Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 107
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ HOÀNH BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN 
NHI ĐỒNG 1 
Đặng Quốc Bửu*, Cam Ngọc Phượng**, Phạm Thị Thanh Tâm*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát kết quả điều trị bệnh thoát vị hoành bẩm sinh. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả loạt ca các trường hợp thoát vị hoành bẩm sinh nhập bệnh 
viện Nhi Đồng 1 từ tháng 06/2014 đến tháng 06/2017. 
Kết quả: Qua nghiên cứu 47 trường hợp thoát vị hoành bẩm sinh nhập bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi ghi 
nhận tỉ lệ được chẩn đoán trước sinh là 10,6%, tỉ lệ bệnh nhân được phẫu thuật là 87,2%, tỉ lệ tử vong chung là 
21,3% và cao hơn trong nhóm có cao áp phổi. Bệnh nhân được cai máy thở trung bình vào ngày thứ 3 và ăn hoàn 
toàn bằng đường miệng trung bình vào ngày thứ 7 hậu phẫu. 
Kết luận: Tỉ lệ tử vong trong thoát vị hoành bẩm sinh còn khá cao, tử vong chủ yếu liên quan đến thiểu sản 
phổi và cao áp phổi tồn tại. 
Từ khoá: suy hô hấp sơ sinh, thoát vị hoành, điều trị 
ABSTRACT 
OUTCOME OF CONGENITAL DIAPHRAGMATIC HERNIA TREATED AT CHILDREN’S HOSPITAL 1 
Dang Quoc Buu, Cam Ngoc Phuong, Pham Thi Thanh Tam 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 107- 112 
Objectives: Study the outcome of congenital diaphragmatic hernia. 
Method: Case series study all cases of congenital diaphragmatic hernia treated at Children’s Hospital 1 from 
06/2014 to 06/2017. 
Results: With 47 cases of congenital diaphragmatic hernia treated at Children’s Hospital 1, the prenatal 
diagnostic rate was 10.6%, operated rate was 87.2%, mortality rate was 21.3% and higher in the group with 
pulmonary hypertension. Patient was extubated on day 3 and full enteral feeding on day 7 post-operative. 
Conclusion: The mortality rate for congenital diaphragmatic hernia was high, death was associated with 
pulmonary hypoplasia and persistent pulmonary hypertension. 
Keywords: neonatal respiratory distress, congenital diaphragmatic hernia, treatment 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thoát vị hoành là một trong các dị tật bẩm 
sinh khá thường gặp ở trẻ sơ sinh, với tần suất 
mắc bệnh rơi vào khoảng 1/5000-1/2000 trẻ 
sinh sống (26). 
Từ việc nhận thức được rằng thoát vị hoành 
là một cấp cứu nội khoa hơn là một cấp cứu 
ngoại khoa như các quan niệm xưa cũ, nhiều 
nghiên cứu về việc hồi sức trước - sau mổ đã 
được tiến hành trên thế giới và ngay tại Việt 
Nam. Hệ thống các yếu tố tiên lượng nặng đã 
được xây dựng, song song với các nghiên cứu về 
thời điểm phẫu thuật, thời gian thở máy, thông 
số máy thở, thời điểm cho ăn, (2,4,7,11,19,23,6). 
Dù cho nhiều tiến bộ đã đạt được trong công 
tác chuẩn bị trước mổ và chăm sóc sau mổ, điều 
trị thoát vị hoành vẫn là một thách thức đối với 
* Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, ** Bệnh viện Quốc Tế Hạnh Phúc 
***Bệnh viện Nhi Đồng 1 
Tác giả liên lạc: BS. Đặng Quốc Bửu, ĐT: 093.368.1246, Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 108
các bác sĩ làm công tác hồi sức, tỉ lệ tử vong của 
căn bệnh này vẫn còn ở mức cao dù là ở các quốc 
gia phát triển (18,19,26). Nguyên nhân đưa đến tử 
vong hàng đầu theo nhiều nghiên cứu vẫn là 
tình trạng suy hô hấp liên quan đến thiểu sản 
phổi và nhiễm trùng, có thể xảy ra cả trước hoặc 
sau mổ, đặc biệt trong thời gian nằm hồi sức. 
Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, trong nhiều 
năm qua, cùng với những cập nhật điều trị từ 
thế giới, chúng ta đã có những thay đổi tích 
cực trong công tác điều trị hồi sức và phẫu 
thuật thoát vị hoành bẩm sinh, trong đó phải 
kể đến là chiến lược bảo vệ phổi và phẫu thuật 
trì hoãn, làm thay đổi tỉ lệ tử vong và tiên 
lượng phát triển lâu dài của trẻ. Việc khảo sát 
về kết quả điều trị ở các bệnh nhi này là điều 
hoàn toàn khả thi và cần thiết. 
Mục tiêu 
Trên nhóm trẻ thoát vị hoành bẩm sinh nhập 
bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 06/2014 đến 
tháng 06/2017. 
Xác định tỉ lệ/ trung bình các đặc điểm 
lâm sàng. 
Xác định tỉ lệ đặc điểm điều trị nội khoa 
trước phẫu thuật. 
Xác định tỉ lệ đặc điểm điều trị nội khoa sau 
phẫu thuật. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu mô tả loạt ca (Case 
series) với cỡ mẫu là tất cả trẻ sơ sinh có thoát vị 
hoành bẩm sinh nhập bệnh viện Nhi Đồng 1 
trong khoảng thời gian từ tháng 06/2014 đến 
tháng 06/2017. 
Danh sách bệnh nhân được lập từ máy tính 
với mã ICD của thoát vị hoành bẩm sinh. Các hồ 
sơ không đủ dữ liệu cần thu thập hoặc bệnh nhi 
đã phẫu thuật trước khi nhập viện sẽ được loại 
ra khỏi lô nghiên cứu. 
Sống sót được định nghĩa là bệnh nhân còn 
sống đến khi xuất viện, chuyển viện hoặc đến 
thời điểm kết thúc nghiên cứu. Những đặc điểm 
chu sinh như giới tính, tuổi thai, cân nặng, 
phương pháp sinh, ngày sinh, nơi sinh, chẩn 
đoán trước sinh. Đặc điểm liên quan đến bệnh 
như thời điểm và mức độ suy hô hấp, vị trí thoát 
vị, tạng thoát vị, các dị tật kèm theo và các triệu 
chứng khác. Đặc điểm điều trị là các biến số về 
phương pháp điều trị, thuốc sử dụng, các ghi 
nhận lúc phẫu thuật. 
Các số liệu được thu thập và xử lý bằng phần 
mềm SPSS. 
KẾT QUẢ 
Trong giai đoạn từ tháng 06/2014 đến tháng 
06/2017, chúng tôi thu thập được 47 trường hợp 
thoát vị hoành bẩm sinh nhập Bệnh viện Nhi 
Đồng 1 thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Trong đó, tỉ lệ 
bệnh nhân được phẫu thuật là 87,2%, các trường 
hợp còn lại tử vong trước phẫu thuật do tình 
trạng suy hô hấp nặng. Trong số bệnh nhân 
được phẫu thuật, có 4 trường hợp tử vong sau 
đó, tỉ lệ sống sót hậu phẫu là 90,2%. 
Bảng 1: Một số đặc điểm chu sinh dân số nghiên cứu. 
Biến số Tỉ lệ (%) 
N = 47 
Tỉ lệ tử 
vong (%) 
Giới tính Nam 55,3 26,9 
Nữ 44,7 14,3 
Tuổi thai < 37 tuần 17 25,0 
≥ 37 tuần 83 20,5 
Cân nặng lúc sinh < 2500 gram 17 25,0 
≥ 2500 gram 83 20,5 
Phương pháp sinh Sinh thường 59,6 14,3 
Sinh mổ 40,4 31,6 
Chẩn đoán trước sinh Có 10,6 40,0 
Không 89,4 19,0 
Nơi sinh Tp.HCM 42,6 5,0 
Tỉnh, thành 
khác 
57,4 33,3 
Tỉ lệ nam: nữ trong nghiên cứu của chúng tôi 
là 1,2: 1. Hầu hết là trẻ sinh đủ tháng và đủ cân. 
Tỉ lệ trẻ được chẩn đoán trước sinh tương đối 
thấp chỉ chiếm 10,6% tổng số trẻ nhập viện. 
