Tài liệu Kết quả điều trị nang giả tụy: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học 
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NANG GIẢ TỤY 
Lê Lộc*, Phạm Như Hiệp*, Hồ Hữu Thiện * 
TÓM TẮT 
Trong thời gian 4 năm (1/2000 – 12/2003) chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật 32 bệnh nhân nang giả tụy 
tại bẹnh viện Trung Ương Huế. 41% nang có kính thước >6cm (trung bình là 7,5cm). Điều trị phẫu thuật cho 
kết quả tốt với tỉ lệ táI phát là 15%. Nối túi mật-hỗng tràng kiểu Y không có hiệu quả. Cắt nang giả tụy cũng 
cho kết quả tốt, tuy nhiên chỉ định còn hạn chế. Dẫn lưu nang qua da cho tỉ lệ thất bại cao hơn phẫu thuật vì 
làm tăng tỉ lệ biến chứng và kéo dài thời gian nằm viện. 
SUMMARY 
RESULT OF TREATMENT OF PANCREATIC PSEUDOCYST 
Le Loc, Pham Nhu Hiep, Ho Huu Thien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh 
* Vol. 8 * Supplement of No 3 * 2004: 173 – 176 
In the period of 4 years from 1/2000 to 12/2003, 32 cases (28 patients) of pancreat...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 417 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị nang giả tụy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học 
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NANG GIẢ TỤY 
Lê Lộc*, Phạm Như Hiệp*, Hồ Hữu Thiện * 
TÓM TẮT 
Trong thời gian 4 năm (1/2000 – 12/2003) chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật 32 bệnh nhân nang giả tụy 
tại bẹnh viện Trung Ương Huế. 41% nang có kính thước >6cm (trung bình là 7,5cm). Điều trị phẫu thuật cho 
kết quả tốt với tỉ lệ táI phát là 15%. Nối túi mật-hỗng tràng kiểu Y không có hiệu quả. Cắt nang giả tụy cũng 
cho kết quả tốt, tuy nhiên chỉ định còn hạn chế. Dẫn lưu nang qua da cho tỉ lệ thất bại cao hơn phẫu thuật vì 
làm tăng tỉ lệ biến chứng và kéo dài thời gian nằm viện. 
SUMMARY 
RESULT OF TREATMENT OF PANCREATIC PSEUDOCYST 
Le Loc, Pham Nhu Hiep, Ho Huu Thien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh 
* Vol. 8 * Supplement of No 3 * 2004: 173 – 176 
In the period of 4 years from 1/2000 to 12/2003, 32 cases (28 patients) of pancreatic pseudocysts were 
treated at Hue central hospital. 41% pancreatic pseudocysts with the diameter more than 6 cm (mean 7,5 cm) 
were completely resolved by expectant treatment. Surgical treament gave the good result with the recurrent 
rate of 15%, while that of the Y cystojejunostomy was null. Pancreatic pseudocyst resection was also the 
effective method, but the indication was limited. Percutaneous drainage was associated with a higher failure 
rate than surgical therapy, with increased complications and a longer hospital stay. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nang giả tụy vẫn được xem là một biến chứng 
không thường xuyên của viêm tụy cấp cho đến khi 
việc sử dụng siêu âm và CT scan trở nên rộng rãi. 
Hiện nay người ta nhận thấy khoảng 16-50% trường 
hợp viêm tuỵ cấp và 20-40% trường hợp viêm tụy 
mãn có biến chứng nang giả tụy(2).Tiến triển tự nhiên 
của nang giả tụy bao gồm giai đoạn đầu tiên khoảng 
6 tuần, trong giai đoạn này đa số nang giả tụy tự biến 
mất. Sau giai đoạn này vách nang ngày càng được tổ 
chức hoá và khả năng tự biến mất ngày càng giảm. 
Nang giả tụy nếu kông được điều trị có tỷ lệ biến 
chứng là 40%, bao gồm áp-xe, dò, vỡ tự nhiên, xuất 
huyết và chết(1). Những nghiên cứu gần đây cho thấy 
rằng chỉ nên can thiệp ở những trường hợp nang giả 
tụy có triệu chứng(9,11). 
