Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 336
HỒI PHỤC CHỨC NĂNG THẬN Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN TIẾN TRIỂN 
NHANH DO VIÊM CẦU THẬN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Trần Thị Bích Hương*,**, Nguyễn Ngọc Lan Anh*, Nguyễn Minh Tuấn***, Trần Văn Vũ** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Hồi phục chức năng thận ở BN suy thận tiến triển nhanh (RPRF) cần chạy thận nhân tạo 
(TNT) ít gặp trên lâm sàng. Mục tiêu nghiên cứu (1) mô tả kết quả và (2) các yếu tố ảnh hưởng lên sự hồi phục 
của 64 trường hợp (TH) RPRF do viêm cầu thận (VCT) có chạy TNT tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 2014 đến 2018. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế tiền cứu, theo dõi dọc. Bệnh thận căn nguyên được chẩn 
đoán dựa vào lâm sàng, xét nghiệm và sinh thiết thận. Các TH được điều trị bằng chạy TNT phối hợp với điều trị 
bệnh căn nguyên (dựa theo kinh điển) và đánh giá khả năng ngưng chạy TNT. Bệnh vi mạch huyết khối 
(thrombotic microangiopathy, TMA) được chẩn đoán dựa trên tán huyết với Coombs test âm tính, giảm tiểu cầu, 
D-Dimer>600ng/mL, LDH>600U/L, mảnh vỡ hồng cầu trên phết máu ngoại biên kèm hoặc không kèm xác định 
bằng sinh thiết thận. 
Kết quả: Trong 64 TH, 49 nữ, trung vị 25 tuổi, có 59 TH viêm thận lupus, 3 bệnh thận IgA; 1 bệnh kháng 
thể kháng màng đáy cầu thận; 1 bệnh cầu thận màng nguyên phát. TMA được chẩn đoán ở 56/64 TH, với 21 TH 
khẳng định bằng sinh thiết thận. Bệnh nhân (BN) TMA được thay huyết tương (26TH) hoặc truyền huyết tương 
(30TH) kèm dùng heparin. Mọi TH đều được dùng methylprednisolone (trung vị 32 mg/ngày) trong tháng đầu 
tiên, và giảm liều sau đó. 41 TH (39 LN, 2 không LN) được dùng cyclophosphamide truyền tĩnh mạch (trung vị 
6 liều) trong 12 tháng theo dõi. 36/59 (61%) TH LN ngưng chạy TNT sau thời gian chạy TNT trung vị 39 ngày 
(24, 72 ngày) và tiếp tục không chạy TNT sau theo dõi trung vị 10 tháng (6, 11 tháng). Trong 28 TH không hồi 
phục chức năng thận, 4 TH tử vong và 24 TH tiếp tục chạy TNT định kỳ. 
Kết luận: Hồi phục chức năng thận thường gặp ở BN RPRF chạy TNT do viêm thận lupus kèm hoặc không 
kèm TMA. 
Từ khóa: suy thận tiến triển nhanh, hồi phục chức năng thận, chạy thận nhân tạo, viêm thận lupus, bệnh vi 
mạch huyết khối 
ABSTRACT 
RECOVERY OF KIDNEY FUNCTION IN GLOMERULONEPHRITIS 
WITH RAPIDLY PROGRESSIVE RENAL FAILURE AT CHO RAY HOSPITAL 
Tran Thi Bich Huong, Nguyen Ngoc Lan Anh, Nguyen Minh Tuan, Tran Van Vu 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 336 - 343 
Objectives: It is clinically uncommon for glomerulonephritis (GN) patients with rapidly progressive renal 
failure (RPRF) who require hemodialysis (HD) to recover kidney function. Our aim was to describe (1) the results 
(2) the factors associated with the recovery of kidney function of 64 GN patients with RPRF on HD at Cho Ray 
Hospital from 2014 to 2018. 
Methods: A prospective cohort study was conducted. A definitive diagnosis of the kidney disease was 
established by history, clinical examination, lab tests, and renal biopsy. The patients had received HD and 
standard therapy for their primary medical condition with evaluation for the ability of kidney function 
*Phân môn Thận, Bộ môn Nội, Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh **Khoa Nội Thận, BV Chợ Rẫy 
***Khoa Thận nhân Tạo, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Trần Thị Bích Hương ĐT: 0938817385 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 337
recovery. Thrombotic microangiopathy (TMA) was diagnosed based on Coombs negative hemolytic anemia, 
thrombocytopenia, D-Dimer >600 ng/mL, LDH >600 U/L, schistocytes on blood smear, with or without 
renal biopsy. 
