Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 201
HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT HÍT 
VÀ SỬ DỤNG BÌNH XỊT ĐỊNH LIỀU CHO NGƯỜI BỆNH HEN PHẾ QUẢN 
Nguyễn Văn Chường*, Trần Thiện Trung**, Ann Henderson*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Hen phế quản (HPQ) là một bệnh hô hấp mạn tính thường gặp và nghiêm trọng, phổ biến trên 
toàn thế giới, ảnh hưởng đến 1-18% dân số ở các quốc gia khác nhau. Thuốc dạng hít là phương pháp điều trị 
hiệu quả nhất để giúp kiểm soát triệu chứng của bệnh HPQ, tránh các cơn hen nặng kịch phát và cải thiện chất 
lượng cuộc sống của người bệnh. Trong các loại thuốc dạng hít, bình xịt định liều (BXĐL) là thiết bị được sử 
dụng phổ biến nhất. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy nhiều người bệnh HPQ sử dụng thuốc hít không đúng 
và sau các chương trình can thiệp, giáo dục thì tăng đáng kể tỉ lệ người bệnh sử dụng thuốc hít đúng kĩ thuật, 
tuân thủ sử dụng thuốc hít trong điều trị và kiểm soát cơn hen. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng BXĐL thông qua kỹ thuật 
hít và mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh HPQ trước và sau can thiệp. 
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu bán thực nghiệm đánh giá trước sau can thiệp, 64 người 
bệnh HPQ đủ 18 tuổi trở lên đến khám và điều trị tại khoa Khám bệnh và khoa Nội tổng quát thần kinh Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa từ tháng 02/2019 đến tháng 06/2019. Tất cả người bệnh được đánh giá kỹ thuật 
sử dụng bình xịt định liều và mức độ kiểm soát cơn hen bằng test kiểm soát hen ACT (Asthma Control Test) 
trước chương trình can thiệp và sau 1 tháng. 
Kết quả: Tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật BXĐL trước khi được can thiệp chiếm 32,4% thấp hơn 
so với 78,1% người bệnh sau khi can thiệp, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê với p <0,001. Điểm trung bình kiểm 
soát cơn hen trước can thiệp là 17,4 ± 4,6 thấp hơn so với điểm trung bình kiểm soát cơn hen sau can thiệp là 
20,6±3,1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001. 
Kết luận: Chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng BXĐL của điều dưỡng đã cải thiện đáng kể kỹ 
thuật sử dụng BXĐL đúng cho người bệnh HPQ, góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát hen của người bệnh. 
Từ khóa: hen phế quản, bình xịt định liều, kỹ thuật hít, kiểm soát cơn hen 
ABSTRACT 
EFFECTIVENESS OF THE GUIDING PROGRAM OF INHALER TECHNIQUE 
AND USING METERED DOSE INHALER FOR ASTHMA PATIENTS 
Nguyen Van Chuong, Tran Thien Trung, Ann Henderson 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 201 – 206 
Background: Asthma is a chronic and severe respiratory illness, common throughout the world, affecting 
around 1-18% of the population in different countries. Inhalation therapy is the most effective treatment to help 
control the symptoms of asthma, to prevent severe asthma attacks and to improve the quality of life for patients. In 
these types of inhalers, metered dose inhaler (MDI) is the device most commonly used. However, studies in the 
world and in Vietnam showed that many asthma patients use inhalers incorrectly and after the intervention and 
education programs significant increase in the rate of patients use inhalers properly techniques, compliance with 
inhalant use in the treatment and control of asthma. 
*Trường Cao đẳng Sư phạm Trung Ương Nha Trang 
**Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ***University of Northern Colorado – School of Nursing 
Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Văn Chường ĐT: 0777777359 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 202
Objective: Evaluate the effectiveness of the guiding program of inhaler technique and use metered dose 
inhaler through the inhalation technique and the levels of asthma control before and after intervention. 
Subjects and Methods: Quasi-experimental study, sixty-four patients asthma are 18 years or older to be 
examined and treated at the Outpatient Department and General Medicine Department at Khanh Hoa General 
Hospital from February to June 2019. All patients were evaluated technical use of the MDI and the level of 
asthma control with asthma control test (ACT) before intervention and after 1 month. 
