Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 155
HỘI CHỨNG TĂNG NHIỄM GIUN LƯƠN Ở BỆNH NHÂN 
SỬ DỤNG CORTICOSTEROID 
Trần Thị Huệ Vân*, Phan Anh Tuấn*, Văn Thị Thanh Thủy*, Lê Hữu Thiện Biên**, Hoàng Thị Hải Yến** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh giun lươn thường gặp ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở những bệnh nhân suy giảm 
miễn dịch, khi nhiễm giun lươn có thể gây hội chứng tăng nhiễm giun lươn và thường gây tử vong. 
Mục tiêu: Để rõ hơn về khả năng gây bệnh của giun lươn, chúng tôi trình bày 2 ca bệnh nhiễm giun lươn 
thể nặng: bệnh nhân thoái hóa khớp đã được điều trị với thuốc kháng viêm đã gây hội chứng Cushing và bệnh 
phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị cortioid có hội chứng tăng nhiễm giun lươn. 
Phương pháp: Báo cáo ca bệnh. 
Kết quả: Đây là 2 ca bệnh thể nặng của nhiễm giun lươn. Ca thứ 1: bệnh nhân nam, 54 tuổi sống tại Xuân 
Định, Xuân Lộc – Đồng Nai, làm nông bị viêm dạ dày, tăng huyết áp, thoái hóa khớp điều trị thuốc corticoid đã 
biểu hiện kiểu hình Cushing. Trước ngày nhập viện 4 ngày, bệnh nhân bị đầy hơi, chướng bụng, khó tiêu và ăn 
không ngon. Khi vào viện, siêu âm bụng: dầy thành đồng tâm các quai hồi tràng cuối manh tràng và đại tràng 
lên, thâm nhiễm mỡ kèm ít dịch chung quanh. Chẩn đoán: Viêm ruột, hội chứng Cushing do thuốc, hạ Natri máu, 
cao huyết áp. Trong quá trình điều trị, triệu chứng đường tiêu hóa như đau bụng và chướng hơi ngày càng tăng. 
Triệu chứng đường hô hấp khó thở ngày càng tăng, sau đó thở máy. Ca thứ 2: bệnh nhân nam 60 tuổi ngụ tại 
Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh bị bệnh viêm phổi tắc nghẽn mạn tính được điều trị corticosteroid. Cả 2 ca, xét 
nghiệm đàm thấy ấu trùng giun lươn. Cả 2 bệnh nhân nhập viện vì khó thở, mệt. Triệu chứng đường hô hấp khó 
thở ngày càng tăng, sau đó thở máy. Dù được điều trị, tình trạng 2 bệnh nhân diễn biến xấu và gia đình xin về. 
Kết luận: Bệnh nhân sử dụng corticoid lâu dài để điều trị bệnh mạn tính sẽ dẫn đến suy giảm miễn dịch, khi 
đã nhiễm giun lươn thường gây bệnh cảnh trầm trọng, tỉ lệ tử vong cao. Bệnh nhân nhiễm giun lươn trên cơ địa 
sử dụng corticoid lâu dài, bệnh giun lươn phát tán gây nên hội chứng tăng nhiễm giun lươn. Thầy thuốc cần tầm 
soát giun lươn khi sử dụng corticosteroid. 
Từ khóa: Giun lươn, tăng nhiễm, viêm phổi. 
ABSTRACT 
STRONGYLOIDES HYPERINFECTION SYNDROME IN CORTICOSTEROID TREATED PATIENTS 
Tran Thi Hue Van, Phan Anh Tuan, Van Thi Thanh Thuy, Le Huu Thien Bien, 
Hoang Thi Hai Yen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 155 - 161 
Background: Strongyloides stercoralis is a parasite that is prevalent in the tropical and subtropical regions of 
the world. In immunocompromised patients, Strongyloides stercoralis can cause hyperinfection syndrome and 
may become a life-threatening disease. 
Objective: To describe two cases of Strongyloides hyperinfection syndrome in order to pay attention to this 
severe disease. 
Method: Case reports with Strongyloides hyperinfection syndrome. 