Điều trị nang giả tụy có triệu chứng bao gồm 
phẫu thuật giảm áp bằng dẫn lưu bên trong hoặc 
ngoài hoặc là cắt nang -tụy-lách.. Gần đây dẫn lưu 
nang giả tụy bằng catherter dưới hường dẫn của siêu 
âm hoặc CT scan cho kết quả khả quan(3,10). Tuy 
nhiên lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu vẫn còn 
đang được tranh luận và cho đến nay, thời gian thích 
hợp nhất để quyết định điều trị nang giả tuỵ vẫn còn 
đang được bàn cải 
Nghiên cứu của chúng tôi về nang giả tụy nhằm 
mục đích rút ra thời điểm, các chỉ định điều trị và xác 
định phương pháp điều trị tối ưu nang giả tụy. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Đối tượng nghiên cứu bao gồm tất cả bệnh nhân 
được chẩn đoán nang giả tụy điều trị tại khoa ngoại 
tiêu hoá BVTW Huế từ 1/2000 đến 12/2003. 
Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu hồi 
cứu. Các thông số ghi nhận bao gồm tuổi, giới, tiền 
sử bệnh về tụy, chấn thương tụy, thời gian từ lần mắc 
bệnh trước đến khi vào viện lần này, nguyên nhân 
 173* Khoa ngoại tiêu hoá, BVTW Huế 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
vào viện, các xét nghiệm về máu và hình ảnh, 
phương pháp điều trị trước đây, phương pháp điều trị 
lần này, thời gian nằm viện và kết quả điều trị. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong vòng 4 năm đã có 32 trường hợp được 
chẩn đoán nang giả tụy vào điều trị tại khoa ngoại 
Tiêu hoá. Trong đó có 4 bệnh nhân phải nhập viện 2 
lần. Tỷ lệ nam/ nữ là 4. Tuổi trung bình là 
37,5±ð18,3 (từ 5-90). 
Lý do nhập viện thường là đau và khối u vùng 
thượng vị. Một số bệnh nhân có thêm các triệu chứng 
của nhiễm trùng ở sâu (Bảng 1) 
Bảng 1: Lý do nhập viện 
Lý do nhập viện n % 
Đau thượng vị 32 100 
Khối u thượng vị 32 100 
Sốt 6 18,75 
Suy kiệt 2 6,25 
Nguyên nhân nang giả tụy chủ yếu là viêm tuỵ 
cấp, chấn thương tụy và viêm tuỵ mãn. Tỷ lệ các 
nguyên nhân được thể hiện ở bảng 2. 
Bảng 2: Nguyên nhân nang giả tụy 
Nguyên nhân n (28) % 
Viêm tuỵ cấp 20 71,4 
Viêm tuỵ mãn 2 7,1 
Chấn thương tụy 6* 21,5 
*Trong 6 trường hợp chấn thương tụy có 5 
trường hợp là trẻ e m (83,3%) 
Thời gian trung bình giữa viêm tuỵ cấp và phát 
hiện nang giả tụy là 8(±ð3,5) tuần. 
Các yếu tố nguy cơ được phát hiện bao gồm có 
nghiện rượu 12 trường hợp (42,85%) và sỏi mật 3 
trường hợp (10,7%). 
Các đặc tính chung của nang giả tụy và liên quan 
với từng phương pháp điều trị được trình bày ở bảng 
3 
Bảng 3: Đặc tính của nang giả tụy 
Đặc tính Chung Bảo tồn Dẫn lưu qua 
da 
Phẫu 
thuật 
Thời gian (tuần) 7 10,2 3,5 7,5 
Kích thước (cm) 10,8 7,5 11,6 13,2 
Đặc tính Chung Bảo tồn Dẫn lưu qua 
da 
Phẫu 
thuật 
Độ dày của võ nang 
(cm) 
1,7 1,4 1,2 2,5 
Đầu 2 0 0 2 
Thân 23 3 6 14 Vị trí
Đuôi 13 6 3 4 
Các phương pháp điều trị bao gồm bảo tồn, dẫn 
lưu qua da và phẫu thuật. Kết quả của từng phương 
pháp được thể hiện ở bảng 4. 
Bảng 4: Kết quả điều trị nang giả tuỵ (n=32)* 
Phương pháp 
điều trị 
Số bệnh 
nhân 
Thành công Thất bại TG nằm 
viện 
Bảo tồn 22 9 13 14±ð 3 ngày
Dẫn lưu qua da 9 3 6 35±ð6 ngày
Phẫu thuật 20 17 3 9±ð2 ngày
*Thời gian theo dõi trung bình 26±ð14,5 tháng. 
Các phương pháp phẫu thuật gồm có: nối nang-
DD, nối nang hỗng tràng kiểu Y và cắt nang-đuôi tụy-
lách. Kết quả của từng phương pháp được trình bày ở 
bảng 5. 
