t¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 79 
KẾT QUẢ CẮT GAN CÓ CẶP KIỂM SOÁT CHỌN LỌC CUỐNG GAN 
TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƢ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN 
 Ninh Việt Khải1; Nguyễn Quang Nghĩa1; Trịnh Hồng Sơn1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá kết quả cắt gan có cặp kiểm soát chọn lọc cuống gan trong điều trị ung 
thư biểu mô tế bào gan. Đối tượng và phương pháp: 62 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào 
gan được cắt gan có kiểm soát chọn lọc cuống gan do một nhóm tác giả nhất định thực hiện tại 
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức từ 9 - 2011 đến 5 - 2014. Kết quả: tuổi trung bình trong nghiên 
cứu 51,5 11. HBsAg (+) 85,5%, AFP > 200 ng/ml 32,2%. Kích thước u 6,6 3 cm, huyết khối 
tĩnh mạch cửa 8%. Giai đoạn A (theo BCLC) 85,5%. Kiểm soát chọn lọc cuống phải hoặc trái 
liên tục và cách quãng lần lượt 37,1% và 45,2%. Cắt gan phải 22,6%, cắt gan trái 11,3%, cắt 
gan phân thùy sau 19,1%. Lượng máu mất trung bình 263,5 205 ml, 6 bệnh nhân (9,7%) 
truyền máu trong và sau mổ. Thời gian mổ trung bình 191,3 58 phút (ngắn nhất 60, dài nhất 
345 phút), thời gian nằm viện trung bình 11,4 3,8 ngày (7 - 29 ngày). Tràn dịch màng phổi là 
biến chứng hay gặp nhất (43,5%), tỷ lệ biến chứng chung 46,8%, trong đó phần lớn là độ 1 
(theo phân loại Dindo), không có tử vong trong và sau mổ. Tỷ lệ BN sống sau 12, 24 và 36 tháng 
là 80,6%, 74,8% và 60,8%; thời gian sống thêm trung bình 34,1 2,1 tháng. Tỷ lệ sống không 
bệnh sau 12, 24 và 36 tháng là 67,7%, 47,6% và 43,6%, thời gian sống không bệnh trung bình 
26,1 2,4 tháng. Kết luận: cắt gan có kiểm soát chọn lọc cuống gan trong điều trị ung thư 
biểu mô tế bào gan là phương pháp an toàn, giúp kéo dài thời gian sống sau mổ và thời gian 
tái phát sau mổ. 
* Từ khóa: Ung thư biểu mô tế bào gan; Cắt gan; Cặp kiểm soát chọn lọc cuống gan. 
The Results of Liver Resection with Selective Hepatic Pedicle Control 
for Hepatocellular Carcinoma 
Summary 
Objectives: To evaluate the results of liver resection with selective hepatic pedicle control for 
hepatocellular carcinoma treatment. Subjects and method: 62 patients with hepatocellular 
carcinoma were performed liver resection with selective hepatic pedicle control by a group of 
surgeons in Vietduc Hospital from 9 - 2011 to 5 - 2014. Results: Average age 51.5 11 years; 
HBsAg (+) 85.5%; AFP > 200 ng/mL 32.2%. Median tumor size was 6.6 3 cm, portal vein tumor 
thrombosis 8%, stage A (according to BCLC) 85.5%. The continuous and intermittent right or 
left selective hepatic pedicle control were 37.1% and 45.2%, respectively; right liver resection 22.6%; 
1. Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức 
Người phản hồi (Corresponding): Ninh Việt Khải (
[email protected]) 
Ngày nhận bài: 10/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/09/2018 
 Ngày bài báo được đăng: 26/09/2018 
T¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 80 
left liver resection 11.3%; posterior sectionectomy 19.1%. Average amount of blood loss 
263.5 205 mL, 6 patients (9.7%) required intra- or postoperative transfusion. The operation 
time 191.3 58 minutes (min 60, max 345), hospital stay 11.4 3.8 days (7 - 29 days). Pleural 
effusion was the most common postoperative complication (43.5%), the whole postoperative 
complication 46.8%, but major part was grade 1 (Dindo classification), no intra and 30-day 
postoperative mortality. 12, 24, 36 month survival rate were 80.6%, 74.8% and 60.8%, 
respectively; the median overall survival time 34.1 2.1 months. 12, 24 and 36 month disease 
free survival rate were 67.7%, 47.6% and 43.6%, respectively; the median disease free survival time 
was 26.1 2.4 months. Conclusion: Liver resection with selective hepatic pedicle control for 
hepatocellular carcinoma treatment is a safe method and help the patients to have long survival 
time and disease free survival time. 