Result: This is description of two cases in Viet Nam. A case of Strongyloides hyperinfection syndrome with 
the clinical manifestations includes gastrointestinal and pulmonary manifestations. Gastrointestinal 
* BM. Ký sinh - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh Viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Thị Huệ Vân ĐT: 0919103109 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 156
manifestations include jejunitis and colitis. Gastrointestinal manifestations were the first symptom, followed by 
severe pulmonary manifestations with progressive shortness of breath, dyspnea, wheezing, and pneumonitis. 
Another case of Strongyloides hyperinfection syndrome with the clinical manifestations was severe pulmonary 
manifestations. Severe pulmonary manifestations with progressive shortness of breath, dyspnea, pneumonitis. 
Both cases had respiratory failure that necessitated respiratory support. With severe pulmonary disease they 
succumbed to this disease. 
Conclusion: Corticosteroid therapy for patients with some chronic diseases can lead to them becoming 
immunocompromised. When they infected Strongyloides stercoralis may cause hyperinfection syndrome. The 
clinical features of Strongyloides hyper infection syndrome are nonspecific; therefore, suspicion is required for 
early diagnosis of Strongyloides stercoralis and to start appropriate therapy in patients at risk. 
Keywords: Strongyloides, hyperinfection, pneumonitis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh giun lươn là bệnh ký sinh trùng do 
nhiễm Strongyloides stercoralis. Trên thế giới có 
khoảng 30-100 triệu người nhiễm, phổ biến tại 
nhiều vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới(19). 
Tại Việt Nam, ở miền Bắc, một số trường 
hợp nhiễm giun lươn đã được phát hiện(8,12); tại 
miền Nam, qua phân tích số liệu bệnh nhân 
nhiễm ký sinh trùng đến khám và điều trị tại 
Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh, 
trong năm 2002 có 40 ca nhiễm giun lươn được 
phát hiện, thì trong năm 2003 có đến 80 ca, tăng 
gấp 2 lần. Con số này chứng tỏ số người nhiễm 
giun lươn ngày càng tăng(12). 
Khi ký sinh, giun lươn có thể tự nhiễm qua 
biểu mô dạ dày – ruột hoặc da chung quanh hậu 
môn(6). Gặp điều kiện thuận lợi như suy giảm 
miễn dịch, suy dinh dưỡng, tiểu đường; giun 
lươn bùng phát tấn công ký chủ gây hội chứng 
tăng nhiễm giun lươn (Strongyloides 
hyperinfection symdrome) thường gây tử vong. 
Để biết thêm về mức độ nguy hiểm của bệnh 
do giun lươn, chúng tôi báo cáo 2 trường hợp hội 
chứng tăng nhiễm giun lươn do sử dụng 
cortisteroid lâu dài. 
PHƯƠNG PHÁP 
Báo cáo ca lâm sàng. 
KẾT QUẢ 
Ca 1 
Bệnh nhân nam, ngụ tại Xuân Định, Xuân 
Lộc –Đồng Nai, 54 tuổi, làm nông. Nhập bệnh 
viện Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh lúc 1g 40 
ngày 26/7/2016. 
Tiền sử 
Bệnh nhân bị viêm dạ dày, cao huyết áp, 
thoái hóa khớp điều trị thuốc không rõ loại. 
Bệnh sử 
Cách ngày nhập viện 4 ngày, bệnh nhân bị 
đầy hơi, chướng bụng, khó tiêu và ăn không 
ngon, khó thở, mệt nên nhập viện. 
Sinh hiệu: mạch: 91lần/phút, HA: 140/80 
mmHg, nhịp thở: 20 lần/phút, nhiệt độ: 37oC. 
Khám tổng quát 
Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, tổng trạng khá, 
da niêm hồng. Tim đều, phổi trong, bụng mềm, 
chướng nhẹ, ấn đau nhẹ vùng thượng vị, cổ 
mềm, kiểu hình Cushing. X quang ngực: bình 
thường. Siêu âm bụng: dầy thành đồng tâm các 
quai hồi tràng cuối manh tràng và đại tràng lên, 
thâm nhiễm mỡ kèm ít dịch chung quanh, dịch 
màng phổi (T) lượng ít. CT Scan bụng chậu: 
Nghi viêm hồi tràng, manh tràng và đại tràng, 
sỏi thận (T). CT sọ não: không thấy bất thường 
đậm độ nhu mô não. Xét nghiệm ion đồ máu: 
Na+: 119mg/dl. 