Results: Of 64 GN patients, there were 49 females; patient median age 25; 59 lupus nephritis (LN) (54 class 
III or IV, 1 class V, 1 unclassified); 3 IgA nephropathy; 1 Anti-glomerular basement membrane GN; 1 idiopathic 
membranoproliferative GN. TMA, found in 56/64 patients, of which 21 were biopsy-proven, were treated with 
therapeutic plasma exchange (26 patients) or plasma infusion (30 patients) and heparin anticoagulation. All 64 
patients were on oral methylprednisolone (median 32mg/day) for the first month then tapered. 41 patients (39 
LN, 2 non-Lupus GN) received median of 6 doses of monthly intravenous cyclophosphamide 0.5g/m2 over median 
of 12 months follow up. 36/59 (61%) LN patients recovered kidney function, and discontinued HD after median 
39 days (Interquartile range (IQR) 24, 72 days). They remained dialysis independent for a median of 10 months 
(IQR 6, 11 months) follow up. Among 28 patients who failed to recover kidney function, 4 died and 24 continued 
HD after median of 4 months. 
Conclusion: RPRF in LN patients with or without TMA had a good likelihood of kidney function recovery 
after requiring HD. 
Keywords: rapidly progressive renal failure, recovered kidney function, hemodialysis, thrombotic 
microangiopathy, lupus nephritis 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Suy thận tiến triển nhanh (rapid progressive 
renal failure, RPRF) là tình trạng mất chức năng 
thận nhanh trong vòng trên 7 ngày đến dưới 3 
tháng. Tốc độ mất chức năng thận này chậm hơn 
so với suy thận cấp hoặc tổn thương thận cấp 
(acute kidney injury (AKI) là tình trạng mất chức 
năng thận nhanh trong vài giờ đến vài ngày, 
dưới 7 ngày), nhưng nhanh hơn bệnh thận mạn. 
Khác với bệnh thận mạn, các bệnh nhân (BN) 
RPRF có kích thước 2 thận bình thường hoặc to. 
Theo Tomono Fujii, tử vong do RPRF là 8% cao 
hơn nhóm BN không tổn thương thận là 1,2%, 
và thấp hơn nhóm BN tổn thương thận cấp là 
17,5%(6). Tuy có báo cáo lẻ tẻ từ các nghiên cứu 
ngoài nước về hồi phục chức năng thận ở BN 
RPRF, đang chạy thận nhân tạo (TNT) với thời 
gian chạy TNT thay đổi tử dưới 3 tháng đến 12 
tháng(1,3,9,12), song chưa có báo cáo tại Việt Nam 
về vấn đề này. Từ những kết quả ban đầu về 
chẩn đoán và điều trị của nghiên cứu về suy 
thận tiến triển nhanh(13,14), chúng tôi trình bày đề 
tài này nhằm mục tiêu: 
Mô tả kết quả hồi phục chức năng thận qua 
theo dõi dọc 64 BN RPRF do viêm cầu thận tại 
Bệnh Viện Chợ Rẫy. 
Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng lên sự hồi 
phục chức năng thận qua so sánh 2 nhóm có và 
không hồi phục chức năng thận. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiến cứu, theo dõi dọc từ 1/2014 đến 3/2018 
tại khoa Thận, Bệnh Viện Chợ Rẫy trên 64 BN 
được chẩn đoán RPRF. 
Chỉ định chạy TNT 
Các BN được chỉ định chạy TNT cấp cứu 
theo các chỉ định thường quy của BS chuyên 
khoa Thận, kèm đồng thuận trong hội chẩn với 
bác sĩ (BS) khoa Thận nhân tạo, Bệnh Viện Chợ 
Rẫy. Việc chạy TNT được tiến hành qua catheter 
tĩnh mạch đùi (cấp cứu) và nếu được lên chương 
trình từ trước, BN được chủ động đặt catheter 
tĩnh mạch cảnh hầm để chạy TNT. Lịch chạy 
TNT được thống nhất giữa BS Trần Thị Bích 
Hương (chủ nhiệm đề tài) với BS Nguyễn Minh 
Tuấn (Trưởng khoa TNT) trong thời gian điều trị 
nội và ngoại viện. Trong 3 tháng đầu tiên, các 
BN với tổn thương đa tạng được chạy TNT 
ngoại trú tại khoa TNT, Bệnh Viện Chợ Rẫy song 
hành với điều trị nội khoa do BS Thận học của 
nhóm nghiên cứu đảm nhận. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 338
Điều trị nội khoa hội chứng urê máu cao 
Để bảo tồn tính mạng của BN và tạo điều 
kiện tối ưu để thận hồi phục, ngoài chạy TNT, 
các BN được kết hợp các điều trị nội khoa của 
hội chứng urê huyết tương tự các TH chạy TNT 
ở BN AKI, như kiểm soát huyết áp (huyết áp đạt 
mục tiêu 140/90mmHg vào ngày không chạy 
TNT và tránh tối đa hạ huyết áp trong ngày chạy 
TNT), kiểm soát đường huyết tối ưu và hạn chế 
hạ đường huyết trong ngày chạy TNT, điều trị 
suy tim sung huyết (đánh giá qua lâm sàng, siêu 
âm tim, NT-BNP, X quang tim phổi) với 
dobutamin truyền tĩnh mạch nội viện và digoxin 
0,125mg dùng cách ngày và 3 ngày/tuần khi xuất 
viện, điều chỉnh liều kháng sinh (dựa vào hướng 
dẫn kháng sinh của Sanford) cập nhật thay đổi 
theo chức năng thận của BN, điều trị thiếu máu 
bằng erythropoietin-alpha hoặc beta tiêm dưới 
da liều 80-100UI/kg/tuần, điều chỉnh rối loạn 
điện giải và thăng bằng kiềm toan đi kèm. 