Đa số trẻ nhập viện có biểu hiện suy hô 
hấp xuất hiện sớm trước 24 giờ tuổi. Tỉ lệ trẻ 
được hỗ trợ hô hấp bằng máy thở trước phẫu 
thuật là 85,4%. 40,4% trẻ có biểu hiện cao áp 
phổi biểu hiện trên lâm sàng và/ hoặc siêu âm 
tim. Trong số đó, có 27,7% trẻ cần điều trị 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 109
thuốc vận mạch và 17% trẻ cần điều trị thêm 
thuốc giãn mạch phổi. 
Bảng 2: Một số đặc điểm lâm sàng, điều trị và tỉ lệ tử 
vong. 
Biến số Tỉ lệ (%) 
N = 47 
Tỉ lệ tử vong 
(%) 
Suy hô hấp trước 24 giờ tuổi 97,9 21,7 
Thở máy trước PT 85,4 11,4 
Tràn khí màng phổi trước PT 8,5 50 
Thoát vị hoành bên phải 6,4 33,3 
Cao áp phổi 40,4 42,1 
Điều trị thuốc giãn mạch phổi 17 75 
Điều trị thuốc vận mạch 27,7 46,2 
Mổ hở 90,2 10,8 
Bảng 3: Một số đặc điểm điều trị sau phẫu thuật. 
Biến số Số ngày 
Ngày tuổi phẫu thuật 8 (5, 8) 
Số ngày thở máy 2 (2; 4,5) 
Số ngày nằm hồi sức 8 (6; 12) 
Số ngày nằm viện 22 (18; 28,5) 
Ngày bắt đầu dinh dưỡng tiêu hóa 2 (2; 3) 
Ngày đạt dinh dưỡng tiêu hóa hoàn toàn 7 (6; 11) 
Hầu hết các trẻ đủ điều kiện tiến hành phẫu 
thuật đều được phẫu thuật trong khoảng tuần lễ 
đầu sau sinh. 50% trường hợp hậu phẫu được cai 
máy thở và cho ăn qua đường tiêu hóa sau 2 
ngày. Số ngày trung vị để các bệnh nhi ăn hoàn 
toàn qua đường tiêu hóa và ngưng dịch truyền 
tĩnh mạch là 7 ngày hậu phẫu. 
Bảng 4: Biến chứng sau phẫu thuật và tỉ lệ tử vong 
Biến số Tỉ lệ (%) 
N = 41 
Tỉ lệ tử vong 
(%) 
Tràn khí màng phổi 9,8 25 
Tràn dịch màng phổi 17,1 14,3 
Nhiễm trùng huyết 58,5 16,7 
Viêm phổi 43,9 11,1 
Nhiễm trùng vết mổ 0 0 
Thoát vị hoành tái phát 0 0 
Biến chứng sớm sau phẫu thuật thường 
gặp nhất là nhiễm trùng huyết và viêm phổi 
với tỉ lệ lần lượt là 58,5% và 43,9%. 17,1% 
trường hợp tràn dịch màng phổi sau phẫu 
thuật, 9,8% trường hợp tràn khí màng phổi 
cần dẫn lưu màng phổi. Không có bệnh nhi 
nào nhiễm trùng vết mổ hay thoát vị hoành tái 
phát sau phẫu thuật. 
BÀN LUẬN 
Các đặc điểm về tỉ lệ nam, cân nặng trung 
bình lúc sinh, tuổi thai, phương pháp sinh, điểm 
số APGAR khá tương đồng với kết quả của tác 
giả khác tại Việt Nam và trên thế giới (15,19,26). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 97,9% 
trường hợp có biểu hiện suy hô hấp trong vòng 
24 giờ đầu sau sinh, tỉ lệ sống trong nhóm trẻ 
khởi phát suy hô hấp sau 24 giờ là 100%, khá 
tương đồng với kết quả của Nguyễn Trần Việt 
Tánh là 94,1% (16). 
Tỉ lệ chẩn đoán trước sinh trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 10,6%, thấp hơn nhiều so với kết 
quả của tác giả Balogan (1), Graham (5) và Nguyễn 
Thị Kim Nhi (15). Theo đó, 50% đến 66% số ca 
thoát vị hoành bẩm sinh có thể chẩn đoán trước 
sinh bằng siêu âm ở tuổi thai trung bình 24 tuần. 