Nhập khoa Tiêu hóa với chẩn đoán: Viêm 
ruột, hội chứng Cushing do thuốc, hạ Natri máu, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 157
cao huyết áp, thoái hóa đa khớp. Điều trị: truyền 
NaCl, Rabeloc, Buscopan, Ciprobay, 
Enterogermina, Agitritine. 
Ngày 2 
Bệnh nhân ho, bụng chướng hơi, buồn nôn, 
khó thở thở co kéo nhẹ cơ hô hấp, phổi: âm phế 
bào giảm, ran ngáy 2 bên. X quang phổi: không 
có tổn thương tiến triển nhu mô phổi. Bụng 
mềm, chướng hơi nhẹ, ấn đau nhẹ không đề 
kháng. Điều trị: truyền NaCl, thở oxy 3lần/phút, 
Ciprobay, Enterogermina, Agitritine, Prazopro, 
Amlor, Medrol. 
Ngày 3 
Bệnh nhân khó thở, khò khè, phổi ran nổ. 
Xét nghiệm máu: CRP, bạch cầu, procalcitonin 
tăng cao. Bệnh nhân được chẩn đoán: Viêm 
phổi, viêm dạ dày và đại tràng, tăng huyết áp 
vô căn, thoái hóa đa khớp, hội chứng Cushing 
do thuốc. Điều trị: thở oxy 4 lần/phút, truyền 
dịch, Levofloxacin, Medrol, Esomeprazol, 
Pentasa SR, Amlodipin, Bacillus. Vài giờ sau 
bệnh nhân than đau quặn bụng nhiều quanh 
rốn, buồn nôn. Khám bụng mềm, ấn đau 
quanh rốn. Điều trị: Buscopan. Xét nghiệm 
phân: soi trực tiếp: HC (-), giun lươn: (+++). 
Bệnh nhân vẫn khó thở, thở khò khè, phổi: ran 
rít 2 bên. X quang ngực: vài dải xơ 2 đỉnh phổi. 
Chẩn đoán: Viêm dạ dày và đại tràng, nhiễm 
giun lươn đường ruột, đợt cấp CODP, hội 
chứng Cushing do thuốc, hạ Na+máu, tăng 
huyết áp vô căn. Điều trị: truyền 
Aminoplasmal và NaCl, Tienam via, 
Levofloxacin, Secnidazol, Esomeprazol, 
Trimebutin, Enterpass, Amlodipin, 
Methylprednisolon, Hydrocortison, 
Theophyllin, Mesalazin, Ivermectin, 
Enterogermina, Combivent. 
Ngày 4 
Bệnh nhân khó thở tăng dần, thở nhanh, 
nông; 26 - 28l/p. Phổi: âm phế bào giảm. Xét 
nghiệm ion đồ máu Na+:115mg/dl, CRP: 
124,67mg/l (bình thường <5mg/l). CTM: BC: 
24.000, Neu: 94,3%, L: 1,93; M:2,64, Eo: 1,05, Baso: 
0,132. CT Scan ngực: thâm nhiễm dạng nốt, lưới 
lan tỏa 2 phổi, tạo hang thùy trên phổi (P) và 
mảng đông đặc mặt sau đáy phổi 2 bên, không 
thấy hình ảnh thuyên tắc phổi. Chẩn đoán: suy 
hô hấp type 1, theo dõi đợt cấp COPD nặng: 
chuyển đến khoa Hô hấp. 
Tại khoa Hô hấp, bệnh nhân ho, khó thở 
ngày càng tăng. Chẩn đoán: Suy hô hấp, giảm 
oxy máu, viêm phổi nặng, COPD, viêm dạ dày 
ruột, nhiễm giun lươn, Cushing do thuốc, hạ 
Na+ máu, tăng huyết áp, viêm đa khớp, gây 
mê đặt nội khí quản, chuyển qua Khoa hồi sức 
tích cực. Điều trị: thở máy VAIC, truyền dịch, 
Tienam, Levofloxacin, Rabeloc, Sulumedrol, 
Midazolam, Fentanyl. 
