Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
72
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT TUYẾN TIỀN LIỆT 
TẬN GỐC CÓ HỖ TRỢ ROBOT TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Thái Minh Sâm*,**, Châu Quý Thuận**, Thái Kinh Luân*,**, Trần Trọng Trí**, Quách Đô La**, 
Nguyễn Thành Tuân*,**, Phạm Đức Minh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Cắt tuyến tiền liệt tận gốc là điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 
khu trú hay tiến triển tại chỗ. Việc ứng dụng kỹ thuật robot đem lại nhiều lợi ích, cải thiện kết quả phẫu thuật và 
giảm đường cong học tập. Chúng tôi báo cáo kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi (PTNS) cắt tuyến tiền liệt 
(TTL) tận gốc có hỗ trợ robot tại bệnh viện Chợ Rẫy 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả những trường hợp PTNS cắt TTL tận gốc có hỗ trợ robot 
tại khoa Ngoại Tiết Niệu, bệnh viện Chợ Rẫy. Thời gian từ tháng 10/2017 đến tháng 1/2018. Các biến số ghi 
nhận gồm: tuổi, chỉ số khối cơ thể (BMI), kích thước tuyến tiền liệt, kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) 
trước và sau mổ, điểm số Gleason. Kết quả phẫu thuật gồm thời gian mổ, lượng máu mất, các biến chứng, thời 
gian hậu phẫu, thời gian rút các ống thông, kiểm soát nước tiểu và kết quả giải phẫu bệnh. 
Kết quả: Mẫu nghiên cứu gồm có 5 trường hợp. Tuổi trung bình 66,4 6,15 (58-76). Chỉ số khối cơ thể 
(BMI) trung bình 22,1 2,4(17,5-24,6). Kích thước tuyến tiền liệt trung bình 31,12 9,04 (20,4-42,8) mL. Nồng 
độ PSA máu trung bình 19,16 7,37 (10,4-28,2) mg/dL. Tất cả trường hợp đều là carcinoma tuyến tiền liệt, có 2 
trường hợp giai đoạn T2b, 2 trường hợp giai đoạn T2c và 1 trường hợp giai đoạn T3b với điểm số Gleason từ 7-9. 
Thời gian mổ trung bình 420 38 (360-480) phút, lượng máu mất khoảng 780 416 mL, có 2 trường hợp phải 
truyền máu trong mổ. Thởi gian nằm hậu phẫu trung bình 9 2,75 (6-14) ngày. Thời gian có nhu động ruột 2,8 
 0,4 (2-3) ngày, dẫn lưu bụng rút sau 4,4 1,2 (3-6) ngày, tất cả các trường hợp rút thông niệu đạo rút sau 14 
ngày. Biến chứng sớm theo phân loại Clavien đều ≤ 1, không có trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Có 1 trường 
hợp biên phẫu thuật mỏm niệu đạo dương tính, không trường hợp nào có di căn hạch. PSA sau mổ trung bình 0,8 
 1,3 (0,09-3,4) mg/mL. Tỉ lệ kiểm soát nước tiểu 80% (4/5 trường hợp) sau 3 tháng. Chưa khảo sát tình trạng 
rối loạn cương. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc có hỗ trợ robot là một kĩ thuật an toàn và đầy hứa 
hẹn. Thời gian nằm hậu phẫu ít hơn, tỉ lệ kiểm soát nước tiểu tốt. Tuy nhiên, thời gian phẫu thuật còn dài vì đây 
là những trường hợp đầu tiên, cần có thêm nhiều trường hợp nữa để cải thiện đường cong học tập cũng như thời 
gian theo dõi lâu dài để đánh giá chức năng đi tiểu và chức năng cương. 
Từ khóa: phẫu thuật nội soi có hỗ trợ robot, cắt tuyến tiền liệt tận gốc 
ABSTRACT 
ROBOTIC-ASSISTED LAPAROSCOPIC RADICAL PROSTATECTOMY: INITIAL RESULTS 
AT CHO RAY HOSPITAL 
Thai Minh Sam, Chau Quy Thuan, Thai Kinh Luan, Tran Trong Tri, Quach Đo La, 
Nguyen Thanh Tuan, Pham Duc Minh. 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 72 - 77 
Objective: Radical prostatectomy is the standard of care in treatment of localized or locally advanced 
prostate cancer. The application of Robot system has the potential to bring many benefits, improve surgical 
* Bộ môn Tiết Niệu Học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, ** Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BS. Thái Minh Sâm ĐT: 0918136666 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
73
outcomes and reduce the steep learning curve. We report the short-term results of robotic-assisted 
laparoscopic radical prostatectomy at Cho Ray hospital. 