Sự khác biệt này có thể do chúng ta vẫn chưa có 
được sự phối hợp chặt chẽ giữa hai ngành sản – 
nhi trong việc xử trí các trường hợp dị tật phát 
hiện sớm. Mặt khác, nhiều người phụ nữ mang 
thai vẫn chưa có thói quen khám thai và siêu âm 
tầm soát đầy đủ trong thai kỳ. 
Mặc dù kết quả của chúng tôi không cho 
thấy sự khác biệt giữa tỉ lệ tử vong của 2 nhóm 
trẻ có hay không có được chẩn đoán thoát vị 
hoành trước sinh, cũng tương tự với kết quả của 
Lazar (9), việc chẩn đoán trước sinh giúp người 
bác sĩ lâm sàng chuẩn bị tốt hơn trong giai đoạn 
đỡ sinh, cũng như hồi sức tại phòng sinh, hoặc 
chuyển sản phụ đến sinh tại các cơ sở có điều 
kiện hồi sức và phẫu thuật trong các trường hợp 
tiên lượng nặng. Trong nghiên cứu này của 
chúng tôi, 60% trường hợp có chẩn đoán thoát vị 
hoành trước sinh không cư trú tại thành phố Hồ 
Chí Minh nhưng 100% đều được sinh tại các 
bệnh viện trong thành phố. Điều này phần nào 
cho thấy được ảnh hưởng của việc chẩn đoán 
trước sinh đến sự chủ động của bác sĩ sản khoa 
trong giai đoạn đỡ sinh và hồi sức ngay sau sinh. 
Tỉ lệ tử vong của nhóm có dùng thuốc vận 
mạch trong nghiên cứu của chúng tôi là 46,2%, 
cao hơn khá nhiều so với kết quả của Park H.W. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 110
là 38,7% (19). Tuy nhiên, cả 2 nghiên cứu đều cho 
thấy nhóm có dùng thuốc vận mạch có tỉ lệ tử 
vong cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không 
dùng vận mạch. Như vậy, tình trạng suy tuần 
hoàn có thể là một yếu tố có liên quan đến tử 
vong trong bệnh cảnh thoát vị hoành bẩm sinh. 
Kết quả của chúng tôi khá tương đồng với 
Nguyễn Thị Kim Nhi (15) với tỉ lệ hạ huyết áp là 
55,4%, nhóm có huyết áp trung bình thấp có tử 
vong tăng gấp 25 lần so với nhóm còn lại. 
Tỉ lệ cao áp phổi trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 40,4%, thấp hơn kết quả của Nguyễn Thị 
Kim Nhi (15) là 78,6%. 
Cao áp phổi trong thoát vị hoành bẩm sinh là 
hậu quả của tình trạng thiểu sản phổi và các biến 
đổi về cấu trúc của hệ tim mạch, do đó, các điều 
trị thường quy hầu như không mang lại hiệu 
quả như mong muốn (12,21,20). 
Các trường hợp thoát vị hoành bẩm sinh có 
cao áp phổi có tỉ lệ tử vong cao, tỉ lệ tử vong càng 
tăng khi mức độ cao áp phổi càng nặng (25). Kết 
quả từ nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ tử vong 
là 42,1%. 80% trường hợp tử vong trong nghiên 
cứu của chúng tôi và 100% trường hợp tử vong 
theo Nguyễn Thị Kim Nhi (15) có liên quan với 
cao áp phổi. 
Việc điều trị cao áp phổi liên quan đến 
thoát vị hoành bẩm sinh vẫn còn nhiều tranh 
cãi. Một số nghiên cứu cho rằng khí NO giúp 
cải thiện tỉ lệ tử vong ở trẻ thoát vị hoành bẩm 
sinh có cao áp phổi (10,22). Tuy nhiên, từ kết quả 
phân tích trên 1713 trẻ sơ sinh của Campbell 
và cs mới đây lại cho rằng việc sử dụng khí 
NO không làm giảm việc sử dụng ECMO cũng 
như nguy cơ tử vong (3). 
