Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 207
HIỆU QUẢ CHẾ ĐỘ ĐẶC SỚM CẢI THIỆN NHU ĐỘNG RUỘT 
SAU MỔ LẤY THAI BẰNG PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ TỦY SỐNG 
Nguyễn Thị Lan*, Trần Thiện Trung**, Jane Dimmitt Champion*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Sản phụ sau mổ lấy thai có triệu chứng liệt ruột tạm thời, điều này kéo dài thời gian phục hồi 
sức khỏe của sản phụ. Sự phục hồi nhu động ruột của sản phụ sau mổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có chế 
độ ăn và thời gian bắt đầu cho sản phụ ăn. Việc cho sản phụ ăn sớm và chế độ ăn đặc sẽ giúp sản phụ sớm phục 
hồi nhu động ruột, giảm chi phí điều trị so với chế độ truyền thống. 
Mục tiêu: Khảo sát hiệu quả chế độ ăn đặc sớm phục hồi nhu động ruột trên sản phụ sau mổ lấy thai bằng 
gây tê tủy sống. 
Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện từ 01/4/2019 đến 30/5/2019 tại Bệnh 
viện đa khoa Trần Văn Thời. Chúng tôi nghiên cứu sự phục hồi nhu động ruột sau mổ lấy thai bằng phương 
pháp gây tê tủy sống trên hai nhóm sản phụ nhận chỉ định chế độ ăn từ bác sĩ điều trị. Một nhóm sản phụ được 
chỉ định ăn theo chế độ truyền thống và một nhóm sản phụ được chỉ định ăn đặc sớm. Sản phụ được điều dưỡng 
chăm sóc trực tiếp theo dõi ghi nhận thời gian phục hồi âm ruột, trung tiện. Kết quả được so sánh giữa hai nhóm. 
Kết quả: Thời gian phục hồi âm ruột, trung tiện của sản phụ trong nhóm ăn đặc sớm lần lượt là 12 giờ 37 
phút ± 01 giờ 37 phút và 24 giờ 27 phút ± 03 giờ 13 phút, sớm hơn so với nhóm sản phụ thực hiện theo chế độ ăn 
truyền thống là 13 giờ 29 phút ± 01 giờ 29 phút và 29 giờ 12 phút ± 05 giờ 08 phút với (p < 0,05). 
Kết luận: Chế độ ăn đặc sớm giúp sản phụ sau mổ lấy thai phục hồi nhu động ruột sớm hơn so với chế độ ăn 
truyền thống. Không có sự khác biệt về triệu chứng rối loạn tiêu hóa giữa hai nhóm. 
Từ khóa: mổ lấy thai, ăn sớm sau mổ 
ABSTRACT 
EFFICACY EARLY DIET IMPROVES INTESTINAL MOTILITY 
AFTER CAESAREAN SECTION BY SPINAL ANESTHESIA 
Nguyen Thi Lan, Tran Thien Trung, Jane Dimmitt Champion 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 207 – 211 
Background: Women after caesarean section has temporary intestinal paralysis. This extends the recovery 
time for pregnant women. The recovery of intestinal motility of pregnant women after surgery depends on many 
factors including diet and start time for women to eat. Early feeding and solid diet will help pregnant women 
recover early intestinal motility, reduce treatment costs compared to traditional regimes. 
Objectives: To effectively investigate the early diet to restore intestinal motility in women after cesarean 
section with spinal anesthesia. 
Method: Cross-sectional study describing implementation from April 1, 2019 to May 30, 2019 at Tran Van 
Thoi General Hospital. We investigated the recovery of intestinal motility after caesarean section of two groups of 
women receiving the diets from the treating doctor. A group of women is assigned to a traditional diet and a 
group early diet. The women will be taken care of directly by nurses and recorded the time of bowel sound, passage 
flatus. The results were compared between the two groups. 
