã nêu trong y văn. 
BỆNH ÁN BÁO CÁO 
BN Nguyễn tiến S. 5 tuổi. Đã mổ 5 lần. 
+Lần 1: do tai nạn giao thông, mổ cấp cứu ngày 
12-2-2001 (Bs Thành, Bs Quân). Chẩn đoán: rách 
thanh cơ đại tràng Xich ma, vỡ rạn lách, đứt đôi niệu 
đạo sau,,lóc da rộng ở bẹn và 2 đùi,vỡ toác khớp mu. 
Đã xử trí: cầm máu lách bằng đốt điện, chỗ rách 
* Khoa Phẫu thuật Nhi- Bệnh viện Việt-Đức
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 350 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
thanh cơ đại tràng được khâu và đưa ra ngoài ổ bụng, 
luồn sonde Foley qua niệu đạo, qua chỗ đứt đôi rồi 
đưa vào bàng quang và dẫn lưu bàng quang trên 
xương mu. Xử trí da bị lóc. 
+ Mổ lần 2 ngày 28-2 2001.(Bs Hùng) đưa đại 
tràng vào ổ bụng. 
+Mổ lần 3 ngày15-3- 2001 : (Bs Quân) Vá da 
mỏng. 
 Rút dẫn lưu qua niệu đạo ngày 26-3- 2001. Bệnh 
nhân có đái tia nhỏ được vài lần rồi không đái được 
nữa. Ra viện 3-4-2001,vẫn để dẫn lưu bàng quang 
trên xương mu. 
+Mổ lần 4 ngày 10- 5-2001.(Bs Bích, Bs Hoa). 
Chẩn đoán hẹp niệu đạo sau, vỡ xương chậu cũ kiểu 
Malgainne. Trước mổ có chụp niệu đạo ngược dòng, 
thuốc dừng lại ở vị trí cuối niệu đạo hành. Chụp bàng 
quang chỉ thấy hình bàng quang. Mổ đường tầng sinh 
môn. Phẫu tích tìm đầu tận cùng của niệu đạo và giải 
phóng thêm một đoạn niệu đạo hành. Mở bàng 
quang phía trên xương mu tìm cổ bàng quang rồi 
luồn benique xuống và mở đầu niệu đạo tiền liệt 
tuyến đã bị tịt lại để khâu nối với đầu dưới niệu đạo 
kéo lên. Miệng nối căng và khó nối. Đặt Foley số 10 
qua niệu đạo vào bàng quang và một Foley dẫn lưu 
bàng quang trên xương mu. Sau mổ điều trị kháng 
sinh và rút foley đặt qua niệu đạo ngày thứ 12 sau 
mổ. Bệnh nhân tự đái được 2 ngày rồi tia nước tiểu 
nhỏ dần,không đái được nữa.Đã nong niệu đạo tại 
phòng mổ nhưng không được. Ra viện vẫn còn dẫn 
lưu bàng quang trên xương mu. 
+Mổ lần 5 ngày 26- 11-2001. (BsBích, Bs Toàn). 
Đường mổ dọc giữa xương mu.Mở khớp mu tách 2 
ngành xương mu, cắt tổ chức xơ, bộc lộ mặt trước cổ 
bàng quang. Luồn Benique qua niệu đạo vào phần 
tận cùng của niệu đạo thấy xơ chít hẹp mất 1 đoạn. 
Cắt ngang chỗ tận cùng của niệu đạo, đầu niệu đạo 
tụt về phía dương vật. Mở rộng chỗ mở thông bàng 
quang xác định lỗ cổ bàng quang, luồn Benique vào 
và mở thấy vị trí mở là niệu đạo tiền liệt tuyến chỗ 
ngay sát dưới ụ núi. Đoạn niệu đạo thiếu khoảng gần 
2,8 cm. Không thể kéo đầu niệu đạo hành lên nối với 
niệu đạo tiền liệt tuyến được. Do vậy chúng tôi đã 
phẫu tích lấy vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo kích 
thước 1 x 2,8 cm. Vạt niêm mạc này được lấy gần hết 
chu vi dương vật. Tách tạo đường hầm dưới da ở mu-
gốc dương vật để đưa vạt hình đảo lên rồi khâu tạo 
ống niệu đạo bằng chỉ PDS 6-0. Nối 1 đầu ống niệu 
đạo mới với niệu đạo tiền liệt tuyến và đầu ống kia nối 
với niệu đạo hành. Nối bằng chỉ PDS 6-0, mũi rời. 
