Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 283
HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT BƠM SURFACTANT ÍT XÂM LẤN 
Lê Thị Cẩm Giang*, Nguyễn Thị Từ Anh*, Ngô Minh Xuân** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn để điều trị suy hô hấp bệnh màng trong đã được chứng minh 
về hiệu quả, an toàn, tính khả thi và đang được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Việt nam, kỹ thuật này 
chưa được áp dụng rộng rãi và chưa có nghiên cứu nào báo cáo về hiệu quả của kỹ thuật này. Chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này nhằm so sánh kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn với kỹ thuật INSURE về nhu cầu thở 
máy, giảm nhu cầu FiO2 sau bơm surfactant, các kết cục ngắn hạn. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát tính khả thi 
của kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn thông qua số lần đặt ống thông vào khí quản đúng vị trí, số lần chậm nhịp 
tim, tỷ lệ trào ngược surfactant trong khi tiến hành thủ thuật. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu giả thực nghiệm (Quasi Experimental Study), nhãn mở, có đối 
chứng. Cỡ mẫu được tình tối thiểu là 42 trẻ cho mỗi nhóm. Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện, nhãn 
mở, có nhóm chứng. 
Kết quả: Tỷ lệ thở máy trong vòng 72 giờ sau sanh ở nhóm bơm surfactant ít xâm lấn thấp hơn nhóm 
INSURE, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (9,43% so với 15,09%. p = 0,37). Không có sự khác 
biệt về thời gian thở máy ở 2 nhóm. Cả 2 nhóm đều làm giảm FiO2 sau bơm surfactant. Tỷ lệ giảm FiO2 trên 
20% ở nhóm điều trị ít xâm lấn là 90,6% nhiều hơn so với nhóm INSURE là 71,7%, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê p = 0,013. Không có sự khác biệt về tỷ lệ thực hiện liều surfactant thứ 2, tỷ lệ tràn khí màng phổi sau 
bơm surfactant, tỷ lệ viêm phổi và tỷ lệ tử vong giữa 2 nhóm INSURE và bơm surfactant ít xâm lấn. Có sự khác 
biệt về số ngày nằm viện giữa 2 nhóm. Số ngày nằm viện trung bình của nhóm INSURE là 33,2 ± 15,8 ngày, 
nhiều hơn nhóm bơm surfactant ít lấn (26,5±12,3 ngày), p = 0,02. 
Kết luận: Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn có hiệu quả giảm FiO2 trên 20% lên đến 90,6%, có khả năng 
giảm nhu cầu thở máy trong vòng 72 giờ sau sanh so với kỹ thuật INSURE, giảm thời gian nằm viện, góp phần 
giảm chi phí điều trị, cải thiện kết cục của trẻ sơ sinh non tháng. 
Từ khoá: bơm surfactant ít xâm lấn, suy hô hấp bệnh màng trong, INSURE 
ABSTRACT 
EFFECTIVENESS OF LESS INVASIVE SURFACTANT ADMINISTRATION TECHNIQUE 
Le Thi Cam Giang, Nguyen Thi Tu Anh, Ngo Minh Xuan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 283-291 
Objectives: The less invasive surfactant administration (LISA) for the treatment respiratory distress 
syndrome (RDS) has been proven to be effective, safe and feasible and is being applied in many parts of the world. 
However, in Vietnam, this technique has not been widely applied and no research has reported on the effectiveness 
of this technique. Therefore, we conducted this study with the aims of comparing LISA with standard treatment, 
consisting of intubation, administration of surfactant and early extubation to nasal continuous positive airway 
pressure (INSURE) with the need for mechanical ventilation, reduction of the FiO2 requirement, the short-
term outcomes. In addition, we also examined the feasibility of the LISA for the number of attempts to catheterize 
the trachea was recorded, as was the number of bradycardia episodes, the number of surfactant reflux cases during 
instillation surfactant. 
*Khoa Sơ sinh BV Từ Dũ **Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Cẩm Giang ĐT: 0903714624 Email: 
[email protected] 
*Bộ môn Tai Mũi *Bệnh viện Bình Dân, TP. Hồ Chí Minh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 284
Method: Quasi Experimental Study, open-label, non-randomized, controlled. 
Results: The rate of requiring invasive mechanical ventilation within 72 hours after birth in the less invasive 
surfactant group was lower than that of INSURE, but the difference was not statistically significant (9.43% 
compared to 15.09%. P = 0.37). There is no difference in iMV duration in 2 groups. Both groups reduced of the 
FiO2 requirement after surfactant admnistration. The reduction of the FiO2 requirement by more than 20% in 
the less invasive treatment group was 90.6% more than the INSURE group of 71.7%, the difference was 
statistically significant p = 0.013. There was no difference in the rate of requirement of a second dose of surfactant, 
pneumothorax, pneumonia and mortality rate between the two groups of INSURE and less invasive surfactant 
administration. There are differences in the number of hospital stays between two groups. The average number of 
hospital stays of the INSURE group is 33.2 ± 15.8 days, more than the less invasive surfactant administration 
group (26.5 ± 12.3 days), p = 0.02. 
Conclusion: The less invasive surfactant administration effectively reduced the FiO2 requirement by more 
than 20% to 90.6%, potentially reducing the need for iMV within 72 hours after birth compared to the INSURE 
technique, reducing hospital stays, contributing to reduce treatment costs, improve outcomes of preterm infants. 
Keywords: less invasive surfactant administration (LISA), respiratory distress syndrome (RDS), INSURE 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh màng trong ở trẻ sinh non là rối loạn 
được tạo ra bởi sự thiếu hụt tiên phát chất hoạt 
diện bề mặt hay surfactant ở phổi chưa trưởng 
thành, gây nên xẹp phế nang tiến triển, lan 
rộng, dẫn đến suy hô hấp sớm sau sanh, là 
nguyên nhân quan trọng của bệnh tật và tử 
vong ở trẻ sơ sinh non tháng. Việc điều trị 
bằng surfactant thay thế làm giảm nguy cơ tử 
vong và biến chứng loạn sản phế quản phổi 
(BPD – bronchopulmonary dysplasia)(1,9). Việc 
kết hợp giữa sử dụng sterocorticoids trước 
sanh, thở áp lực dương liên tục qua mũi 
(NCPAP) sớm sau sanh và liệu pháp 
surfactant thay thế giúp cải thiện dự hậu của 
trẻ sơ sinh non tháng. 