*Bộ môn Điều dưỡng - Khoa Y, Trường Cao đẳng Y tế Cà Mau 
** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ***Điều dưỡng, Friendship Bridge Group – USA 
Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Thị Lan ĐT: 0944011792 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 208
Results: The time of bowel sound and passage flatus in women in the group of early diet was 12 hours 37 
minutes ± 01 hours 37 minutes and 24 hours 27 minutes ± 03 hours 13 minutes, earlier than the group of women 
follow traditional food was 13 hours 29 minutes ± 01 hours 29 minutes and 29 hours 12 minutes ± 05 hours 08 
minutes (p <0.05). 
Conclusion: Early diet helps women after cesarean section to restore intestinal motility earlier than 
traditional diets. There are no differences in symptoms of gastrointestinal disorders between the two groups. 
Keywords: Caesarean section, early feeding after surgery. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mổ lấy thai là một trong những phẫu thuật 
phổ biến và ngày càng gia tăng. Thống kê của Tổ 
chức Y tế thế giới vào năm 2010, tỷ lệ sinh mổ tại 
Việt Nam chiếm 36% chỉ đứng sau Trung Quốc. 
Rối loạn chức năng đường tiêu hóa thường gặp 
trên người bệnh trải qua phẫu thuật vùng bụng 
với các triệu chứng như buồn nôn, nôn, đầy hơi, 
khó trung đại tiện, trướng bụng và đau bụng(4,6). 
Các nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh chế 
độ ăn sớm sễ giúp hoạt động tiêu hóa sớm phục 
hồi sau các phẫu thuật vùng bụng. Thời gian 
qua, chế độ dinh dưỡng cho sản phụ sau mổ ở 
các bệnh viện được quan tâm hơn. Vấn đề được 
đặt ra là cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý hơn 
nhằm giúp sản phụ phục hồi nhanh nhất, nâng 
cao chất lượng chăm sóc, đáp ứng nhu cầu của 
sản phụ. Hiện nay, chế độ dinh dưỡng sau mổ 
lấy thai còn có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy 
nhiên, phổ biến nhất vẫn là chế độ dinh dưỡng 
ăn truyền thống và ăn đặc sớm sau mổ. Chế độ 
ăn truyền thống sau mổ được tiến hành từ ăn 
loãng đến ăn đặc theo từng bước, chế độ ăn 
thường lệ chỉ được thực hiện khi có trung tiện. 
Chế độ ăn đặc sớm sau mổ sẽ cung cấp nhiều 
năng lượng, giúp hệ tiêu hóa phục hồi sớm hơn, 
tăng cường sức đề kháng cho sản phụ, giúp 
giảm tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ, thời gian lành vết 
mổ được rút ngắn và giúp sản phụ hài lòng hơn 
trong việc giảm thời gian nằm viện(5,7,8). 
Vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu “Hiệu quả chế độ ăn đặc sớm cải 
thiện nhu động ruột sau mổ lấy thai bằng 
phương pháp gây tê tủy sống” nhằm cung cấp 
thêm bằng chứng để đưa ra chế độ dinh dưỡng 
phù hợp hơn, nâng cao chất lượng chăm sóc cho 
sản phụ sau mổ lấy thai. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định thời gian phục hồi âm ruột, trung 
tiện của sản phụ mổ lấy thai ở nhóm được chỉ 
định ăn đặc sớm sau mổ so với nhóm được chỉ 
định ăn theo chế độ truyền thống; và 
Xác định tỷ lệ các rối loạn tiêu hóa trên sản 
phụ mổ lấy thai ở nhóm được chỉ định ăn đặc 
sớm và nhóm được chỉ định ăn theo chế độ 
truyền thống. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn lựa chọn 
Tất cả sản phụ sau mổ lấy thai được gây tê 
tủy sống tại khoa Sản-Bệnh viện đa khoa Trần 
Văn Thời từ ngày 01/4/2019 đến hết 30/5/2019. 
Các sản phụ được lựa chọn có tuổi đời đủ 18 
tuổi trở lên, cùng sử dụng chung nhóm thuốc 
giảm đau, kháng sinh sau mổ. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Sản phụ có các biểu hiện rối loạn tiêu hóa 24 
giờ trước khi phẫu thuật. Sản phụ có tiền sản 
giật, sản giật, dọa sinh non, đái tháo đường, tim 
mạch, bệnh dạ dày - ruột phải dùng chế độ ăn 
bệnh lý. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang – mô tả. 
