Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 1
HOẠT ĐỘNG CÂN BẰNG CALCI TRONG CƠ THỂ 
VÀ CÁC Ý NGHĨA TRÊN LÂM SÀNG 
Lê Quốc Tuấn*, Đặng Huỳnh Anh Thư*, Nguyễn Thị Lệ** 
MỞ ĐẦU 
Trong huyết tương, calci chỉ tồn tại dưới 
hình thức vô cơ: khoảng 40% gắn với albumin; 
15% kết hợp với citrate, sulfate, hoặc phosphate; 
và 45% còn lại ở dạng ion Ca++ tự do. Các 
phương pháp đo lường trong phòng thí nghiệm 
có thể phân biệt được 2 dạng calci tự do và kết 
hợp. Ở hầu hết các trường hợp, nồng độ calci 
toàn bộ luôn thay đổi song hành với nồng độ ion 
calci tự do. Tuy nhiên, điều này sẽ không còn 
đúng trên những bệnh nhân có tình trạng giảm 
albumin máu, rối loạn thăng bằng kiềm toan, 
hoặc bệnh thận mạn tính. Trên toàn bộ cơ thể, 
tuy chỉ có một lượng nhỏ ion calci tồn tại trong 
huyết tương, nhưng nồng độ của nó lại được 
điều hòa chặt chẽ bởi các hormon, đặc biệt là 
PTH (parathyroid hormone), calcitonin, và 
calcitriol (1,25-dihydroxycholecalciferol). Các 
hormon này liên quan mật thiết đến hoạt động 
của 3 cơ quan: đường tiêu hóa, xương, và thận(1). 
HOẠT ĐỘNG CÂN BẰNG CALCI 
TRONG CƠ THỂ 
Hoạt động cân bằng calci tại đường tiêu 
hóa 
Calci trong thức ăn được hấp thu tại ruột non 
theo 2 cơ chế: cơ chế chủ động xuyên qua màng 
tế bào biểu mô nhờ các kênh TRPV6 (transient 
receptor potential vanilloid) tại tá tràng và đoạn 
đầu hỗng tràng; cơ chế thụ động nhờ các phân tử 
claudin-2 nằm tại khoảng kẽ giữa 2 tế bào liền kề 
trên suốt chiều dài ruột non(1). Theo cơ chế chủ 
động, khi vào bên trong tế bào, ion Ca++ sẽ được 
các protein calbindin-D9k đưa về phía màng đáy 
bên, và hấp thu lại vào máu tuần hoàn nhờ hoạt 
động của 2 bơm: NCX1 (Na+/Ca++ exchanger) và 
PMCA1b (plasma membrane Ca++-ATPase 1b). 
Các chất điện giải Na+, K+, và Cl- trong thức ăn 
được hấp thu hoàn toàn tại đường tiêu hóa. 
Trong khi đó, sự hấp thu calci và phosphate chỉ 
được thực hiện một phần do phụ thuộc vào hoạt 
động của hormon calcitriol (vitamin D3). Ngoài 
ra, calci còn có thể kết hợp với một số anion 
trong lòng ruột non (như phosphate, oxalate) tạo 
thành các muối không tan, nên không được hấp 
thu. Một người lớn bình thường có thể tiêu thụ 
1000 mg calci mỗi ngày từ thức ăn, nhưng chỉ 
khoảng 400-500 mg được hấp thu, trong đó có 
300 mg bị mất trở lại qua quá trình bài tiết dịch 
tiêu hóa. Như vậy, trong 1000 mg calci đưa vào, 
cơ thể chỉ thật sự hấp thu được một lượng ít, 
khoảng 100-200 mg. Tuy nhiên, ở trạng thái ổn 
định, lượng calci này sẽ được bài tiết hoàn toàn 
ra nước tiểu. 