Đã có nhiều nghiên cứu về kỹ thuật bơm 
surfactant vào phổi. Cho đến hiện nay, kỹ 
thuật INSURE được xem là tiêu chuẩn trong 
liệu pháp điều trị surfactant thay thế. Tuy 
nhiên, với kỹ thuật INSURE vẫn cần đặt ống 
nội khí quản và thông khí cơ học, có liên quan 
đến nguy cơ chấn thương áp lực và chấn 
thương thể tích. Việc hoạt hoá các yếu tố gây 
viêm thường xuyên trên các trẻ thở máy này 
làm tăng nguy cơ diễn tiến thành loạn sản phế 
quản phổi (BPD)(5,6,18). Với kỹ thuật INSURE 
vẫn có 1 số trẻ bị đặt nội khí quản chỉ để bơm 
surfactant. Và trong 1 số ít trường hợp không 
thể rút nội khí quản sau đó(3). Để giảm thiểu tối 
đa việc trẻ tiếp xúc với thông khí cơ học xâm 
lấn, các nhà lâm sàng đã cải tiến kỹ thuật bơm 
surfactant vào phổi mà không cần phải thông 
khí cơ học, được gọi là kỹ thuật bơm surfactant 
ít xâm lấn (LISA – Less invasie less invasive 
surfactant administration) hay xâm lấn tối 
thiểu (MIST - Minimal invasive surfactant therapy). 
Các nỗ lực đưa surfactant vào phổi bằng 
phun khí dung hay mặt nạ thanh quản không 
cho thấy được bằng chứng hiệu quả trên lâm 
sàng(7,13). Một kỹ thuật ít xâm lấn được đề nghị 
đó là dùng đèn soi thanh quản bật nắp thanh 
môn và đưa một ống thông nhỏ vào khí quản. 
Surfactant được đưa vào phổi qua ống thông 
này. Đã có nhiều nghiên cứu về tính khả thi, 
hiệu quả của kỹ thuật này. Mới đây, Christin S 
và cộng sự đã đăng trên tạp chí Global Pediatric 
health nghiên cứu Meta – analysis về kỹ thuật 
bơm surfactant ít xâm lấn làm giảm nhu cầu thở 
máy xâm lấn ở trẻ sơ sinh non tháng(15). Kỹ thuật 
bơm surfactant ít xâm lấn ngày càng được phổ 
biến hơn, một khảo sát của Klotz ở Châu Âu về 
liệu pháp surfactant ít xâm lấn điều trị surfactant 
xâm lấn tối thiểu (LISA/MIST) đã được đề xuất 
cho việc sử dụng surfactant ở trẻ non tháng 
không đặt nội khí quản. Mục đích của cuộc khảo 
sát là đánh giá tỷ lệ sử dụng, cũng như kỹ thuật 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 285
và thiết bị được sử dụng cho LISA/MIST. Tác giả 
kết luận, việc sử dụng LISA/MIST ở châu Âu là 
phổ biến. Liệu pháp surfactant ít xâm lấn đã là 
chủ đề của các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên 
có đối chứng và đã tìm thấy đường vào thói 
quen thực hành lâm sàng. Kỹ thuật bơm 
surfactant ít xâm lấn được áp dụng rộng rãi ở 
các đơn vị sơ sinh châu Âu. Có nhiều loại thiết bị 
được sử dụng và kỹ thuật được áp dụng cho 
việc bơm surfactant ít xâm lấn cũng như các 
quan điểm khác nhau về các chỉ định và hiệu 
quả nhận thức của can thiệp này(14). Một nghiên 
cứu tổng quan gần đây bao gồm 2361 trẻ sơ sinh 
được điều trị(1) đã kết luận rằng điều trị 
surfactant ngoại sinh qua catheter nhỏ có thể là 
phương pháp hiệu quả và an toàn, với khả năng 
giảm nhu cầu thông khí cơ học xâm lấn trong 72 
giờ đầu đời so với điều trị tiêu chuẩn. Trong 1 
nghiên cứu của Cristina Ramos-Navarro về kỹ 
thuật bơm surfactant ít xâm lấn bằng ống thông 
nhỏ ở trẻ sơ sinh non tháng dưới 32 tuần tuổi 
thai cho thấy hiệu quả làm giảm nhu cầu FiO2 
hơn 20% trong giờ đầu tiên là 73,3% trong nhóm 
LISA và 86,6% trong nhóm chứng (p>0,05), nhu 
cầu thông khí cơ học xâm lấn hơn 1 giờ trong 3 
ngày đầu đời ở nhóm LISA là 43,3% và 73% 
trong nhóm chứng (OR: 3,596; KTC 95%: 1,216 – 
10,638; p=0,02)(19). 
Mặc dù Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn 
đã được chứng minh về hiệu quả, an toàn, tính 
khả thi và đang được áp dụng ở nhiều nơi trên 
thế giới, tuy nhiên tại Việt nam, kỹ thuật này 
chưa được áp dụng rộng rãi và chúng tôi tìm 
thấy chỉ có 1 báo cáo kết quả của tác giả Cam 
Ngọc Phượng thực hiện tại khoa NICU bệnh 
viện Hạnh Phúc với cỡ mẫu là 10 trẻ ghi nhận có 
20% trẻ có trào ngược thuốc sau bơm, không có 
trường hợp nào đặt lại nội khí quản cũng như 
không có trường hợp nào tràn khí màng phổi 
trong quá trình điều trị(4). Vì vậy chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với mục tiêu so sánh kỹ 
thuật bơm surfactant ít xâm lấn với kỹ thuật 
INSURE về tỷ lệ trẻ cần thở máy, thời gian thở 
máy, tỷ lệ giảm FiO2 và giảm FiO2 trên 20% sau 
bơm surfactant, tỷ lệ thực hiện liều surfactant 
thứ hai, tràn khí màng phổi, viêm phổi, tỷ lệ tử 
vong, số ngày nằm viện. Khảo sát số lần đặt ống 
thông vào khí quản đúng vị trí, số lần chậm nhịp 
tim, tỷ lệ trào ngược surfactant của kỹ thuật bơm 
surfactant ít xâm lấn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu giả thực nghiệm (Quasi 
Experimental Study), nhãn mở, có đối chứng. . 