Materials and Methods: All cases of prostate cancer performed robotic-assisted laparoscopic radical 
prostatectomy from October 2017 to January 2018 at Urology Department, Cho Ray hospital. Data 
elements included patient age, body mass index (BMI), prostate volume, prostate specific antigen (PSA) 
level, preoperative biopsy and postoperative Gleason score. Surgical outcomes consisted of operative time, 
estimated blood loss, complications, postoperative time, catheter time, pathology, time to return intestinal 
peristalsis and continence. 
Results: During this period, 5 patients with stage T2b to T3b prostatic cancer and Gleason score 7-9 
underwent robotic-assisted laparoscopic radical prostatectomy. Mean age 66.4 6.15 (58-76) years, mean 
BMI 22.1 2.4 (17.5-24.6). Mean prostate volume 31.12 9.04 (20.4-42.8) mL, preoperative PSA level 
19.16 7.37 (10.4-28.2) mg/dL. Average OR time from skin insion to skin cloure was 420 38 (360-480) 
minutes with estimated blood loss of 780 416 (400-1500) mL, 2 cases needed blood transfusion. Mean 
postoperative hospital stay was 9 2.75 (6-14) days. Time to return intestinal peristalsis was 2.8 0.4 (2-
3) days, abdominal drainage withdrawal was 4.4 1.2 (3-6) days, urinary catheter of all cases was removed 
on postoperative day 14. Short-term complications were low grade according to Clavien classification, no 
mortalities and no conversion to open. Only 1 case margin was positive, no lymph node metastases. 
Postoperative PSA level was 0.8 1.3 (0.09-3.4) ng/mL. Continence rate was 80% (4/5 cases) by 3 months. 
Erectile function was not investigated. 
Conclusions: Although the number of patient is small and follow-up time is short, robotic-assisted 
laparoscopic radical prostatectomy is safe and promising procedure with shorter postoperative hospital stay 
and good continence rate. However, the operative time was quite so long because of these were first cases. A 
large number of patients with long-term follow-up are essential to improve learning curve and fully assess 
the urinary and erectile functions. 
Keywords: robotic assisted laparoscopic, radical prostatectomy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt được 
Schuessler thực hiện lần đầu tiên năm 1997(11). 
Mặc dù với ưu điểm là phẫu thuật ít xâm hại 
nhưng đây vẫn là một phẫu thuật khó, đòi hỏi 
đường cong học tập dài(2). Tuy nhiên, nhờ sự 
phát triển của công nghệ robot với khả năng 
nhìn 3 chiều, những dụng cụ robot linh hoạt đã 
làm giảm thời gian đường cong học tập đáng kể. 
Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt có hỗ trợ 
robot ngày càng phổ biến và được áp dụng tại 
các trung tâm tiết niệu lớn trên thế giới với kết 
quả có thể so sánh được với phẫu thuật mở cắt 
tuyến tiền liệt(5). 
Khoa Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy đã 
triển khai phẫu thuật nội soi có hỗ trợ robot 
trong các bệnh lý đường tiết niệu từ tháng 
10/2017. Chúng tôi báo cáo kết quả bước đầu của 
phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc có 
hỗ trợ robot. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây là báo cáo mô tả hàng loạt trường hợp. 
Các trường hợp được phẫu thuật cắt tuyến tiền 
liệt tận gốc có hỗ trợ robot tại khoa Ngoại Tiết 
Niệu bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2017 đến 
01/2018. 
Các biến số ghi nhận gồm: tuổi, BMI, kích 
thước tuyến tiền liệt, giá trị PSA trước và sau mổ, 
điểm số Gleason, giai đoạn ung thư tuyến tiền 
liệt. Kết quả phẫu thuật gồm thời gian mổ, lượng 
máu mất, các biến chứng, thời gian hậu phẫu, 
thời gian rút các ống thông, kiểm soát nước tiểu 
và kết quả giải phẫu bệnh. 
Các biến số được phân tích bằng phần mềm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
74
thống kê SPSS 22.0, khác biệt có ý nghĩa khi 
p<0,05. 