Miệng nối phía cổ bàng quang dễ thực hiện còn 
miệng nối niệu đạo phía dưới khó hơn. Khâu ép lại 
khớp mu bằng chỉ thép. Khâu lại thành bàng quang 
chỉ PDS 4-0. Đặt một dẫn lưu bàng quang trên xương 
mu bằng foley số 12 và sonde plastique số 10 qua 
niệu đạo vào bàng quang.Đặt 1 dẫn lưu ở khoang 
Retzius và 2 dẫn lưu ở cạnh cổ bàng quang và niệu 
đạo mới tạo. Khâu lại vết mổ. 
 Sau mổ điều trị kháng sinh. Rút dẫn lưu qua 
niệu đạo vào ngày thứ 20 sau mổ. Bệnh nhân tự đái 
tia to, dễ, thành bãi, không bị đái rỉ. Chụp niệu đạo 
khi đang đái (sau mổ 24 ngày) thấy rõ hình đoạn niệu 
đạo tạo hình có kích thước như đoạn niệu đạo trước, 
không có biểu hiện hẹp hay dãn. Cho bệnh nhân ra 
viện nhưng vẫn để lại sonde Foley, cặp sonde cho đái. 
Điều trị ngoại trú trong 1 tháng,bệnh nhân vẫn đái 
bình thường, chụp lại bàng quang niệu đạo khi đang 
đái có kết quả tốt nên rút Foley. Bệnh nhân đã được 
khám lại sau mổ 21 tháng với kết quả tốt : dương vật 
thẳng khi cương, đái chủ động, đái dễ, tia to. Tiếp tục 
theo dõi kết quả lâu dài. 
BÀN LUẬN 
 Chúng tôi xin không bàn luận về thời gian mổ 
chữa đứt hẹp niệu đạo sau mà chỉ xin bàn luận về kỹ 
thuật nối niệu đạo sau khi bị mất đoạn niệu đạo do 
những nguyên nhân khác nhau. 
 Với đứt, hẹp niệu đạo nói chung cho cả niệu đạo 
sau và niệu đạo trước, chúng tôi thấy nối được tận tận 
2 đầu niệu đạo bình thường là sinh lý và tốt nhất. 
Nhưng để có kết quả tốt, không bị hẹp miệng nối thì 
miệng nối không được căng và phải được nuôi dưỡng 
tốt. Do vậy, đoạn niệu đạo thiếu không được dài và 
phải có khả năng di chuyển 2 đầu niệu đạo lại. 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 351
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
 Với niệu đạo trước : nếu bị hẹp hoặc mất đoạn 
niệu đạo dài mà không thể kéo 2 đầu nối tận tận được 
thì cũng đã có nhiều kỹ thuật mổ chữa khác nhau, 
nhưng chúng tôi thường tạo đoạn niệu đạo thiếu 
bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo hoặc tự do 
(1,2). Vạt niêm mạc này thường lấy có chiều dài ít 
nhất cũng bằng chiều dài của dương vật. Trong 
những trường hợp không còn bao qui đầu thì chúng 
tôi dùng vạt da dầy tự do lấy từ mặt trong trên đùi. 
 Với hẹp -mất đoạn niệu đạo sau, nếu cố phẫu 
tích niệu đạo trước tối đa để kéo xuống nối được với 
niệu đạo tiền liệt tuyến thì sẽ gây ngắn niệu đạo và 
ngắn dương vật. Còn nếu không nối được 2 đầu niệu 
đạo thì chỉ còn cách dẫn lưu bàng quang vĩnh viễn(6) : 
+ Hoặc dẫn lưu ra ngoài : bằng sonde foley hoặc 
theo kỹ thuật Mitrofanoff, hoặc dẫn lưu niệu quản ra 
da qua một quai ruột non, qua một đoạn đại tràng 
xichma biệt lập, hoặc dẫn lưu 2 niệu quản ra da trực 
tiếp. 
+ Hoặc dẫn lưu trong : theo kỹ thuật Maydl, 
Cofey, hoặc trồng lại 2 niệu quản vào quai đại tràng 
xichma biệt lập và nối đoạn đại tràng này với đại 
tràng (Montage en Y). 
 Nếu phải dẫn lưu bàng quang vĩnh viễn, theo 
chúng tôi, có lẽ kỹ thuật Mitrofanoff là tốt vì sẽ giúp 
cho bệnh nhân bớt bị dây bẩn nước tiểu và dễ hoà 
nhập cuộc sống hơn cả. 
 Nếu tìm được một loại chất liệu để thay thế đoạn 
niệu đạo mất, để bệnh nhân vẫn tiểu tiện, sinh hoạt 
tình dục bình thường và có con thì là một vấn đề lý 
tưởng. Theo y văn thế giới, các chất liệu đã được sử 
dụng để tạo hình niệu đạo sau như vạt da có cuống 
mạch lấy từ da đùi, da ở tầng sinh môn (9), da bìu (7), 
và có tác giả đã dùng ruột thừa với kết quả tốt ở 3 
bệnh nhân(4). 