Results: The proportion of patients practice correctly MDI techniques before intervention accounted for 
32.4% lower than 78.1% of patients after intervention, the improvement was statistically significant with 
p<0.001 (χ2). The mean score level of asthma control before intervention was 17.4 ± 4.6 lower than the mean 
score level of asthma control after intervention was 20.6 ± 3.1, the difference was statistically significant 
with p <0.001 (χ2). 
Conclusions: The guiding program of inhaler technique and use MDI of nurse has significantly improved 
the technique of using the correct MDI for asthma patients, contributing to improving the effectiveness of asthma 
control of patients. 
Key word: asthma, MDI, inhaler technique, asthma control 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hen phế quản (HPQ) là một bệnh hô hấp 
mạn tính thường gặp và nghiêm trọng, phổ biến 
trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến 1-18% dân số 
ở các quốc gia khác nhau(12). Tại Việt Nam, tỷ lệ 
mắc HPQ là 4,1%, trong đó ở trẻ em là 3,2% và 
người lớn là 4,3%(13). Bệnh HPQ gây nên một 
gánh nặng lớn cho người bệnh, gia đình và cộng 
đồng, vì gây ra các triệu chứng hô hấp, ảnh 
hưởng đến hoạt động, đôi khi xuất hiện các cơn 
hen kịch phát cần phải chăm sóc y tế khẩn cấp 
và có thể gây tử vong(12). 
Thuốc dạng hít là phương pháp điều trị hiệu 
quả nhất để giúp kiểm soát triệu chứng của bệnh 
HPQ, tránh các cơn hen nặng kịch phát và cải 
thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Ưu 
điểm của việc sử dụng thuốc đường hít là thuốc 
được phân bố trực tiếp đến đường hô hấp, có tác 
dụng nhanh, liều lượng thấp, hạn chế tác dụng 
phụ toàn thân và có thể mang theo bên người(6). 
Trong các loại thuốc dạng hít, bình xịt định liều 
(BXĐL) là thiết bị được sử dụng phổ biến nhất. 
Theo sáng kiến toàn cầu về hen phế quản 
(GINA) năm 2017, 80% người bệnh hen không 
sử dụng thuốc hít đúng cách, khoảng 50% người 
bệnh kể cả người lớn và trẻ em không tuân thủ 
việc dùng thuốc được kê toa để kiểm soát cơn 
hen, chính điều này đã làm cho việc kiểm soát 
triệu chứng kém và tăng số cơn hen kịch phát(12). 
Mặc dù hiện nay tại Việt Nam có nhiều bệnh 
viện đã triển khai các mô hình tuyên truyền giáo 
dục sức khỏe cho người bệnh hen như: Câu lạc 
bộ bệnh nhân hen phế quản, phòng khám và tư 
vấn bệnh hen để nâng cao nhận thức, kỹ năng 
thực hành sử dụng thực hành thuốc đúng và hỗ 
trợ kiểm soát cơn hen cho người bệnh HPQ(3). 
Tuy nhiên, với mục đích đánh giá hiệu quả 
công tác hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng bình 
xịt định liều của điều dưỡng nhằm nâng cao hơn 
nữa kỹ thuật hít và sử dụng BXĐL trong điều trị 
và kiểm soát cơn hen của người bệnh HPQ. 
Chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu hiệu quả 
chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng 
bình xịt định liều cho người bệnh hen phế quản” 
với các mục tiêu: 
Xác định tỷ lệ người bệnh HPQ sử dụng 
đúng kỹ thuật BXĐL trước và sau can thiệp. 
Xác định mức độ kiểm soát cơn hen của 
người bệnh HPQ trước và sau can thiệp bằng 
test kiểm soát hen ACT (Asthma Control Test). 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Người bệnh đủ 18 tuổi trở lên đến khám và 
điều trị HPQ tại khoa Khám bệnh, khoa Nội 
tổng quát thần kinh Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 203
Khánh Hòa, thời gian từ tháng 02/2019 - 6/2019. 