Tại Việt Nam, một số trường hợp cao áp phổi 
điều trị thành công với khí NO và Prostacyclin 
cũng được ghi nhận (24,14). Tuy nhiên, cỡ mẫu vẫn 
còn hạn chế để có thể kết luận về hiệu quả trong 
điều trị. 
Các trường hợp cao áp phổi được điều trị 
bằng thuốc gây giãn mạch phổi trong nghiên 
cứu của chúng tôi cũng không cho thấy đáp 
ứng rõ ràng. Chỉ có 1 trường hợp điều trị với 
Prostacyclin được cứu sống, các trường hợp 
còn lại, bao gồm 1 trường hợp điều trị với khí 
NO, đều tử vong. Kết quả này cũng phù hợp 
với tỉ lệ tử vong khá cao trong nhóm điều trị 
khí NO là 66,7% của Nguyễn Trần Việt Tánh 
(16) và 64,9% trong nghiên cứu tại Hàn Quốc 
của H.W. Park(19). 
Do bệnh cảnh cao áp phổi thường đi liền 
với thoát vị hoành bẩm sinh, việc điều trị còn 
hạn chế dẫn đến tỉ lệ tử vong còn cao, làm 
cách nào để hạn chế diễn tiến đến cao áp phổi 
nặng có lẽ chính là phương pháp rõ ràng nhất 
hiện nay giúp cải thiện tỉ lệ được cứu sống ở 
trẻ thoát vị hoành. 
Thời gian trung bình thở máy sau phẫu 
thuật trong nghiên cứu của chúng tôi không 
khác nhau có ý nghĩa giữa nhóm phẫu thuật 
nội soi và mổ hở. Tuy nhiên, thời gian cần thở 
máy của nhóm phẫu thuật nội soi có xu hướng 
ngắn hơn nhóm còn lại. Phẫu thuật nội soi là 
một phương pháp mới được áp dụng trên trẻ 
thoát vị hoành bẩm sinh và vẫn cần nhiều 
nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn về hiệu quả 
ngắn hạn cũng như lâu dài so sánh với 
phương pháp mổ truyền thống. Bởi nếu như 
thời gian thở máy được rút ngắn hơn, đồng 
nghĩa với việc chúng ta sẽ giảm thiểu được 
nguy cơ viêm phổi sau phẫu thuật và từ đó, 
cải thiện tỉ lệ cứu sống ở bệnh nhân thoát 
vị hoành. 
Bảng 5: Thời gian thở máy sau phẫu thuật. 
 PP mổ Thời gian thở máy 
(ngày) 
Nguyen Thanh Liem Mổ nội soi 3,3 
Nguyễn Trần Việt Tánh Mổ hở 6,1 
Lao Oliver B. Mổ hở 4 
Mổ nội soi 4 
Chúng tôi Mổ hở 3,5 
Mổ nội soi 2,8 
Thời gian nằm viện trung bình trong nghiên 
cứu của chúng tôi khá tương đồng với các 
nghiên cứu khác (17,8). Số ngày nằm viện của 
nhóm mổ nội soi cũng có xu hướng ngắn hơn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 111
nhóm mổ hở, mặc dù sự khác biệt không đủ có ý 
nghĩa về mặt thống kê. Sự khác biệt này có thể 
do những trường hợp được mổ nội soi là những 
trường hợp tương đối ổn định hơn về lâm sàng, 
do đó, cả thời gian hồi sức trước mổ và điều trị 
sau phẫu thuật cũng ngắn hơn. 
Thời gian bắt đầu dinh dưỡng tiêu hóa sau 
phẫu thuật sớm hơn so với Lao Oliver B. (8). Thời 
điểm bắt đầu dinh dưỡng tiêu hóa và đạt được 
dinh dưỡng tiêu hóa hoàn toàn không khác biệt 
nhiều giữa 2 nhóm mổ hở và mổ nội soi. 
Bảng 6: Thời gian bắt đầu dinh dưỡng tiêu hóa. 