Chúng tôi sử dụng hệ thống Robot da Vinci 
thế hệ SiTM với 4 cánh tay robot. Bệnh nhân nằm 
tư thế Trendelenburg 300, hai chân dạng. Vào 
trocar rốn 12cm đặt Camera để quan sát ổ bụng 
trước khi tiến hành các bước tiếp theo. Bơm CO2 
áp lực 12 – 15 mmHg. Đặt các trocars còn lại như 
hình minh họa, khoảng cách giữa các trocars 
8cm. Thêm 1 hoặc 2 trocars cho người phụ ở bên 
phải hoặc bên trái bệnh nhân. Quy trình phẫu 
thuật được tiến hành theo phương pháp của 
viện Vatikuti (VIP) được mô tả bởi Menon và 
cộng sự với một số cải tiến nhỏ(6,7). Chúng tôi nối 
bàng quang niệu đạo theo kỹ thuật của Van 
Velthoven và cộng sự(13). 
Nhóm thực hiện phẫu thuật robot bao gồm 
những phẫu thuật viên, điều dưỡng có kinh 
nghiệm trong mổ mổ cũng như phẫu thuật nội 
soi kinh điển và đã được đào tạo về phẫu thuật 
robot. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Mẫu nghiên cứu gồm có 5 trường hợp ung 
thư tuyến tiền liệt được phẫu thuật nội soi cắt 
tuyến tiền liệt tận gốc có hỗ trợ robot. Tuổi trung 
bình 66,4 6,15 (58-76). Chỉ số khối cơ thể (BMI) 
trung bình 22,1 2,4 (17,5-24,6). Kích thước 
tuyến tiền liệt trung bình 31,12 9,04 (20,4-42,8) 
mL được xác định bằng MRI. Nồng độ PSA máu 
trước mổ trung bình 19,16 7,37 (10,4-28,2) 
mg/dL. Không có trường hợp nào có tiền căn cắt 
đốt nội soi tuyến tiền liệt trước đây. Có 1 trường 
hợp đã mổ mở cắt ruột thừa cách 30 năm. Tất cả 
trường hợp đều là carcinoma tuyến tiền liệt, có 2 
trường hợp giai đoạn T2b, 2 trường hợp giai 
đoạn T2c và 1 trường hợp giai đoạn T3b với 
điểm số Gleason từ 7-9. (Bảng 1) 
Kết quả phẫu thuật được trình bày trong 
bảng 2. Thời gian mổ trung bình 420 38 (360-
480) phút, lượng máu mất khoảng 780 416 mL, 
có 2 trường hợp phải truyền máu trong mổ. Thởi 
gian nằm hậu phẫu trung bình 9 2,75 (6-14) 
ngày. Thời gian có nhu động ruột 2,8 0,4 (2-3) 
ngày, dẫn lưu bụng rút sau 4,4 1,2 (3-6) ngày, 
tất cả các trường hợp rút thông niệu đạo rút sau 
14 ngày. Không có trường hợp nào bị tổn thương 
mạch máu hay tổn thương ruột trong quá trình 
mổ. 
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
STT BN1 BN2 BN3 BN4 BN5 TB 
Tuổi 58 67 69 62 76 66,4 6,1 
BMI 23,05 23,58 21,87 17,57 24,60 22,1 2,4 
DRE - + + - + 
Kích thước TTL (ml) 20,46 38,85 42,8 21,1 32,8 31,1 9,0 
PSA (ng/ml) 
TM 10,4 12 28,2 18,2 27 19,1 7,3 
SM <0,09 <0,09 3,4 0,2 0,24 0,8 1,3 
Gleason 
ST 9(5+4) 7(3+4) 6(3+3) 7(3+4) 7(4+3) 
GPB 9(4+5) 7(3+4) 7(3+4) 9(5+4) 7(3+4) 
Giai đoạn 
LS T3aN0M0 T2cN0M0 T2bN0M0 T2bN0M0 T2cN0M0 
GPB T3bN0M0 T2cN0M0 T2bN0M0 T2bN0M0 T2cN0M0 
Nguy cơ (NCCN) Rất cao Trung bình Cao Trung bình Cao 
Điểm CAPRA 8 5 5 5 8 6,2 1,4 
 CAPRA-S 8 3 4 7 4 5,2 1,9 
Tiền căn Mổ cắt ruột thừa Lao phổi Lao phổi COPD 
STT: số thứ tự, BN: bệnh nhân, BMI: chỉ số khối cơ thể, TTL: tuyến tiền liệt, PSA: kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt, TM: 
trước mổ, SM: sau mổ, ST: sinh thiết, GPB: giải phẫu bệnh, LS: lâm sàng, NCCN: mạng lưới ung thư quốc gia Mỹ, CAPRA: 