* Keywords: Hepatocellular carcinoma; Liver resection; Selective hepatic pedicle control. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư biểu mô tế bào gan (UBTG) 
là tổn thương thường gặp, đứng thứ sáu 
trong các tổn thương ung thư và là nguyên 
nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng 
thứ 3 [5]. UBTG chiếm 90% tổn thương 
ung thư gan nguyên phát và > 80% trường 
hợp UBTG xuất hiện trên nền gan xơ. 3 yếu 
tố nguy cơ chính đối với UBTG là nhiễm 
viêm gan B, viêm gan C (thường gặp ở 
châu Á) và nghiện rượu (thường gặp ở 
châu Âu). Kết quả điều trị UBTG những 
năm gần đây đã đạt được kết quả tốt, 
nhiều phương pháp được áp dụng trong 
điều trị UBTG như cắt gan, đốt sóng cao 
tần, nút động mạch gan hóa chất (TACE) 
hoặc hóa chất toàn thânTuy nhiên, cắt 
gan vẫn được xem là phương pháp điều 
trị triệt căn và có giá trị giúp kéo dài thời 
gian sống sau mổ. Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này nhằm: Đánh giá kết quả 
cắt gan có cặp kiểm soát chọn lọc (KSCL) 
cuống gan trong điều trị UBTG. 
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tƣợng nghiên cứu. 
- BN có chỉ định cắt gan và được cắt 
gan có KSCL cuống gan từ 9 - 2011 đến 
5 - 2014 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. 
- Bệnh nhân (BN) được chẩn đoán 
bằng giải phẫu bệnh là UBTG, khu trú ở 
một bên gan phải (P) hoặc trái (T). 
2. Phƣơng pháp nghiên cứu. 
* Quy trình kỹ thuật KSCL cuống gan: 
- Cặp kiểm soát cuống Glisson gan phải 
và trái - “nửa cuống gan”: 
+ Phẫu tích riêng động mạch (ĐM) gan, 
tĩnh mạch (TM) cửa: bên P mở phúc mạc 
t¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 81 
nửa trên bờ P cuống gan, bên T mở phúc 
mạc ở bên T cuống gan gần ngay sát đáy 
của rãnh rốn. Phẫu tích ĐM gan và TM 
cửa để luồn dây 2 thành phần này. 
+ Phẫu tích chung cả ba thành phần 
(en bloc) cuống Glisson gan P và T: bên 
P rạch mở bao Glisson ngay mép trước 
và sau rốn về phía P (điểm A và C, hình 1) 
để hạ mảng rốn gan, tách mặt trên cuống 
Glisson gan P khỏi nhu gan để luồn dây. 
Tương tự, bên T là điểm D và E. 
- Cặp KSCL cuống Glisson phân thuỳ: 
chúng tôi luôn phẫu tích kiểu en bloc, 
KSCL cuống phân thùy có thể là cuống 
phân thùy sau, phân thùy trước, cuống 
thuỳ T. Cuống phân thùy sau là điểm B 
và C, phân thuỳ trước là điểm A và B 
- Nguyên tắc cặp KSCL cuống gan: 
- Cắt gan P hoặc T: cuống Glisson gan 
P hoặc T tương ứng sẽ được kiểm soát 
và cặp liên tục. 
- Cắt gan phân thùy, hạ phân thùy: có 
các cách KSCL cuống như sau: 
. Kiểm soát cuống P hoặc T có phân 
thùy đó và cặp cách quãng 15 - 20 phút, 
thả cặp 5 phút rồi cặp lại. 