Sinh thiết thận dưới hướng dẫn siêu âm 
Các BN được tiến hành sinh thiết thận (STT) 
vào ngày BN không chạy TNT, sau khi ngưng 
heparin trong 48h, ngưng các thuốc kháng đông 
và chống kết tập tiểu cầu 1 tuần. Lần chạy TNT 
trước và sau ngày STT không dùng heparin. 
Sinh thiết thận được tiến hành tại khoa Siêu Âm, 
Bệnh Viện Chợ Rẫy, bằng Bard gun dưới hướng 
dẫn của siêu âm 2D do BSCK2 Lê Thanh Toàn 
hướng dẫn. Mọi BN suy thận đều do BS Trần 
Thị Bích Hương tiến hành sinh thiết. Sau vài lần 
đầu tiên tiến hành an toàn với 1 lần đâm kim, tất 
cả các TH sau đó, chúng tôi đều tiến hành 2 lần 
đâm kim vào thận trái để được 2 mẫu thận đảm 
bảo đủ các thành phần cho khảo sát vi thể. Sau 
STT, BN được theo dõi tại khoa thận. Chỉ định 
chạy TNT được xét sau 24-48h STT và heparin 
được dùng lại, nếu BN không có biến chứng sau 
48h STT. Mẫu thận được BS Trần Hiệp Đức 
Thắng đọc kết quả sau nhuộm cơ bản (HE, PAS, 
Trichrome, bạc) khảo sát dưới kính hiển vi 
quang học và nhuộm miễn dịch huỳnh quang 
hoặc hóa mô miễn dịch (IgA, IgG, IgM, C3, C1q, 
Fibrin, Kappa, Lambda). 
Điều trị bệnh căn nguyên 
BN được điều trị bệnh lý căn nguyên, như 
bằng ức chế miễn dịch với viêm thận lupus class 
III, IV (methylprednisolone uống hoặc tiêm 
mạch, truyền cyclophosphamide định kỳ hàng 
thang). Do nguy cơ nhiễm trùng và tử vong cao 
khi dùng thuốc ức chế miễn dịch ở BN suy thận 
và chạy TNT, nên việc chọn lựa loại và liều dùng 
thuốc ức chế miễn dịch đều được chủ nhiệm đề 
tài quyết định: 
BN viêm thận lupus class III, IV, nếu không 
có nhiễm trùng cấp, BN được truyền 
cyclophosphamide (0,5g/m2)/đợt/1 tháng x 6 đợt. 
Sau đó duy trì 4 đợt cách nhau mỗi 3 tháng. Liều 
dùng cyclophosphamide mỗi đợt sẽ (1) giảm còn 
0,5g nếu BN vừa có nhiễm trùng cấp trong vòng 
1 tháng trước đó, hoặc (2) không truyền nếu BN 
đang có biến chứng nhiễm trùng cấp hoặc biến 
chứng giảm bạch cầu. 
BN bệnh thận IgA chẩn đoán dựa vào sinh 
thiết thận. Điều trị theo hướng dẫn của Hội 
Thận học Nhật Bản, tuy chưa chứng cứ 
mạnh(7), chúng tôi vẫn áp dụng phác đồ pulse 
steroid và truyền cyclophosphamide như BN 
viêm thận lupus. Qua theo dõi 3 tháng, nếu 
BN không đáp ứng, chúng tôi ngưng dùng ức 
chế miễn dịch ở BN này. 
BN có biến chứng bệnh vi mạch huyết khối 
(thrombotic microangiopathy, TMA) được chẩn 
đoán dựa vào lâm sàng với (1) Thiếu máu tán 
huyết với Test de Coombs âm tính, (2) Giảm tiểu 
cầu 600 UI/L, (4) Tăng 
D-Dimer > 600 ng/mL, (5) Mảnh vỡ hồng cầu 
trên phết máu ngoại biên, kèm hoặc không kèm 
tổn thương bệnh học minh chứng sau đó. Điều 
trị bao gồm (1) điều trị bệnh căn nguyên, (2) điều 
trị nhiễm trùng đi kèm, kết hợp với (3) thay 
huyết tương từ 5-7 lần, và/ hoặc truyền huyết 
tương, (4) dùng kháng đông (enoxaparin nội 
viện theo chức năng thận và chuyển sang 
antivitamin K ngoại viện). 
Đánh giá kết quả chức năng thận 
Hồi phục chức năng thận ở BN RPRF đang 
chạy TNT khi eGFR (CKD-EPI) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 339
>15ml/ph/1,73m2, BN ngưng được chạy TNT 
trong thời gian ít nhất 2 tháng, không tăng cân 
và thể tích nước tiểu về bình thường 
(≥1ml/kg/h/24h). 
