T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2019 
 43 
HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP BƠM TINH TRÙNG VÀO 
TỬ CUNG DÙNG LETROZOLE KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG 
 TRÊN PHỤ NỮ BUỒNG TRỨNG ĐA NANG 
 Nguyễn Thanh Tùng1; Lâm Thị Mai Ngọc2; Quản Hoàng Lâm1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả và độ an toàn của letrozole đối với kích thích buồng trứng và 
mang thai ở bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang và phân tích tình trạng kháng insulin 
ở những bệnh nhân này. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả tiến cứu có so sánh hai 
nhóm: 40 phụ nữ vô sinh có hội chứng buồng trứng đa nang (nhóm nghiên cứu) và 40 phụ nữ 
vô sinh không do hội chứng buồng trứng đa nang (nhóm chứng) được điều trị tại Viện Mô phôi 
Lâm sàng Quân đội. Sử dụng letrozole để kích thích buồng trứng từ ngày 2 của chu kỳ kinh. 
Khi nang noãn phát triển có kích thước ≥ 18 mm, gây trưởng thành noãn bằng hCG 5.000 IU và 
tiến hành kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung sau 36 giờ. Kết quả: vào ngày gây trưởng 
thành noãn bằng hCG cho thấy không có sự khác biệt về số lượng nang noãn và độ dày nội 
mạc tử cung giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng (lần lượt 1,16 ± 0,37 nang; 8,78 ± 1,08 mm 
và 1,30 ± 0,46 nang; 9,08 ± 1,16 mm). Tuy nhiên, số ngày nang noãn phát triển đến trưởng thành ở 
nhóm nghiên cứu (13,08 ± 2,38 ngày) dài hơn nhóm chứng (11,93 ± 1,35 ngày) có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ có thai lâm sàng ở cả nhóm nghiên cứu và nhóm chứng đều 22,5%. 
Nồng độ insulin trung bình của nhóm nghiên cứu 10,85 ± 5,84 µUI/ml và chỉ số HOMA-IR trung 
bình (2,42 ± 1,34) cao hơn nhóm chứng tương ứng insulin và chỉ số HOMA-IR (7,44 ± 2,84 µUI 
và 1,57 ± 0,68) có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Chỉ số QUICKI của nhóm nghiên cứu (0,31 ± 0,03) 
thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (0,36 ± 0,02) với p < 0,05. Kết luận: letrozole 
kích thích buồng trứng ở phụ nữ vô sinh có hội chứng buồng trứng đa nang kết hợp với 
phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung là phương pháp điều trị hiệu quả, những bệnh 
nhân này có nguy cơ cao đề kháng insulin. 
* Từ khóa: Hội chứng truồng trứng đa nang; Letrozole; Kháng insulin; Bơm tinh trùng vào 
buồng tử cung. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng buồng trứng đa nang 
(HCBTĐN) là nguyên nhân phổ biến nhất 
gây vô sinh, ảnh hưởng đến 5 - 10% phụ 
nữ đang ở độ tuổi sinh sản [2]. Vô sinh do 
không phóng noãn ảnh hưởng đến 75% 
phụ nữ mắc HCBTĐN [3]. Đặc điểm lâm 
sàng của những phụ nữ mắc HCBTĐN 
là thiểu năng hoặc không phóng noãn; 
cường androgen; siêu âm có nhiều nang 
trên buồng trứng [4]. Có nhiều phương 
pháp điều trị cho phụ nữ mắc buồng 
trứng đa nang, trong đó phương pháp 
phổ biến nhất hiện nay là kích thích 
buồng trứng kết hợp với bơm tinh trùng 
1. Học viện Quân y 
2. Trung tâm Sản Nhi Phú Thọ 
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thanh Tùng (
[email protected]) 
Ngày nhận bài: 17/09/2019; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 03/10/2019 
 Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2019 
 44 
vào buồng tử cung (IUI). Trong những 
năm gần đây, thuốc ức chế men thơm 
hóa đang sử dụng ngày càng nhiều để 
kích thích buồng trứng trong điều trị vô 
sinh. Cơ chế của chất ức chế men thơm 
hóa là gây ra hiệu ứng rụng trứng bằng 
cách ức chế men thơm hóa, chúng có 
mặt ở khắp mọi nơi (nhưng chủ yếu 
được tìm thấy ở tế bào hạt của nang 
trứng, mô mỡ và nhau thai). Men này có 
tác dụng chuyển hóa androgen thành 
estrogen. Các thuốc ức chế men thơm 
hóa sẽ ngăn chặn quá trình chuyển hóa 
của androgen thành estrogen, làm giảm 
nồng độ estrogen, giải phóng trục hạ đồi 
- tuyến yên khỏi phản hồi âm tính của 
estrogen, do đó làm tăng tiết FSH và 
phát triển nang noãn. Các thuốc ức chế 
men thơm hóa làm tăng nồng độ LH, 
androgen và testosteron trong huyết 
thanh, hỗ trợ phát triển nang trứng [5]. 