Đây là điểm hạn chế của đề tài. Tuy nhiên, hiện 
nay để thực hiện RCT cần phải có thời gian làm 
thủ tục xin phép. Vì hạn chế về mặt thời gian 
nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với thiết 
kế Quasi. Chúng tôi hy vọng trong tương lai có 
thể thực hiện được RCT. 
Đối tượng nghiên cứu 
Dân số chọn mẫu: Trẻ sơ sinh non tháng từ 
26 – 32 tuần tuổi thai dưới 6 giờ tuổi, bị suy hô 
hấp do bệnh màng trong có chỉ định điều trị 
surfactant, sanh tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 
8 năm 2017 đến tháng 07 năm 2018 và nhập 
khoa Sơ sinh bệnh viện Từ Dũ. 
Cỡ mẫu 
Cỡ mẫu được tính theo công thức: 
Trong đó: 
- p1: tỷ lệ trẻ cần thở máy xâm lấn hơn 1 giờ trong 
3 ngày đầu đời trong nhóm bơm surfactant ít 
xâm lấn. 
- p0: tỷ lệ trẻ cần thở máy xâm lấn hơn 1 giờ 
trong 3 ngày đầu đời trong nhóm bơm 
surfactant bằng kỹ thuật INSURE. 
- p = ½(p1 + p0), q = 1 – p. 
Theo nghiên cứu của Cristina Ramos-Navarro(13) 
thì p1 = 43,3%, p0 = 73%. 
Cỡ mẫu tính được tối thiểu cho mỗi nhóm là: 
42 trẻ. 
(z 1-α / 2 √2 pq + z1-β √p1 (1-p1) + p0 (1 – p0))2 
n = 
(p1 – p0) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 286
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện, nhãn mở. 
Nhóm nghiên cứu là nhóm trẻ sơ sinh non 
tháng được bơm surfactant bằng kỹ thuật ít xâm 
lấn. Nhóm chứng là nhóm trẻ sơ sinh non tháng 
được bơm surfactant bằng kỹ thuật INSURE. 
Nhóm bơm surfactant bằng kỹ thuật ít xâm 
lấn: trẻ sơ sinh non tháng từ 26 – 32 tuần tuổi 
thai có chỉ định diều trị surfactant, dưới 6 giờ 
tuổi tại khoa sơ sinh BV Từ Dũ từ tháng 8/2017 – 
7/2018 thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được chọn 
vào nhóm nghiên cứu khi có mặt của bác sĩ 
trong nhóm nghiên cứu. 3 bác sĩ tham gia nghiên 
cứu trong đó 1 bác sĩ có mặt từ thứ 2 đến thứ 6, 1 
bác sĩ trực đêm thứ 5 ra trực chiều thứ 6, 1 bác sĩ 
trực đêm thứ 6 ra trực thứ 7. Ngày lễ: Bác sĩ trực 
đêm thứ 5 sẽ trực ngày thứ 2, bác sĩ trực đêm thứ 
6 trực ngày thứ 3, bác sĩ không trực đêm sẽ trực 
ngày thứ 4. 
Nhóm bơm surfactant bằng kỹ thuật 
INSURE: Trẻ sơ sinh non tháng từ 26 – 32 tuần 
tuổi thai có chỉ định điều trị surfactant dưới 6 giờ 
tuổi tại khoa sơ sinh BV Từ Dũ từ tháng 8/2017 – 
7/2018 thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được bơm 
surfactant bằng kỹ thuật INSURE bởi các bác sĩ 
đang làm việc tại khoa sơ sinh khi không có mặt 
của bác sĩ trong nhóm nghiên cứu sẽ được chọn 
vào nhóm chứng. Số lượng nhóm chứng bắt đầu 
nhận từ lúc bắt đầu nghiên cứu cho đến khi đủ 
số lượng 42 trẻ thì dừng. 
Tiêu chuẩn nhận vào 
Trẻ sơ sinh non tháng từ 26 – 32 tuần tuổi 
thai, sanh tại bệnh viện Từ Dũ, nhập khoa sơ 
sinh bệnh viện Từ Dũ được chẩn đoán suy hô 
hấp bệnh màng trong dưới 6 giờ tuổi, được hỗ 
trợ hô hấp bằng nCPAP hoặc NIPPV có chỉ định 
bơm surfactant. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Tim bẩm sinh nặng hoặc suy tim. Dị tật bẩm 
sinh nặng không khả năng điều trị. Trẻ có bệnh 
lý cần chuyển bệnh viện nhi đồng điều trị sau 
sanh đã được chẩn đoán tiền sản. Trẻ có chỉ định 
đặt nội khí quản trước khi bơm surfactant. Gia 
đình từ chối điều trị surfactant. Gia đình từ chối 
tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán suy hô hấp 
Chỉ số Silverman > 3 hoặc khí máu động 
mạch PaO2 50mmHg. 
Tiêu chuẩn bơm surfactant điều trị suy hô hấp 
bệnh màng trong trẻ sơ sinh non tháng 
Trẻ sơ sinh non tháng bị suy hô hấp, để duy 
trì SpO2 90 – 95% trẻ cần: 
Thở nCPAP hoặc NIPPV với P 6 cmH2O, 
FiO2 ≥ 30% nếu trẻ < 28 tuần tuổi thai; 
Thở nCPAP hoặc NIPPV với P 6 cmH2O, 
FiO2 ≥ 40% nếu trẻ ≥ 28 tuần tuổi thai ± KMĐM 
sau thở nCPAP hoặc NIPPV ít nhất 30 phút có 
a/APO2 < 0,22. 