Ngày 5 
Điều trị tại Khoa hồi sức bệnh nhân vẫn 
khó thở, ECG: nhịp nhanh xoang. Mạch: 
146l/p, HA: 96/66 mmHg, SpO2 88%. Điều trị 
Cordaron. X quang phổi: hình ảnh hạt kê rải 
rác 2 phế trường. Cho tìm BK đàm và dịch phế 
quản. Chẩn đoán: Viêm phổi bệnh viện, theo 
dõi lao kê, ARDS, Cushing do thuốc, viêm đa 
khớp, hạ Na+ máu mạn, tăng huyết áp, nhiễm 
giun lươn. Điều trị: tạm chưa dùng corticoid vì 
chưa loại được lao bùng phát. Truyền dịch, 
thở máy, Tienam, Levofloxacin, Rabeloc, 
Midazolam, Fentanyl, Zentel. 
Đường máu mao mạch: 349mg%. Điều trị: 
Humulin 10đv TDD. 
Kết quả xét nghiệm: AFB đàm (-), AFB dịch 
các chất (-). 
Ngày 6 
Bệnh nhân vẫn khó thở, thở co kéo cơ hô hấp 
phụ, bệnh nhân mê, mạch nhanh 135 lần/phút, 
tụt huyết áp (90/50 mmHg), SpO2: 96%. Xuất 
hiện tràn khí dưới da (T). X quang ngực: thâm 
nhiễm kèm đông đặc nhu mô khắp 2 phổi, tràn 
khí mô mềm thành ngực (T). Dịch hút phế quản 
và dịch dạ dày soi tươi thấy ấu trùng giun lươn. 
Chẩn đoán: Sốc nhiễm trùng/viêm phổi 
ARDS, tràn khí dưới da trung thất, Cushing 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 158
do thuốc, viêm dạ dày, hạ Na+máu mạn, 
nhiễm giun lươn. 
Điều trị: truyền dịch, thở máy, Vnanym, 
Colistin, Midazolam, Fentanyl, Targocid, 
Levomox, Hydrocortisome, Combivent, Zentel. 
Ngày 7 
Bệnh nhân tràn khí dưới da vùng bụng. Xét 
nghiệm đàm bằng phương pháp nhuộm gram: 
không tìm thấy vi khuẩn, có nấm hạt men. Cấy 
đàm: Candida non albicans. Quyết định điều trị 
nấm bằng Cancidas. Sau đó bệnh nhân mê, tràn 
khí dưới da vùng cổ, ngực lan bên hông, tụt 
huyết áp (100/50 mmHg), đặt CVC, truyền máu. 
Diễn tiến bệnh xấu, người nhà bệnh nhân xin về. 
Ca 2 
Bệnh nhân nam, ngụ tại Quận 8 Tp. Hồ Chí 
Minh, 60 tuổi. Nhập bệnh viện Đại Học Y Dược 
Tp. Hồ Chí Minh lúc 19g36 ngày 16/7/2017. 
Tiền sử 
Bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn 
tính, có sử dụng corticosteroid, 2 lần nhập 
viện gần đây vào tháng 1/2017 và tháng 4/2017 
do khó thở. 
Bệnh sử 
Bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện 
Nguyễn Tri Phương, với chẩn đoán suy hô hấp, 
viêm phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, đau 
bụng cấp chưa loại trừ viêm túi mật. Bệnh nhân 
khó thở nên chuyển đến Bệnh viện Đại học Y 
DượcTp. Hồ Chí Minh. 
Khám tổng quát 
Sinh hiệu: mạch120 lần/phút, HA: 80/50 
mmHg, nhịp thở: 22 lần/phút, nhiệt độ: 37oC. 
Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc chậm, thở mệt. Tim 
đều, nhanh, phổi có ran nổ 2 bên, bụng mềm, 
gan lách không sờ chạm. 
X quang ngực: tổn thương phế nang và mô 
kẻ rải rác 2 phổi (phải> trái). 
Siêu âm bụng: thận trái ứ nước độ 2, dạ dày 
chứa đầy dịch và cặn lắng chia thành lớp 
Đường huyết mao mạch 180mg/dl. 
Bệnh nhân nhập khoa Hồi sức cấp cứu với 
chẩn đoán suy hô hấp, viêm phổi, bệnh phổi tắc 
nghẽn mạn tính, đau bụng cấp chưa loại trừ 
viêm túi mật. 