Bảng 5: Kết quả điều trị phẫu thuật (n=20)* 
PP Phẫu thuật Số bệnh nhân Thành công Thất bại
Nối nang-DD 10 7 3 
Nối nang-hỗng tràng 
kiểu Y 
6 6 0 
Cắt nang-đuôi tuỵ- lách 4 4 0 
*Thời gian theo dõi trung bình 25±ð15,6 tháng 
Các biến chứng trong quá trình điều trị và kết 
quả xa gồm có: nhiễm trùng, vỡ tự nhiên và nang tái 
phát. Các tỷ lệ biến chứng được thể hiện ở bảng 6. 
Bảng 6: Biến chứng và kết quả xa 
Biến chứng Bảo tồn Dẫn lưu qua da Phẫu thuật 
Nhiễm trùng 2 3 0 
Vỡ tự nhiên 1 1 0 
Nang tái phát 0 6 3 
BÀN LUẬN 
Nang giả tụy là một biến chứng thường gặp 
của viêm tụy cấp, viêm tụy mãn và chấn thương 
tụy. Trong nhiều công trình nghiên cứu tỷ lệ nang 
giả tụy trên bệnh nhân viêm tụy mãn khá cao từ 
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 174
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học 
20-40% trường hợp(2). Tuy nhiên trong nghiên cứu 
của chúng tôi tỷ lệ này chỉ 7,1%. Ngược lại tỷ lệ 
nang giả tụy sau chấn thương tụy khá cao, đặc biệt 
ở trẻ em lên đến 21,5% (Bảng 2). 
Điều trị nang giả tụy đã thay đổi nhiều trong 
vòng 20 năm qua. Những nang giả tụy không tự biến 
mất trong 6 tuần lễ đầu được xem có nguy cơ rất cao 
xảy ra biến chứng. Tuy nhiên những nghiên cứu gần 
đây về tiến triển tự nhiên của nang giả tụy cho thấy 
những nang giả tụy không có triệu chứng có thể 
không cần can thiệp mà vẫn không gia tăng nguy cơ 
xảy ra biến chứng(9,11). Trong nghiên cứu hồi cứu trên 
32 trường hợp nhập viện của chúng tôi, tất cả bệnh 
nhân đều có triệu chứng đau và khối u ở vùng thượng 
vị (Bảng 1). Có thể do nhận thức kém và điều kiện 
kinh tế khó khăn nên những bệnh nhân không có 
triệu chứng rất hiếm khi vào viện để kiểm tra, do đó 
chúng tôi không thể đánh giá được tỷ lệ những 
trường hợp nang giả tụy không có triệu chứng tự 
khỏi. Tỷ lệ biến chứng trong nghiên cứu của chúng 
tôi ở những trường hợp nang giả tụy có triệu chứng 
được điều trị bảo tồn là 13,6%. Tỷ lệ này cao hơn một 
ít tỷ lệ biến chứng trong nghiên cứu của Vitas là 9%(9). 
Đa số tác giả đều đồng ý rằng chỉ định điều trị 
nang giả tụy liên quan đến sự biến mất tự nhiên của 
nang và nguy cơ xảy ra biến chứng. Các tiêu chuẩn 
để điều trị nang giả tụy bao gồm: thời gian hình 
thành nang > 6 tuần, bệnh nhân bị viêm tụy mạn 
tính, có bất thường của ống dẫn tụy, nang giả tụy có 
đường kính > 4 cm, nang tụy gia tăng kích thước 
trong thời gian theo dõi và có nhiều nang. Tuy nhiên 
một số tác giả như Pitchumoni CS(5) cho rằng chỉ nên 
điều trị nang giả tụy khi nó có triệu chứng và nang 
giả tụy gia tăng kích thước. 