 Chúng tôi thấy các vạt da có cuống mạch trên là 
chất liệu có thể sử dụng tạo hình niệu đạo được.Tuy 
nhiên phải lựa chọn vị trí da không mọc lông. ở người 
lớn, có thể xác định được vùng da đã mọc lông, còn ở 
trẻ em thì chưa xác định được. Do vậy có thể lấy vào 
vùng da bị mọc lông sau này và kết quả sẽ xấu. Hơn 
nữa, da tuy không có lông nhưng vẫn có tuyến bã nên 
cũng không hoàn toàn là chất liệu tốt. Còn ruột thừa 
chuyển vào thay niệu đạo sau thì cũng có nhược điểm 
là niêm mạc ruột thừa luôn tiết dịch nên có khả năng 
nhiễm khuẩn ngược dòng vào túi tinh và kết quả lâu 
dài của kỹ thuật này cũng chưa được đánh giá. 
 Từ khi chúng tôi bắt đầu mổ chữa lỗ đái lệch thấp 
bằng phẫu thuật một thì : khi sử dụng vạt niêm mạc 
bao qui đầu hình đảo để tạo hình niệu đạo trước (từ 
năm 1984)(1), và dùng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do 
cũng để tạo hình niệu đạo trước (từ năm 1990)(2), 
chúng tôi có suy nghĩ có thể sử dụng 2 loại chất liệu 
trên để tạo hình thay thế đoạn niệu đạo sau bị mất vì 
cả 2 loại vạt này là niêm mạc, đều sống khi ghép, đều 
phát triển một cách bình thường theo sự phát triển 
của cơ thể, không mọc lông và không có tuyến bã bên 
trong. Kết quả xa của vạt niêm mạc bao qui đầu tự do 
để tạo hình niệu đạo đã được đánh giá(2). 
 Về kích thước của vạt niêm mạc bao qui đầu, nếu 
lấy hết chu vi bao qui đầu thì chiều dài của vạt sẽ dài 
ít nhất cũng bằng chiều dài của dương vật khi cương, 
còn chiều rộng của vạt thì lấy được theo nhu cầu. 
Như vậy thì vạt niêm mạc bao qui đầu sẽ luôn đủ để 
tạo niệu đạo sau. 
 Di chuyển vạt niêm mạc bao qui đầu này xuống 
vị trí niệu đạo sau như thế nào ? 
Với vạt ghép tự do thì đơn giản nhưng với vạt 
hình đảo ? 
 Chúng tôi xin nêu lại : vạt hình đảo là vạt được 
lấy tách rời khỏi vị trí nhưng vẫn nối với vị trí ban đầu 
bằng cuống mạch nuôi dưỡng.Vạt niêm mạc bao qui 
đầu hình đảo có cuống mạch là tổ chức dưới da lưng 
dương vật với các mạch máu là 2 động mạch thẹn 
ngoài chạy ở 2 bên lưng dương vật từ phía gốc dương 
vật tới cho các nhánh tận ở bao qui đầu. Do vậy, khi 
phẫu tích cuống mạch, có thể phẫu tích sâu xuống 
phía dưới gốc dương vật dưới xương mu thì sẽ tạo 
được cuống mạch dài đủ để đưa vạt niêm mạc bao qui 
đầu xuống thay đoạn niệu đạo từ cổ bàng quang 
xuống. Khi tách khớp mu, việc bộc lộ cổ bàng quang, 
niệu đạo sau rõ và việc thay thế niệu đạo sau dễ dàng. 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 352 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
là tốt.Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi để đánh 
giá kết quả lâu dài, để đánh giá ưu nhược của 
phương pháp này. 
 Với đường mổ ở tầng sinh môn, có thể đưa vạt 
niêm mạc bao qui đầu hình đảo xuống không ? 
Chúng tôi thấy có thể được vì khi mổ tạo hình âm vật 
bằng vạt niêm mạc qui đầu-bao qui đầu hình đảo kết 
hợp một vật hang được cắt ngắn và làm nhỏ lại(4), 
chúng tôi đã phẫu tích tới dưới xương mu chỗ 2 vật 
hang tách ra chạy về 2 bên thì thấy có thể đưa vạt 
niêm mạc bao qui đầu hình đảo qua khoảng giữa 2 
vật hang xuống phía tầng sinh môn được. 