Tiêu chí chọn vào 
Người bệnh đủ 18 tuổi trở lên. 
Chẩn đoán hen phế quản. 
Đang sử dụng BXĐL. 
Không có hoặc đã qua cơn hen nặng. 
Tiêu chí loại ra 
Chưa từng sử dụng BXĐL. 
Người bệnh không thể thực hiện động tác ấn 
xịt thuốc. 
Người bệnh bị mù hoặc điếc. 
Đang trong cơn hen nặng. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu bán thực nghiệm đánh giá trước 
sau can thiệp với 64 người bệnh HPQ. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Chọn mẫu theo tiêu chí chọn vào. 
Thu thập số liệu bằng phương pháp phỏng 
vấn thông tin cá nhân, quan sát trực tiếp người 
bệnh thực hiện kỹ thuật sử dụng BXĐL và người 
bệnh tự đánh giá mức độ kiểm soát cơn hen 
bằng test kiểm soát hen ACT theo bộ câu hỏi 
được thiết kế sẵn. 
Nghiên cứu viên hướng dẫn kỹ thuật sử 
dụng BXĐL đúng cho người bệnh. Phương pháp 
hướng dẫn gồm: 
+ Hướng dẫn từng kỹ thuật bằng lời nói. 
+ Minh họa kỹ thuật bằng tờ thông tin về 
cách sử dụng BXĐL. 
+ Thực hiện minh họa kỹ thuật động tác cho 
người bệnh xem. 
Sau 1 tháng, đánh giá lại kỹ thuật sử dụng 
BXĐL theo bảng kiểm và mức độ kiểm soát cơn 
hen bằng test kiểm soát hen ACT. 
Cách đánh giá: 
+ Đánh giá kỹ thuật sử dụng BXĐL (6 bước): 
Mỗi bước thực hành kỹ thuật BXĐL của người 
bệnh sẽ được đánh giá đúng và sai. Đánh giá 
thực hiện đúng kỹ thuật khi người bệnh thực 
hiện đúng từ 5 bước trở lên. 
+ Đánh giá mức độ kiểm soát cơn hen dựa 
vào test ACT: 
25 điểm: Hen được kiểm soát hoàn toàn. 
20-24 điểm: Hen được kiểm soát tốt. 
<20 điểm: Hen chưa được kiểm soát. 
Phân tích dữ liệu 
Quản lý số liệu và phân tích dữ liệu bằng 
phần mềm SPSS 22.0. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Y 
đức Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số 
37/ĐHYD-HĐĐĐ. 
KẾT QUẢ 
Qua nghiên cứu trên 64 người bệnh HPQ tại 
khoa Khám bệnh, khoa Nội tổng quát thần kinh 
bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa trong thời 
gian từ tháng 02/2019 đến tháng 06/2019. Kết quả 
nghiên cứu được trình bày như sau: 
Đặc điểm người bệnh hen phế quản 
Bảng 1. Đặc điểm người bệnh HPQ (n=64) 
Đặc điểm người bệnh HPQ 
Số người 
bệnh 
Tỷ lệ (%) 
Tuổi TB ± ĐLC (53,7 ± 13,7) 
18-40 12 18,8 
41-60 28 43,7 
>60 24 37,5 
Giới 
Nam 29 45,3 
Nữ 35 54,7 
Nơi cư trú 
Thành phố Nha Trang 53 82,8 
Khác 11 17,2 
Trình độ học vấn 
≤ Tiểu học 10 15,6 
Trung học cơ sở 12 18,8 
Trung học phổ thông 25 39,0 
Trung cấp/ CĐ/ĐH/ Sau ĐH 17 26,6 
Nghề nghiệp 
Hưu trí/già 17 26,5 
Cán bộ viên chức 10 15,6 
Công nhân 6 9,4 
Nông dân 2 3,1 
Kinh doanh/buôn bán 9 14,1 
Nội trợ 6 9,4 
Khác 14 21,9 
Số năm mắc bệnh HPQ 
< 5 năm 18 28,1 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 204
Đặc điểm người bệnh HPQ 
Số người 
bệnh 
Tỷ lệ (%) 
5- 10 năm 18 28,1 
> 10 năm 28 43,8 
Thời gian sử dụng BXĐL 
< 1 năm 5 7,8 
1-5 năm 21 32,8 
> 5 năm 38 59,4 
Người hướng dẫn kỹ thuật sử dụng BXĐL 
Người bệnh tự tham khảo 11 17,2 
Bác sĩ 41 64,1 
Điều dưỡng 7 10,9 
Nhân viên nhà thuốc 5 7,8 
Khác 0 0 
Tuổi trung bình của người bệnh trong 
nghiên cứu là 53,7 tuổi, nhóm tuổi từ 41-60 
chiếm tỷ lệ cao nhất 43,7%. Tỷ lệ nữ chiếm 54,7% 
cao hơn so với nam chiếm tỷ lệ 45,3%. Số người 
bệnh có thời gian sử dụng BXĐL trên 5 năm 
chiếm tỷ lệ cao nhất 59,4% và phần lớn người 
bệnh được bác sĩ hướng dẫn sử dụng BXĐL 
chiếm 64,1% (Bảng 1). 
Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện đúng 
kỹ thuật sử dụng BXĐL trước và sau can thiệp 
Trước can thiệp, người bệnh thực hiện đúng 
bước 5 (Hít vào chậm và sâu qua miệng đồng 
thời ấn bình xịt) chiếm tỷ lệ thấp nhất là 39,1%. 
Sau can thiệp, tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng 
bước 5 tăng lên 76,7%, sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê p <0,001 (χ2) (Bảng 2). 
Tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật 
BXĐL trước khi được can thiệp chiếm 32,4% 
thấp hơn so với 78,1% người bệnh sau khi can 
thiệp, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê với 
p<0,001 (χ2) (Bảng 3). 
Bảng 2. Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện đúng từng bước kỹ thuật sử dụng BXĐL 
Stt Trình tự các bước kỹ thuật sử dụng BXĐL 
Trước can thiệp Sau can thiệp 
P 
Số NB (n=64) Tỷ lệ (%) Số NB (n=64) Tỷ lệ (%) 
1 Mở nắp bình xịt 58 90,6 62 96,9 0,289 
2 Giữ bình thẳng, lắc kỹ 41 64,1 57 89,1 0,002 
3 Thở ra chậm 38 59,4 53 82,8 0,006 
4 Ngậm kín miệng ống 42 65,6 56 87,5 0,007 
5 Hít vào chậm và sâu qua miệng đồng thời ấn bình xịt 25 39,1 49 76,6 0,001 
6 Nín thở 10 giây 36 56,3 50 78,1 0,029 
Bảng 3. Tỷ lệ người bệnh hen phế quản sử dụng 
đúng kỹ thuật BXĐL 
Stt 
Sử dụng kỹ 
thuật BXĐL 
Trước can thiệp Sau can thiệp 
P Số NB 
(n=64) 
Tỷ lệ 
(%) 
Số NB 
(n=64) 
Tỷ lệ 
(%) 
1 Đúng kỹ thuật 22 32,4 50 78,1 <0,001 
2 
Chưa đúng 
kỹ thuật 
42 65,6 14 21,9 
Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh hen 
phế quản theo ACT 
Điểm trung bình kiểm soát cơn hen trước can 
thiệp là 17,4±4,6 thấp hơn so với điểm trung bình 
kiểm soát cơn hen sau can thiệp là 20,6±3,1, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001 (Bảng 4). 
Bảng 4. Điểm trung bình giữa điểm kiểm soát cơn 
hen trước can thiệp và sau can thiệp (n=64) 
Điểm kiểm soát cơn hen 
p Trước can thiệp 
(TB ± ĐLC) 
Sau can thiệp 
(TB ± ĐLC) 
17,4 ± 4,6 20,6±3,1 < 0,001 
Tỷ lệ người bệnh kiểm soát hen hoàn toàn 
trước can thiệp là 7,8% thấp hơn so với 17,2% 
sau can thiệp, tỷ lệ người bệnh không kiểm soát 
cơn hen giảm từ 67,2% trước can thiệp xuống 
35,9% sau can thiệp. Sự cải thiện về mức độ kiểm 
soát hen hoàn toàn và không kiểm soát có ý 
nghĩa thống kê với p <0,001 (Bảng 5). 