Tiêu chuẩn đặt nội khí quản 
Trẻ đang thở nCPAP với PEEP 6 cmH2O: 
Cần FiO2 > 50% để duy trì SpO2 90 – 95% 
hoặc có các cơn ngưng thở (>4 cơn / giờ hoặc hơn 
một lần cần thông khí áp lực dương) hoặc toan 
hô hấp, pCO2> 65 mmHg và pH<7.20 trong mẫu 
máu động mạch. 
Chỉ định liều thứ 2 
Liều thứ 2 được chỉ định khi trẻ thở nCPAP 
với PEEP 6cmH2O cần FiO2 > 40% để duy trì 
SpO2 90 – 95% 12 giờ sau liều 1. 
Tiêu chuẩn thất bại 
Sau khi bơm surfatant trẻ cần đặt ống nội khí 
quản trong 3 ngày đầu đời (72 giờ sau sanh). 
Tính hiệu quả của việc bơm surfactant ít xâm lấn 
Được đánh giá dựa vào sự giảm nhu cầu 
FiO2 hơn 20% sau bơm surfactant 
Tính khả thi của kỹ thuật bơm surfactant ít 
xâm lấn 
Được đánh giá qua số lần cố gắng đặt ống 
catheter vào khí quản, số lần bị chậm nhịp tim 
(<100 nhịp/phút) cần thông khí áp lực dương 
trong lúc bơm, số trường hợp trào ngược 
surfactant và số lần đặt ống catheter sai chỗ. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 287
Phương pháp thu thập số liệu 
Công cụ thu thập số liệu: Bảng thu thập số 
liệu, bệnh án nghiên cứu. 
Phương pháp tiến hành 
Bước 1: Thu nhận đối tượng. Trẻ sơ sinh non 
tháng từ 26 – 32 tuần tuổi thai bị suy hô hấp do 
bệnh màng trong dưới 6 giờ tuổi tại khoa Sơ sinh 
Bv Từ Dũ từ tháng 8/2017 – 7/2018 thỏa tiêu 
chuẩn chọn mẫu, được chọn để đưa vào nhóm 
nghiên cứu điều trị bằng kỹ thuật bơm 
surfactant ít xâm lấn. 
Bước 2: Ký đồng thuận. Được thực hiện bởi 
bác sĩ trong nhóm nghiên cứu và người giám hộ 
hợp pháp của trẻ. Một bản đồng thuận tham gia 
nghiên cứu sẽ được ký khi người giám hộ đồng 
ý tham gia nghiên cứu. 
Bước 3: Tiến hành kỹ thuật. Được thực hiện 
bởi bác sĩ trong nhóm nghiên cứu. Surfactant 
được sử dụng là chất surfactant tự nhiên ngoại 
sinh, Beractant liều 100mg/kg và Poractant liều 
100 - 200mg/kg trong vòng 1 – 3 phút. Tất cả các 
trẻ được theo dõi nhịp tim liên tục và độ bão hòa 
oxy mạch ngoại biên (SpO2). Tất cả các trẻ được 
hỗ trợ bằng nCPAP (5-8 cmH2O) trong khi tự 
thở trong quá trình can thiệp, qua ống thông 
mũi ngắn 2 nòng. Tất cả trẻ sơ sinh thiếu tháng 
được đặt vị thế phù hợp bởi một nhân viên thứ 
hai, là người giữ trẻ và hỗ trợ đặt ống trong tiến 
trình thực hiện. Một ống thông dạ dày 5-6 G, đặt 
qua đường miệng, được đặt qua khỏi mức dây 
thanh âm khoảng 1-2 cm bằng phương pháp nội 
soi thanh quản trực tiếp, mà không dùng kềm 
Magill. Lỗ thông bên hông ống thông dạ dày 
giúp đảm bảo đầu ống được đặt đúng vị trí. 
Surfactant được bơm qua ống thông này trong 
vòng 3 phút. Trẻ tự thở nCPAP trong suốt quá 
trình bơm surfactant. Thông khí áp lực dương 
qua mặt nạ có túi dự trữ chỉ được thực hiện khi 
trẻ có ngưng thở hoặc chậm nhịp tim, khi đó tiến 
trình bơm surfactant được ngưng lại. Trong lúc 
bơm surfactant, tình trạng hít sặc chất từ dạ dày 
được kiểm soát qua ống thông mũi dạ dày tiêu 
chuẩn để giảm tình trạng lệch vị trí của ống bơm 
surfactant. Ống bơm surfactant được lấy ra sau 
khi đã bơm xong và nCPAP vẫn được duy trì 
với FiO2 được điều chỉnh để SpO2 đạt 90-95%. 
Tất cả trẻ được điều trị dự phòng caffeine citrate 
đường tĩnh mạch (liều đầu 20 mg/kg, tiếp theo là 
5 mg/kg/ngày) trong 8 giờ đầu đời. Các dữ kiện 
cần thu thập được ghi nhận đầy đủ trong hồ sơ 
bệnh án. 
Bước 4: Theo dõi sau điều trị. Trẻ được theo 
dõi, điều trị tiếp tục tại khoa sơ sinh. Diễn tiến 
lâm sàng và các thông tin cần thu thập được ghi 
chép đầy đủ trong hồ sơ bệnh án. Nghiên cứu 
viên thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án và điền 
vào bảng thu thập số liệu. 
Phương pháp xử lý số liệu 
Các biến định tính: tính tần số và tỷ lệ 
phần trăm. 
Các biến định lượng: tính giá trị trung bình, 
độ lệch chuẩn, trung vị. 
Mô tả và phân tích số liệu theo các mục tiêu 
của đề tài. 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 12. 
Ttest, chi bình phương, tính OR, p có ý nghĩa 
thống kê khi <0,05. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 08 năm 2017 đến tháng 07 năm 
2018, có 1926 trẻ sinh non ≤ 32 tuần nhập khoa sơ 
sinh bệnh viện Từ Dũ. Tổng cộng có 426 trẻ 
(22,12%) được điều trị surfactant. Có 53 trẻ thở 
nCPAP từ lúc sinh thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và 
được tham gia vào nhóm nghiên cứu bơm 
surfactant ít xâm lấn. Chúng tôi chọn 53 trẻ được 
điều trị surfactant bằng kỹ thuật INSURE thoả 
tiêu chuẩn chọn mẫu làm nhóm chứng. 
Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm trong 
nghiên cứu về các đặc điểm cơ bản hoặc yếu tố 
nguy cơ trước sinh, ngoại trừ điểm chỉ số CRIB 
có cao hơn trong nhóm LISA, cho thấy tình trạng 
lâm sàng nặng hơn lúc khởi đầu (Bảng 1). Tuổi 
thai trung bình ở nhóm LISA là 29,1 ± 1,9 tuần, ở 
nhóm INSURE là 29,7 ± 1,6 tuần. Cân nặng lúc 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 288
sanh trung bình ở nhóm LISA là 1248,1 ± 311,6 
(g) và 1308,5 ± 309,1 (g) ở nhóm INSURE. 
Bảng 1: Thông tin cơ bản của nhóm LISA và 
INSURE 
 LISA INSURE p 
Tuổi thai (tuần), 
trung bình 
29,1 ± 1,9 
(28,5 – 29,6) 
29,7 ± 1,6 
(29,3 – 30,2) 
0,07 
Cân nặng lúc sanh 
(g), trung bình 
1248,1±311,6 1308,5±309,1 0,32 
Giới (nam), % 50,9% 54,7% 0,69 
Steroids trước 
sanh, n (%) 
16 (30,2%) 16 (30,2%) 0,73 
Sanh mổ, n (%) 32 (60,4%) 30 (56,6%) 0,69 
Giờ tuổi lúc can 
thiệp (phút), trung 
bình 
204,53 ± 13,6 243,49 ± 13,6 0,07 
Điểm CRIB, trung 
bình 
2,28 ± 1,16 2,07 ± 1,45 0,42 
Tỷ lệ thở máy trong vòng 72 giờ sau sanh ở 
nhóm bơm surfactant ít xâm lấn thấp hơn nhóm 
INSURE, tuy nhiên sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (9,43% so với 15,09%. p = 0,37). 
Không có sự khác biệt về thời gian thở máy ở 2 
nhóm. Surfactant được bơm thành công ở tất cả 
các trẻ với tình trạng huyết động ổn định trong 
và sau khi thực hiện thủ thuật. Nhu cầu FiO2 
sau bơm surfactant đều giảm ở cả 2 nhóm. Tỷ lệ 
giảm FiO2 trên 20% trong giờ đầu tiên ở nhóm 
điều trị ít xâm lấn là 90,6% nhiều hơn so với 
nhóm INSURE là 71,7%, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê p = 0,013, p<0,05 (Bảng 2). 
Bảng 2: Điều trị hô hấp sau sanh ở nhóm LISA và 
INSURE 
 LISA INSURE p 
FiO2 giảm đi (>20%), n(%) 48 (90,6) 38 (71,7) 0,013 
Thở máy > 1g trong 3 ngày 
đầu đời, n(%) 
5 (9,4) 8 (15,1) 0,37 
Thời gian thở máy (ngày), 
trung bình 
5,4 ± 3,8 4,9 ± 3,3 0,73 
Cần thực hiện liều thứ 2, n 
(%) 
0 (0) 1 (1,9) 1,0 
Chậm nhịp tim, n (%) 5 (9,4) - - 
Trào ngược surfactant, % 30,96 - - 
Tràn khí màng phổi, n(%) 0 (0) 2 (3,8) 0,49 
Viêm phổi, n (%) 32 (60,4) 40 (75,5) 0,09 
Tử vong, n (%) 5 (9,4) 8 (15,1) 0,37 
Số ngày nằm viện (ngày), 
trung bình 
26,5 ± 12,3 33,2 ± 15,8 0,02 
Không có sự khác biệt về tỷ lệ thực hiện liều 
surfactant thứ 2. Tỷ lệ tràn khí màng phổi sau 
bơm surfactant ở nhóm LISA thấp nhóm 
INSURE, tuy nhiên sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê. Tương tự, tỷ lệ viêm phổi và tỷ 
lệ tử vong ở nhóm LISA thấp hơn nhóm 
INSURE nhưng không có ý nghĩa thống kê. 
Có sự khác biệt về số ngày nằm viện giữa 2 
nhóm. Số ngày nằm viện trung bình của nhóm 
INSURE là 33,2 ± 15,8 ngày, nhiều hơn nhóm 
bơm surfactant ít lấn (26,5 ± 12,3 ngày), p=0,02, 
p<0,05. 
Kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn được 
thực hiện bởi các bác sĩ sơ sinh của nhóm nghiên 
cứu. Ống thông được đặt đúng vị trí trong tất cả 
các trường hợp và surfactant được bơm vào mà 
không có tai biến nào. Không có trẻ nào trong 
nhóm bơm surfactant ít xâm lấn cần ống nội khí 
quản để bơm surfactant. Tất cả bệnh nhi sau 
điều trị mà cần đặt ống nội khí quản thì được 
đặt lúc hơn 1 giờ sau khi thực hiện thủ thuật. Số 
lần bị chậm nhịp tim trong lúc bơm surfactant ít 
lấn được ghi nhận là 5 lần (9,4%). Tình trạng trào 
ngược nhẹ surfactant được thấy 30,96% trong 
nhóm LISA (Bảng 1, 2). 