Ngày 1 
X quang phổi có tổn thương dạng nốt lưới 
tại ½ dưới phổi (P). Soi đàm có ấu trùng giun 
lươn. Ngưng Solumedrol, uống Ivermectin 
3mg x 3viên. 
Ngày 2 
Bệnh nhân mê. X quang phổi có tổn thương 
mô kẻ 1/3 dưới phổi (P) và đáy phổi (T). 
Xét nghiệm đàm: AFB âm tính. 
Huyết thanh chẩn đoán ký sinh trùng: 
Strongyloides stercoralis âm tính. 
Xét nghiệm miễn dịch Dengue IgM âm tính. 
Điều trị: Thở máy, truyền NaCl 0,9% truyền 
tĩnh mạch. 
Thuốc sử dụng: Meropenem, Levofloxacine, 
Teicoplanin, Midazolam, Rocuronium, 
Esomeprazol, Methyprednisolon, Acetylcystein, 
Combivent, Budesonid 
Ngày 3 
CTM: Eo 0,2%, Soi đàm: AFB (-), cấy đàm: 
Acinetobacter baumannii đa kháng nhạy 
Colistin và Cefoperazol. 
Điều trị: Thở máy, truyền NaCl 0,9%, 
Glucose 5% truyền tĩnh mạch. 
Thuốc: Tiecoplanin, Colistin Midazolam, 
Noradrenalin Rocuronium, Terlipressin, 
Hydrocortison, Esomeprazol, Xonesul. 
Ngày 4 
Mạch 95 lần/phút, HA 110/60 mmHg, Nhịp 
thở 25 lần/phút, Nhiệt độ 37oC. 
Kết quả cấy đàm ngày 4: Candida albicans 
nhạy Amphotericin B và Caspofungin. 
Bệnh nhân hôn mê sâu, kích thích đau không 
đáp ứng, nhắm mắt, đang đặt nội khí quản, mắc 
monitor theo dõi liên tục. Phổi giảm thông khí 2 
phế trường. Bụng mền, gan lách không sờ chạm, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 159
chấm xuất huyết rải rác thân mình, tay chân. 
Tiếp tục điều trị: thở máy, truyền NaCl 0,9%, 
Lactate Ringer, Glucose 20%. 
Thuốc Colistin, Hydrocortison, Esomeprazol, 
Noradrenalin, Budesonid. 
Suốt 3 ngày điều trị, tình trạng bệnh nhân 
không cải thiện, người nhà xin về ngày thứ 6. 
BÀN LUẬN 
Mặc dù giun lươn gây ảnh hưởng sức khỏe 
và có thể gây tử vong nhưng thường bị lãng 
quên và ít biết vì bệnh hiếm gặp. Theo thống kê 
của Chen D và cs trong y văn, từ năm 1973 -2013 
chỉ có 87 bệnh nhân tăng nhiễm giun lươn(4). 
Về phơi nhiễm giun lươn, trong 2 ca bệnh 
chúng tôi trình bày, bệnh nhân là nông dân, làm 
vườn phù hợp với báo cáo của Chen D(4). Nghề 
này thường xuyên tiếp xúc với đất, là yếu tố 
thuận lợi cho ấu trùng giun lươn xâm nhập vào 
người qua da. 
Bệnh nhân này, thoái hóa khớp đã được điều 
trị bằng thuốc giảm đau lâu dài có các dấu hiệu 
của kiểu hình Cushing và bệnh nhân viêm phổi 
tắc nghẽn mạn tính được điều trị bằng 
corticosteroid. Các báo cáo của các tác giả nứớc 
ngoài cũng cho biết các bệnh nhân bị hội chứng 
tăng nhiễm giun lươn đa số có dùng thuốc 
corticosteroid để điều trị các bệnh như đau 
khớp(2), hen phế quản(7), viêm động mạch(16), 
viêm tụy tự miễn(7), viêm cầu thận(15), CODP(11)... 