Không hồi phục chức năng thận khi BN 
RPRF cần chạy TNT không ngưng được TNT 
trong 3 tháng theo dõi và thể tích nước tiểu vẫn 
<0,3ml/kg/h/24h. Những BN này được chúng tôi 
chuyển về bệnh viện địa phương để tiếp tục 
chạy TNT định kỳ và ngưng toàn bộ chương 
trình điều trị ức chế miễn dịch bệnh căn nguyên. 
BN tử vong hoặc mất dấu được phân loại 
dựa vào tình trạng cuối cùng trước khi mất dấu. 
Phân tích thống kê 
Các biến số liên tục được kiểm chuẩn và 
trình bày dưới dạng trung vị và tứ phân vị (25%, 
75%) nếu không có phân phối chuẩn. Phép kiểm 
Chi bình phương dùng trong so sánh 2 biến 
phân tầng, phép kiểm Wilcoxon/Kruskall-Wallis 
dùng cho biến số phi tham số, p được gọi là có ý 
nghĩa thống kê khi <0,05. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 1/2014 đến 3/2018, chúng tôi có 
64 BN RPRF đồng ý tham gia nghiên cứu. Qua 
phép kiểm Kolmogoro-Smirnov, các biến số 
đều không có tính chuẩn, nên số liệu được 
trình bày dưới dạng trung vị (25%;75%). Trong 
64 BN chạy TNT, có 11 BN được chỉ định trước 
nhập viện và 53 BN lúc nhập viện (NV) tại 
Bệnh Viện Chợ Rẫy. Đặc điểm của nhóm 
nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1. Sau 
thời gian theo dõi trung vị 10 tháng (6;11 
tháng), chúng tôi có 4 BN tử vong, 5 BN mất 
dấu, tỷ lệ BN ngưng chạy TNT và hồi phục 
chức năng thận qua ngưng chạy TNT là 38/64 
(59,4%) BN. Nếu loại trừ BN tử vong hoặc mất 
dấu, chúng tôi có tỷ lệ hồi phục chức năng 
thận là 36/55 (65,5%) BN. 
Bảng 1: Đặc điểm nhóm nghiên cứu thời điểm nhập viện bắt đầu nghiên cứu 
Đặc điểm Chung (n=64) Nhóm hồi phục (n=38) Nhóm không hồi phục (n=26) p 
Tuổi 25 (21; 33) 25 (21;32) 25 (21;32) NS (d) 
Giới (nữ) 49 (76,6%) 29 (45,3%) 20 (31,2%) NS 
Bệnh thận căn nguyên 
Viêm thận lupus 59 (92,2%) 36 (56,3%) 23 (35,9%) 0,003* 
Viêm cầu thận không lupus (a) 5 (7,8%) 0 (0%) 5 (7,8%) 
Thời gian nằm viện (ngày) 35 (24;45) 35 (24;45) 35 (23;51) NS 
Số TH tăng huyết áp (b) 37 (57,8%) 22 (34,4%) 15(23,4%) NS 
Số TH protein niệu≥1g/24h 58 (90,6%) 38 (59,4%) 20 (31,3%) NS 
Số TH tiểu máu (c) 59 (92,2%) 37 (62,7%) 22 (37,3%) NS 
Số TH phù toàn thân 45 (70,3%) 28 (43,8%) 17 (26,6%) NS 
Số TH nhiễm trùng cấp lúc NV 10 (15,6%) 7 (10,9%) 3 (4,7%) NS 
Số TH theo dõi BS Thận học trước NV 31 (56,3%) 16 (25%) 15 (23,4%) NS 
Số TH dùng steroid lúc NV 39 (61,9%) 23 (35,9%) 16 (25%) NS 
Liều Medrol dùng lúc NV (mg) 48 (32;48) 28 (0;48) 28 (0;48) NS 
(a) VCT không lupus bao gồm 3 TH Bệnh thận IgA, 1 TH bệnh kháng thể kháng màng đáy cầu thận, và 1 TH viêm cầu thận 
tăng sinh màng; (b) Tăng huyết áp nếu huyết áp ≥ 140/90mmHg, hoặc tiền căn tăng huyết áp hoặc đang dùng thuốc 
hạ huyết áp; (c) Tiểu máu khi HC>50/uL trên dipstick hoặc HC> 5000/ph (cặn Addis) bao gồm 35 BN viêm thận lupus, 4 
BN nonlupus chẩn đoán hội chứng thận hư; (d) NS: Không ý nghĩa thống kê; (*) Có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 2: Đặc điểm chức năng thận và các yếu tố liên quan 
Đặc điểm Chung 
(n=64) 
Nhóm hồi phục 
(n=38) 
Nhóm không hồi 
phục (n=26) 
p 
Creatinine HT nền, trước NV (n=25) 1,6 (0,9;2) 1,7 (1;2,5) 1,7 (0,9;2,2) NS (c) 