đánh gia nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt của đại học California, CAPRA-S: điểm CAPRA sau phẫu thuật. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
75
Bảng 2: Kết quả phẫu thuật 
STT BN1 BN2 BN3 BN4 BN5 TB 
Thời gian mổ (phút) 420 420 560 420 360 420 38 
Lượng máu mất (ml) 500 1500 1000 500 400 780 416 
Truyền máu 4 HCL + 2 FFP 4 HCL 
Thời gian hậu phẫu (ngày) 9 9 14 6 7 9 2,7 
Thời gian có nhu động ruột (ngày) 2 3 3 3 3 2,8 0,4 
Thời gian rút dẫn lưu bụng (ngày) 3 5 6 5 3 4,4 1,2 
Trong mẫu nghiên cứu, có 2 trường hợp giai 
đoạn pT2b, 2 trường hợp pT2c, một trường hợp 
trước mổ là cT3a, sau mổ là pT3b. Không trường 
hợp nào có di căn hạch. Điểm số Gleason sau mổ 
ghi nhận 3 trường hợp Gleason 7 (3+4) và 2 
trường hợp Gleason 9. Ghi nhận 1 trường hợp 
biên phẫu thuật mỏm niệu đạo dương tính, giai 
đoạn trước và sau mổ là T2b, PSA khá cao 18,2 
ng/mL, kết quả sinh thiết là Gleason 7 (3+4) 
nhưng kết quả sau mổ là Gleason 9 (5+4). PSA 
sau mổ trung bình 0,8 1,3 (0,09-3,4) mg/mL. Tỉ 
lệ kiểm soát nước tiểu 80% (4/5 trường hợp) sau 
3 tháng. Chúng tôi chưa đánh giá chức năng 
cương do thời gian theo dõi còn ngắn. 
BÀN LUẬN 
Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những 
ung thư phổ biến nhất ở nam giới(4). Ở các nước 
phát triển nhờ vào chương trình tầm soát tốt nên 
ung thư tuyến tiền liệt phần lớn được phát hiện 
ở giai đoạn sớm. Ở Việt Nam do điều kiện kinh 
tế còn hạn chế và trình độ dân trí chưa cao nên 
thường phát hiện ung thư ở giai đoạn trễ hơn. 
Cắt tuyến tiền liệt tận gốc được xem là tiêu 
chuẩn vàng trong điều trị ung thư TTL còn khu 
trú và có kỳ vọng sống hơn 10 năm(8). Mổ mở 
hay phẫu thuật nội soi kinh điển cắt tuyến tiền 
liệt tận gốc đã được tiến hành tại Việt Nam nói 
chung cũng như bệnh viện Chợ Rẫy từ nhiều 
năm nay. Gần đây, phẫu thuật nội soi có hỗ trợ 
robot được ứng dụng tại nhiều trung tâm Tiết 
Niệu trên thế giới đem lại nhiều lợi ích cho bệnh 
nhân. Vì vậy, với những kinh nghiệm của mình, 
chúng tôi đã mạnh dạn triển khai hệ thống robot 
vào phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian 
mổ còn dài trung bình 420 phút so với các tác 
giả khác, chỉ khoảng 120-160 phút(1,9), lượng 
máu mất đáng kể trung bình 780mL so với các 
tác giả khác vào khoảng 50-100 mL, có 2 trường 
hợp phải truyền máu trong mổ nhưng không có 
trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Trong 
nghiên cứu này, giai đoạn ung thư TTL có phần 
trễ hơn, kích thước tuyến tiền liệt lớn hơn so với 
các tác giả khác, chúng tôi cũng cố gắng thực 
hiện phẫu thuật bảo tồn thần kinh cương trên 
những trường hợp cho phép và cũng vì đây là 
những trường hợp đầu tiên nên cần có thêm 
nhiều trường hợp nữa để chúng tôi cải thiện 
được kỹ thuật. Tác giả Vũ Lê Chuyên tại bệnh 
viện Bình Dân cũng ghi nhận thời gian mổ kéo 
dài khoảng 480 phút cho những trường hợp đầu 
tiên(14). Sau 5 trường hợp, chúng tôi đã cải thiện 
dần về kĩ thuật, giảm đáng kể thời gian phẫu 
thuật và lượng máu mất. Theo nhiều tác giả có 
kinh nghiệm trên thế giới, để rút ngắn được 
đường cong học tập cần phải phẫu thuật từ 20 – 
25 trường hợp(9,15). 