Hoạt động cân bằng calci tại xương: chu 
chuyển xương 
Hầu hết lượng calci cũng như phosphate 
trong cơ thể đều được dự trữ tại xương dưới 2 
dạng: tinh thể hydroxyapatite (dạng chủ yếu) 
với công thức (Ca10[PO4]6[OH]2), và một lượng ít 
các thể vô định hình nằm trong vùng đang tạo 
xương. Do đó, xương có vai trò là một cơ quan 
đệm, làm ổn định nồng độ calci và phosphate 
trong huyết tương. Quá trình đệm này phụ 
thuộc vào hoạt động của các tạo cốt bào và các 
hủy cốt bào, dưới tác dụng điều hòa từ các 
hormon PTH, calcitriol, và calcitonin(7). Bên cạnh 
các tinh thể vô cơ hydroxyapatite, xương còn 
được cấu tạo bởi thành phần thứ hai rất quan 
trọng, chính là các phân tử collagen típ 1 trong 
chất nền gian bào, một “sản phẩm” sinh ra từ các 
tạo cốt bào. 
Quá trình huy động calci và phosphat từ 
xương, hay sự hủy xương, là quá trình mà các 
* Bộ môn Sinh lý học, Đại Học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS. Lê Quốc Tuấn ĐT: 01696929792 Email: 
[email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 2
hủy cốt bào phá vỡ mô xương và chuyển các 
khoáng chất vào máu. Huỷ cốt bào là những tế 
bào đa nhân chứa nhiều ty thể và lysosome, hiện 
diện trên lớp ngoài của xương, ngay bên dưới 
cốt mạc. Các hủy cốt bào tiết ra nhiều loại 
enzyme khác nhau, trong đó quan trọng nhất là 
collagenase, dẫn đến sự phóng thích các ion Ca++, 
Mg++, và phosphate vào dịch ngoại bào. Quá 
trình hủy xương cũ bởi các hủy cốt bào luôn diễn 
ra đan xen với quá trình tạo xương mới bởi các 
tạo cốt bào, giúp duy trì sức bền của xương, cũng 
như thăng bằng calci và phosphate huyết 
tương(4). Trong thời kỳ phát triển, sự tạo xương 
ưu thế hơn sự hủy xương; nhưng ở người lớn 
tuổi, cân bằng sẽ diễn ra theo chiều ngược lại. 
Hoạt động cân bằng calci tại thận 
Tại các đơn vị nephron, chỉ có dạng ion 
Ca++ tự do (không gắn với protein) mới được 
lọc qua cầu thận. Khi đi xuống hệ thống ống 
thận, 97-99% ion Ca++ sẽ được tái hấp thu trở 
lại, trong đó khoảng 70% được vận chuyển kết 
hợp với ion Na+ tại ống lượn gần. Đoạn cành 
dày của quai Henle sẽ tiếp tục tái hấp thu 20% 
ion Ca++ trong dịch lọc nhờ các phân tử 
claudin-16 nằm tại khoảng kẽ giữa 2 tế bào 
liền kề(3). Động lực cho sự vận chuyển thụ 
động ion Ca++ tại quai Henle chính là dòng vận 
chuyển theo chiều ngược lại của các ion K+ 
mang điện dương. Phần ion Ca++ còn lại trong 
dịch lọc (10-15%) sẽ được tái hấp thu tại ống 
lượn xa và ống góp qua sự vận chuyển chủ 
động bởi các kênh TRPV5 (transient receptor 
potential vanilloid 5) nằm trên màng đỉnh của 
tế bào biểu mô(2). Đây là cơ chế đóng vai trò 
trung tâm trong điều hòa cân bằng calci cho 
toàn cơ thể. Tương tự như tại ruột non, khi 
vào bên trong tế bào, ion Ca++ sẽ gắn lên các 
protein calbindin-D9k và calbindin-D28k. Các 
protein này có vai trò đưa ion Ca++ về màng 
đáy bên, và hấp thu lại vào máu nhờ 2 bơm: 
NCX1 (Na+/Ca++ exchanger) và PMCA1b 
(plasma membrane Ca++-ATPase 1b). 
ĐIỀU HÒA NỒNG ĐỘ CALCI TRONG 
HUYẾT TƯƠNG 
Nồng độ calci huyết tương được điều hòa 
bởi nhiều hormon, bao gồm: PTH (parathyroid 
hormone), vitamin D, FGF-23 (fibroblast growth 
factor 23), calcitonin, và estrogen. 