BUN cao nhất (mg/dL) (n=53) (a) 98 (77;127) 82 (51;110) 109 (88;137) NS 
Creatinine HT cao nhất (mg/dL) (n=53) (a) 3 (2;5) 2.5 (2;3,5) 5,1 (3;7) 0,015* 
Thể tích nước tiểu lúc NV (ml/24h) 500 (300;1000) 800 (450;1235) 550 (230;1075) NS 
Số TH thể tích nước tiểu ≥1000mL/ngày 27 (42,2%) 17 (26,6%) 10 (15,6%) NS 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 340
Đặc điểm Chung 
(n=64) 
Nhóm hồi phục 
(n=38) 
Nhóm không hồi 
phục (n=26) 
p 
Số TH thể tích nước tiểu <400mL/ngày 12 (18,8%) 5 (7,8%) 7 (10,9%) NS 
Thời gian chạy TNT (tháng) 2 (1;4) 1 (1;2) 3,5 (1;6) 0,0002* 
Số TH chạy TNT>3 tháng 18 (28,1%) 4 (6,3%) 14 (21,9%) <0,0001* 
Albumine máu<3,5g/dL 57 (89,1%) 36 (56,3%) 21 (32,8%) NS 
Số TH TMA 56 (87,5%) 31 (48,4%) 25 (39,1%) NS 
Số TH TMA / viêm thận lupus 8 (12,5%) 5 (62,5%) 3 (4,9%) <0,05* 
Số TH TMA /VCT không lupus (b) 5 (7,8%) 0 (0%) 5 (7,8%) <0.05* 
Số TH Không TMA/viêm thận lupus 51 (79,7%) 31 (48,4%) 20 (31,3%) NS 
(a) giá trị cao nhất của 53 BN chưa chạy TNT lúc NV; (b) Cả 5 BN VCT không lupus kèm TMA đều không hồi phục. 
(c) NS: Không ý nghĩa thống kê, (*) Có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 3: So sánh về kết quả mô bệnh học 
Kết quả Chung 
(N=61) 
Nhóm hồi phục 
(N=36) 
Nhóm không hồi phục 
(N=25) 
p 
Số cầu thận sinh thiết được 19 (14;27) 19 (14;28) 17 (14;26) NS (d) 
% cầu thận còn sống (a) 90,5 (77,8;100) 95 (82;100) 85 (68,7;92,3) 0,01* 
Số TH có số CT sống ≥ 90% 31 (50,8%) 24 (39,3%) 7 (11,5%) 0,002* 
% cầu thận xơ hóa hoàn toàn 9,5 (0;22,2) 4,7 (0;17,5) 15 (7,6;31,2) 0,01* 
% cầu thận liềm 11,8 (0;31,7) 3 (0;24,6) 20 (3,7;40,6) 0,01* 
Số TH có % CT liềm ≥9% 32 (52,5%) 15 (24,6%) 17 (27,9%) 0,04* 
Số TH viêm cầu thận liềm (b) 6 (9,8%) 2 (3,3%) 4 (6,6%) NS 
Số TH TMA (c) 21 (34,4%) 14 (22,9%) 7 (11,5%) NS 
(a) Cầu thận còn sống (Viable glomeruli) là những cầu thận vẫn còn cấu trúc lọc cầu thận về mặt hình thái, 
(b) khi số cầu thận liềm ≥50% trên tổng số cầu thận trên mẫu sinh thiết; 
(c) TMA (bệnh vi mạch huyết khối) dựa trên các tổn thương hẹp và bít tắc lòng mạch và thành lập huyết khối ở động mạch 
gian tiểu thùy, tiểu động mạch và mao mạch cầu thận, thường kèm theo mảnh vỡ hồng cầu và ảnh hưởng của huyết khối lên 
mô thận gây thiếu máu cục bộ, 
(d) NS: Không ý nghĩa thống kê (*) Có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 4: Điều trị BN suy thận tiến triển nhanh 
Điều trị Chung 
(N=64) 
Nhóm hồi phục 
(N=38) 
Nhóm không hồi phục 
(N=26) 
p 
Số TH dùng corticosteroid 64 (100%) 38 (100%) 26 (100%) NS(c) 
Liều methylprednisone dùng (mg) 32 (16;48) 32 (16;48) 32 (16;48) NS 
Số TH pulse steroid (a) 29 (45,3%) 15 (29,5%) 14 (21,9%) NS 
Liều pulse steroid 1,5 (1,5;1,5) 1,5 (1,5;1,5) 1,5 (1,5;3) NS 
Đáp ứng với pulse steroid 2 (3,1%) 2 (3,1%) 0 (0%) NS 
Số TH dùng cyclophosphamide TTM 41 (64%) 29 (45,3%) 12 (18,8%) NS 
Số lần dùng cyclophosphamide (b) 6 (4;6) 6 (6;6) 4 (1,25;6) NS 
Số TH TMA thay huyết tương 26 (40,6%) 13 (20,3%) 13 (20,3%) NS 
Số lần thay huyết tương/ 1 TH 7 (5;7) 7 (5;7) 7 (5,5;7) NS 
(a) Pulse steroid 3 liều với 22 TH dùng 0,5g/ngày, 6 TH 1g/ngày, 1 TH 125mg/ngày; (b) trong 12 tháng (c) NS: Không ý 
nghĩa thống kê. 