Thời gian nằm viện hậu phẫu, thời gian có lại 
nhu động ruột và thời gian rút dẫn lưu trong 
nghiên cứu này có ngắn hơn so với mổ mở và 
phẫu thuật nội soi truyền thống tại bệnh viện 
Chợ Rẫy. Bằng những kết quả tích cực trên, 
chúng tôi sẽ tiếp tục cải thiện quy trình để phát 
huy được ưu điểm ít xâm hại của phẫu thuật nội 
soi có hỗ trợ robot. 
Về mặt ung thư học, nồng độ PSA trung 
bình sau mổ là 0,8 ng/mL, trong đó có 2 bệnh 
nhân có mức PSA < 0,09 ng/mL, dưới ngưỡng 
phát hiện của bộ kit xét nghiệm tại bệnh viện 
Chợ Rẫy, 2 trường hợp PSA sau mổ khoảng 0,2 
ng/mL, có 1 trường hợp PSA sau mổ là 3,4 
ng/mL. Trường hợp này giai đoạn trước và sau 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
76
mổ còn khu trú tại chỗ là T2b, điểm số Gleason là 
7 (3+4), nhưng PSA trước mổ khá cao là 28,2 
ng/mL. Trị số PSA hay điểm số Gleason là 
những yếu tố tiên lượng độc lập cho khả năng di 
căn của ung thư TTL. Bệnh nhân này trước mổ 
không nghi ngờ có tổn thương di căn, X-quang 
phổi chỉ ghi nhận xơ đỉnh phổi do di chứng lao 
phổi, xạ hình xương trong giới hạn bình thường. 
Tuy nhiên, PSA sau mổ còn cao là 3,4 ng/mL, 
khả năng còn sót mô bướu trong trường hợp đã 
di căn vi thể. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và xét 
nghiệm lại PSA máu và xét nghiệm hình ảnh học 
cần thiết để đánh giá tái phát và tiến triển của 
ung thư TTL. Trong nghiên cứu này, có 1 trường 
hợp biên phẫu thuật mỏm niệu đạo dương tính, 
tuy trường hợp này giai đoạn T2b nhưng điểm 
số Gleason sau mổ là 9 (5+4) thuộc nhóm nguy 
cơ rất cao. Các tác giả khác cũng đã ghi nhận tỉ lệ 
biên phẫu thuật dương tính trong phẫu thuật 
robot vào khoảng 10-20%(1,9). Nhìn chung phẫu 
thuật nội soi robot có tỉ lệ biên phẫu thuật dương 
tính thấp hơn nội soi kinh điển nhưng vẫn còn 
cao hơn so với mổ mở(3,12). 
Trong nhóm nghiên cứu, tất cả bệnh nhân 
ung thư tuyến tiền liệt đều nằm trong nhóm 
nguy cơ trung bình, cao đến rất cao theo phân 
nhóm của NCCN và điểm CAPRA từ 5-8 điểm 
theo bảng đánh giá của Trung tâm Ung thư San 
Francisco, đại học California. Điểm số CAPRA 
sau phẫu thuật có 3 trường hợp nguy cơ trung 
bình (3-5) và 2 trường hợp nguy cơ cao (≥6). Khả 
năng tái phát của những bệnh nhân trong 
nghiên cứu khá cao, chúng tôi sẽ tiếp tục theo 
dõi sát và điều trị kịp thời cho bệnh nhân. Theo 
tác giả Punnen và cộng sự, thời gian sống không 
tiến triển bệnh trong 5 năm của nhóm nguy cơ 
trung bình và cao lần lượt là 39% và 17%(10). 
Khả năng kiểm soát nước tiểu trong nghiên 
cứu của chúng tôi rất khả quan, 80% bệnh nhân 
có thể kiểm soát nước tiểu sau 3 tháng, kết quả 
tương đồng với các tác giả khác(9). Khả năng 
kiểm soát nước tiểu sẽ cải thiện dần theo thời 
gian, nhiều tác giả cho thấy tỉ lệ kiểm soát nước 
tiểu lên đến 94-98% sau 12 tháng(1,9). 