. Kiểm soát cuống phân thùy gan, cặp 
liên tục (đối với cắt phân thùy gan) và 
cách quãng với cắt hạ phân thùy thuộc 
phân thùy gan đó). 
. Phẫu tích luồn dây cả cuống Glisson 
gan P hoặc T và cuống phân thùy. Cặp 
cuống phân thùy gan được để xác định 
ranh giới chính xác của phân thùy (vùng 
thiếu máu). Khi cắt nhu mô gan cuống 
Glisson gan P hoặc T, cặp cách quãng 
15 - 20 phút, thả cặp 5 phút rồi cặp lại. 
* Các chỉ tiêu nghiên cứu: 
- Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng 
của BN trong nghiên cứu, mức độ và kiểu 
kiểm soát cuống, các hình thái cắt gan. 
- Lượng máu mất trong mổ, truyền 
máu trong và sau mổ, thời gian mổ, thời 
gian nằm viện. Các biến chứng sau mổ 
(chảy máu, cổ trướng). 
- Kết quả: tử vong, tái phát tại thời 
điểm kết thúc nghiên cứu. Tỷ lệ và thời 
gian sống thêm sau mổ, tỷ lệ và thời gian 
tái phát sau mổ. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng. 
Tuổi 
51,5 11 
(23 - 70) 
BMI > 25 19,4 % 
Đau tức bụng 37 (59,7%) 
Nút ĐM gan + nút TM cửa P 17 (27,4%) 
HBsAg (+) 53 (85,5%) 
Bilirubin toàn phần (mmol/l) 12,2 5,2 
(4,6 - 26,1) 
Child-Pugh A 62 (100%) 
MELD 6,5 0,9 (6,0 - 10) 
AFP > 200 ng/ml 20 (32,2%) 
Chụp cắt lớp vi tính hoặc 
cộng hưởng từ 
 Kích thước u 
 Có nhân vệ tinh 
 Huyết khối TM cửa 
6,6 3 cm 
(1,9 - 13,4) 
7 (11,3%) 
5 (8%) 
Giai đoạn bệnh 
theo BCLC 
A 53 (85,5%) 
B 4 (6,5%) 
C 5 (8%) 
T¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 82 
* Mức độ và kiểu kiểm soát cuống gan: 
KSCL cuống Glisson gan P hoặc T liên 
tục: 23 BN (37,1%); KSCL cuống Glisson 
gan P hoặc T cách quãng: 28 BN (45,2%); 
KSCL cuống Glisson phân thùy liên tục: 
5 BN (8,1%); KSCL cuống Glisson phân 
thùy cách quãng: 4 BN (6,5%); KSCL 
cuống Glisson hạ phân thùy: 2 BN (3,1%). 
Bảng 2: Các hình thái cắt gan 
Phân loại 
cắt gan 
Hình thái 
cắt gan 
n (%) 
Cắt gan lớn 
Cắt gan P 14 (22,6%) 
Cắt gan T 7 (11,3%) 
Cắt gan T + hạ phân 
thùy 1 
2 (3,2%) 
Cắt phân thùy sau + 
hạ phân thùy 5 
1 (1,6%) 
Cắt phân thùy trước + 
hạ phân thùy 6 
1 (1,6%) 
Cắt gan nhỏ 
Cắt phân thùy trước 1 (1,6%) 
Cắt phân thùy sau 12 (19,1%) 
Cắt hạ phân thùy 5, 6 7 (11,3%) 
Cắt thùy gan T 7 (11,3%) 
Cắt hạ phân thùy 1 2 (3,2%) 
Cắt hạ phân thùy 8 1 (1,6%) 
Cắt gan nhỏ khác 7 (11,3%) 
 28 BN được lấy hoặc nạo vét hạch 
cuống gan (nhóm 12) và hoặc nhóm 8 do 
hạch to. 3 BN có ung thư di căn hạch, 
tỷ lệ di căn hạch trong nhóm được lấy 
hoặc nạo vét hạch (do hạch to) 10,7%, 
tỷ lệ di căn hạch của toàn bộ BN trong 
nghiên cứu 4,8%. 