Ngoại trừ 3 BN không sinh thiết thận (trong 
đó có 1 BN mang thai, 1 BN tử vong trước STT 
và 1 BN mất dấu sau lần xuất viện về chạy TNT 
tại địa phương), chúng tôi có 61 kết quả STT 
(Bảng 3). Số cầu thận liềm ảnh hưởng lên hồi 
phục chức năng thận. Tuy nhiên, chúng tôi 
không thấy khác biệt khi phân tích dưới nhóm 
của liềm là liềm tế bào, liềm xơ-tế bào hoặc liềm 
xơ. Khi phân tầng % cầu thận liềm, chúng tôi ghi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 341
nhận điểm cắt % cầu thận liềm ≥9%, sự khác biệt 
bắt đầu có ý nghĩa thống kê. 
Từ 5 biến số khác biệt có ý nghĩa thống kê 
khi phân tích đơn biến bao gồm (1) Thời gian 
chạy TNT dưới 3 tháng, (2) Bệnh căn nguyên 
viêm thận lupus, (3) Chẩn đoán TMA lâm sàng; 
(4) Tỷ lệ cầu thận còn sống ≥90%, (5) Tỷ lệ liềm 
≥9%, chúng tôi dùng hồi quy logistic đa biến để 
tìm biến số tác động quan trọng nhất. Kết quả 
chỉ 2 biến số viêm thận lupus (p=0,0009) và thời 
gian chạy TNT dưới 3 tháng (p=0,0009) vẫn còn 
khác biệt giữa 2 nhóm và là 2 yếu tố tiên lượng 
hồi phục ở BN RPRF đã chạy TNT. 
BÀN LUẬN 
Bàn về định nghĩa "hồi phục chức năng thận" ở 
BN chạy TNT 
Suy thận tiến triển nhanh được Kimberly R. 
cụ thể hóa nhóm này là suy thận diễn tiến nhanh 
đến chạy TNT (rapid progression to dialysis)(8). 
Cho đến nay, vẫn chưa có 1 định nghĩa nào 
thống nhất và các định nghĩa vẫn còn mang tính 
chủ quan về hồi phục chức năng thận ở BN đang 
điều trị thay thế thận. Năm 2017, ADQI lần thứ 
16 đề nghị gọi "hồi phục" chức năng thận ở BN 
tổn thương thận cấp (AKI) đang điều trị thay thế 
thận cấp cứu là khi BN ngưng điều trị thay thế 
thận trong thời gian tối thiểu 14 ngày(2). Mục tiêu 
điều trị hồi phục chức năng thận là giúp BN hồi 
phục lại tình trạng chức năng thận trên các giới 
hạn nguy hiểm đến tính mạng của BN. Đánh giá 
chức năng thận ở những BN đang chạy TNT 
nhằm mục tiêu hồi phục chức năng thận cần lưu 
ý đến tình trạng mất khối lượng cơ khiến 
creatinine HT giảm giả tạo và làm chúng ta dễ 
chẩn đoán lầm là thận đã hồi phục ở BN đang 
chạy TNT. Do RPRF có thời gian diễn tiến chậm 
hơn, chúng tôi chọn mốc 2 tháng không cần chạy 
TNT và thể tích nước tiểu đạt > 1ml/kg/h đạt hồi 
phục, và các BN hồi phục đều có thời gian theo 
dõi ít nhất 6 tháng. 
Bàn về tỷ lệ hồi phục chức năng thận ở BN 
RPRF đã chạy TNT 
Chúng tôi đạt khoảng 60% hồi phục chức 
năng thận. Theo Fehrman-Ekholm I và CS(5), dựa 
vào hệ thống số liệu của Thụy Điển ở 17590 BN 
đã chạy TNT kéo dài trên 1 năm, tác giả ghi 
nhận có 39 BN (0,2%) hồi phục chức năng thận. 
Theo y văn, tỷ lệ hồi phục chức năng thận ở BN 
chẩn đoán suy thận mạn giai đoạn cuối đang 
chạy TNT dao động từ 0,5-2,8%(2,4,10,11,12). Theo 
Agraharkar M và CS(1), ghi nhận có 8 TH VCT 
sau chạy TNT từ 2 tháng đến 30 tháng, hồi phục 
được chức năng thận và ngưng chạy TNT sau 
theo dõi 11 tháng và thời gian ngưng chạy TNT 
từ 1 đến 51 tháng. Chẩn đoán lúc khởi đầu chạy 
TNT đều là suy thận mạn giai đoạn cuối, không 
ghi nhận kích thước 2 thận, tuy nhiên, 6/8 TH 
này đều được sinh thiết thận và 5/6 TH có kết 
quả là xơ chai cầu thận khu trú từng vùng. 