KẾT LUẬN 
 Vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo thường được 
dùng để tạo hình niệu đạo trước, nên được sử dụng 
để tạo hình thay thế niệu đạo sau trong những trường 
hợp đứt -hẹp niệu đạo sau mà không thể nối tận tận 2 
đầu niệu đạo được. Nên áp dụng đường mổ qua khớp 
mu đơn thuần hoặc kết hợp với đường mổ qua tầng 
sinh môn. 
 Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy: với đường mổ ở 
tầng sinh môn thì dễ nối ống niệu đạo mới với đầu 
niệu đạo hành còn nối với niệu đạo tiền liệt tuyến sẽ 
khó vì sâu và khoảng mổ hẹp. Ngược lại với đường mổ 
qua khớp mu (5,8) thì nối phía cổ bàng quang dễ 
dàng còn miệng nối phía niệu đạo hành khó hơn. Do 
vậy có thể kết hợp cả đường mổ tầng sinh môn và 
đường qua khớp mu để tận dụng ưu điểm của cả 2 
đường mổ này. 
 Công trình làm tại khoa Phẫu thuật Nhi - Bệnh viện 
Việt - Đức 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1- Trần ngọc Bích: Điều trị dị tật lỗ đái lệch thấp bằng 
phẫu thuật một thì. Luận án Phó tiến sỹ Y học.Hà nội 
1988. 
2- Trần ngọc Bích : Dùng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do 
trong phẫu thuật một thì chữa dị tật lỗ đái lệch thấp 
(kinh nghiệm với 63 bệnh nhân), Ngoại khoa 1996,6 
:20-24. 
 Chúng tôi xin nêu thêm về thể loại vạt hình đảo 
lấy từ bao qui đầu. 
3- Trần ngọc Bích: Tái tạo cơ quan sinh dục ngoài của nữ 
bị hội chứng sinh dục thượng thận. Y học Việt nam, 
1999, 4 : 264 - 267. 
 Vạt hình đảo thường được lấy từ mặt niêm mạc 
bao qui đầu, nhưng cũng có thể lấy từ mặt da bao qui 
đầu (vạt có cuống mạch theo trục ngang) hoặc lấy từ 
da và niêm mạc bao qui đầu (vạt có cuống mạch theo 
trục dọc). 
4- Aggarwal.-Satish-K; Goel,-Deepak; Gupta,-Chhavi-R et 
al.: The use of pedicled appendix graft for substitution 
of urethra in recurrent urethral stricture, J- Pediatr-
Surg. 2002 Feb; 37 (2) : 246-250 
5- Brueziere-J; Audrry-G; Gruner-M.: Traitement des 
ruptures de l'uretre posterieur chez l'enfant ? Interet 
de la voie symphysaire. Ann-Urol-
Paris.1997;31(5):309-312. 
 Theo chúng tôi: vạt niêm mạc bao qui đầu hình 
đảo tốt hơn hai loại vạt kia vì vạt chỉ là niêm mạc đơn 
thuần, thích hợp với tạo niệu đạo và có cuống mạch 
dài nên dễ di chuyển đi xa. Còn hai loại vạt kia, vì có 
da nên có tuyến bã bên trong và cuống mạch ngắn 
hơn nên chuyển ra vị trí niệu đạo sau có thể khó hơn. 
Khi cố phẫu tích lấy nhiều mạch máu cho vạt hình 
đảo thì phần niêm mạc bao qui đầu còn lại dễ có 
nguy cơ thiếu máu nuôi dưỡng. Do vậy nên dùng vạt 
niêm mạc bao qui đầu cho tạo hình niệu đạo sau. 
6- Cendron.J.: Exstrophies et autres malformations. 
Urologie Pédiatrique. Flammarion Médecine -
Sciences,1985, 190-198 
7- Chalouhy-E; Jabbour-M; Armache-K et al.: 
Management of posttraumatic posterior urethral 
distruption. J-Med-liban. 1997 Dec; 45(4): 201-205. 
8- Senocak-ME; Ciftci-AO; Buyukpamukcu-N; Hicsonmez-
A: Transpubic urethroplasty in children: report of 10 
cases with review of the literature, J-Pediatr-Surg. 
1995 Sep; 30(9): 1319-1324 
9- Tzarmas-CD; Raezer-DM; Casbllo-OA.: A unique 
fasciocutaneous flap for posterior urethral repair, Urology. 
1994. Mar; 43 (3) : 379-381. 
 Bệnh nhân của chúng tôi đã ra viện với kết quả 
sớm và theo dõi sau hơn 21 tháng 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 353
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ket_qua_xa_cua_tao_nieu_dao_sau_bang_vat_niem_mac_bao_qui_da.pdf ket_qua_xa_cua_tao_nieu_dao_sau_bang_vat_niem_mac_bao_qui_da.pdf