BÀN LUẬN 
Trong vài năm gần đây, xu hướng điều trị 
suy hô hấp ít xâm lấn ở các trẻ sơ sinh non tháng 
đã xuất hiện do mối liên hệ giữa thông khí cơ 
học xâm lấn và sự phát sinh loạn sản phế quản 
phổi (BPD)(8,10,11,12). Một kỹ thuật ít xâm lấn được 
đề nghị đó là dùng đèn soi thanh quản bật nắp 
thanh môn và đưa một ống thông nhỏ vào khí 
quản. Surfactant được đưa vào phổi qua ống 
thông này. Hiện nay có nhiều loại ống thông 
được sử dụng và cách thức để đưa vào khác 
quản cũng khác nhau. Các loại ống thông sử 
dụng là ống nội khí quản 2,5, ống thông dạ dày 4 
– 5 – 6 F, ống thông mạch máu 16G, ống thông 
tĩnh mạch rốn, ống thông thiết kế đặt biệt để 
bơm Surfactant. Kỹ thuật đặt ống thông vào khí 
quản cũng khác nhau, có tác giả dùng kềm 
Magill để đưa ống thông vào khí quản, có tác giả 
thì không cần dùng kềm Magill. Điều này thay 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 289
đổi tuỳ vào loại ống thông được sử dụng cũng 
như kỹ năng thực hành lâm sàng của từng tác 
giả. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ống thông 
dạ dày 5 – 6 F được sử dụng và đưa trực tiếp vào 
khí quản qua đèn soi thanh quản mà không cần 
sử dụng kềm Magill. Lợi điểm là ống thông dạ 
dày là sẵn có, rẻ tiền trong khi ống thông mạch 
máu thì đắt tiền, ống thông thiết kế đặc biệt của 
tác giả Cristina Ramos-Navarro thì không sẵn có 
tại Việt nam. Còn với ống nội khí quản 2,5 thì 
đường kính trong của ống là 2,5 mm, đường 
kính ngoài là 4,1 mm, phần còn lại để trẻ thở khi 
làm thủ thuật nhỏ, trẻ thở khó khăn hơn. Ngoài 
ra ống thông dạ dày chúng tôi sử dụng đủ cứng 
để đưa trực tiếp vào khí quản mà không cần sử 
dụng kềm Magill, thao tác kỹ thuật đơn giản. 
Đây là những lợi điểm của 1 kỹ thuật. Trang 
thiết bị đơn giản dễ tìm, chi phí thấp và thao tác 
đơn giản dễ thực hiện. Chúng tôi ghi nhận ở tất 
cả các trường hợp ống thông đều được đưa vào 
khí quản đúng vị trí ở lần đặt đầu tiên và không 
có 1 tổn thương nào do ống thông này gây ra. 
Chúng tôi cũng ghi nhận rằng để thực hiện kỹ 
thuật này hiệu quả nhất đòi hỏi bác sĩ phải có 
kinh nghiệm cũng như kỹ năng thực hành lâm 
sàng thật tốt. Để giảm thiểu sự sai biệt trong kết 
quả nghiên cứu, các bác sĩ tham gia thực hiện kỹ 
thuật LISA trong nghiên cứu đều có quá trình 
làm việc trong lĩnh vực hồi sức sơ sinh non 
tháng trên 5 năm kinh nghiệm. Các bác sĩ này 
đều được tập huấn về kỹ thuật LISA và có kỹ 
năng thực hành lâm sàng tốt. Đối với các trẻ có 
bơm surfactant bằng kỹ thuật INSURE, chúng 
tôi chọn các trẻ đủ tiêu chuẩn vào nhóm chứng 
và được bơm surfactant bởi các bác sĩ thực hành 
tại khoa sơ sinh trên 5 năm kinh nghiệm và có kỹ 
năng thực hành lâm sàng tốt. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhu cầu 
thở máy trên 1 giờ ở bất kỳ thời điểm nào từ 
sau khi thực hiện thủ thuật cho đến khi xuất 
viện hoặc tử vong trong nhóm INSURE là 
18,87% và 20,75% ở nhóm LISA, sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê với p = 0,8 > 0,05. 
Trong đó nhu cầu thở máy hơn 1 giờ trong 3 
ngày đầu đời ở nhóm LISA thấp hơn nhóm 
INSURE (9,4% so với 15,1%). Tuy nhiên sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p = 0,37. 
Thời gian thở máy sau sanh trung bình là 68,78 
± 16,5 giờ ở nhóm INSURE và 140,79 ± 45 giờ ở 
nhóm LISA, p = 0,16. Kết quả này cũng phù 
hợp với các tác giả khác như Mohamma 
dizadeh và cộng sự 2015, thời gian thở máy 
hơn 1 giờ trong 3 ngày đầu đời ở nhóm 
INSURE là 15,85 và 10,5% ở nhóm LISA, sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p=0,99(17). 
Trong nghiên cứu của Bao và cộng sự thì thời 
gian thở máy trên 1 giờ trong 3 ngày đầu đời 
cũng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm 
INSURE và LISA (23,3% so với 17,0%, p = 
0,44)(2). Tổng thời gian thở máy trung bình 
trong nghiên cứu này là 4,9 ± 1,15 ngày ở 
nhóm INSURE và 5,4 ± 0,9 ngày ở nhóm LISA, 
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p= 
0,73. Thời gian thở máy trung bình thay đổi 
theo từng nghiên cứu. Có những nghiên cứu 
thời gian thở máy trung bình chỉ khoảng 1 
ngày, có những nghiên cứu thời gian thở máy 
trung bình có thể lên đến 20 ngày. Tuy nhiên ở 
hầu hết các nghiên cứu thì không có sự khác 
biệt giữa 2 nhóm điều trị INSURE và LISA. 
Về tính hiệu quả của việc bơm surfactant 
được đánh giá dựa vào sự giảm nhu cầu FiO2 
hơn 20%. Một trong các mục tiêu điều trị suy hô 
hấp đó chính là làm giảm nhu cầu oxy. Các bác 
sĩ lâm sàng lo ngại rằng, với kỹ thuật bơm 
surfactant ít xâm lấn, khi không dùng 1 áp lực 
dương để đẩy thuốc vào thì liệu rằng có đảm 
bảo thuốc vào được phế nang hay không. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, cả 2 nhóm đều có hiệu 
quả làm giảm FiO2 trên 20% sau bơm surfactant. 