- Lượng máu mất trung bình 263,5 
205 ml. 
- Số BN truyền máu trong và sau mổ: 
6 BN (9,6%). 
- Thời gian mổ trung bình 191,3 58 phút 
(ngắn nhất 60 phút, dài nhất 345 phút). 
- Thời gian nằm viện trung bình 11,4 
3,8 ngày (7 - 29 ngày). 
* Biến chứng và tử vong sau mổ: 
Tràn dịch màng phổi: 27 BN (43,5%); 
cổ trướng: 15 BN (24,2%); ổ dịch tồn dư: 
7 BN (11,3%); chảy máu: 1 BN (1,6%); 
không có suy gan và tử vong sau mổ: 0 (0%). 
Tỷ lệ biến chứng chung của nghiên 
cứu 46,8% trong đó phân độ theo Dindo 
chỉ có biến chứng độ 1 là 38,7%, độ 2: 
4,8% và độ 3a: 3,2%. 
* Kết quả xa: 
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, 
18 BN (29%) tử vong, 13 BN (21%) tái 
phát và 31 BN (50%) còn sống không tái 
phát. Tỷ lệ tử vong 29%, tỷ lệ sống 71% 
(13 BN tái phát còn sống: 8 BN được 
TACE đơn thuần, 2 BN được TACE kết 
hợp đốt sóng cao tần, 3 BN mổ cắt gan). 
* Tỷ lệ và thời gian sống thêm: 
0
.0
0
0
.2
5
0
.5
0
0
.7
5
1
.0
0
0 10 20 30 40 50
Biểu đồ 1: Biểu đồ Kaplan - Meier thời 
gian sống thêm sau mổ. 
Thời gian (tháng) 
t¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 83 
Tỷ lệ BN còn sống sau 12, 24 và 36 tháng là 80,6%, 74,8% và 60,8%, thời gian 
sống thêm trung bình 34,1 2,1 tháng. 
* Tỷ lệ và thời gian sống không bệnh (tái phát): 
0
.0
0
0
.2
5
0
.5
0
0
.7
5
1
.0
0
0 10 20 30 40 50
Biểu đồ 2: Biểu đồ Kaplan - Meier thời gian sống không bệnh. 
Tỷ lệ sống không bệnh sau 12, 24 và 36 tháng là 67,7%, 47,6% và 43,6%, thời gian 
sống không bệnh trung bình 26,1 2,4 tháng. 
* Một số hình ảnh cắt gan do UBTG: 
Cắt gan T + hạ phân thùy 1. Cắt phân thùy trước. Cắt hạ phân thùy 5, 6. 
BÀN LUẬN 
1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng. 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của 
chúng tôi 51,5 11, tương tự với nghiên 
cứu của Văn Tần, Nguyễn Cường Thịnh, 
tuy nhiên thấp hơn so với các nghiên cứu 
của Takenaka [1, 2]. HBsAg (+) chiếm 
85,5%, tương tự nghiên cứu trong nước, 
cho thấy viêm gan B vẫn là yếu tố nguy 
cơ gây UBTG hay gặp nhất tại Việt Nam 
[1, 2]. Không có trường hợp nào bilirubin 
máu toàn phần > 34 mmo/l, bilirubin toàn 
Thời gian (tháng) 
T¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 84 
phần lớn nhất trong nghiên cứu 26,1 mmol/l. 
Theo Miyagawa, bilirubin toàn phần 
> 34 mmol/l (BN không tắc mật) là chống 
chỉ định cắt gan, từ 27,4 - 34 mmol/l chỉ 
cắt bỏ u; 18,8 - 25,6 mmol/l chỉ cắt gan 
nhỏ ở mức phân thùy, hạ phân thùy. 