Các bước tiến hành 
Nghiên cứu viên lấy phiếu đồng thuận tham 
gia nghiên cứu giai đoạn hồi tỉnh của sản phụ. 
Chế độ ăn của sản phụ nhận được bác sĩ điều trị 
chỉ định. Chế độ ăn đặc sớm là sản phụ được ăn 
cháo sau mổ 6 giờ, số lần ăn và số lượng tùy 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 209
thuộc vào khả năng của sản phụ. Sau mổ 24 giờ 
sản phụ sẽ bắt đầu chế độ như thường lệ. 
Chế độ ăn truyền thống là sản phụ chỉ được 
ăn chế độ ăn như thường lệ sau mổ 2 đến 3 ngày 
khi đã có trung tiện. Điều dưỡng ghi nhận thời 
gian phục hồi nhu động ruột mỗi một giờ/ lần 
bằng phương pháp sử dụng ống nghe. Thời gian 
có trung tiện được sản phụ báo cáo với điều 
dưỡng trực tiếp chăm sóc. 
Xử lý số liệu 
Nghiên cứu viên thu thập số liệu thông qua 
mẫu phiếu đã thiết kế sẵn. Số liệu được nhập và 
xử lý bằng phần phần mềm SPPS 20.0. 
So sánh thời gian trung bình phục hồi âm 
ruột, trung tiện và lượng dịch truyền giữa hai 
nhóm dùng phép kiểm Mann Whitney. 
Sử dụng phép kiểm T độc lập để xem xét 
mối liên quan giữa thời gian phục hồi âm ruột, 
trung tiện với các yếu tố vết mổ cũ, số lần sinh 
con, thời gian mổ của sản phụ. 
Giá trị p <0,05 được chọn là ngưỡng có ý 
nghĩa thống kê. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Y 
đức Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số 
138/ĐHYD-HĐĐĐ. 
KẾT QUẢ 
Qua thời gian nghiên cứu từ 01/4/2019 đến 
30/5/2019 tại BVĐK Trần Văn Thời, có 144 sản 
phụ tham gia nghiên cứu gồm 2 nhóm: 68 sản 
phụ trong nhóm chế độ ăn đặc sớm và 76 sản 
phụ ăn theo chế độ ăn truyền thống. 
Độ tuổi của sản phụ tham gia nghiên cứu 
tập trung nhiều ở lứa tuổi từ 25 – 35 tuổi. Tỷ lệ 
sản phụ sinh con lần hai cao hơn so với sinh 
con lần đầu, tỷ lệ sản phụ không có vết mổ cũ 
cao hơn so với tỷ lệ sản phụ có vết mổ cũ, sản 
phụ có thời gian mổ dưới 60 phút cao hơn so 
với sản phụ có thời gian mổ ≥60 phút. Sự khác 
biệt về độ tuổi, tiền thai, vết mổ cũ, thời gian 
mổ của sản phụ trong hai nhóm không có ý 
nghĩa thống kê với p >0,05 (Bảng 1). 
Bảng 1. Đặc điểm về của sản phụ tham gia nghiên cứu 
Nhóm tuổi 
Nhóm ăn đặc 
sớm 
Nhóm ăn chế độ 
truyền thống P (χ
2
) 
n=68 (%) n=76 (%) 
Tuổi (TB ± ĐLC) 29,04 ± 6,621 27.09 ± 6,479 
< 25 tuổi 20 29,4 30 39,5 
0,31 25 - 35 tuổi 34 50 36 47,4 
> 35 tuổi 14 20,6 10 13,2 
Tiền thai 
Sinh con lần đầu 24 35,3 36 47,4 
0,14 Sinh con lần 02 
trở lên 
44 64,7 40 52,6 
Vết mổ cũ 
Có vết mổ cũ 19 27,9 17 22,4 
0,44 
Không vết mổ cũ 49 72,1 59 77,6 
Thời gian mổ 
< 60 phút 64 94,1 72 94,7 
0,87 
≥ 60 phút 4 5,9 4 5,3 
TB: Trung bình, ĐLC: Độ lệch chuẩn 
Bảng 2. So sánh thời gian phục hồi âm ruột và trung 
tiện giữa hai nhóm 
Kết quả 
Nhóm ăn đặc 
sớm 
Nhóm ăn chế độ 
truyền thống p 
n = 68 n = 76 
Âm ruột 
(TB ± ĐLC) 
12 giờ 37 phút ± 
01 giờ 37 phút 
13 giờ 29 phút ± 
01 giờ 29 phút 
0,02 
Trung tiện 
(TB ± ĐLC) 
24 giờ 27 phút ± 
03 giờ 13 phút 
29 giờ 12 phút ± 
05 giờ 08 phút 
0,001 
Thời gian phục hồi âm ruột và trung tiện 
của sản phụ trong nhóm ăn đặc sớm, sớm hơn 
so với sản phụ trong nhóm ăn theo chế độ 
truyền thống, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p <0,05 (Bảng 2). 