Bảng 5. Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh hen phế quản theo ACT 
Mức độ kiểm soát cơn hen 
Trước can thiệp Sau can thiệp 
p 
Số NB(n=64) Tỷ lệ(%) TB±ĐLC Số NB(n=64) Tỷ lệ(%) TB±ĐLC 
Kiểm soát hoàn toàn 5 7,8 25,0 11 17,2 25,0 <0,001 
Kiểm soát tốt 16 25,0 22,0±1,6 30 46,9 21,4±1,3 0,148 
Không kiểm soát 43 67,2 14,8±2,9 23 35,9 17,3±1,8 <0,001 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 205
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, người bệnh 
HPQ có tuổi trung bình là 53,7 ± 13,7, tuổi thấp 
nhất là 22 tuổi và cao nhất là 82 tuổi. Tỷ lệ nữ 
chiếm 54,7% cao hơn so với nam chiếm tỷ lệ 
45,3% và đa số người bệnh cư trú ở Thành phố 
Nha Trang với tỷ lệ 82,8%. Người bệnh có trình 
độ THPT trở lên chiếm đa số 65,6%, đây là một 
điểm thuận lợi cho việc hướng dẫn kỹ thuật hít 
và sử dụng BXĐL cho người bệnh. 
Số người bệnh có thời gian sử dụng BXĐL 
trên 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 59,4% và phần 
lớn người bệnh được bác sĩ hướng dẫn sử dụng 
BXĐL chiếm 64,1%, chỉ có 10,9% người bệnh 
được điều dưỡng hướng dẫn sử dụng BXĐL. 
Điều này cho thấy, việc hướng dẫn kỹ thuật sử 
dụng thuốc hít cho người bệnh chủ yếu đến từ 
bác sĩ, điều dưỡng có hướng dẫn cho người bệnh 
nhưng còn thấp, trong khi đó điều dưỡng có 
nhiều thời gian tiếp xúc với người bệnh trong 
quá trình tiếp nhận bệnh và theo dõi chăm sóc. 
Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện đúng 
kỹ thuật sử dụng BXĐL trước và sau can thiệp 
Trước can thiệp 
Trên 64 người bệnh tham gia nghiên cứu 
không có người bệnh nào thực hiện đúng hoàn 
toàn các bước kỹ thuật sử dụng BXĐL theo 
bảng kiểm nghiên của chúng tôi. Trong các 
bước kỹ thuật sử dụng BXĐL, tỷ lệ người bệnh 
thực hiện đúng kỹ thuật bước 5 (hít vào chậm 
và sâu qua miệng đồng thời ấn bình xịt) là 
thấp nhất chiếm 39,1%, lỗi người bệnh hay 
mắc phải là hít vào nhanh và nông, ấn và hít 
không đồng bộ. Chỉ có 56,3% người bệnh thực 
hiện đúng kỹ thuật bước 6, do người bệnh 
không nín thở lại hoặc nín thở ít hơn. Tỷ lệ 
thực hiện đúng ở bước 3 là 59,4%, lỗi gặp phải 
do người bệnh không thở ra trước khi hít. 
Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện 
đúng từng bước kỹ thuật sử dụng BXĐL trước 
can thiệp trong nghiên cứu của chúng tôi 
tương đồng với tác giả Phạm Thị Thanh 
Thúy(7), tuy nhiên có sự khác biệt với các tác 
giả Jolly(5), Sanchis(10), Sodhi(11). Sự khác biệt 
này có thể lý giải do sự khác nhau về địa điểm 
nơi nghiên cứu, độ tuổi và trình độ học vấn 
của đối tượng nghiên cứu. Do đó khi hướng 
dẫn kỹ thuật sử dụng BXĐL nhân viên y tế cần 
chú ý nhấn mạnh các bước hay sai và lỗi người 
bệnh hay gặp để họ có thể thực hành chính xác 
và đạt hiệu quả cao. 