Sekkarie và CS báo cáo kết quả từ dữ liệu theo 
dõi 10 năm Michigan Kidney Registry trên 7404 
BN, tỉ lệ hồi phục chức năng thận là 2,8%; trong 
đó 55 TH (26%) hồi phục trong vòng 3 tháng 
chạy TNT, 102 TH (48%) trong vòng 6 tháng 
chạy TNT, 156 TH (75%) trong vòng 1 năm chạy 
TNT và 50% BN tiếp tục ngưng chạy TNT trên 3 
tháng trong 1 năm tiếp theo(12). Một nghiên cứu 
khác tại một trung tâm ở Mỹ, qua theo dõi 39 BN 
RPRF từ 1970-1979, tác giả Kimberly và CS ghi 
nhận tử vong 15/39 (38,5%), ngưng chạy TNT 
10/39BN (25,6%), 3/39 BN (7,7%) ngưng chạy 
TNT tạm thời nhưng sau đó quay lại chạy TNT 
trong vòng 1 năm. Thời gian hồi phục chức năng 
thận từ 5 tháng đến 29 tháng kể từ lần khám sau 
cùng. Đặc điểm chính của nhóm BN hồi phục 
chức năng thận là kèm tăng huyết áp nặng, ác 
tính, viêm mạch máu. Cũng tại trung tâm này 
với số liệu nghiên cứu trên 44 BN trong 12 năm 
(1970 -1982), Kimberly và CS(8) cũng ghi nhận 
15/38 BN (39%) hồi phục chức năng thận (9/15 
BN (60%) trong vòng 1 tháng, 11/15 BN (73,3%) 
trong vòng 2 tháng), và 9 BN còn sống sau khi 
hồi phục chức năng thận với thời gian theo dõi 
từ 14 tháng đến 4,3 năm(9). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 342
Bàn về các yếu tố liên quan đến việc ngưng 
chạy TNT 
Chúng tôi ghi nhận 2 yếu tố có ý nghĩa từ 
nhóm nhỏ 64 BN RPRF là thời gian chạy TNT 
dưới 3 tháng, và bệnh căn nguyên viêm thận 
lupus. Kimberly ghi nhận việc hồi phục chức 
năng thận tùy thuộc vào thời gian chạy TNT 
dưới 3 tháng và bệnh căn nguyên như bệnh vi 
mạch huyết khối, thuyên tắc do cholesterol, bệnh 
mạch máu do tăng huyết áp, hoại tử vỏ thận... 
Ngoài ra, thời gian từ lúc creatinine HT tăng từ 
dưới 1,2mg/dL đến mức cần chạy TNT, nếu 
dưới 3 tháng, sẽ có khả năng hồi phục hơn là 
nhóm creatinine HT tăng chậm(9). Theo Sekkarie 
và CS(12), trong nhóm BN hồi phục chức năng 
thận, viêm cầu thận tiến triển nhanh nguyên 
phát (9,2%), viêm thận lupus, viêm cầu thận thứ 
phát sau bệnh lý mạch máu nhỏ (8,3%) có khả 
năng hồi phục khoảng 3 lần nhiều hơn nhóm 
bệnh thận đái tháo đường (1%) và nang thận 
(0,3%). Coplon và CS nghiên cứu ở 28 BN viêm 
thận lupus chạy TNT mặc dù dùng steroid liều 
cao, nhưng creatinine HT vẫn tăng>4mg/dL và 
BN cần chạy TNT. Theo đó, khả năng hồi phục 
chức năng thận ở BN viêm thận lupus liên quan 
đến kiểm soát được nhiễm trùng, tăng huyết áp, 
suy tim sung huyết, rối loạn điện giải. Không có 
sự khác biệt về tổn thương bệnh học của 2 nhóm 
hồi phục và không hồi phục chức năng thận. Tử 
vong ghi nhận ở 6/28 (21,4%). Tử vong gặp ở BN 
dùng steroid liều cao hơn 35mg prednisone và 
nguyên nhân tử vong chủ yếu do nhiễm trùng. 
8/28 (28,6%) BN ngưng được chạy TNT, sau thời 
gian 4,2 tháng(3). 
Bàn về bệnh sinh của sự hồi phục chức năng 
thận 
Chúng tôi đồng thuận với quan điểm của 
Kimberly R trong về giải thích này. Theo 
Kimberly R, dựa trên cơ sở không khác biệt về 
tổn thương bệnh học giữa 2 nhóm có và không 
hồi phục, với số cầu thận xơ hóa ít, số cầu thận 
còn sống cao, ít liềm, chứng tỏ ngoài tổn thương 
về mặt giải phẫu, chức năng thận suy còn do bất 
thường về sinh lý như hiện tượng co mạch mạnh 
thứ phát sau quá trình viêm tiến triển. Trong 
nhóm chúng tôi còn phát hiện nguyên nhân do 
bệnh vi mạch huyết khối. Một khi BN được điều 
trị thỏa đáng và kịp thời, trước khi cầu thận diễn 
tiến đến hoại tử và xơ hóa sau đó, thì BN vẫn có 
cơ hội để hồi phục chức năng thận. Do vậy, theo 
Kimberly R, chạy TNT không là bằng chứng của 
không hồi phục chức năng thận và việc tiếp tục 
điều trị bệnh căn nguyên, phối hợp với kiểm 
soát các bệnh lý đi kèm sẽ giúp chức năng thận 
hồi phục(9). Theo Sekkarie, các BS Thận học cần 
thận trọng khi chẩn đoán BN suy thận mạn giai 
đoạn cuối ở BN chạy TNT để hạn chế việc bỏ sót 
những bệnh thận có thể hồi phục được(12). 