UBTG thường xuất hiện trên nền gan xơ 
(bệnh lý), việc đánh giá chức năng gan 
trước mổ rất quan trọng nhằm tránh nguy 
cơ suy gan sau mổ (nguyên nhân chính 
dẫn đến tử vong sau mổ). Do thang điểm 
Child-Pugh có hạn chế trong phân độ 
chức năng gan ở mức “sàn” - độ A và 
mức “trần” - độ C nên việc sử dụng đồng 
thời thang điểm Child-Pugh và MELD 
(Model for End-stage Liver Disease) giúp 
đánh giá chức năng gan được chính xác 
hơn [6]. Trong nghiên cứu, tất cả BN đều 
có chức năng gan Child-Pugh A, điểm 
MELD trung bình 6,5 0,9 (cao nhất 10). 
Theo Cucchetti, BN xơ gan có điểm 
MELD > 11 có nguy cơ suy gan và tử vong 
cao sau mổ cắt gan [7]. 
AFP là chất chỉ điểm ung thư của UBTG, 
AFP > 20 ng/ml, độ nhạy chẩn đoán cũng 
chỉ 60% và AFP > 200 ng/ml, độ nhạy 
giảm xuống chỉ còn 22% [8]. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, AFP > 200 ng/ml chỉ 
chiếm 32,2%. Hướng dẫn chẩn đoán mới 
nhất của Hội Nghiên cứu Bệnh lý Gan Mỹ 
(AASLD) năm 2011 không đưa AFP vào 
tiêu chuẩn chẩn đoán UBTG mà nhấn 
mạnh vai trò của phương pháp chẩn 
đoán hình ảnh [8]. Do đó, một trong hai 
phương pháp chụp CT và hoặc MRI có 
hình ảnh bắt thuốc thì động mạch và 
thải thuốc thì tĩnh mạch được coi là tiêu 
chuẩn chẩn đoán UBTG. 
2. Kỹ thuật cắt gan trong UBTG. 
Cắt gan là phẫu thuật khó và vẫn được 
xem là thách thức đối với phẫu thuật viên. 
Cắt gan có thể cắt gan theo giải phẫu hoặc 
cắt gan không theo giải phẫu. Tuy nhiên, 
đối với UBTG, đa số tác giả cho rằng cắt 
gan theo giải phẫu có kết quả tốt hơn [9]. 
Tất cả BN trong nghiên cứu đều được cắt 
gan theo giải phẫu với nguyên lý cắt gan 
của Tôn Thất Tùng là dựa vào các mốc 
và rãnh trong phân chia gan. Những trường 
hợp cuống Glisson của phần gan tương 
ứng được kiểm soát, đường cắt gan dựa 
vào ranh giới giữa phần thiếu máu và 
không thiếu máu khi cặp cuống Glisson. 
Có nhiều phương pháp kiểm soát 
mạch máu giúp làm giảm lượng máu mất 
khi cắt gan được đề xuất như cặp toàn bộ 
cuống gan, cặp loại trừ toàn bộ mạch 
máu gan [3]. Tuy nhiên, những phương 
pháp này gây thiếu máu toàn bộ gan và ứ 
máu ruột. Mức độ tổn thương tăng lên 
nếu thời gian cặp cuống kéo dài, đặc biệt 
ở BN bị UBTG thường xuất hiện trên nền 
gan bệnh lý (viêm gan mạn, xơ gan), 
đây là yếu tố chính cùng với thể tích gan 
còn lại có thể dẫn đến suy gan sau mổ. 
Trong mối cân bằng giữa lượng máu mất 
và nguy cơ suy gan sau mổ, cặp KSCL 
cuống gan được đưa ra. Nhiều nghiên 
cứu về cắt gan có KSCL cuống gan đã 
được thông báo như Takenaka (1996), 
Malassagne (1998), Wu (2002), Nguyễn 
Cường Thịnh (2011) đã cho kết quả tốt 
[2, 10]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
t¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 85 
cắt gan lớn chiếm 40,3%, cắt gan nhỏ 59,6%, 
lượng máu mất trung bình 263,5 205 ml, 
tỷ lệ truyền máu trong và sau mổ thấp 
(9,6%), không có BN suy gan và tử vong 
sau mổ, bước đầu cho thấy ưu điểm của 
việc KSCL cuống gan khi cắt gan đối với 
BN UBTG. 
