Tài liệu Góp phần nghiên cứu xác địnhk và/ hoặc hoàn thiện một số tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học trong 5 loại ung thư phế quản thường gặp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 1 
GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH VÀ / HOẶC HOÀN THIỆN 
MỘT SỐ TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN TẾ BÀO HỌC 
TRONG 5 LOẠI UNG THƯ PHẾ QUẢN THƯỜNG GẶP 
Nguyễn Vượng* – Lê Trung Thọ *– Đặng Thế Chân * 
TÓM TẮT 
50 trường hợp ung thư phế quản bao gồm 14 ung thư biểu mô vảy, 18 ung thư biểu mô tuyến, 8 ung thư 
biểu mô tế bào lớn, 8 ung thư biểu mô tế bào nhỏ, 2 ung thư biểu mô vảy – tuyến đã được nghiên cứu về tế bào 
học và khẳng định chẩn đoán qua đối chiếu mô bệnh học. Các tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học đã được trình 
bày và bàn luận. 
SUMMARY 
CONTRIBUTION TO THE ESTABLISHMENT AND/OR IMPROVEMENT STUDY SOME CRITERIA OF 
CYTOLOGIC DIAGNOSIS 5 MAJOR LUNG CARCINOMAS. 
Nguyễn Vượng, Lê Trung Thọ, Đặng Thế Chân * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Special issue of Pathology - Vol. 5 - 
Supplem...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 771 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp phần nghiên cứu xác địnhk và/ hoặc hoàn thiện một số tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học trong 5 loại ung thư phế quản thường gặp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 1 
GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH VÀ / HOẶC HOÀN THIỆN 
MỘT SỐ TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN TẾ BÀO HỌC 
TRONG 5 LOẠI UNG THƯ PHẾ QUẢN THƯỜNG GẶP 
Nguyễn Vượng* – Lê Trung Thọ *– Đặng Thế Chân * 
TÓM TẮT 
50 trường hợp ung thư phế quản bao gồm 14 ung thư biểu mô vảy, 18 ung thư biểu mô tuyến, 8 ung thư 
biểu mô tế bào lớn, 8 ung thư biểu mô tế bào nhỏ, 2 ung thư biểu mô vảy – tuyến đã được nghiên cứu về tế bào 
học và khẳng định chẩn đoán qua đối chiếu mô bệnh học. Các tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học đã được trình 
bày và bàn luận. 
SUMMARY 
CONTRIBUTION TO THE ESTABLISHMENT AND/OR IMPROVEMENT STUDY SOME CRITERIA OF 
CYTOLOGIC DIAGNOSIS 5 MAJOR LUNG CARCINOMAS. 
Nguyễn Vượng, Lê Trung Thọ, Đặng Thế Chân * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Special issue of Pathology - Vol. 5 - 
Supplement of No 4 – 2001: 32-36 
50 cases of lung cancer including 14 squamous carcinomas, 18 adenocarcinomas, 8 large cell 
carcinomas, 8 small cell carcinomas and 2 adeno-squamous carcinomas were diagnosed cytologically and 
confirmed by histologycal confrontation. Criteria of cytologic diagnosis were presented and discussed.. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong Y giới, hầu như ai cũng biết hiện nay 
ung thư phổi chiếm vị trí hàng đầu trong các ung 
thư ở nam giới và để chẩn đoán bệnh chính xác, bộ 
ba chẩn đoán bằng hình ảnh, nội soi, hình thái học 
có vai trò quyết định trong đó chẩn đoán tế bào học 
– mô bệnh học có ý nghĩa của tiêu chuẩn vàng. Ở 
Việt Nam, trước nay, chẩn đoán tế bào học trong 
ung thư phổi thường chỉ xác định có tế bào ung thư 
hay không (kể cả hàng chục luận án, luận văn về 
chủ đề ung thư phổi có liên quan chẩn đoán tế bào 
học), hầu như không định típ ung thư và cũng 
không nêu những tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học 
ngoài một vài tài liệu của Nguyễn Vượng và cộng 
sự
(1,2,3,5)
. 
Ngay ở những nước phát triển, tuy chẩn đoán tế 
bào học ung thư phổi được đề cập từ lâu
(2,6,7,8,9)
 song 
vì kinh nghiệm chưa thống nhất, việc phân loại và 
định típ còn đang diễn tiến nên đương nhiên, các 
tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học chưa thể hoàn 
chỉnh cho mọi típ ung thư. 
Ở công trình này, chúng tôi chỉ hạn chế trong 
xác định tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học 5 loại 
ung thư phổi thường gặp không ngoài mục đích gợi 
mở hướng điều trị, tiên lượng bệnh cũng như giúp 
cho việc nhân lên rộng rãi ở các cơ sở giải phẫu 
bệnh – tế bào bệnh học. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Do kinh phí hạn hẹp và thời gian nghiên cứu 
ngắn, chúng tôi chỉ có thể nghiên cứu trên 50 mẫu 
bệnh. 