Ở người khỏe mạnh, khi nhiễm giun lươn hệ 
miễn dịch của cơ thể sản xuất kháng thể IgE, 
kháng thể này sẽ gắn lên bề mặt ấu trùng giun 
lươn tạo phức hợp kháng nguyên – kháng thể 
thu hút bạch cầu ái toan đến gắn lên phức hợp 
này và tiết MBP (major basis protein) để giết ấu 
trùng. Khi sử dụng corticosteroid, thuốc sẽ ức 
chế hệ miễn dịch bằng cách ngăn chặn sự tăng 
sinh và giảm chức nǎng của lympho T, B; cơ thể 
không còn sản xuất IgE. Ngoài ra, corticosteroid 
làm thời gian hoạt động của cơ quan sinh dục 
của giun lươn cái kéo dài, đẩy nhanh quá trình 
chuyển từ ấu trùng ụ phình sang ấu trùng hình 
ống gây nhiễm do đó ấu trùng giun lươn bùng 
phát và gây bệnh(9). 
Các tác giả Altintop L, Nutman TB cũng 
nhận định dùng corticosteroid và nhiễm HTLV-1 
(Human T-lymphotropic virus Type 1), là 2 
nguyên nhân gây tăng nhiễm giun lươn(2,13). 
Về biểu hiện lâm sàng, bệnh nhân thứ nhất 
khởi đầu là các triệu chứng ở đường tiêu hóa: 
đầy hơi, chướng bụng, khó tiêu; sau đó là triệu 
chứng ở phổi với khó thở, thở khò khè. Bệnh 
nhân thứ 2 triệu chứng chủ yếu là khó thở. 
Các triệu chứng này giống như triệu chứng do 
các nguyên nhân khác. Như vậy, các triệu 
chứng do hội chứng tăng nhiễm giun lươn 
không đặc hiệu, phù hợp với nghiên cứu của 
Mona và cs(11). Theo y văn, các bệnh nhân bị 
hội chứng tăng nhiễm giun lươn, giun lươn có 
thể gây bệnh ở cả phổi và đường tiêu hóa(1,11,18); 
đôi khi chỉ gây bệnh ở phổi (11), hoặc chỉ ở gây 
bệnh ở đường tiêu hóa(2,12,16). 
Cả 2 bệnh nhân này, qua quá trình điều trị 
tại bệnh viện, viêm phổi tiến triển nhanh và trầm 
trọng với triệu chứng khó thở ngày càng tăng, 
diễn tiến tổn thương phổi nhanh, chỉ sau vài 
ngày từ X quang phổi bình thường ở bệnh nhân 
thứ nhất chuyển sang thâm nhiễm và đông đặc, 
ở bệnh nhân thứ 2 từ tổn thương ở phổi dạng 
nốt chuyển sang tổn thương mô kẻ. Phải chăng 
sau vài ngày bệnh nhân sử dụng medrol đã làm 
ấu trùng giun lươn bùng phát. Các báo cáo của 
Chen D, Sidhartha AA cũng cho thấy hội chứng 
tăng nhiễm giun lươn xảy ra chỉ sau vài ngày 
bệnh nhân được điều trị bằng corticosteroid(4,17) 
có khi vài tuần(1, 11). Các báo cáo cho biết các bệnh 
nhân có hội chứng tăng nhiễm giun lươn đa số 
tử vong(1,4,11,15) vì giun lươn tiết men 
strongylastacin phá hủy mô nơi giun lươn ký 
sinh. Như vậy, thầy thuốc cần tầm soát giun 
lươn để phòng ngừa hội chứng tăng nhiễm giun 
lươn trong những bệnh nhân phải dùng liệu 
pháp corticosteroid. Vì triệu chứng của bệnh 
nhân trong hội chứng tăng nhiễm giun lươn 
giống như các bệnh khác(11), Trong điều trị bệnh, 
khi không thấy đáp ứng với kháng sinh, cần sớm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 160
tìm nguyên nhân, có thể do giun lươn để điều trị 
thích hợp. 
Về vấn đề bội nhiễm, ở cả 2 bệnh nhân này, 
ngoài nhiễm giun lươn còn bội nhiễm Candida sp. 
Sự bội nhiễm các mầm bệnh càng làm bệnh trầm 
trọng hơn. Các báo cáo cho thấy bội nhiễm các 
mầm bệnh như vi khuẩn(11,15); vi nấm như 
Aspergillus sp(7), Pneumocystis jiroveci (8). Ở người 
khỏe mạnh, khi mầm bệnh xâm nhập cơ thể bị 
đại thực bào nuốt. Trong trường hợp sử dụng 
corticosteroid, thuốc làm giảm hoạt động của đại 
thực bào, hiệu quả thực bào của tế bào này kém. 