Tuy nhiên nhóm LISA làm giảm FiO2 trên 20% 
cao hơn nhóm INSURE và sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê. Tỷ lệ giảm FiO2 trên 20% ở 
nhóm LISA là 90,57% và 71,7% ở nhóm INSURE, 
p=0,013. Trong 5 trường hợp không giảm được 
FiO2 trên 20% trong giờ đầu thì chỉ có 1 trường 
hợp phải đặt lại nội khí quản trong vòng 72 giờ 
sau sanh. Và trong tất cả các trường hợp bơm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 290
LISA, không có trường hợp nào phải đặt lại nội 
khí quản trong vòng 1 giờ sau bơm. So với 
nghiên cứu Christina Ramos – Navarro thì tỷ lệ 
này là 73,3% và sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê giữa 2 nhóm INSURE và LISA(19). Việc 
giảm được nhu cầu oxy trong vòng 1 giờ sau 
bơm surfactant điều trị suy hô hấp bệnh màng 
trong chứng tỏ surfactant ngoại sinh được cung 
cấp đủ. Chính việc giảm FiO2 trong vòng 1 giờ 
sau bơm cho thấy một trong các mục tiêu điều trị 
suy hô hấp đã đạt được. Ngược lại với sự lo lắng 
của các bác sĩ lâm sàng, việc nhỏ giọt surfactant 
vào phổi trong khi trẻ vẫn tự thở hoàn toàn sinh 
lý, không có chấn thương thể tích, không chấn 
thương áp lực cũng như không ảnh hưởng 
luồng khí hít vào thở ra của trẻ. Việc dùng thở 
máy xâm lấn trong lúc bơm surfactant cho thấy 
giảm hiệu quả của surfactant được bơm vào, góp 
phần vào sự phát sinh các biến chứng hô hấp(16). 
Một trong những vấn đề lo ngại của các 
bác sĩ lâm sàng dó là sự trào ngược surfactant 
trong quá trình thực hiện kỹ thuật, nhất là với 
kỹ thuật bơm ít xâm lấn, hoàn toàn không có 
thông khí cơ học. Surfactant được nhỏ giọt vào 
khí quản trong khi trẻ vẫn tự thở dưới hỗ trợ 
nCPAP. Đó là một trong những cản trở lớn 
nhất làm cho các bác sĩ lâm sàng không dám 
áp dụng kỹ thuật này. Tác giả Cam Ngọc 
Phượng ghi nhận 20% trẻ bị trào ngược 
surfactant khi bơm bằng kỹ thuật ít xâm lấn. 
Theo nghiên cứu của Kanmaz và cộng sự thì tỷ 
lệ trào ngược surfactant là 21%. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi tỷ lệ trào ngược surfactant là 
30,96%. Trong đó có những lần được ghi nhận 
là trào ngược lượng thuốc không đáng kể. 
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi ghi nhận 
sự trào ngược thuốc thường xảy ra trong 
trường hợp nhỏ giọt thuốc quá nhanh hoặc trẻ 
bị kích thích. Vì vậy cần tuân thủ thời gian nhỏ 
giọt surfactant và ổn định trẻ trong quá trình 
thực hiện kỹ thuật. Ngoài ra, trong các nghiên 
cứu khác có sử dụng an thần trong quá trình 
thực hiện kỹ thuật còn trong nghiên cứu của 
chúng tôi không sử dụng thuốc an thần trong 
quá trình thực hiện kỹ thuật. Mặc dù ghi nhận 
có trào ngược thuốc trong quá trình thực hiện 
kỹ thuật, tuy nhiên tỷ lệ giảm FiO2 trên 20% 
vẫn đạt 90,57% chứng tỏ việc cung cấp 
surfactant ngoại sinh vẫn đạt hiệu quả. 
Tỷ lệ viêm phổi, tràn khí màng phổi và tỷ lệ 
tử vong khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
giữa 2 nhóm LISA và INSURE. Điều này cũng 
phù hợp với các nghiên cứu khác. 
Số ngày nằm viện của nhóm LISA ít hơn số 
ngày nằm viện của nhóm INSURE và sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê. Số ngày nằm viện trung 
bình của nhóm INSURE và LISA tương ứng là 
33,2 ± 15,8 ngày và 26,5 ± 12,3 ngày, p=0,016. 
Trong nghiên cứu này, mặc dù tỷ lệ thở máy 
xâm lấn và thời gian thở máy không khác biệt 
giữa 2 nhóm điều trị, tuy nhiên tổng số ngày 
nằm viện của nhóm LISA ít hơn tổng số ngày 
nằm viện ở nhóm INSURE. Vì vậy chúng tôi tin 
rằng kỹ thuật này góp phần làm giảm chi phí 
điều trị, giảm quá tải cho khoa Sơ sinh. Việc rút 
ngắn thời gian nằm viện là một trong các chỉ tiêu 
cần đạt của bệnh viện. Nhất là trong hoàn cảnh 
hiện nay, sự quá tải của các bệnh viện đang là 
vấn đề cấp bách. Mọi nỗ lực nhằm giảm thời 
gian nằm viện góp phần làm giảm quá tải cho 
bệnh viện. Quá tải bệnh viện luôn là vấn đề đặc 
biệt được quan tâm bởi người dân, các nhân viên 
viên y tế và các nhà quản lý. Hệ lụy của việc 
nằm viện kéo dài là rất lớn. Đặc biệt tại các khoa 
săn sóc tăng cường, nằm viện kéo dài đồng 
nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ nhiễm trùng bệnh, 
gia tăng tỷ lệ các biến chứng và nhất là gia tăng 
tỷ lệ tử vong. Trong điều kiện còn hạn chế về cơ 
sở vật chất, nhân lực như hiện nay thì một kỹ 
thuật được chứng minh là có tính an toàn, hiệu 
quả, lại góp phần làm giảm thời gian nằm viện 
nên được lựa chọn. 
Lợi thế của nghiên cứu: Đây là nghiên cứu 
tiền cứu, dữ liệu cần thu thập được ghi đầy đủ 
trong hồ sơ bệnh án. Các bác sĩ tham gia nghiên 
cứu đều có thâm niên công tác trong lĩnh vực hồi 
sức sơ sinh non tháng trên 5 năm, đã được tập 
huấn về kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn. Các 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 291
trẻ được đưa vào nhóm chứng cũng được thực 
hiện kỹ thuật bởi các bác sĩ sơ sinh thực hành tại 
khoa Sơ sinh trên 2 năm và thành thạo bơm 
surfactant. Ống thông dạ dày sử dụng bơm 
surfactant ít xâm lấn sẵn có tại khoa. 