Bảng 3. Mối liên quan giữa thời gian phục hồi ân 
ruột với yếu tố vết mổ cũ, thời gian mổ và số lần sinh 
con của sản phụ trong nhóm ăn đặc sớm 
Thời gian có âm ruột 
(Mean ± SD) 
p 
Vết mổ cũ 
Có 12 giờ 39 phút ± 1 giờ 24 phút 
0,92 
Không 12 giờ 37 phút ± 1 giờ 52 phút 
Thời gian cuộc mổ 
< 60 phút 12 giờ 29 phút ± 1 giờ 42 phút 
0,007 
≥ 60 phút 14 giờ 52 phút ± 35 phút 
Số lần sinh con 
Sinh con lần đầu 12 giờ 47 phút ± 1 giờ 46 phút 
0,63 
Sinh con lần 2 trở lên 12 giờ 33 phút ± 1 giờ 45 phút 
Trong nhóm ăn đặc sớm, thời gian phục 
hồi âm ruột của sản phụ có thời gian mổ <60 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 210
phút sớm hơn so với nhóm sản phụ có thời 
gian mổ ≥60 phút, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p = 0,007 (Bảng 3). 
Trong nhóm ăn đặc sớm, thời gian phục hồi 
âm ruột, trung tiện của sản phụ có thời gian mổ 
<60 phút sớm hơn so với nhóm sản phụ có thời 
gian mổ ≥60 phút, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê với p=0,001 (Bảng 4). 
Bảng 4. Mối liên quan giữa thời gian phục hồi trung 
tiện với yếu tố vết mổ cũ, thời gian mổ và số lần sinh 
con của sản phụ trong nhóm ăn đặc sớm. 
Thời gian trung tiện 
(Mean ± SD) 
p 
Vết mổ cũ 
Có 25 giờ 34 phút ± 02 giờ 41 phút 
0,079 
Không 24 giờ 02 phút ± 03 giờ 20 phút 
Thời gian mổ 
< 60 phút 24 giờ 05 phút ± 02 giờ 50 phút 
0,001 
≥ 60 phút 30 giờ 20 phút ± 03 giờ 42 phút 
Số lần sinh con 
Sinh con lần đầu 23 giờ 36 phút ± 02 giờ 59 phút 
0,159 
Sinh con lần 2 trở lên 24 giờ 49 phút ± 03 giờ 17 phút 
Nghiên cứu ghi nhận có một sản phụ trong 
nhóm ăn đặc sớm buồn nôn vào hậu phẫu ngày 
thứ 2 chiếm tỷ lệ 1,4% (1/68). Nghiên cứu không 
ghi nhận trường hợp nào có biểu hiện rối loạn 
tiêu hóa khác: nôn, trướng bụng, tiêu chảy, tắc 
ruột trong cả hai nhóm. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm sản phụ tham gia nghiên cứu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 144 sản phụ 
được chia gồm 2 nhóm: 68 sản phụ ăn theo chế 
độ ăn đặc sớm và 76 sản phụ ăn theo chế độ ăn 
truyền thống. Độ tuổi trung bình của sản phụ 
nhóm ăn đặc sớm là 29,04 ± 6,621 cao hơn so với 
độ tuổi trung bình trong nhóm ăn theo chế độ 
truyền thống là 27,09 ± 6,479, sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê với p=0,07. Tuổi 
trung bình của sản phụ tham gia trong nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn độ tuổi trung bình 
của sản phụ trong nghiên cứu của tác giả Đặng 
Ngọc Trà Mi(4), tương đương với độ tuổi của sản 
phụ trong nghiên cứu của tác giả Adamu O 
Ogbadua(1) và cao hơn so với nghiên cứu của tác 
giả Barat(3). Tỷ lệ sản phụ sinh con lần hai cao 
hơn so với sản phụ sinh con lần một trong cả hai 
nhóm. Sản phụ không có vết mổ cũ chiếm tỷ lệ 
cao hơn sản phụ có vết mổ cũ. Trong nghiên cứu 
ghi nhận, thời gian mổ lấy thai <60 phút chiếm 
tỷ lệ cao. Chỉ ghi nhận mỗi nhóm có 4 ca thời 
gian mổ ≥60 phút trở lên. Sự khác biệt về yếu tố 
số lần sinh con, có vết mổ cũ, thời gian cuộc mổ 
giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với 
p>0,05. Kết quả ghi nhận 100% sản phụ của hai 
nhóm có đường mổ ngang vệ. 
Thời gian phục hồi nhu động ruột 
Sản phụ thực hiện chế độ ăn đặc sớm có thời 
gian phục hồi âm ruột, phục hồi trung tiện sớm 
hơn so với nhóm sản phụ thực hiện chế độ ăn 
truyền thống. Nghiên cứu của tác giả Đặng 
Ngọc Trà Mi(4) kết luận sản phụ sau mổ lấy thai 
được cung cấp chế độ ăn đặc sớm sẽ hồi phục 
trung tiện sớm hơn so với nhóm sản phụ có chế 
độ ăn truyền thống. Cho ăn sớm giúp cải thiện 
trở lại chức năng đường tiêu hóa sau phẫu thuật 
lấy thai. Kết quả của chúng tôi tương đương với 
các các nghiên cứu của các tác giả khác(1,8). 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp 
với các nghiên cứu trên thế giới về chế độ ăn đặc 
sớm. Các nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng chế 
độ ăn sớm và thức ăn đặc hơn so với chế độ ăn 
truyền thống sẽ mang lại hiệu quả cho sản phụ 
sau mổ lấy thai bằng phương pháp vô cảm gây 
tê tủy sống(10). Chế độ ăn đặc sớm sau phẫu thuật 
không làm tăng các biến chứng đường tiêu hóa 
mà còn có thể dung nạp tốt và mang lại các lợi 
ích như giảm trướng bụng, nhu động ruột phục 
hồi sớm hơn(7,8,9,10). Điều này có thể giúp cho bà 
mẹ di chuyển sớm, ngừng truyền dịch sớm hơn. 
Bên cạnh đó bà mẹ có thể nuôi con bằng sữa mẹ 
sớm hơn, phát triển tình cảm của bà mẹ và trẻ sơ 
sinh, giúp sản phụ hài lòng hơn khi nằm viện(2). 
Tuy giữa các nghiên cứu có sự chênh lệch về 
khoảng thời gian phục hồi âm ruột, nhu động 
ruột nhưng cùng đưa ra kết luận về hiệu quả của 
chế độ ăn đặc sớm đối với sự phục hồi của sản 
phụ sau mổ. 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận thời 
gian cuộc mổ có ảnh hưởng đến thời gian phục 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 211
hồi âm ruột, phục hồi trung tiện. Trong nhóm 
sản phụ thực hiện chế độ ăn đặc sớm, nhóm 
sản phụ có thời gian mổ dưới 60 phút thì thời 
gian phục hồi âm ruột, trung tiện lần lượt là 12 
giờ 29 phút ± 01 giờ 42 phút và 24 giờ 05 phút 
± 02 giờ 50 phút sớm hơn so với nhóm sản phụ 
có thời gian phẫu thuật từ 60 phút trở lên là 14 
giờ 52 phút ± 35 phút và 30 giờ 20 phút ± 03 
giờ 42 phút. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê lần lượt với p = 0,007 và p = 0,001. Thời gian 
phục hồi nhu động ruột giữa nhóm sản phụ 
sinh con lần một và sinh con lần hai trở lên, 
nhóm sản phụ có vết mổ cũ không có có vết 
mổ cũ trong nhóm ăn đặc sớm khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Kết quả của 
nghiên cứu phù hợp với kết quả nghiên cứu 
của tác giả Đặng Ngọc Trà Mi(4) thời gian mổ 
kéo dài sẽ có khả năng tác động đến ruột 
nhiều hơn, ruột sẽ hoạt động lại chậm hơn. 
Các biểu hiện rối loạn tiêu hóa 
Trong nhóm ăn đặc sớm ghi nhận một 
trường hợp có dấu hiệu buồn nôn. Không ghi 
nhận các dấu hiệu rối loạn tiêu hóa còn lại: 
nôn, tiêu chảy, trướng bụng, tắc ruột ở cả hai 
nhóm ăn đặc sớm và nhóm ăn chế độ truyền 
thống. Cho ăn sớm không làm tăng triệu 
chứng rối loạn tiêu hóa. Nhiều nghiên cứu đã 
đề cập đến việc chấp nhận và dung nạp sớm 
thức ăn rất tốt khi thực hiện cho uống và ăn 
sớm hơn 6 giờ sau mổ(1,9). 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu cho thấy chế độ ăn đặc sớm 
rút ngắn thời gian phục hồi nhu động ruột, an 
toàn cho sản phụ sau mổ lấy thai bằng phương 
pháp gây tê tủy sống. Các triệu chứng rối loạn 
tiêu hóa do chế độ ăn đặc sớm là rất hiếm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adamu OO, Teddy AE, Godwin AO, et al (2018). "Early Versus 
Delayed Oral Feeding after Uncomplicated Cesarean Section 
under Spinal Anesthesia: A Randomized Controlled Trial". 
Nigerian Journal of Surgery, 1(24):6-11. 
2. Adeli M, Razmjoo N, Tara F, et al (2013). "Effect of early post 
cesarean feeding on gastrointestinal complications". Nursing and 
Midwifery Studies, 2(2):176. 
3. Barat S, Esmaeilzadeh S, Golsorkhtabaramiri M, et al (2015). 
"Women's satisfaction in early versus delayed postcaesarean 
feeding: A one-blind randomized controlled trial study". Caspian 
Journal of Intern Medicine, 6(2):67-71. 
4. Đặng Ngọc Trà Mi, Vũ thị Nhung, Phạm Thị Minh Trang 
(2014). "Thử nghiệm lâm sàng so sánh hiệu quả chế độ ăn đặc 
sớm và muộn ở sản phụ sau sinh mổ tại bệnh viện Hùng 
Vương ". Y học TP. Hồ Chí Minh, 18(1):175-178. 
5. Guo J, Long S, Li H, et al (2015). "Early versus delayed oral 
feeding for patients after cesarean". International Journal of 
Gynecology & Obstetrics, 128(2):100-105. 
6. Holte K, Kehlet H (2000). "Postoperative ileus: a preventable 
event". British Journal of Surgery, 87(11):1480-1493. 
7. Jalilian N, Ghadami MR (2014). "Randomized clinical trial 
comparing postoperative outcomes of early versus late oral 
feeding after cesarean section". Journal Obstet Gynaecol Research, 
40(6):1649-1652. 
8. Kathpalia SK (2017). "Early Maternal Feeding Versus 
Traditional Delayed Feeding After Cesarean Section: A Pilot 
Study". Journal Obstet Gynaecol India, 67(3):178-182. 
9. Masood SN, Masood Y, Naim U, et al (2014). "A randomized 
comparative trial of early initiation of oral maternal feeding 
versus conventional oral feeding after cesarean delivery". 
International Journal of Gynecology and Obstetrics, 126(2):115-119. 
10. Nantasupha C, Ruengkhachorn I, Ruangvutilert P (2016). "Effect 
of conventional diet schedule, early feeding and early feeding 
plus domperidone on postcesarean diet tolerance: A 
randomized controlled trial". Journal Obstet Gynaecol Research, 
42(5):519-525. 
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019