Vai trò của hormon PTH (parathyroid 
hormone) 
PTH là một polypeptide được tiết ra bởi 
các tuyến cận giáp, đáp ứng với tình trạng 
giảm nồng độ ion Ca++ trong huyết tương. Có 4 
tuyến cận giáp trong cơ thể, nằm ngay sau 
tuyến giáp: hai tuyến ở cực trên và hai tuyến ở 
cực dưới tuyến giáp. Mỗi tuyến dài 6 mm, 
rộng 3 mm, dày 2 mm. Đầu tiên, PTH được 
tổng hợp tại các ribosome ở dạng 
preprohormon, là một protein có 110 acid 
amin. Sau đó, preprohormon được cắt ra 
thành prohormon có 90 acid amin, rồi được bộ 
máy Golgi chuyển hóa tiếp thành hormon 
chính thức có 84 acid amin với trọng lượng 
phân tử 9500 dalton(7). 
Hormon PTH có vai trò làm tăng nồng độ 
calci huyết tương bằng 3 hoạt động chính. Thứ 
nhất là huy động calci tại xương từ nguồn dự trữ 
calci có sẵn trong xương, hoặc làm tăng số lượng 
và hoạt động của các hủy cốt bào. Thứ hai là hoạt 
hóa các kênh vận chuyển calci TRPV5 tại thận. 
Hormon PTH kích hoạt enzyme adenylyl 
cyclase, làm tăng tạo cAMP, kéo theo phản ứng 
phosphoryl hóa PKA (protein kinase A), dẫn đến 
hoạt hóa các kênh vận chuyển calci TRPV5, trực 
tiếp làm tăng quá trình tái hấp thu calci tại ống 
thận, chủ yếu là ở ống lượn xa và ống góp. Thứ 
ba là kích thích sự hình thành calcitriol tại thận, 
do đó gián tiếp làm tăng biểu hiện các protein 
tham gia vận chuyển calci tại tế bào biểu mô của 
ruột non và ống thận. Như vậy, hoạt động của 
PTH và calcitriol hổ trợ cho nhau trong quá trình 
tái hấp thu calci tại thận(7). 
Tại xương, PTH tạo ra 2 hiệu ứng khác nhau 
tùy vào mô hình bài tiết của tuyến cận giáp. Khi 
được phóng thích ngắt quãng thành từng nhịp, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 3
PTH sẽ có tác dụng đồng hóa trên khối lượng 
xương, nghĩa là thúc đẩy quá trình tạo xương, 
bằng cách kích thích sự tăng sinh của các tạo cốt 
bào. Chính vì vậy, liệu pháp tiêm PTH ngắt 
quãng đã được xem như một chiến lược hiệu 
quả trong điều trị loãng xương. Ngược lại, khi 
được phóng thích theo kiểu liên tục, PTH sẽ gây 
tác dụng dị hóa trên khối lượng xương, nghĩa là 
làm tăng hoạt động hủy xương, thông qua sự 
tương tác giữa tạo cốt bào và hủy cốt bào. Sau 
khi gắn lên thụ thể trên các tạo cốt bào, PTH sẽ 
làm tăng biểu hiện protein RANKL (RANK-
Ligand), đồng thời ức chế protein OPG 
(osteoprotegerin). Protein RANKL có vai trò kích 
hoạt sự biệt hóa và trưởng thành của các hủy cốt 
bào bằng cách tác động lên các thụ thể RANK 
(Receptor Activator of Nuclear factor Kappa B). 
Trong khi đó, protein OPG lại hoạt động như 
một “thụ thể bẫy” cho RANKL, làm cản trở sự 
tác động của RANKL lên hủy cốt bào(4). Như 
vậy, khi OPG bị ức chế bởi sự bài tiết liên tục 
PTH, sự tương tác RANKL-RANK sẽ diễn ra 
thuận lợi, và thúc đẩy sự tăng sinh của các hủy 
cốt bào. 
Vai trò của hormon calcitriol (Vitamin D3) 
Vitamin D3 (cholecalciferol) là một hormon 
steroid tan trong lipid, có thể được tổng hợp tại 
da từ 7-dehydrocholesterol dưới tác động của tia 
cực tím trong ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, ở 
con người, vitamin D được cung cấp chủ yếu 
qua thức ăn ở dạng D2 (ergocalciferol). Tại gan, 
vitamin D tiếp tục trải qua phản ứng hydroxyl 
hóa với sự xúc tác của enzyme 25-hydroxylase 
(CYP27A1 hoặc CYP2R1), dẫn đến sự tạo thành 
25-hydroxyvitamin D, hay còn gọi là calcidiol. 