 PP mổ Thời gian bắt đầu 
DDTH (ngày) 
Lao Oliver B. Mổ hở 5 
Mổ nội soi 4 
Chúng tôi Mổ hở 2,8 
Mổ nội soi 3 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 58,5% 
trường hợp nhiễm trùng huyết sau phẫu thuật, 
20% trường hợp tử vong liên quan đến nhiễm 
trùng huyết. Nhóm không nhiễm trùng huyết có 
tiên lượng tốt hơn, mặc dù tỉ lệ tử vong trong 
nhóm nhiễm trùng huyết có vẻ giảm từ 36,4% 
còn 16,7% (13). Tỉ lệ tử vong trong nhóm viêm 
phổi giảm từ 36,8% còn 11,1% (13). 
Tỉ lệ tử vong của thoát vị hoành trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 21,3%, khá tương đồng với 
kết quả của Park H.W. (19) và Zalla (26). 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ chẩn đoán trước sinh còn thấp có thể 
do người thai phụ không đi siêu âm hay có 
siêu âm nhưng không phát hiện thoát vị 
hoành. Do đó, cần có những nghiên cứu tiền 
cứu để tìm hiểu rõ hơn về chẩn đoán trước 
sinh thoát vị hoành bẩm sinh. 
Cần có những nghiên cứu sâu hơn về chẩn 
đoán và xử trí cao áp phổi trong bệnh cảnh thoát 
vị hoành bẩm sinh. 
Hạn chế lớn nhất của nghiên cứu này là thiết 
kế hồi cứu với cỡ mẫu chưa đủ lớn để có thể 
phân tích sâu hơn các yếu tố liên quan đến điều 
trị và tử vong. Cần có nghiên cứu với số lượng 
bệnh nhân lớn hơn và thời gian dài hơn nhằm 
đánh giá đầy đủ hơn các yếu tố nguy cơ cũng 
như hiệu quả lâu dài của điều trị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bagolan P., Casaccia G., Crescenzi F., et al. (2004). "Impact of a 
current treatment protocol on outcome of high-risk congenital 
diaphragmatic hernia". J Pediatr Surg, 39(3), 313-8; discussion 
13-8. 
2. Beurskens L. W., Tibboel D., Lindemans J., et al. (2010). 
"Retinol status of newborn infants is associated with 
congenital diaphragmatic hernia". Pediatrics, 126(4), 712-20. 
3. Campbell B. T., Herbst K. W., Briden K. E., et al. (2014). 
"Inhaled nitric oxide use in neonates with congenital 
diaphragmatic hernia". Pediatrics, 134(2), e420-6. 
4. Debus A., Hagelstein C., Kilian A. K., et al. (2013). "Fetal lung 
volume in congenital diaphragmatic hernia: association of 
prenatal MR imaging findings with postnatal chronic lung 
disease". Radiology, 266(3), 887-95. 
5. Graham G., Devine P. C. (2005). "Antenatal diagnosis of 
congenital diaphragmatic hernia". Semin Perinatol, 29(2), 69-76. 
6. Kamath Beena D., Fashaw Lucy, Kinsella John P. (2010). 
"Adrenal Insufficiency in Newborns with Congenital 
Diaphragmatic Hernia". The Journal of pediatrics, 156(3), 495-
97.e1. 
7. Lally K. P., Lally P. A., Lasky R. E., et al. (2007). "Defect size 
determines survival in infants with congenital diaphragmatic 
hernia". Pediatrics, 120(3), e651-7. 
8. Lao Oliver B., Crouthamel Matthew R., Goldin Adam B., et al. 
(2010). "Thoracoscopic Repair of Congenital Diaphragmatic 
Hernia in Infancy". Journal of Laparoendoscopic & Advanced 
Surgical Techniques. Part A, 20(3), 271-76. 
9. Lazar D. A., Cass D. L., Rodriguez M. A., et al. (2011). "Impact 
of prenatal evaluation and protocol-based perinatal 
management on congenital diaphragmatic hernia outcomes". J 
Pediatr Surg, 46(5), 808-13. 
10. Mohseni-Bod H., Bohn D. (2007). "Pulmonary hypertension in 
congenital diaphragmatic hernia". Semin Pediatr Surg, 16(2), 
126-33. 
11. Mullassery D., Ba'ath M. E., Jesudason E. C., et al. (2010). 
"Value of liver herniation in prediction of outcome in fetal 
congenital diaphragmatic hernia: a systematic review and 
meta-analysis". Ultrasound Obstet Gynecol, 35(5), 609-14. 