Letrozole là thuốc ức chế men thơm hóa 
thế hệ thứ ba, thời gian bán hủy ngắn. 
Letrozole không có tác dụng cạnh tranh 
thụ cảm thể của estrogen trên mô đích 
nên không làm mỏng niêm mạc tử cung. 
Từ năm 1990 đến nay, HCBTĐN được 
thừa nhận là bệnh lý về rối loạn chuyển 
hóa mà trung tâm của rối loạn chuyển 
hóa trong HCBTĐN là tình trạng kháng 
insulin và tăng insulin máu, dẫn đến rối 
loạn chức năng của buồng trứng. 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này nhằm: Đánh giá tác dụng của 
letrozole trong kích thích buồng trứng 
trên phụ nữ bị HCBTĐN và đánh giá tình 
trạng kháng insulin ở những phụ nữ bị 
mắc hội chứng này. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu. 
80 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán 
vô sinh tại Viện Mô phôi Lâm sàng Quân 
đội từ tháng 9 - 2018 đến 5 - 2019. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn: tuổi < 35, tinh 
dịch đồ của người chồng bình thường 
theo tiêu chuẩn WHO (2010), 2 vòi 
trứng thông. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: tinh trùng yếu, 
tắc 2 vòi trứng, tử cung dị dạng, có polýp 
hoặc nhân xơ tử cung. 
80 BN vô sinh được chia theo hai nhóm: 
40 BN có HCBTĐN (nhóm nghiên cứu), 
40 BN không có HCBTĐN (nhóm chứng). 
2. Phương pháp nghiên cứu. 
* Thiết kế nghiên cứu: mô tả tiến cứu 
có so sánh. 
* Chẩn đoán BN mắc HCBTĐN: 
Theo tiêu chuẩn Rotterdam (2003) khi có 
ít nhất 2/3 tiêu chuẩn sau [3]: 
- Thiểu năng hoặc không phóng noãn. 
- Cường androgen biểu hiện trên lâm 
sàng hoặc cận lâm sàng. 
- Siêu âm có > 12 nang sơ cấp kích 
thước từ 2 - 9 mm trên một buồng trứng 
hoặc thể tích buồng trứng > 10 ml. 
* Kích thích buồng trứng và kỹ thuật IUI: 
Cả hai nhóm BN được kích thích 
buồng trứng bằng letrozole (femara) 
2,5 mg x 10 viên, uống 2 viên/ngày, bắt 
đầu từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 6 của 
chu kỳ kinh. BN được hẹn siêu âm theo 
dõi từ ngày thứ 9 chu kỳ để đánh giá 
nang noãn và niêm mạc tử cung phát triển. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2019 
 45 
Nếu chưa có nang noãn trội (đường kính 
nang < 12 mm), có thể hẹn lại sau 3 - 4 
ngày. Nếu nang trội (≥ 12 mm) hẹn sau 
2 - 3 ngày lại siêu âm tiếp. Nếu thời gian 
theo dõi > 20 ngày mà vẫn không có nang 
noãn trội, xem như thất bại và hủy chu kỳ. 
Khi nang noãn đạt kích thước > 18 mm, 
gây phóng noãn với hCG (human chorionic 
gonadotropin) 5.000 UI tiêm bắp. 
Lấy tinh trùng của BN vào ngày thực 
hiện IUI, chuẩn bị mẫu tinh dịch bằng 
phương pháp bơi lên hoặc thang nồng 
độ. Thể tích tinh trùng dùng trong IUI là 
0,3 ml. BN của hai nhóm được thực hiện 
kỹ thuật IUI sau 36 giờ kể từ khi tiêm hCG 
gây trưởng thành noãn. 
* Các chỉ tiêu nghiên cứu: 
Tỷ lệ nang noãn trưởng thành và số 
ngày nang noãn đạt kích thước ≥ 18 mm, 
độ dày niêm mạc tử cung, kết quả có thai 
lâm sàng. 
Đánh giá tình trạng kháng insulin dựa 
vào chỉ số HOMA-IR và chỉ số QUICKI. 
Số liệu được nhập và xử lý theo 
phương pháp thống kê y học, sử dụng 
phần mềm SPSS 16.0. Tính trung bình và 
độ lệch chuẩn cho các biến số và giá trị 
p < 0,05 được cho có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 
1. Đánh giá hiệu quả của sử dụng letrozole kích thích buồng trứng ở BN có 
HCBTĐN. 
HCBCĐN là một trong những nguyên nhân thường gặp nhất gây vô sinh ở nữ. Việc 
điều trị chủ yếu cải thiện khả năng phóng noãn bằng các phương pháp khác nhau. 