KẾT LUẬN 
Chúng tôi đạt hồi phục chức năng thận ở 
khoảng 60% BN RPRF. Bệnh vi mạch huyết khối 
là một chẩn đoán mới, khá phổ biến và cần can 
thiệp chuyên biệt ở nhóm BN RPRF. Yếu tố tiên 
đoán khả năng hồi phục chức năng thận là chạy 
TNT dưới 3 tháng và viêm thận lupus. Ngoài 
chạy TNT, việc nhanh chóng chẩn đoán bệnh 
thận căn nguyên, bệnh đồng mắc, các biến 
chứng của suy thận nặng trên cơ sở thận trọng 
điều trị ức chế miễn dịch phù hợp giúp đạt phục 
chức năng thận trên cơ sở bảo vệ tính mạng BN. 
Lời cảm ơn: Chân thành cảm ơn Sở Khoa Học Công Nghệ 
TPHCM đã tài trợ cho đề tài "Chẩn đoán nguyên nhân và điều trị 
hồi phục chức năng thận ở BN suy thận tiến triển nhanh". Xin 
chân thành cảm ơn Ban giám đốc BV Chợ Rẫy, Khoa Thận, Khoa 
Thận nhân tạo, Khoa Huyết học, Khoa Sinh hóa, Khoa Siêu âm 
BVCR và các khoa liên quan. Chân thành cảm ơn các thành viên 
tham gia đề tài (BS Lê Thanh Toàn, BS Trần Hiệp Đức Thắng, BS 
Bùi Thị Ngọc Yến, BS Nguyễn Sơn Lâm, BS Dư Quốc Minh Quân). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Agraharkar M, Nair V, et al (2003). Recovery of renal function in 
dialysis patients. BMC Nephrol, 16:4-9. 
2. Chawla LS, et al (2017). Acute kidney disease and renal 
recovery: consensus report of the Acute Disease Quality 
Initiative (ADQI) 16 Workgroup. Nat Rev Nephrol, 13(4):241-257. 
3. Coplon NS, et al (1983). The long-term clinical course of 
systemic lupus erythematosus in end-stage renal disease. N Eng 
J Med, 308(4):186-90. 
4. Craven AM, et al (2007). Predictors of renal recovery in 
Australian and New Zealand end-stage renal failure patients 
treated with peritoneal dialysis. Peritoneal Dialysis International, 
27(2):184-191. 
5. Fehrman-Ekholm I, et al (2010). Recovery of Renal Function 
after One-Year of Dialysis Treatment: Case Report and Registry 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 343
Data. International Journal of Nephrology, doi: 
10.4061/2010/817836. 
6. Fujii T, et al (2014). Subacute kidney injury in hospitalized 
patients. Clin J Am Soc Nephrol, 9(3):457-461. 
7. Japanese society of Nephrology (2015). Evidence-Based Clinical 
Practice Guidelines for Rapidly Progressive 
Glomerulonephritis. 
8. Kimberly RP, et al (1981). “End-Stage” Lupus Nephritis, Clinical 
course and outcome on dialysis. Medicine, 60(4):277-287. 
9. Kimberly RP, et al (1983). Reversible "end-stage" lupus 
nephritis. Analysis of patients able to discontinue dialysis. Am J 
Med, 74(3):361-8. 
10. MacDonald JA, et al (2009). Recovery of renal function in end-
stage renal failure—comparison between peritoneal dialysis and 
haemodialysis. Nephrol Dial Transplant, 24(9):2825-2831. 
11. Schmitt R, et al (2008). Recovery of kidney function after acute 
kidney injury in the elderly: a systematic review and meta-
analysis. Am J Kidney Dis, 52(2):262-271. 
12. Sekkarie MA, et al (1990). Recovery From End-Stage Renal 
Disease. Am J Kidney Dis, 15(1):61-5. 
13. Trần Thị Bích Hương, et al (2015). Đặc điểm lâm sàng và mô 
bệnh học thận của suy thận tiến triển nhanh ở người trưởng 
thành tại Bệnh Viện Chợ Rẫy. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 
Chuyên đề Thận-Niệu, 19(4):474-482. 
14. Trần Thị Bích Hương, et al (2016). Nghiên cứu hiệu quả và tính 
an toàn của pulse methylprednisolone và cyclophosphamide 
truyền tĩnh mạch ở bệnh nhân suy thận tiến triển nhanh. Y Học 
Thành Phố Hồ Chí Minh, Chuyên đề Thận-Niệu, 20(4):179-187. 
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019