Trong nghiên cứu của Vitas trên 66 bệnh nhân 
nang giả tụy được điều trị bảo tồn các tác giả nhận 
thấy có 9% trường hợp có biến chứng (3 giả phồng 
động mạch, 2 vỡ vào ổ phúc mạc, 1 áp-xe), 33% đòi 
hỏi phẫu thuật và có đến 63% khỏi tự nhiên. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có những bệnh nhân 
bị nang giả tụy do chẫn thương mới nhập viện sớm, 
còn bệnh nhân bị nang giả tụy do viêm tụy cấp và 
viêm tụy mãn nhập viện khá muộn. Hơn nữa kích 
thước nang giả tụy trong nghiên cứu của chúng tôi 
thường rất lớn (10,8 cm)(Bảng 3). Điều đó giải thích 
tại sao tỷ lệ điều trị bảo tồn của chúng tôi có tỷ lệ 
thành công chỉ 41%. Tỷ lệ biến chứng của chúng tôi 
cũng tương tự với Vitas là 13,6% (Bảng 6) 
Nang giả tụy có thể được điều trị bằng dẫn lưu 
qua da hay bằng phẫu thuật. Ryan Heider trong 
nghiên cứu trên 173 bệnh nhân đã nhận thấy rằng 
những bệnh nhân có nang giả tụy nhỏ, không có 
triệu chứng có thể điều trị bảo tồn một cách an toàn 
và có tỷ lệ khỏi tự nhiên khá cao(6). Tác giả cũng nhận 
thấy rằng mặc dù có tỷ lệ thất bại cao hơn phẫu thuật 
(60% bệnh nhân được dẫn lưu qua da đòi hỏi can 
thiệp phẫu thuật sau đó, với sự gia tăng về tỷ lệ bệnh 
tật và tử vong, thời gian nằm viện dài hơn), dẫn lưu 
qua da đã đem lại kết quả rất tốt trong một số bệnh 
nhân. Những nghiên cứu trước đây đã rất cổ vũ 
phương pháp dẫn lưu nang giả tụy qua da, một vài 
nghiên cứu đưa ra tỷ lệ thành công lên đến 70-90%. 
Tuy nhiên những nghiên cứu sau đó thấy rằng tỷ lệ 
tồn tại nang giả tụy sau dẫn lưu khá cao và có nhiều 
biến chứng, thời gian nằm viện kéo dài hơn.Trong 
nghiên cứu của cúng tôi, tất cả bệnh nhân đến sớm 
đều được điều trị bằng dẫn lưu nang giả tụy qua da 
bằng catherter dưới hướng dẫn của siêu âm. Phương 
pháp này đã đem lai kết quả tốt cho 33,3% bệnh nhân 
được điều trị(Bảng 4). Tuy nhiên tỷ lệ biến chứng khá 
cao 44,4% và thờ gian nằm viện dài(Bảng 4 và 6). 
Trong nghiên cứu về tiến triển tự nhiên của nang giả 
tụy của Bradley(1) đã thấy rằng tỷ lệ biến chứng xảy ra 
khoảng 41% bệnh nhân có nang giả tụy lớn hơn 6cm. 
Vì vậy các tác giả đề nghị nên phẫu thuật cho những 
bệnh nhân này khi vách nang đa trở nên dày. Tuy 
nhiên những nghiên cứu mới đây của Vitas(9) và 
Yeo(11) đã chứng minh rằng một số bệnh nhân có 
chọn lựa có kích thước lớn hơn 6 cm vẫn có thể điều 
trị thành công bằng phương pháp nội khoa. Nghiên 
cứu của chúng tôi cũng cho thấy có một tỷ lệ thành 
công là 40,1% đối với những nang giả tụy lớn hơn 
6cm (TB 7,5 cm). Ngược lại Behrman mới đây đã 
 175
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
thấy rằng những bệnh nhân có nang giả tụy không lồ 
(>10 cm) biến chứng từ viêm tuỵ cấp có tỷ lệ biến 
chứng và tử vong cao và vì vậy nên được điều trị bằng 
ngoại khoa ngay từ đầu. 
Có nhiều phương pháp điều trị ngoại khoa nang 
giả tụy bao gồm nối nang -dạ dày, nối nang -hỗng 
tràng kiểu Y và cắt nang giả tụy. Naoum và cộng sự(4), 
trong một nghiên cứu đã cho thấy trong tổng số 10 
bệnh nhân được phẫu thuật có 7 bệnh nhân được nối 
nang -dạ dày và 3 được nối nang - hỗng tràng kiểu Y, 
2 trường hợp thất bại đều nằm trong nhóm nối nang-
dạ dày. Trong số 20 bệnh nhân phẫu thuật của chúng 
tôi, 10 bệnh nhân được nối nang-dạ dày thì có ba bị 
tái phát, trong khi 6 bệnh nhân được nối nang- hỗng 
tràng kiểu Y thì không có trường hợp nào bị tái phát. 
4 trường hợp cắt nang - đuôi tụy -lách cũng cho kết 
quả tốt, tuy nhiên phương pháp này chỉ dành cho 
những trường hợp nang giả tụy khu trú ở đuôi tuỵ. 