Đối với UBTG, đa số các tác giả không 
nạo vét hạch hoặc lấy hạch thường quy 
mà chỉ thực hiện khi thấy hạch to và 
nghi ngờ có di căn về mặt đại thể [11, 12]. 
Ercolani cho rằng có thể nạo vét hạch 
cuống gan và nhóm 8 an toàn đối với 
UBTG, nên thực hiện một cách hệ thống 
đối với BN không xơ gan. Lee nhận thấy 
di căn hạch ở UBTG có xu hướng ở thể 
lan toả với kích thước > 5 cm, có xâm lấn 
mạch vi thể và độ biệt hoá thấp, việc cắt 
gan kết hợp nạo vét hạch có thể mang lại 
lợi ích cho những BN này. Trong nghiên 
cứu, chúng tôi thực hiện lấy hoặc vét 
hạch cuống gan và nhóm 8 cho 28 BN 
(45,2%). Trong trường hợp hạch cuống 
gan không to, khi lấy hạch cuống gan để 
đánh giá giải phẫu bệnh, chúng tôi lấy 
nhóm hạch cuống gan bên bờ P cuống 
gan và đường mật. Đa số hạch được làm 
giải phẫu bệnh tức thì, 3 BN có kết quả 
giải phẫu bệnh di căn hạch đều có tổn 
thương đại thể hạch to chắc. Chúng tôi 
thường thực hiện nạo vét hạch hoặc lấy 
hạch đối với khối u có kích thước > 5 cm, 
hạch cuống gan to. Tỷ lệ di căn hạch của 
toàn bộ BN trong nghiên cứu 4,8%. 
3. Kết quả sau mổ. 
Những nghiên cứu gần đây cho thấy 
mặc dù tỷ lệ tử vong giảm, thường < 5%, 
nhưng tỷ lệ biến chứng sau mổ cắt gan 
vẫn còn cao. Nghiên cứu của Văn Tần về 
cắt gan do UBTG cho thấy tỷ lệ tử vong 
3,7%, tỷ lệ biến chứng 19%., Nguyễn Cường 
Thịnh: tỷ lệ tử vong 0,9% và biến chứng 
26,9% [1, 2]. Nghiên cứu của Takenaka, 
tỷ lệ tử vong 2% và biến chứng sau mổ 
50% (đa số tràn dịch màng phổi). Trong 
nghiên cứu này, không BN nào tử vong 
sau mổ. Tràn dịch màng phổi là biến chứng 
hay gặp nhất chiếm 43,5%, đa phần tràn 
dịch màng phổi mức độ nhẹ hoặc vừa 
không cần can thiệp. Cổ trướng và ổ dịch 
tồn dư cạnh diện cắt gan chiếm tỷ lệ lần 
lượt 24,2% và 11,3%. BN có các biến 
chứng này đều được điều trị nội khoa ổn 
định. Chúng tôi không gặp biến chứng rò 
mật, tắc mật do tổn thương đường mật. 
Biến chứng chung sau mổ của chúng tôi 
thuộc loại cao, do BN có biến chứng tràn 
dịch màng phổi phát hiện sau mổ cao, 
tuy nhiên đa số là tràn dịch màng phổi 
không cần can thiệp chọc hút. Theo phân 
độ biến chứng của Dindo, tỷ lệ biến chứng 
sau mổ trong nghiên cứu 46,8%, trong đó 
chủ yếu biến chứng độ 1 (38,7%). Biến 
chứng độ 3a có 2 BN (3,2%), tuy nhiên 
đều là biến chứng tràn dịch màng phổi 
nhiều gây suy hô hấp cần chọc hút dịch 
màng phổi. Đặc biệt, chúng tôi không gặp 
trường hợp nào suy gan sau mổ. Nhiều 
nghiên cứu cho thấy mức độ cắt gan hay 
thể tích phần gan còn lại, tổn thương nhu 
mô gan trước mổ (xơ gan, nhiễm mỡ), 
lượng máu mất và tổn thương nhu mô gan 
trong mổ do cặp cuống gan là những 
yếu tố nguy cơ quan trọng gây suy gan 
sau mổ. Trong nghiên cứu, tất cả BN đều 
có chức năng gan trước mổ Child A (1). 
T¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 86 
Những trường hợp dự kiến cắt gan lớn, 
đặc biệt cắt gan P đều được chỉ định 
chụp CT đa dãy đo thể tích gan còn lại - 
chỉ định nút TM cửa để phì đại gan T khi 
thể tích gan còn lại so với trọng lượng cơ 
thể < 0,8% (17 BN = 27,4%) được nút TM 
cửa kết hợp nút ĐM gan hoá chất để phì 
đại gan T, thể tích gan T còn lại so với 
trọng lượng cơ thể > 0,8% trước khi mổ 
(2). Lượng máu mất trong mổ trung bình 
khi cắt gan lớn 263,5 205 ml (3) và áp 
dụng cặp KSCL cuống gan giúp hạn chế 
tổn thương nhu mô gan sau mổ (4) là 4 
yếu tố chính đồng bộ giúp cho nghiên 
cứu của chúng tôi không có biến chứng 
suy gan sau mổ. 
Thời gian tái phát trung bình 26,1 
2,4 tháng, tỷ lệ sống không bệnh sau 12, 24 
và 36 tháng là 67,7%, 47,6% và 43,6%. 
Thời gian sống thêm trung bình 34,1 
2,1 tháng, tỷ lệ sống thêm của nhóm 
UBTG sau 12 tháng 80,6%, sau 24 tháng 
là 74,8% và sau 36 tháng là 60,8%. Tại thời 
điểm kết thúc nghiên cứu, 13 BN tái phát 
còn sống (8 BN thực hiện TACE đơn thuần, 
2 BN được TACE kết hợp với đốt sóng 
cao tần, 3 BN được mổ lại cắt gan có 
hoặc không kết hợp TACE). Tái phát sau 
mổ là yếu tố chính tác động đến tỷ lệ 
sống và thời gian sống thêm. Nhiều tác 
giả thấy tỷ lệ tái phát cao sau mổ cắt gan 
do UBTG, đặc biệt tỷ lệ tái phát sớm trong 
vòng 1 năm sau mổ. Theo Wang, tái phát 
tại gan chiếm phần lớn (72,7%), tái phát 
ngoài gan 12,2% và tái phát cả trong và 
ngoài gan là 15,1%. Theo Abdel-Wahab, 
có đến 74,3% trường hợp tái phát không 
thể can thiệp; 15,4% được TACE; 6,4% đốt 
sóng cao tần và chỉ có 3,8% mổ lại thăm 
dò hoặc cắt gan. Việc theo dõi sát BN sau 
mổ, phát hiện sớm và điều trị tổn thương 
tái phát như TACE, đốt sóng cao tần, 
mổ lại cắt gan hoặc điều trị đích được cho 
là góp phần làm tăng thời gian sống sau 
mổ cắt gan. 
Tại Việt Nam, các nghiên cứu trước 
đây về kết quả xa sau phẫu thuật cắt gan 
đối với UTBG kém khả quan. Nghiên cứu 
của Trịnh Hồng Sơn (2001) cho thấy thời 
gian sống trung bình sau mổ 9,3 tháng, 
tỷ lệ sống sau 23 tháng và 42 tháng lần 
lượt 9,4% và 1,9% [4]. Nghiên cứu của 
Văn Tần (2004) cho thấy tỷ lệ sống sau 
36 tháng là 20% [1]. Trên thế giới, nghiên 
cứu của Takenaka cho thấy tỷ lệ sống 
không bệnh sau 1, 3 và 5 năm lần lượt là 
78%, 41% và 29%; tỷ lệ sống thêm sau 
1, 3 và 5 năm là 88%, 70% và 50%. 