Bảng 1: Đặc điểm hai nhóm BN. 
 Nhóm 
Đặc điểm 
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p 
Tuổi trung bình 26,98 ± 3,63 28,52 ± 3,49 > 0,05 
Chiều cao (cm) 153,98 ± 3,66 153,68 ± 3,40 > 0,05 
Cân nặng (kg) 52,22 ± 5,59 49,95 ± 3,48 < 0,05 
BMI (kg/m2) 22,01 ± 2,17 21,11 ± 1,24 < 0,05 
Độ tuổi ở phụ nữ vô sinh có HCBTĐN còn khá trẻ, tuổi trung bình 26,98 ± 3,63, 
hầu hết là vô sinh nguyên phát (72,5%). Béo phì là một trong những yếu tố thường 
được đề cập ở những người có HCBTĐN, trong nghiên cứu này, khác biệt có ý nghĩa 
giữa nhóm vô sinh có HCBTĐN với BMI trung bình (22,01 ± 2,17) cao hơn nhóm không 
có HCBTĐN (21,11 ± 1,24). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lê Minh Tâm về 
BMI ở BN có HCBTĐN là 20,9 ± 2,9 [1]. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2019 
 46 
Bảng 2: Đặc điểm nội tiết sinh sản. 
 Nhóm 
Xét nghiệm 
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p 
FSH (mIU/ml) 6,67 ± 2,15 8,33 ± 2,65 > 0,05 
LH (mIU/ml) 10,76 ± 6,63 7,43 ± 3,62 < 0,05 
E2 (pg/ml) 74,97 ± 57,07 66,58 ± 45,24 > 0,05 
AMH (ng/ml) 9,68 ± 3,57 3,49 ± 1,75 < 0,05 
Nồng độ LH, AMH giữa 2 nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Bảng 3: Hiệu quả kích thích buồng trứng bằng letrozole. 
 Nhóm 
Kết quả 
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng 
p 
Số nang trung bình 1,16 ± 0,37 1,30 ± 0,46 > 0,05 
Kích thước nang trung bình (mm) 21,43 ± 2,18 20,98 ± 2,25 > 0,05 
Độ dày niêm mạc tử cung (mm) 8,78 ± 1,08 9,08 ± 1,16 > 0,05 
Số ngày kích thích buồng trứng 13,08 ± 2,38 11,93 ± 1,35 < 0,05 
Về sinh lý sinh nang noãn, từ ngày 6 - 8 chu kỳ kinh diễn ra sự chọn lọc và sau đó 
nang lớn nhất vượt trội khi kích thước từ 12 mm. Số ngày kích thích buồng trứng trung 
bình của nhóm nghiên cứu nhiều hơn so với nhóm chứng, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). 
Đặc điểm quan trọng khác khi đánh giá hiệu quả kích thích buồng trứng là tình trạng 
niêm mạc tử cung khi nang trưởng thành, vì đây là yếu tố tiên lượng thành công trong 
chu kỳ điều trị. Khi sử dụng letrozole, khả năng ức chế thơm hóa chỉ diễn ra trong thời 
gian ngắn, không ảnh hưởng đến mô đích ở ngoại biên nên hạn chế được những tác 
dụng bất lợi như làm mỏng niêm mạc tử cung hay làm giảm chất nhày cổ tử cung. 
Độ dày niêm mạc tử cung của nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng tương đương 
nhau. Số nang noãn đạt được kích thước ≥ 18 mm sau khi kích thích bằng letrozole 
trên nhóm nghiên cứu là 1,16 ± 0,37; như vậy gần với chu kỳ tự nhiên, sẽ tránh 
được nguy cơ đa thai. Một số tác giả đều có chung nhận định này, kết quả số nang đạt 
≥ 18 mm trong nghiên cứu của Kallol Kumar Roy (2012) là 1,86 ± 0,26 nang [6]. 
Atay và CS (2006) báo cáo số lượng nang trứng trưởng thành của nhóm letrozole là 
1,2 ± 0,41 nang [7]. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2019 
 47 
Bảng 4: Kết quả thai lâm sàng. 
Không có thai Thai sinh hóa Thai lâm sàng 
 Kết quả 
Nhóm n % n % n % 
p 
Nhóm nghiên cứu 30 75 1 2,5 9 22,5 
Nhóm chứng 31 77,5 0 0 9 22,5 
> 0,05 
Tổng số 80 BN trong hai nhóm, 18 BN có thai lâm sàng, đạt tỷ lệ 23,4%. Kết quả 
này tương tự như một số nghiên cứu sử dụng letrozole để kích thích buồng trứng cho 
BN có HCBTĐN như Sedigheh Dehbashi và CS (2015) là 26% [8], Atay và CS (2006) 
là 21,6% [7]. 