Hạn chế của nghiên cứu 
Thiết kế nghiên chưa đủ mạnh, không phải 
là một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu 
nhiên có đối chứng (RCT) vì vậy không đủ độ 
mạnh để đưa ra các bằng chứng, khẳng định hay 
khuyến cáo. Do hạn chế về thời gian cũng như 
nhân lực, cỡ mẫu chưa đủ lớn so với các nghiên 
cứu khác. 
KẾT LUẬN 
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi, 
chúng tôi tin rằng kỹ thuật bơm surfactant ít 
xâm lấn là khả thi, có thể thực hiện được, có hiệu 
quả giảm FiO2 trên 20% lên đến 90,57%, có thể 
có khả năng giảm được nhu cầu thở máy trong 
vòng 3 ngày đầu đời. Giảm thời gian nằm viện, 
giảm chi phí điều trị, giảm quá tải cho khoa Sơ 
sinh, góp phần nâng cao chất lượng điều trị trẻ 
sơ sinh non tháng, góp phần cải thiện kết cục của 
trẻ sơ sinh non tháng. Tuy nhiên cần có nhiều 
nghiên cứu với thiết kế nghiên cứu tốt hơn, cỡ 
mẫu lớn hơn để tìm ra sự khác biệt nếu có. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aguar M, Cernada M, Brugada M, Gimeno A, Gutierrez A, 
Vento M (2014). “Minimally invasive surfactant therapy with a 
gastric tube is as effective as the intubation, surfactant, and 
extubation technique in preterm babies”. Acta Paediatr, 
103(6):pp.e229-33. 
2. Bao Y, Zhang G, Wu M, Ma L, Zhu J (2015). “A pilot study of 
less invasive surfactant administration in very preterm infants 
in a Chinese tertiary center”. BMC Pediatrics, 15(1):pp.21. 
3. Bohlin K (2012). “RDS-CPAP or surfactant or both”. Acta 
Pediatrica, 101:pp.24–28. 
4. Cam Ngọc Phượng (2017). “Bước đầu sử dụng liệu pháp 
surfactant ít xâm lấn”. Hội chu sinh – Sơ sinh Tp Hồ Chí Minh, 
www//panah.vn. 
5. Dargaville PA, Gerber A, Johansson S, et al (2016). Incidence 
and Outcome of CPAP Failure in Preterm Infants. Pediatrics, 
pp.138. 
6. Dunn MS, Jefferies AL (2012). Recommendations for neonatal 
surfactant therapy – addendum. Paediatrics & Child Health, 
17(3):pp.137-8. 
7. Finer NN, Merritt TA, Bernstein G, Job L, Mazela J, Segal R 
(2010). An open label, pilot study of Aerosurf® combined with 
nCPAP to prevent RDS in preterm neonates. J Aerosol Med Pulm 
Drug Deliv, 23(5):pp.303-9. 
8. Fischer HS, Buhrer C (2013). Avoiding endotracheal ventilation 
to prevent bronchopulmonary dysplasia: a meta-analysis. 
Pediatrics, 132(5): pp.e1351–e1360. 
9. Göpel W, Kribs A, Herting E (2016). Less Invasive Surfactant 
Administration (LISA) for the Prevention of 
Bronchopulmonary. In: Bronchopulmonary Dysplasia. Humana 
Press Cham, pp.315-324. 
10. Ioannidis JP, Horbar JD, Ovelman CM, Brosseau Y, Thorlund K, 
Buus-Frank ME, Mills EJ, Soll RF (2015). Completeness of main 
outcomes across randomized trials in entire discipline: survey of 
chronic lung disease outcomes in preterm infants. BMJ, 
350:pp.h72. 
11. Isayama T, Chai-Adisaksopha C, McDonald SD (2015). 
Noninvasive ventilation with vs without early surfactant to 
prevent chronic lung disease in preterm infants: a systematic 
review and meta-analysis. JAMA Pediatrics, 169(8):pp.731-9. 
12. Isayama T, Iwami H, McDonald S, Beyene J (2016). Association 
of noninvasive ventilation strategies with mortality and 
bronchopulmonary dysplasia among preterm infants: A 
systematic review and meta-analysis. JAMA, 316(6):pp.611-24. 
13. Kattwinkel J, Robinson M, Bloom BT, Delmore P, Ferguson JE 
(2004). Technique for Intrapartum Administration of Surfactant 
without Requirement for an Endotracheal Tube. J Perinatol, 
24(6):pp.360-5. 
14. Klotz D, Porcaro U, Fleck T, Fuchs H (2017). European 
perspective on less invasive surfactant administration-a survey. 
Eur J Pediatr, 176(2): pp.147-154. 
15. Lau CS, Chamberlain RS, Sun S (2017). “Less Invasive 
Surfactant Administration Reduces the Need for Mechanical 
Ventilation in Preterm Infants”. Global Pediatric Health. (4). 
16. Martin R (2018). Prevention and treatment of respiratory 
distress syndrome in preterm infants. Uptodate, 
https://www.uptodate.com/contents/prevention-and-treatment-
of-respiratory-distress-syndrome-in-preterm-infants. 
17. Mohammadizadeh M, Ardestani AG, Sadeghnia AR (2015). 
Early administration of surfactant via a thin intratracheal 
catheter in preterm infants with respiratory distress syndrome: 
Feasibility and outcome. Journal of Research in Pharmacy Practice, 
4(1):pp.31-6. 
18. Papile LA, Baley JE, Benitz W, Cummings J, Eichenwald E, 
Kumar P, Wang LS. (2014). “Respiratory support in preterm 
infants at birth”. Pediatrics, 133(1):pp.171-4. 
19. Ramos-Navarro C, Zeballos–Sarrato S, Sánchez–Luna M, 
González–Pacheco N (2016). “Less invasive beractant 
administration in preterm infants: a pilot study”. Clinics, 
71(3):pp.128–134. 
Ngày nhận bài báo: 22/01/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/01/2019 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019