Gần đây một vài tác giả đã điều trị nang giả tụy 
bằng phương pháp nội soi cho thấy kết quả rất tốt. 
Smits và cộng sự(7) nghiên cứu trên 104 bệnh nhân 
được điều trị bằng nội soi đã cho thấy 82% khỏi hoàn 
toàn, 7% có biến chứng và chỉ 16% tái phát. Các biến 
chứng bao gồm: chảy máu (5% đòi hỏi phẫu thuật), 
thủng ra sau phúc mạc, nhiễm trùng và tắc ống dẫn 
lưu gây áp xe. Đây là một phương pháp mà chúng tôi 
không thấy được sử dụng trong lô nghiên cứu của 
mình và chúng tôi cũng không có kinh nghiệm về 
phương pháp điều trị này. 
KẾT LUẬN 
Hiện nay nhờ có siêu âm và CT scan nang giả tụy 
đã được phát hiện ngày càng nhiều sau viêm tụy cấp, 
viêm tụy mãn và chấn thương tụy. Gần 41% nang giả 
tụy có kích thước lớn hơn 6 cm (TB 7,5 cm) tự khỏi 
khi được điều trị bằng nội khoa bảo tồn, vì vậy theo 
chúng tôi nếu nang giả tụy không gia tăng kích thước 
nhanh và không có các triệu chứng ảnh hưởng đến 
bệnh nhân thì nội khoa bảo tồn nên là phương pháp 
điều trị đầu tiên được chọn lựa. Điều trị phẫu thuật 
nang giả tụy cho kết quả tốt (tỷ lệ tái phát là 15%), 
trong đó nối nang- hỗng tràng kiểu Y cho kết quả tốt 
nhất (tỷ lệ tái phát là 0%). Phương pháp cắt nang- 
đuôi tụy-lách cũng cho kết quả rất tốt, nên dành cho 
những trường hợp nang giả tụy khu trú ở đuôi tụy. 
Dẫn lưu qua da có tỷ lệ tái phát cao 66,7% và tỷ lệ 
biến chứng cao, thời gian nằm viện kéo dài, do đó 
theo chúng tôi chỉ nên tiến hành ở những trường hợp 
nang giả tụy đến sớm, võ còn mỏng chưa thể can 
thiệp phẫu thuật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bradley E, Clements J, Gonzales A. The natural 
history of pancreatic pseudocysts: a unified concept of 
management. Am J Surg 1979; 137:135-141. 
2. Grace P, Williamson R. Modern management of 
pancreatic pseudocysts. Br J Surg 1993;80:573-581. 
3. Grosso M, Gandini G, Cassinis M. Percutaneous 
treatment (including pseudocystgastrostomy) of 74 
pancreatic pseudocysts. Radiology: 1989; 173: 493- 
497. 
4. Naoum E, Zavos A et al. Pancreatic pseudocysts; 10 
years of experience. Hept Pancre Surg 2003; 10(5); 
373. 
5. Pitchumoni CS, Argawal N. pancreatic pseudocysts. 
When and how should drainage be performed? 
Gastroenterol Clin North Am 1999; 28(3): 615- 639. 
6. Ryan Heider BS et al. Percutaneous drainage of 
pancreatic pseudocysts is associated with higher falure 
rate thansurgical treatment in unselected patients. 
Ann Surg June 1999; 229(6): 781-789. 
7. Smits ME, Rauws EA et al. The efficacy of endoscopic 
treatment of pancreatic pseudocysts. Gastrointestinal 
Endoscopy 1995; 42: 202. 
8. Testi W, Corrati A et al. The surgical treatment of of 
pancreatic pseudocysts. Minerva Chir 2001; 56(4): 351. 
9. Vitas G, Sarr M. Selected management of pancreatic 
pseudocysts: operative versus expectant management. 
Surgery 1992;111:123-130. 
10. Von sonneberg E, Wittich G, Casola G. Percutaneous 
drainage of infected and non-infected pseudocysts: 
experience in 101 cases. Radiology 1989;170: 757- 761. 
11. Yeo C, bastidas et al. The natural history of 
pancreatic pseudocysts documented by computed 
tomography. Surg Gynecol Obstet 1990;170:411- 417. 
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 176
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ket_qua_dieu_tri_nang_gia_tuy.pdf ket_qua_dieu_tri_nang_gia_tuy.pdf