Ngoài ra, đại thực bào không còn sản xuất bổ thể 
để chống mầm bệnh. Do đó các mầm bệnh phát 
triển gây bội nhiễm(9). 
Về tăng bạch cầu ái toan, các bệnh nhân 
của chúng tôi không tăng bạch cầu ái toan. 
Điều này phù hợp với các báo cáo trên thế 
giới(4,11,17). Một nghiên cứu của Geri và cs, 
trong 127 bệnh nhân có hội chứng tăng nhiễm 
giun lươn do sử dụng corticosteroid có 65,7% 
không tăng bạch cầu ái toan(6). Corticosteroid 
làm suy giảm hệ thống miễn dịch, lympho T 
không còn tiết các cytokin (IL5) để kích hoạt 
tủy xương tăng sinh bạch cầu ái toan nữa(9). 
Đây cũng là vấn đề mà chúng ta cần lưu ý để 
tầm soát giun lươn trong những bệnh nhân 
này dù không có tăng bạch cầu ái toan. 
Trong 2 bệnh nhân, có 1 bệnh nhân được xét 
nghiệm ELISA nhưng kết quả âm tính. Nghiên 
cứu của Osiro cũng tương tự(14). Điều này có thể 
do bệnh nhân suy giảm miễn dịch khi nhiễm 
giun lươn tạo kháng thể ít, chưa đủ ngưỡng để 
xét nghiệm phát hiện bệnh. 
Xét nghiệm đàm cả 2 bệnh nhân đều có ấu 
trùng giun lươn, phù hợp với các báo cáo của các 
tác giả khác(1,12,15,17,18). Một điều đáng lưu ý, theo 
báo cáo của Rodriguez EA và cs, bệnh nhân có 
tiền sử bị viêm động mạch được điều trị bằng 
corticosteroid than đau bụng, soi phân không có 
Giardia, giun lươn; chẩn đoán huyết thanh giun 
lươn âm tính; CT Scan bụng quai ruột căng 
phồng không tắc. Nội soi đường tiêu hóa trên 
thấy viêm tá tràng, soi dịch thấy giun và trứng 
giun lươn(16). 
Về điều trị, các bệnh nhân này Ivermectin 
được dùng trong 1 ngày, sau đó là albendazol. 
Theo các báo cáo, trong những bệnh nhân có hội 
chứng tăng nhiễm giun lươn chỉ gây bệnh ở 
đường tiêu hóa, việc chẩn sớm và điều trị đúng 
thuốc đặc trị sẽ giúp cải thiện tình trạng bệnh lý 
và giảm nguy cơ tử vong(2,12). 
Theo y văn, Ivermectin là thuốc được lựa 
chọn đầu tiên. Các nghiên cứu cho thấy hiệu quả 
của Ivermectin so với thiabendazole là như nhau 
nhưng thiabendazol gây tác dụng phụ nhiều, 
albendazol là thuốc lựa chọn thứ yếu hoặc chỉ 
định điều trị phối hợp trong những ngày nghỉ 
thuốc Ivermectin(3,16). 
Để điều trị hội chứng tăng nhiễm giun lươn, 
nếu có thể nên ngưng hoặc giảm thuốc 
corticosteroid. Ivermectin 200 µg/kg uống mỗi 
ngày hoặc Thiabendazole 20mg/kg/lần x 2 
lần/ngày cho đến khi phân, đàm âm tính 
(khoảng 2 tuần). Đôi khi Ivermectin được chích 
dưới da trong trường hợp bệnh nhân hôn mê 
hay liệt ruột(11). 
KẾT LUẬN 
Hội chứng tăng nhiễm giun lươn thường 
gặp ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, 
sử dụng corticosteroid lâu dài gây bệnh cảnh 
trầm trọng, tỉ lệ tử vong cao. Triệu chứng của 
bệnh không đặc hiệu, trước khi sử dụng 
corticosteroid cho bệnh nhân thầy thuốc cần 
tầm soát giun lươn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Al Maslamani MA, et al (2009). Strongyloides stercoralis 
hyperinfection after corticosteroid therapy: A report of two 
cases. Ann Saudi Med, 29(5): 397–401. 