Calcidiol được đưa vào máu tuần hoàn, gắn với 
các protein vận chuyển DBP (vitamin D-binding 
protein), rồi được lọc qua cầu thận, và tái hấp 
thu lại nhờ các thụ thể megalin tại ống lượn gần 
(4). Trong tế bào biểu mô, calcidiol được chuyển 
thành: dạng hoạt động 1,25-dihydroxyvitamin D 
(còn gọi là calcitriol) với sự xúc tác của enzyme 
1-alpha-hydroxylase (CYP27B1); hoặc dạng bất 
hoạt 24,25-dihydroxyvitamin D dưới tác động 
của 24-alpha-hydroxylase (CYP24A1). Calcitriol 
cũng có thể được tổng hợp tại đại thực bào và 
lympho T qua tác động trung gian của các phân 
tử interferon gamma. Nguồn calcitriol ngoài 
thận này quan trọng trong các bệnh u hạt (như 
sarcoidosis và lao phổi hoạt động) cũng như 
trong lymphoma, có thể dẫn đến tăng calci huyết 
và calci niệu do làm tăng sự hấp thu tại ruột non. 
Calcitriol có vai trò làm tăng nồng độ calci 
huyết tương thông qua cơ chế tác động trên thụ 
thể nhân đặc hiệu tại các tế bào biểu mô của ruột 
non và ống thận (chủ yếu là ống lượn xa, ống 
góp). Phức hợp calcitriol-thụ thể giúp hấp thu 
calci vào máu bằng cách làm tăng sự biểu hiện 
các protein tham gia vận chuyển ion Ca++ xuyên 
qua tế bào như: TRPV5, TRPV6, calbindin-D, 
NCX1, và PMCA1b(3). Ở người, chức năng của 
calcitriol trong việc huy động calci từ xương là 
không rõ ràng. 
Trong trường hợp suy tuyến cận giáp, nồng 
độ huyết tương của cả PTH và calcitriol đều 
giảm. Khi đó, sự tái hấp thu calci tại ống lượn xa 
và ống góp giảm theo, dẫn đến hạ calci máu và 
tăng calci niệu kéo dài. Đồng thời, sự tương tác 
hổ trợ giữa 2 hormon này trên hoạt động cân 
bằng calci tại thận cũng mất đi(5). Như vậy, khi 
thiếu hụt PTH, nếu calcitriol ngoại sinh được bổ 
sung thì khả năng tái hấp thu calci tại ống thận 
vẫn bị khiếm khuyết. Kết quả là nồng độ calci 
huyết tương có thể về mức bình thường, nhưng 
calci niệu vẫn tiếp tục tăng rõ rệt, góp phần đáng 
kể trong sự hình thành sỏi calci. 
Vai trò của hormon calcitonin 
Calcitonin do các tế bào C cận nang của 
tuyến giáp tiết ra. Các tế bào này chỉ chiếm 0,1% 
thể tích tuyến giáp, nằm trong mô kẽ, giữa các 
nang tuyến. Cấu tạo hóa học của calcitonin là 
một polypeptide 32 acid amin, với trọng lượng 
phân tử khoảng 3400 dalton. Chức năng chính 
của calcitonin là ức chế các hủy cốt bào và quá 
trình huy động calci từ xương. Ngược lại với 
PTH, tăng Ca++ huyết tương có vai trò kích thích 
tuyến giáp bài tiết calcitonin, trong khi giảm 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 4
nồng độ Ca++ dẫn đến ức chế phóng thích 
calcitonin. Hoạt động điều hòa của ion Ca++ trên 
các tế bào cận nang cũng do các thụ thể CaSR 
đảm nhiệm(8). 
Vai trò của calci huyết tương 
Nồng độ ion Ca++ trong huyết tương cũng 
ảnh hưởng trực tiếp lên hoạt động cân bằng 
calci tại thận thông qua các thụ thể CaSR 
(calcium-sensing receptor) nằm trên các tế bào 
biểu mô ống thận(6). Tại cành dày của quai 
Henle, thụ thể CaSR làm tăng tạo 20-HETE 
(20-hydroxyeicosatetraenoic acid), gây ức chế 
các kênh K+ ROMK (renal outer medullary 
potassium channel) trên phần màng đỉnh của 
tế bào biểu mô. Điều này làm giảm điện tích 
dương nằm trong dịch ống, là động lực chính 
cho sự tái hấp thu Ca++ thụ động qua các kênh 
claudin-16 ở vùng kẽ giữa 2 tế bào liền kề. 