Sau can thiệp 
Kỹ thuật sử dụng BXĐL của 64 người bệnh 
trong nghiên cứu của chúng tôi đã cải thiện rõ ở 
từng bước kỹ thuật. Cụ thể: tỷ lệ người bệnh 
thực hiện đúng bước 2 tăng từ 64,1% lên 89,1%, 
tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng bước 3 tăng từ 
59,4% lên 82,8%, tỷ lệ thực hiện đúng bước 4 
tăng từ 65,6% lên 87,5%, tỷ lệ người bệnh thực 
hiện đúng kỹ thuật BXĐL ở bước 5 tăng từ 39,1% 
lên 76,6%, người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật 
bước 6 sau khi được hướng dẫn tăng lên 78,1% 
và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <0,05). 
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi 
tương đồng với nghiên cứu của Phạm Thị Thanh 
Thúy(7) và Al-Kalalde(1) cho thấy các lỗi sai 
thường gặp của người bệnh khi sử dụng BXĐL 
có sự cải thiện đáng kể sau khi nhận được 
chương trình giáo dục sức khỏe. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho 
thấy tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật 
BXĐL sau khi được can thiệp chiếm 78,1% cao 
hơn so với 32,4% người bệnh trước khi can thiệp, 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001. 
Kết quả này tương đồng với tác giả Phạm Thị 
Thanh Thúy(7), Harnett(4) tuy nhiên cao hơn so 
với nghiên cứu của tác giả Rodrigue(9). 
Như vậy, qua các nghiên cứu đã khẳng định 
rằng tỷ lệ người bệnh sử dụng thuốc hít đúng kỹ 
thuật sẽ giảm dần theo thời gian nếu người bệnh 
không được thường xuyên kiểm tra, đánh giá lại, 
ngay cả ở những người bệnh đã có kinh nghiệm 
lâu năm sử dụng thuốc hít(4,5). Vì vậy cần thiết 
phải giáo dục thường xuyên, giáo dục lại kỹ 
thuật sử dụng thuốc hít trong suốt cuộc đời của 
người bệnh. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 206
Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh hen 
phế quản theo ACT 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
mức độ kiểm soát hen hoàn toàn của người bệnh 
trước can thiệp là 7,8% thấp hơn so với 17,2% 
sau can thiệp. Tương tự, mức độ kiểm soát hen 
tốt của người bệnh trước can thiệp là 25% tăng 
lên 46,9% sau khi can thiệp. Tỷ lệ người bệnh 
không kiểm soát cơn hen giảm từ 67,2% trước 
can thiệp xuống 35,9% sau can thiệp. Sự cải thiện 
về mức độ kiểm soát hen hoàn toàn và không 
kiểm soát có ý nghĩa thống kê với p <0,001. 
Điểm trung bình kiểm soát cơn hen trước 
can thiệp là 17,4 ± 4,6 thấp hơn so với điểm trung 
bình kiểm soát cơn hen sau can thiệp là 20,6 ± 
3,1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. 
Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh theo 
ACT trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so 
với tác giả Yildiz(14) nhưng cao hơn so với nghiên 
cứu của Rodrigues(9), tuy nhiên đều cho thấy 
người bệnh HPQ có sự cải thiện mức độ kiểm 
soát cơn hen sau các chương trình giáo dục về kỹ 
thuật hít và sử dụng BXĐL. 
Các nghiên cứu cũng khẳng định kỹ thuật 
hít không đúng cách và không chính xác làm 
phức tạp việc kiểm soát hen, giáo dục người 
bệnh sử dụng đúng kỹ thuật thuốc hít không 
chỉ cải thiện việc kiểm soát các triệu chứng của 
bệnh HPQ mà còn cho phép giảm liều trong 
thời gian dài(2,8). 
KẾT LUẬN 
Chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử 
dụng BXĐL của điều dưỡng đã cải thiện đáng kể 
kỹ thuật sử dụng BXĐL đúng cho người bệnh 
HPQ, góp phần nâng cao hiệu quả mức độ kiểm 
soát hen của người bệnh. 
Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ lớn người 
bệnh sử dụng BXĐL chưa đúng kỹ thuật, đặc 
biệt là các bước quan trọng quyết định đến 
hiệu quả sử dụng thuốc. Do đó, nhân viên y tế 
đặc biệt là điều dưỡng thường xuyên kiểm tra 
và hướng dẫn kỹ thuật sử dụng thuốc hít của 
người bệnh mỗi lần tái khám hoặc nhập viện 
để đảm bảo người bệnh có kỹ thuật sử dụng 
thuốc hít thuần thục. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Al-Kalaldeh M, El-Rahman M A, El-Ata A (2016). "Effectiveness 
of nurse-driven inhaler education on inhaler proficiency and 
compliance among obstructive lung disease patients: A quasi-
experimental study". Canadian Journal of Nursing Research, 
48(2):48-55. 
2. Arora P, Kumar L, Vohra V, et al (2014). "Evaluating the 
technique of using inhalation device in COPD and bronchial 
asthma patients". Respiratory Medicine, 108(7):992-8. 
3. Bùi Thị Hương, Bùi Văn Dân, Hoàng Thị Lâm (2016). "Đánh giá 
mức độ kiểm soát hen bằng ACT đối với bệnh nhân câu lạc bộ 
hen bệnh viện đại học Y Hà Nội". Tạp chí Nghiên cứu Y học, 
99(1):131-136. 
4. Harnett CM, Hunt EB, Bowen BR, et al (2014). "A study to assess 
inhaler technique and its potential impact on asthma control in 
patients attending an asthma clinic". Journal of Asthma, 51(4):440-5. 
5. Jolly GP, Mohan A, Guleria R, et al (2015). "Evaluation of 
metered dose inhaler use technique and response to educational 
training". Indian Journal of Chest Diseases and Allied Sciences, 
57(1):17-20. 
6. Neininger M P, Kaune A, Bertsche A, et al (2015). "How to 
improve prescription of inhaled salbutamol by providing 
standardised feedback on administration: a controlled 
intervention pilot study with follow-up". BMC Health Services 
Research, 15:40. 
7. Phạm Thị Thanh Thúy (2018). "Hiệu quả giáo dục sức khỏe của 
điều dưỡng nâng cao kiến thức về bệnh và thực hành sử dụng 
dụng cụ hít ở người lớn mắc bệnh hen". Đại học Y Dược TP. Hồ 
Chí Minh. 
8. Purohit AN, Patel PP, Gandhi AM, et al (2017). "An evaluation 
of impact of educational interventions on the technique of use of 
metered-dose inhaler by patients". Indian Journal of Pharmacology, 
49(2):194-200. 
9. Rodrigues C D B, Pereira R P, Dalcin PTR (2013). "Effects of an 
outpatient education program in patients with uncontrolled 
asthma". Jornal Brasileiro de Pneumologia, 39(3):272-279. 
10. Sanchis J, Gich I, Pedersen S (2016). "Systematic review of errors 
in inhaler use: Has patient technique improved over time?" 
Chest, 150(2):394-406. 
11. Sodhi MK (2017). "Incorrect inhaler techniques in Western India: 
still a common problem". International Journal of Research in 
Medical Sciences, 5(8):3461-3465. 
12. The Global Strategy for asthma management and prevention 
global innitiative for asthma (2017). Pocket guide for asthma 
Management and Prevention (for Adults and children older 
than 5 years). GINA, pp.1-135. 
13. Trần Thúy Hạnh, Nguyễn Văn Đoàn (2011). "Dịch tễ học và tình 
hình kiểm soát hen ở người trưởng thành Việt Nam". Tạp chí Y 
tế Công cộng, 4(2):123. 
14. Yildiz F (2014). "Importance of inhaler device use status in the 
control of asthma in adults: the asthma inhaler treatment study". 
Respiratory Care, 59(2):223-30. 
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019