Nghiên cứu của Shah thấy tỷ lệ sống 
không bệnh sau 1, 3 và 5 năm lần lượt là 
72%, 48% và 39%; tỷ lệ sống thêm sau 1, 
3 và 5 năm là 85%, 68% và 53%. Như 
vậy, nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống 
không bệnh và tỷ lệ sống thêm cao hơn 
các nghiên cứu trước đây ở trong nước 
và tương đương với các tác giả trên thế 
giới. Đặc biệt, trong nghiên cứu có 6 BN 
UBTG có huyết khối TM cửa và hoặc 
di căn hạch thuộc giai đoạn C của BCLC 
(giai đoạn muộn) được chỉ định phẫu thuật. 
Dù thời gian sống sau mổ chưa dài, nhưng 
1 BN sống sau mổ khoảng 12 tháng và 
1 BN sống sau mổ 34 tháng (còn sống và 
có tái phát) cho thấy vai trò nhất định của 
phẫu thuật đối với dạng tổn thương này. 
t¹p chÝ y - d-îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 87 
KẾT LUẬN 
Cắt gan có KSCL cuống gan trong 
điều trị UBTG là phương pháp an toàn, 
giúp kéo dài thời gian sống sau mổ và 
thời gian tái phát sau mổ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Văn Tần, Hoàng Danh Tấn, Nguyễn 
Cao Cương. Cắt gan trong ung thư gan 
nguyên phát. Tạp chí Y học Việt Nam. 2004, 297, 
tr.13-18. 
2. Nguyễn Cường Thịnh, Lê Văn Thành và 
CS. Kết quả cắt gan kết hợp phương pháp 
Tôn Thất Tùng, Lortat - Jacob điều trị UBTG., 
Tạp chí Y Dược học lâm sàng 108. 2011, tập 6 
(số đặc biệt), tr.278-283. 
3. Ninh Việt Khải, Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn 
Tiến Quyết. Các kỹ thuật kiểm soát mạch máu 
trong cắt gan. Tạp chí Y học thực hành. 2011, 
763 (5), tr.23-26. 
4. Trịnh Hồng Sơn, Lê Tư Hoàng, Nguyễn 
Quang Nghĩa và CS. Kết quả điều trị phẫu 
thuật ung thư gan nguyên phát tại Bệnh viện 
Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 1992 - 1996. Tạp 
chí Y học thực hành. 2001, 7, tr.42-46. 
5. Forner A, Llovet J.M, Bruix J. Hepatocellular 
carcinoma. Lancet, 2012, 379 (9822), pp.1245-
1255. 
6. Seyama Y, Kokudo N. Assessment of 
liver function for safe hepatic resection. 
Hepatol Res. 2009, 39 (2), pp.107-116. 
7. Cucchetti A, Ercolani G, Vivarelli M et al. 
Impact of model for end-stage liver disease 
(MELD) score on prognosis after hepatectomy 
for hepatocellular carcinoma on cirrhosis. 
Liver Transplantation: Official publication of 
the American Association for the Study of 
Liver Diseases and the International Liver 
Transplantation Society. 2006, 12 (6), 
pp.966-971. 
8. Bruix J, Sherman M. Management of 
hepatocellular carcinoma: An update. Hepatology. 
2011, 53 (3), pp.1020-1022. 
9. Xinli H, Sen L. A meta-analysis 
comparing the effect of anatomical resection 
vs. non-anatomical resection on the long-term 
outcomes for patients undergoing hepatic 
resection for hepatocellular carcinoma. HPB. 
2017, 19 (10), pp.843-849. 
10. Wu C.C, Yeh D.C, Ho W.M et al. 
Occlusion of hepatic blood inflow for complex 
central liver resections in cirrhotic patients: 
a randomized comparison of hemihepatic and 
total hepatic occlusion techniques. Arch Surg. 
2002, 137 (12), pp.1369-1376. 
11. Capussotti L, Muratore A, Amisano M 
et al. Liver resection for hepatocellular 
carcinoma on cirrhosis: analysis of mortality, 
morbidity and survival: A European single 
center experience. Eur J Surg Oncol. 2005, 
31 (9), pp.986-993. 
12. Lee C.W, Chan K.M, Lee C.F et al. 
Hepatic resection for hepatocellular carcinoma 
with lymph node metastasis: clinicopathological 
analysis and survival outcome. Asian J Surg. 
2011, 34 (2), pp.53-62.