2. Altintop L, et al (2010). Strongyloides stercoralis hyperinfection in 
a patient with rheumatoid arthritis and bronchial asthma: a 
case report. Ann Clin Microbiol Antimicrob,9, 27. 
3. Buonfrate D, Gobbi F (2016).Treatment for chronic Strongyloides 
stercoralis infection: moderate-to-low evidence shows that 
ivermectin is more effective and tolerable than albendazole and 
thiabendazole, respectively.Evid Based Med,21(3),102. 
4. Chen D, Tan H, Pan P, Niu R, Hu C (2014). Review of 2 cases of 
severe infection with pulmonary Strongyloides stercoralis. Zhong 
Nan Da Xue Xue Bao Yi Xue Ban, 39(4): 428-32. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 161
5. Feely NM, et al (2010). Strongyloides stercoralis hyperinfection: 
difficulties in diagnosis and treatment. Anaesthesia, 65(3): 298-
301. 
6. Geri G, Rabbat A, Mayaux J (2015). Strongyloides stercoralis 
hyperinfection syndrome: a case series and a review of the 
literature. Infection, 43(6): 691-698. 
7. Guo J, Sun Y, Man Y, et al (2015). Coinfection of Strongyloides 
stercoralis and Aspergillus found in bronchoalveolar lavage fluid 
from a patient with stubborn pulmonary symptoms. J. Thorac 
Dis, 7(3): 43-46. 
8. Huỳnh Hồng Quang, Hồ Văn Hoàng (2012). Hội chứng tăng 
nhiễm với ấu trùng giun lươn điển hình: báo cáo ca bệnh và 
tổng hợp y văn. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 16 (3): 193- 
198. 
9. Jill EW, Mejia R (2014). Immune Response to Infection with 
Strongyloides stercoralis in Patients with Infection and 
Hyperinfection. Current Tropical Medicine Reports, 1(4): 229-233. 
10. Luvira V, Trakulhun K, Mungthin M (2016). Comparative 
Diagnosis of Strongyloidiasis in Immunocompromised 
Patients. Am J Trop Med Hyg, 95(2): 401-404. 
11. Moura EB, Maia MO, Ghazi M, et al (2012). Salvage treatment 
of disseminated strongyloidiasis in an immunocompromised 
patient: Therapy success with subcutaneous ivermectin. Braz J 
Infect Dis, 16(5): 479–481. 
12. Nguyễn Thu Hương, Nguyễn Thị Nhật Lệ (2013). Báo cáo ca 
bệnh tăng nhiễm giun lươn điều trị khỏi bằng Thiabendazole 
đường uống. Y học thực hành, (879): 75-77. 
13. Nutman TB (2017). Human infection with Strongyloides 
stercoralis and other related Strongyloides species. Parasitology, 
144(3): 263-273. 
14. Osiro S, Hamula C, Glaser A, Rana M, Dunn D (2017). A case 
of Strongyloides hyperinfection syndrome in the setting of 
persistent eosinophilia but negative serology. Diagn Microbiol 
Infect Dis, 88(2): 168-170. 
15. Pochineni V, et al (2015). Fatal Strongyloides Hyperinfection 
Syndrome in an Immunocompromised Patient. Am J Case Rep, 
16: 603–605. 
16. Rodriguez EA, Abraham T, Williams FK (2015). Severe 
strongyloidiasis with negative serology after corticosteroid 
treatment. Am J. Case Rep, 16: 95-98. 
17. Sidhartha JM, Mohan BM, Penchalaiah M, Reddy LVPK. 
(2015). Strongyloidiasis after corticosteroid therapy: A case 
report. Int J Case Rep Images, 6(1): 21–24. 
18. Trần Thị Huệ Vân, Phan Anh Tuấn, Lê Hữu Thiện Biên, 
Huỳnh Hồng Quang, Nguyễn Xuân Thiện (2017). Báo cáo 
trường hợp hội chứng tăng nhiễm giun Strongyloides stecoralis 
trên bệnh nhân có hội chứng Cushing do thuốc. Tạp chí Phòng 
chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 96: 254-259. 
19. World Health Organization (2017). Strongyloidiasis. World 
Health Organization, Geneva, Switzerland. Available from: 
hptt// www.WHO.int/intestinal-worm /strongyloidiasis/en. 
Ngày nhận bài báo: 11/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 13/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 
 15/03/2018