2. Nhận xét về hội chứng kháng insulin ở BN có HCBTĐN. 
 Hội chứng kháng insulin là rối loạn chuyển hóa có sự kết hợp giữa tình trạng 
kháng insulin với các triệu chứng béo phì, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, rối loạn 
glucose máu lúc đói, hoặc đái tháo đường. Có nhiều phương pháp đánh giá tình 
trạng kháng insulin, trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng chỉ số HOMAR-IR và chỉ số 
QUICKI. 
Bảng 5: Đánh giá tình trạng kháng insulin. 
 Nhóm 
Xét nghiệm 
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p 
Insulin (µUI/ml) 10,85 ± 5,84 7,44 ± 2,84 < 0,05 
Glucose (mmol/l) 4,97 ± 0,45 4,71 ± 0,47 < 0,05 
Chỉ số HOMA-IR 2,42 ± 1,34 1,57 ± 0,68 < 0,05 
Tứ phân vị trên 2,016 
Chỉ số QUICKI 0,31 ± 0,03 0,36 ± 0,02 < 0,05 
Tứ phân vị dưới 0,3425 
HOMA-IR > 2,016 57,5 25 < 0,05 
QUICKI < 0,3425 57,5 25 < 0,05 
Nồng độ xét nghiệm insulin máu lúc đói trung bình của nhóm nghiên cứu cao hơn 
có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (p < 0,05). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số HOMA-IR của nhóm BN có HCBTĐN 
(2,42 ± 1,34) cao hơn nhóm chứng (1,57 ± 0,68) có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Nhận định này của chúng tôi tương tự với nghiên cứu của Ta Chin Lin (2006) [9]. 
Chỉ số QUICKI của nhóm BN có HCBTĐN (0,31 ± 0,03) thấp hơn nhóm chứng (0,36 ± 0,02) 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Như vậy, khi chỉ số HOMA-IR càng cao, chỉ số QUICKI 
càng thấp, tình trạng kháng insulin càng nặng. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2019 
 48 
KẾT LUẬN 
- Letrozole kích thích buồng trứng ở 
phụ nữ có HCBTĐN kết hợp với phương 
pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung là 
phương pháp điều trị hiệu quả. 
- Bệnh nhân HCBTĐN có nguy cơ cao 
có tình trạng đề kháng insulin. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Minh Tâm, Lê Việt Hùng, Nguyễn Thị 
Phương Lê và CS. Rối loạn chuyển hóa ở bệnh 
nhân vô sinh có hội chứng buồng trứng đa nang. 
Tạp chí Y Dược học. Trường Đại học Y Dược 
Huế, 2017, số 3, tháng 6 (7), tr.7-13. 
2. Asuncion M, Calvo R.M, San millan J.L, 
Sancho J, Avila S, Escobar Morreale H.F. A 
prospective study of the prevalence of the 
polycystic ovary syndrome in unselected 
causasian women from spain. J Chin 
Endocrinol Metab. 2000, 86, pp.2434-2438. 
3. Patel S.M, Nestler J.F. Fertility in polycystic 
ovary syndrome. Endocrinol Metab Clin North 
Am. 2006, 35 (1), pp.137-155. 
4. The Rotterdam ESHRE/ASRM sponsored 
PCOS consensus workshop group. Revised 
2003 consensus on diagnostic criteria and 
long-term health risks related to polycystic 
ovary syndrome. Fertility and Sterility. 2004, 
81, pp.19-25. 
5. Casper R.F, Mitwally M.F. Aromatase 
inhibitors for ovulation induction. J Clin 
Endocrinol Metab. 2006, 91 (3), pp.760-771. 
6. Kallol Kumar Roy et al. A prospective 
randomized trial comparing the efficacy of 
letrozole and clomiphene citrate in induction 
of ovulation in polycystic ovarian syndrome. 
Journal of Human Reproductive Sciences, 
2012, 5 (1), p.20. 
7. Atay V, Cam C, Muhcu M, Karateke A. 
Comparision of letrozole and clomiphen 
citrate in women with polycystic ovaries 
undergoing ovarian stimulation. J Int Med 
Res. 2006, 34 (1), pp.73-76. 
8. Sedigheh Dehbashi, Sara Dehbashi, 
Talieh Kazerooni et al. Comparison of the 
effects of letrozole and clomiphene citrate on 
ovulation and pregnancy rate in patients with 
polycystic ovary syndrome. Iranian Journal of 
Medical Sciences. 2009, 34 (1), pp.23-28. 
9. Ta-Chin Lin, Jui-Mei Yen, Kum-Bing 
Gong et al. Abnormal glucose tolerance and 
insulin resistance in polycystic ovary syndrome 
amongst the Taiwanese population, not 
correlated with insulin receptor substrate-1 
Gly972Arg/Ala513Pro polymorphism. BMC Med 
Genet. 2006, 7, p.36.