Ngoài ra, thụ thể CaSR còn trực tiếp ức chế 
phản ứng phosphoryl hóa các kênh claudin-
16. Tại ống lượng xa và ống góp, kích hoạt thụ 
thể CaSR sẽ gây ức chế các kênh TRPV5 tại 
màng đỉnh và các bơm PMCA tại màng đáy, 
do đó làm giảm tái hấp thu Ca++(5). 
Vai trò của estrogen và bisphosphonate 
Estrogen có vai trò ức chế hoạt động hủy 
xương do làm giảm sản sinh các interleukin 
tham gia hoạt hóa và thúc đẩy sự tồn tại của hủy 
cốt bào. Do đó, giảm estrogen có thể đưa đến 
tình trạng loãng xương, như trong suy buồng 
trứng, phẫu thuật cắt buồng trứng, hay trong 
thời kỳ mãn kinh ở người phụ nữ. Tuy nhiên, 
vấn đề bổ sung estrogen sau mãn kinh không 
được khuyến cáo thường quy, đặc biệt là trên các 
bệnh nhân có tiền sử cá nhân và gia đình liên 
quan đến ung thư vú, ung thư buồng trứng, 
hoặc ung thư nội mạc tử cung 
Bisphosphonates là một chất có cấu tạo 
tương tự như pyrophosphate trong cơ thể. Khi 
được dùng ở liều cao, các chất này ức chế sự sản 
xuất acid và các enzyme hủy xương từ hủy cốt 
bào(7). Do đó, bisphosphonates được ứng dụng 
trong điều trị tình trạng tăng calci máu, bệnh 
Paget, ngăn ngừa hiện tượng gãy xương do 
loãng xương  
KẾT LUẬN 
Trên toàn bộ cơ thể, tuy chỉ có một lượng 
nhỏ ion calci tồn tại trong huyết tương, nhưng 
nồng độ của nó lại được điều hòa chặt chẽ bởi 
các hormon, đặc biệt là PTH, calcitonin, và 
calcitriol. Các hormon này liên quan mật thiết 
đến hoạt động của 3 cơ quan: đường tiêu hóa, 
xương, và thận. Hầu hết lượng calci cũng như 
phosphate trong cơ thể đều được dự trữ tại 
xương dưới 2 dạng: tinh thể hydroxyapatite và 
một lượng ít các thể vô định hình. Do đó, xương 
có vai trò là một cơ quan đệm, làm ổn định nồng 
độ calci huyết tương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Blaine J, Chonchol M, Levi M (2015). Renal control of 
calcium, phosphate, and magnesium homeostasis. Clin J Am 
Soc Nephrol; 10: 1257-62. 
2. Gkika D, Hsu YJ, Vander AW, et al (2006). Critical role of the 
epithelial Ca2+ channel TRPV5 in active Ca2+ reabsorption as 
revealed by TRPV5/calbindin-D28K knockout mice. J Am Soc 
Nephrol; 17: 3020-24. 
3. Lambers TT, Bindels RJ, Hoenderop JG (2006). Coordinated 
control of renal Ca2+ handling. Kidney Int; 69: 650-656. 
4. Lieben L, Carmeliet G (2013). Vitamin D signaling in 
osteocytes: effects on bone and mineral homeostasis. Bone; 54: 
237-242. 
5. Moor MB, Bonny O (2016). Ways of calcium reabsorption in 
the kidney. Am J Physiol Renal Physiol; 310: F1337-42. 
6. Riccardi D, Brown EM (2010). Physiology and 
pathophysiology of the calcium-sensing receptor in the 
kidney. Am J Physiol Renal Physiol; 298: F485-491. 
7. Sascha K, John PG (2013). Gastric acid, calcium absorption, 
and their impact on bone health. Physiological Reviews; 93 (1): 
189-268. 
8. Vezzoli et al (2011). Calcium-sensing receptor and calcium 
kidney stones, Journal of Translational Medicine; 9: 201-5. 
Ngày nhận bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: