Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
 93
HẠ THÂN NHIỆT SÂU – NGƯNG TUẦN HOÀN TRONG TUẦN HOÀN 
NGOÀI CƠ THỂ PHẪU THUẬT PHÌNH QUAI ĐỘNG MẠCH CHỦ CẤP 
TRÊN THAI PHỤ 12 TUẦN: TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
Lê Hữu Đạt*, Phạm Thị Lệ Xuân*, Thạch Minh Hoàng* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Phình động mạch chủ trong thai kỳ rất hiếm gặp, đe dọa tính mạng cả mẹ và thai nhi. Đặc biệt, 
trong phẫu thuật tim hở có hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể việc đảm bảo an toàn cho mẹ và thai nhi cũng như theo 
dõi kết cục lâm sàng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Chúng tôi báo cáo một trường hợp lâm sàng: phình động 
mạch chủ ngực vỡ trên bệnh nhân có thai 12 tuần tuổi có hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể với ngưng tuần hoàn và 
hạ thân nhiệt sâu 250C được phẫu thuật thành công cho mẹ và giữ được thai nhi an toàn qua phẫu thuật. 
Mục tiêu: Báo cáo trường hợp lâm sàng về tuần hoàn ngoài cơ thể với ngưng tuần hoàn và hạ thân nhiệt 
sâu. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo trường hợp. 
Kết luận: Phình động mạch chủ trong thai kỳ là là một nguy cơ nghiêm trọng có thể gây tử vong cả mẹ và 
thai nhi. Để chẩn đoán sớm, điều trị tốt cần phải phối hợp thật tốt giữa các chuyên khoa như sản khoa, phẫu thuật 
tim mạch, gây mê hồi sức và tuần hoàn ngoài cơ thể cũng như tùy tình trạng sức khỏe của mẹ và thai nhi. Bác sĩ 
gây mê và bác sĩ tuần hoàn ngoài cơ thể phải biết rõ những thay đổisinh lý và ảnh hưởng của sinh lý và ảnh 
hưởng của tuần hoàn ngoài cơ thể lên thai phụ và thai nhi. 
Từ khóa: Tuần hoàn ngoài cơ thể, ngưng tuần hoàn hạ thân nhiệt sâu 
ABSTRACT 
CARDIOPULMONARY BYPASS AND DEEP HYPOTHERMIC CIRCULATORY ARREST 
FOR ACUTE AORTIC DISSECTION SURGERY FOR A 12-WEEKS PREGNANT WOMAN: 
 A CASE REPORT 
Le Huu Dat, Pham Thi Le Xuan, Thach Minh Hoang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 3- 2018: 93 - 97 
Background – Objectives: Aortic dissection during pregnancy that creates a serious mortality risk is a rare 
disease for both the pregnant woman and the foetus. In particular, open-heart surgery using cardiopulmonary 
bypass in pregnancy, fetus and maternal outcome, especially long-term follow-up results have not been 
sufficiently described. We present the case of the successful diagnosis and surgical repair of a pregnant woman 
presented to the emergency department with an acute Stanford type A aortic dissection at 12th weeks of gestation 
and kept fetus safety. That was supported cardiopulmonary bypass, 250C deep hypothermic circulatory arrest and 
regional cerebral perfusion technique during open heart surgery. 
Method: Case report. 
Conclusion: Aortic dissection during pregnancy is a high-risk situation of morbidity and mortality for both 
mother and fetus. The management should based on a multidisciplinary approach including the cardiologist, 
obsterician, pediatrician, cardiac surgeon, perfusionist, and anesthesiologist. The perfusionist and anesthesiologist 
must have perfect kwonledge of physiology changes and the impact of cardiopulmonary bypass on the mother and 
fetus. 
* Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BSCK2. Lê Hữu Đạt ĐT: 0906698189 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
 94
Keywords: Cardiopulmonary bypass, deep hypothermic circulatory arrest. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phình động mạch chủ là một bệnh lý tương 
đối hiếm gặp nhưng có tỉ lệ tử vong cao, việc 
phát hiện và điều trị sớm rất quan trọng trong 
tiên lượng sống còn. Phình động mạch chủ 
thường gặp ở người trên 50 tuổi có tiền sử tăng 
huyết áp, người trẻ tuổi có rối loạn di truyền về 
mô liên kết, van động mạch chủ hai mảnh, chấn 
thương và tiền sử gia đình có người bị phình 
động mạch chủ. Phình động mạch chủ trong thai 
kỳ rất hiếm gặp, đe dọa tính mạng cả mẹ và thai 
nhi. Đặc biệt, trong phẫu thuật tim hở có hỗ trợ 
tuần hoàn ngoài cơ thể, việc đảm bảo an toàn 
cho thai nhi cũng như theo dõi kết cục lâm sàng 
vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Chúng tôi 
báo cáo một trường hợp lâm sàng: phình động 
mạch chủ ngực vỡ trên bệnh nhân có thai 12 
tuần tuổi có hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể với 
ngưng tuần hoàn và hạ thân nhiệt sâu được 
phẫu thuật thành công cho mẹ và giữ được thai 
nhi an toàn qua phẫu thuật. 
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
Thai phụ 20 tuổi (sinh năm 1997), chiều cao 
157 cm, nặng 50 kg, PARA 0000, thai nhi 12 tuần 
tuổi, được nhập viện cấp cứu tại bệnh viện 
Becamex trong tình trạng đau ngực, khó thở tăng 
dần; được chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy. Kết 
quả siêu âm tim, chụp cắt lớp vi tính cho thấy 
phình quai động mạch chủ cấp tính Standford 
type A. Trước đó, bệnh nhân khám thai đều, 
chưa từng ghi nhận tiền sử tăng huyết áp, bệnh 
lý tim mạch và tiền sử gia đình không ghi nhận 
có người mắc bệnh lý tim mạch. 
Bệnh nhân được chuyển đến khoa Hồi sức - 
Phẫu thuật tim để theo dõi huyết động của cả mẹ 
và thai nhi. Bệnh nhân tri giác lơ mơ Glasgow 13 
điểm, an thần với Midazolam 5 mg (tiêm mạch), 
thở máy với Fi02 40%, huyết áp 160/90 mmHg, 
nhịp tim 100 lần/ phút, Sp02 98%. Siêu âm tim 
qua thành ngực: chức năng tâm thu thất trái bình 
thường EF = 63%. Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính 
ngực: động mạch chủ ngực đoạn quai, túi phình 
động mạch chủ đoạn quai đường kính # 6 cm, tụ 
máu quanh túi phình, khả năng vỡ túi phình. 
Kết quả siêu âm thai nhi cho thấy tử cung có một 
thai sống, nhịp tim thai # 178 lần/ phút. 
Hội chẩn khẩn cấp giữa các chuyên khoa: 
phẫu thuật tim mạch, nội tim mạch, hồi sức 
phẫu thuật tim, sản khoa, gây mê hồi sức tim 
mạch và tuần hoàn ngoài cơ thể đã thảo luận, lên 
kế hoạch điều trị và cân nhắc rủi ro, lợi ích nhằm 
đảm bảo khả năng thành phẫu thuật thành công 
cao nhất cho thai phụ cũng như hạn chế tối đa 
biến chứng liên quan đến gây mê, tuần hoàn 
ngoài cơ thể có thể ảnh hưởng đến thai nhi. 
Các xét nghiệm tiền phẫu: nhóm máu O 
Rh(+), hemoglobin 131 g/L, dung tích hồng cầu 
38.3 %, số lượng tiểu cầu 213 G/L, INR 1.10, 
SGPT 61 U/L, SGOT 34 U/L, creatinin 0.67 mg/dl, 
đường huyết 139 mg/dL, albumin máu 3.3 g/dL, 
CK-MB 19.5 U/L, Troponin I 0.179 U/L và điện 
tim nhịp xoang 100 lần/ phút, không thay đổi ST 
và sóng T. 
Thăm khám tiền mê đánh giá: ASA IV-E. 
Chuẩn bị: 01 đường truyền ngoại vi 18G, 01 
catheter động mạch quay phải, 01 catheter động 
mạch đùi trái, 01 catheter tĩnh mạch trung tâm 
9F. Phương tiện theo dõi: monitoring theo dõi 
nhịp tim, huyết áp xâm lấn, SpO2, độ bão hoà 
oxy não, SaO2, SvO2, ACT, nhiệt độ thực quản, 
nhiệt độ trực tràng, khí máu động mạch, theo 
dõi nhịp tim thai. 
Khởi mê: Sevorane 1.5% + Sufentanil 20 mcg 
+ Rocuronium 50 mg. 
Duy trì mê: Sevoran 1.5 – 3%, Sufentanil 
0.005 mcg/kg/phút, Rocuronium 4 mcg/kg/phút. 
Vị trí cannula: 01 cannula động mạch chủ 
20 Fr, 01 cannula động mạch đùi phải 21 Fr, 01 
cannual tĩnh mạch hai tầng 32/40 Fr. 
Sau khi thiết lập hệ thống tuần hoàn ngoài cơ 
thể, bệnh nhân được hạ dần thân nhiệt đến 250C, 
tiến hành kẹp động mạch chủ và bảo vệ cơ tim 
bằng 2000 ml dung dịch liệt tim Custodiol 
(Histidine – Tryptophan – Ketoglutarate) đường 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
 95
xuôi dòng từ gốc động mạch chủ khi nhiệt độ 
máu đạt 300C. Khi thân nhiệt bệnh nhân đạt 
250C, tiến hành ngưng tuần hoàn toàn bộ kết hợp 
nuôi não chọn lọc, bác sĩ phẫu thuật mổ thay 
đoạn phình bằng ống ghép nhân tạo. Trong suốt 
quá trình tuần hoàn ngoài cơ thể, chúng tôi duy 
trì: lưu lượng bơm kiểu mạch đập khoảng từ 
3700 – 4500 ml/phút (cardiac index từ 2.5 – 3.5 
L/phút/m2), đảm bảo huyết áp ≥ 70 mmHg bằng 
lưu lượng bơm, dung tích hồng cầu từ 25-27%, 
PaO2 >200 mmHg. Sau khi bác sĩ phẫu thuật thay 
đoạn phình bằng ống ghép nhân tạo xong, bệnh 
nhân được làm ấm và cai máy tim phổi nhân tạo 
thành công với liều dobutamin liều 5 
mcg/kg/phút. Tổng thời gian tuần hoàn ngoài cơ 
thể: 190 phút, thời gian kẹp động mạch chủ: 70 
phút, thời gian ngưng tuần hoàn hạ thân nhiệt 
sâu: 30 phút (ở 25oC). 
Sau mổ, bênh nhân được chuyển đến phòng 
hồi sức chăm sóc tích cực và theo dõi sức khỏe 
thai nhi. Kết quả siêu âm thai sau hậu phẫu ngày 
1 cho thấy có một tim thai sống, nhịp tim thai 
#145 lần/phút. Bệnh nhân được xuất viện sau 21 
ngày điều trị mà không có biến chứng nào cho 
thai phụ và thai nhi. 
Bảng 1: 
Sự kiện Thời gian 
Rút nội khí quản Hậu phẫu ngày 2 
Ra khỏi phòng hồi sức Hậu phẫu ngày 7 
Thời gian nằm viện 21 ngày 
Hiện tại (Tháng 4/2018) bệnh nhân sức 
khỏe bình thường, đã sinh được một bé trai 05 
tháng tuổi (sanh thường) phát triển tâm thần 
vận động tốt. 
BÀN LUẬN 
Phần lớn phình động mạch chủ thường gặp 
ở người trên 50 tuổi có tiền sử tăng huyết áp, 
người trẻ tuổi có rối loạn di truyền về mô liên 
kết, van động mạch chủ hai mảnh, chấn thương 
và tiền sử gia đình có người bị phình động mạch 
chủ. Phình động mạch chủ trong thai kỳ là một 
tình trạng hiếm gặp, có thể gây nguy hiểm cho 
cả mẹ và thai nhi, với tỉ lệ sống sót khoảng 20 – 
30%(5). Phình động mạch chủ type A chiếm 80% 
trường hợp phình động mạch chủ trong thai kỳ 
và 87.5% trong số các trường hợp này xảy ra 
trong giai đoạn tiền sản(2,14). Báo cáo của 
Thalmann và cs năm 2011 điều tra trong vòng 10 
năm từ 1994 đến 2004 tại Vienne (Áo) trên hơn 
34000 phụ nữ từ 15-45 tuổi cho thấy tỉ lệ mắc 
bệnh chung 0,4 trường hợp/100.000 người/năm(12) 
và tỉ lệ tử vong trước khi vào viện là 53%(18). 
Tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật, và thay 
đổi hoóc môn trong thời kỳ mang thai cũng có 
thể làm trầm trọng thêm hoặc dẫn đến phình 
động chủ trên bệnh nhân mang thai(3,4,9). Thêm 
vào đó, nồng độ estrogen và progesterone ở thai 
kỳ cao có thể gây thoái hóa thành động mạch 
chủ(10). Tỉ lệ tử vong của phình động mạch chủ 
type A không được phẫu thuật là 1% mỗi giờ 
trong 24 giờ đầu sau khi xuất hiện triệu chứng 
và 75% sau 2 tuần không điều trị. Nguyên nhân 
tử vong bao gồm, vỡ phình động mạch gây ra 
đột tử, chèn ép tim, suy thất - van động mạch 
chủ cấp và suy động mạch vành hoặc động 
mạch cảnh hoặc tắc nghẽn dẫn đến nhồi máu cơ 
tim hoặc đột quỵ. 
Việc quản lý của gây mê hồi sức trong phẫu 
thuật phình động mạch chủ Stanford type A bao 
gồm: kiểm soát huyết áp tích cực bằng huyết áp 
động mạch xâm lấn và kiểm soát đau. Thuốc ức 
chế bêta hoặc thuốc ức chế kênh canxi là các 
thuốc hạ huyết áp được lựa chọn(16). 
Phẫu thuật tim với tuần hoàn ngoài cơ thể 
gây nên những thay đổi sinh lý như hạ thân 
nhiệt, pha loãng máu, ức chế đông máu, tan 
huyết, hoạt hóa bổ thể, thuyên tắc khí và chế độ 
bơm kiểu không mạch đập có thể ảnh hưởng 
đến tuần hoàn tử cung và thai nhi. Tuy nhiên, 
nhiều báo cáo đã chứng minh sự tương đối an 
toàn khi phẫu thuật tim hở có tuần hoàn ngoài 
cơ thể khi đang mang thai(13,16,17,19). 
Hạ thân nhiệt sẽ gây hại cho thai nhi thông 
qua việc tăng co cơ tử cung và giảm tưới máu tử 
cung, có thể do sự hiện diện của prostaglandin, 
các yếu tố gây viêm hoặc do sự pha loãng 
progesterone(6). Tuy nhiên, năm 1994, Buffalo và 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
 96
cộng sự đã báo cáo một trường hợp sử dụng 
thành công kỹ thuật hạ thân nhiệt sâu và ngưng 
tuần hoàn cho bệnh nhân mang thai 21 tuần tuổi, 
bị vỡ phình động mạch chủ. Tuần hoàn ngoài cơ 
thể được thực hiện với bơm kiểu mạch đập sinh 
lý, (lưu lượng trung bình 2.4 L / phút / m2) và 37 
phút ngưng tuần hoàn ở 19° C, mẹ hồi phục tốt, 
thai nhi khoẻ mạnh sau mổ(1). 
Ngoài ra, hạ thân nhiệt có thể gây ra tình 
trạng chậm nhịp tim thai. Trong thời gian tuần 
hoàn ngoài cơ thể, nhịp tim thai thường giảm 
còn 100-115 lần/phút, nhưng đôi khi có thể còn 
70-80 phút / phút gây hại nghiêm trọng cho 
thai nhi(15). 
Kinh nghiệm của Iscan Z H và cộng sự cho 
thấy có thể tăng thông khí và sử dụng 
adrenaline hoặc noradrenaline trong thời gian 
phẫu thuật tim để ngăn ngừa sự giãn mạch 
quá mức(7). Theo Khandelwal M và cộng sự: 
việc sử dụng inotrope không có ảnh hưởng 
tiêu cực đến bào thai(8). 
Nếu Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể ngắn, 
không hạ nhiệt độ thì việc duy trì lưu lượng và 
áp lực cao có vai trò quan trọng trong việc tưới 
máu nhau thai. Do đó, lưu lượng cao ≥ 5 L / 
phút, huyết áp 70-75 mmHg, dung tích hồng cầu 
25-27% và hạ thân nhiệt nhẹ hoặc bình thường 
trong thời gian ngắn đã được ủng hộ(11). Tăng lưu 
lượng lên 3100-3600 mL / phút có thể cải thiện 
nhịp tim thai. Trong vài trường hợp tăng lưu 
lượng bơm không cải thiện được nhịp tim thai 
trong đa số trường hợp có thể có kết quả tốt cho 
cả mẹ và thai nhi khi ngưng tuần hoàn hạ thân 
nhiệt sâu(1). 
Ở bệnh nhân này, phình động mạch chủ vỡ 
xảy ra khi bệnh nhân đang ở giai đoạn cuối tam 
cá nguyệt thứ nhất nên chúng tôi gặp thách thức 
rất lớn trong gây mê hồi sức, tuần hoàn ngoài cơ 
thể để có thể đảm bảo kết quả tốt đẹp cho mẹ và 
an toàn của thai nhi trong suốt cuộc phẫu thuật. 
Chúng tôi áp dụng tất cả các phương tiện theo 
dõi kiểm báo liên tục. Về mặt gây mê hồi sức, 
chúng tôi kiểm soát huyết áp với Nicardipin 5 
mg/giờ, giảm đau với Sufentanyl 0.01 
mcg/kg/phút, đảm bảo huyết áp trung bình ≥ 70 
mmHg để duy trì lưu lượng và áp lực tưới máu 
thai nhi, dung tích hồng cầu ≥ 27%, áp dụng 
chiến lược thở máy tăng thông khí. Về mặt tuần 
hoàn ngoài cơ thể, chúng tôi bảo vệ cơ tim với 
dung dịch liệt tim Custodiol (Histidine – 
Tryptophan – Ketoglutarate) qua đường xuôi 
dòng từ gốc động mạch chủ. Chúng tôi áp dụng 
kỹ thuật hạ thân nhiệt sâu ngưng tuần hoàn kết 
hợp với nuôi não chọn lọc, thời gian ngưng tuần 
hoàn là 30 phút ở nhiệt độ 250C. Trong suốt quá 
trình tuần hoàn ngoài cơ thể, bệnh nhân được 
duy trì lưu lượng bơm kiểu mạch đập khoảng từ 
3700 – 4500 ml/phút (cardiac index từ 2.5 – 3,5 
L/phút/m2) và đảm bảo huyết áp ≥ 70 mmHg 
bằng lưu lượng bơm. 
KẾT LUẬN 
Phình động mạch chủ trong thai kỳ là là một 
nguy cơ nghiêm trọng có thể gây tử vong cả mẹ 
và thai nhi. Để chẩn đoán sớm, điều trị tốt cần 
phải phối hợp thật tốt giữa các chuyên khoa như 
sản khoa, phẫu thuật tim mạch, gây mê hồi sức 
và tuần hoàn ngoài cơ thể cũng như tùy tình 
trạng sức khỏe của mẹ và thai nhi. Bác sĩ gây mê 
và bác sĩ tuần hoàn ngoài cơ thể phải biết rõ 
những thay đổi sinh lý và ảnh hưởng của sinh lý 
và ảnh hưởng của tuần hoàn ngoài cơ thể lên 
thai phụ và thai nhi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Buffalo E, Palma JH, et al, (1994) "Successful use of deep 
hypothermic circulatory arrest in pregnancy," Ann Thorac 
Surg, 58, p. 1532. 
2. Ch'ng SL, Cochrane AD, et al, (2013) "Stanford type a aortic 
dissection in pregnancy: a diagnostic and management 
challenge," Heart Lung Circ, 22, p. 12–18. 
3. Chow SL, (1993) "Acute aortic dissection in a patient with 
Marfan's syndrome complicated by gestational hypertension," 
Med J Aust, 159, p. 760-762. 
4. Gelpi G, Pettinari M, et al, (2008) "Should pregnancy be 
considered a risk factor for aortic dissection? Two cases of 
acute aortic dissection following cesarean section in non-
Marfan nor bicuspid aortic valve patients," J Cardiovasc Surg 
(Torino), 49, p 389-39. 
5. Hagan PG, Nienaber CA, et al, (2000) "The International 
Registry of Acute Aortic Dissection (IRAD): new insights into 
an old disease," JAMA , 283(7), p. 897–903. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
 97
6. Hess OW, Davis CD, (1964) "Electronic evaluation of the fetal 
and maternal rate during hypothermia in a pregnant woman," 
Am J Obstet Gynecol, 89, p. 801. 
7. Iscan ZH, Mavioglu L, et al, (2006) "Cardiac surgery during 
pregnancy," J Heart Valve Dis, vol. 15, p. 686–690. 
8. Khandelwal M, Rasanen J, et al, (1996) "Evaluation of fetal and 
uterine hemodynamics during maternal cardiopulmonary 
bypass," Obstet Gynecol, 88(4 Pt 2), p. 667–671. 
9. Lind J, Wallenburg HC, (2001) "The Marfan syndrome and 
pregnancy: a retrospective study in a Dutch population," Eur J 
Obstet Gynaecol Reprod BioI, 98, p. 28-35. 
10. Manalo-Estrella P, Barker AE, (1967) "Histopathologic 
findings in human aortic media associated with pregnancy," 
Arch Pathol, 83, p. 336-34. 
11. Mora CT, (1995) "Pregnancy and cardiopulmonary Bypass," 
New York: Springer, p. 359–375. 
12. Nasiell J, Norman M, et al, (2009) "Aortic dissection in 
pregnancy: a life-threatening disease and a diagnosis of worth 
considering," Acta Obstet Gynecol Scand, 88, p. 1167–1170. 
13. Parry AJ, Westaby S, (1996) "Cardiopulmonary bypass during 
pregnancy," Ann Thorac Surg, vol. 61, p. 1865. 
14. Rutherford RB, Nolte JE, (1995) "Aortic and other arterial 
dissections associated with pregnancy," Semin Vasc Surg, 8, p. 
299–305. 
15. Souza MHL, Elias DO, (2013) "Guidelines for 
cardiopulmonary bypass during pregnancyOnline," 
 p. 
30.09.2013, access: 30.09.2013. 
16. Strickland RA, Oliver WC Jr, et al, (1991) "Anesthesia, 
cardiopulmonary bypass, and the pregnant patient," Mayo 
Clin Proc, 66, p. 411. 
17. Sullivan HJ, (1995) "Valvular heart surgery during 
pregnancy," Surg Clin North Am, 75, p. 59. 
18. Thalmann M, Sodeck GH, et al, (2011) "Acute type A aortic 
dissection and pregnancy: a population-based study," 
European Journal of Cardio-thoracic Surgery, 39(6), p. e159–e163. 
19. Weiss BM, von Segesser LK, et al, (1998) "Outcome of 
cardiovascular surgery and pregnancy: a systematic review of 
the period 1984–1996," Am J Obstet Gynecol, 179, p. 1643. 
Ngày nhận bài báo: 17/01/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 09/02/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/05/2018