Nghiên cứu này chỉ là những báo cáo kết 
quả bước đầu, số lượng mẫu nhỏ, thời gian 
theo dõi ngắn nên chưa thể so sánh các mối 
liên quan của các kết quả phẫu thuật với các 
yếu tố bệnh lý cũng như chưa so sánh được 
với các nghiên cứu khác. Tuy nhiên, bằng 
những kết quả ban đầu tích cực, chúng tôi sẽ 
tiếp tục thực hiện nghiên cứu với cỡ mẫu lớn 
hơn và thời gian theo dõi dài hơn. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc 
có hỗ trợ robot là một kĩ thuật an toàn và đầy 
hứa hẹn. Thời gian nằm hậu phẫu ít hơn, tỉ lệ 
kiểm soát nước tiểu tốt. Tuy nhiên, thời gian 
phẫu thuật còn dài vì đây là những trường hợp 
đầu tiên, cần có thêm nhiều trường hợp nữa để 
cải thiện đường cong học tập cũng như thời gian 
theo dõi lâu dài để đánh giá chức năng đi tiểu và 
chức năng cương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Carlucci JR, Nabizada-Pace F, and Samadi DB (2009), "Robot-
Assisted Laparoscopic Radical Prostatectomy: Technique and 
Outcomes of 700 Cases", Int J Biomed Sci, Vol. 5(3), pp. 201-8. 
2. Dahl DM., L'Esperance JO., Trainer AF et al (2002), 
"Laparoscopic radical prostatectomy: initial 70 cases at a U.S. 
university medical center", Urology, Vol. 60(5), pp. 859-63. 
3. Du Y, Long Q, Guan B et al. (2018), "Robot-Assisted Radical 
Prostatectomy Is More Beneficial for Prostate Cancer Patients: A 
System Review and Meta-Analysis", Med Sci Monit, Vol. 24, pp. 
272-87. 
4. Ferlay J, Soerjomataram I, Dikshit R et al. (2015), "Cancer 
incidence and mortality worldwide: sources, methods and major 
patterns in GLOBOCAN 2012", Int J Cancer, Vol. 136(5), pp. 
E359-86. 
5. Ficarra V, Novara G, Artibani W et al. (2009), "Retropubic, 
laparoscopic, and robot-assisted radical prostatectomy: a 
systematic review and cumulative analysis of comparative 
studies", Eur Urol, Vol. 55(5), pp. 1037-63. 
6. Menon M and Hemal AK (2004), "Vattikuti Institute 
prostatectomy: a technique of robotic radical prostatectomy: 
experience in more than 1000 cases", J Endourol, Vol. 18(7), pp. 
611-9; discussion 619. 
7. Menon M, Shrivastava A, Kaul S et al. (2007), "Vattikuti Institute 
prostatectomy: contemporary technique and analysis of results", 
Eur Urol, Vol. 51(3), pp. 648-57; discussion 657-8. 
8. Mottet N, Bellmunt EB, Bolla M et al. (2017), EAU - ESTRO - 
ESUR - SIOG Guidelines on Prostate cancer. Eur Urol, 71(4):618-
629 
9. Patel VR, Tully AS, Holmes R et al. (2005), "Robotic radical 
prostatectomy in the community setting--the learning curve and 
beyond: initial 200 cases", J Urol, Vol. 174(1), pp. 269-72. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
77
10. Punnen S, Freedland SJ, Presti JC et al. (2014), "Multi-
institutional validation of the CAPRA-S score to predict disease 
recurrence and mortality after radical prostatectomy", Eur Urol, 
Vol. 65(6), pp. 1171-7. 
11. Schuessler WW, Schulam PG, Clayman RV et al. (1997), 
"Laparoscopic radical prostatectomy: initial short-term 
experience", Urology, Vol. 50(6), pp. 854-7. 
12. Tang K, Jiang K, Chen H et al. (2017), "Robotic vs. Retropubic 
radical prostatectomy in prostate cancer: A systematic review 
and a meta-analysis update", Oncotarget, Vol. 8(19), pp. 32237-57. 
13. Van Velthoven RF, Ahlering TE, Peltier A et al. (2003), 
"Technique for laparoscopic running urethrovesical 
anastomosis:the single knot method", Urology, Vol. 61(4), pp. 
699-702. 
14. Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Văn Ân et 
al. (2017), "Áp dụng kỹ thuật nội soi robot để phẫu thuật cắt 
tuyến tiền liệt tận gốc do ung thư", Tạp Chí Y Dược Học - Trường 
Đại học Y Dược Huế, pp. 237-242. 
15. Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Văn Ân, et 
al. (2018), "Đường cong học tập trong phẫu thuật nội soi robot 
cắt tuyến tiền liệt tận gốc do ung thư", Y Học TP. Hồ Chí Minh, 
Vol. 2, pp. 175-180. 
Ngày nhận bài báo: 10/05/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/07/2018