12. Nair J., Lakshminrusimha S. (2014). "Update on PPHN: 
mechanisms and treatment". Semin Perinatol, 38(2), 78-91. 
13. Ngô Kim Thơi (2009). "Chọn thời điểm phẫu thuật trong thoát 
vị hoành khe sau bên bẩm sinh ở sơ sinh". Luận văn Cao học, 
Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TPHCM. 
14. Nguyễn Thị Kim Nhi, Võ Quốc Bảo (2011). "Hiệu quả của việc 
sử dụng khí NO dạng hít trong điều trị cao áp phổi ở bệnh 
nhân thoát vị hoành bẩm sinh: nhân 3 trường hợp". Tạp chí Y 
học Thành Phố Hồ Chí Minh, 15(3), 5. 
15. Nguyễn Thị Kim Nhi, Võ Quốc Bảo (2012). "Khảo sát các yếu 
tố liên quan tử vong thoát vị hoành bẩm sinh ở trẻ sơ sinh tại 
khoa hồi sức bệnh viện Nhi Đồng 2". Tạp chí Y học Thành Phố 
Hồ Chí Minh, 16(4), 261. 
16. Nguyễn Trần Việt Tánh, Trần Thanh Trí (2013). "Kết quả điều 
trị thoát vị hoành bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Đồng 2 và đánh 
giá các trường hợp tạo hình cơ hoành bằng tấm ghép Gore-
tex". Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 17(3), 7. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 112
17. Nguyễn Trần Việt Tánh, Trần Thanh Trí, Trương Quang Định 
(2014). "Phẫu thuật tạo hình cơ hoành bằng tấm ghép trong 
điều trị thoát vị hoành bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Đồng 2 ". 
Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 18(6), 29. 
18. O'Mahony E., Stewart M., Sampson A., et al. (2012). "Perinatal 
outcome of congenital diaphragmatic hernia in an Australian 
tertiary hospital". Aust N Z J Obstet Gynaecol, 52(2), 189-94. 
19. Park H. W., Lee B. S., Lim G., et al. (2013). "A simplified 
formula using early blood gas analysis can predict survival 
outcomes and the requirements for extracorporeal membrane 
oxygenation in congenital diaphragmatic hernia". J Korean 
Med Sci, 28(6), 924-8. 
20. Pierro M., Thébaud B. (2014). "Understanding and treating 
pulmonary hypertension in congenital diaphragmatic hernia". 
Seminars in Fetal and Neonatal Medicine, 19(6), 357-63. 
21. Sharma V., Berkelhamer S., Lakshminrusimha S. (2015). 
"Persistent pulmonary hypertension of the newborn". Matern 
Health Neonatol Perinatol, 1, 14. 
22. Shiyanagi Satoko, Okazaki Tadaharu, Shoji Hiromichi, et al. 
(2008). "Management of pulmonary hypertension in 
congenital diaphragmatic hernia: nitric oxide with 
prostaglandin-E1 versus nitric oxide alone". Pediatric Surgery 
International, 24(10), 1101-04. 
23. Suda K., Bigras J. L., Bohn D., et al. (2000). "Echocardiographic 
predictors of outcome in newborns with congenital 
diaphragmatic hernia". Pediatrics, 105(5), 1106-9. 
24. Trần Minh Điển, Nguyễn Thanh Liêm, Phạm Hồng Sơn 
(2009). "Sử dụng thở máy cao tần và Ilomedin giúp ổn định 
bệnh nhân trước, trong, và sau phẫu thuật nội soi thoát vị 
hoành bẩm sinh tại giường hồi sức: nhân một trường hợp". 
Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 13(6), 112. 
25. Wynn Julia, Krishnan Usha, Aspelund Gudrun, et al. (2013). 
"Outcomes of Congenital Diaphragmatic Hernia in the 
modern era of management". The Journal of pediatrics, 163(1), 
114-19.e1. 
26. Zalla Jennifer M., Stoddard Gregory J., Yoder Bradley A. 
(2015). "Improved mortality rate for congenital diaphragmatic 
hernia in the modern era of management: 15 year experience 
in a single institution". Journal of pediatric surgery, 50(4), 524-27. 
Ngày nhận bài báo: 03/02/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/03/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2018