Việc lựa chọn bệnh nhân phải đáp ứng 2 yêu 
cầu: 
Chẩn đoán tế bào học xác định chắc chắn có 
ung thư và típ (chỉ dựa vào bệnh phẩm quét, áp 
và/hoặc chọc hút kim xuyên thành ngực). Dĩ nhiên, 
không lấy các bệnh phẩm từ màng phổi hoặc bệnh 
phẩm nước tràn dịch, đờm.. Cũng loại các trường 
hợp ung thư di căn hoặc chưa định típ 
 * Bộ Môn Giải Phẫu Bệnh – Đại học Y Hà Nội 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học 
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 2 
Có bệnh phẩm mô bệnh học đối chiếu các chẩn 
đoán, ở đây là 35 bệnh phẩm phẫu thuật và 15 sinh 
thiết trước phẫu thuật đã chẩn đoán rõ típ ung thư. 
Việc nhuộm tế bào theo kỹ thuật Giemsa thông 
dụng, còn xử lý tiêu bản mô bệnh học như kỹ thuật 
chuẩn vẫn làm tại Bộ môn và Khoa Giải phẫu 
bệnh, bệnh viện Bạch Mai. Mỗi típ bệnh đều được 
chụp ảnh vi thể màu, làm phim dương bản. 
Với mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi không 
quan tâm tới tỷ lệ các típ bệnh, độ tuổi, giới... và vì 
thế cũng không áp dụng toán thống kê, tỷ lệ dương 
tính giả, âm tính giả, độ nhạy, độ đặc hiệu v.v... 
như đã công bố ở các công trình trước. 
Thực chất đây là một nghiên cứu bổ sung thêm 
về chẩn đoán tế bào học trong ung thư phổi so với 
những tài liệu chúng tôi đã công bố trước đây. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong 50 bệnh nhân được xác chẩn và định típ 
ung thư về cả tế bào học, mô bệnh học, có ung thư 
(K) biểu mô vảy: 14 trường hợp, chiếm tỷ lệ 28%; 
K biểu mô tuyến 18 trường hợp (36%); K biểu mô 
tế bào lớn 8 trường hợp (16%); K biểu mô tế bào 
nhỏ: 8 trường hợp (16%); và K biểu mô vảy tuyến: 
2 trường hợp (4%). Những số liệu và tỷ lệ này 
không phản ánh tình hình các típ ung thư phổi mà 
chủ yếu giới thiệu kinh nghiệm chẩn đoán đã được 
đối chiếu tế bào – mô bệnh tỉ mỉ trên những số 
lượng bệnh nhân có thể tin cậy được vì ở hàng 
nghìn trường hợp chẩn đoán dương tính khác, việc 
đối chiếu thường khó theo dõi hoặc thiếu chuẩn xác 
vì nhiều lý do khác nhau. 
K biểu mô vảy 
Chúng tôi cố gắng nêu những đặc điểm chung 
nhất cho chẩn đoán, không đi sâu vào các biến thể 
hoặc thứ nhóm mà cho đến nay phân loại vẫn đang 
diễn tiến. 
Trong mọi trường hợp, K biểu mô vảy đều có 
tế bào K ít nhiều gợi tế bào biểu mô vảy bình 
thường. Đó là: 
Tế bào u thường có những thay đổi dễ nhận 
biết về hình thái, kích thước song đa số gợi hình đa 
diện (đá lát), một số ít hoặc đôi khi có hình kỳ quái 
và thường không thiếu tế bào hình thoi, dạng nòng 
nọc. Chúng có thể đứng đơn độc nhưng thường tụ 
thành đám nhỏ, đám lỏng lẻo sánh nhau hoặc đám 
hơi chùm lên nhau. Việc phân tích kỹ các đặc điểm 
tế bào riêng lẽ có ý nghĩa quan trọng trong chẩn 
đoán. 
Bào tương: nét đặc trưng là ít nhiều có keratin, 
cầu biểu mô phản ánh độ biệt hóa của tế bào K và 
là yếu tố quan trọng để chẩn đoán K biểu mô vảy. 
Độ biệt hóa càng cao, bào tương càng rộng, ranh 
giới tế bào càng rõ, mức độ ưa bazơ càng tăng và 
do đó tỷ lệ nhân / bào trương tuy vẫn lớn hơn ở tế 
bào bình thường song tương đối nhỏ so với các típ 
tế bào K khác. Khi sinh nhiều keratin, bào tương 
cứng gần như bóp chết nhân và có thể tạo thành 
những tế bào bóng ma (nhân lì, mờ, chìm đi, chỉ 
còn vết tích nhân hoặc bóng mờ màng nhân..)hoặc 
hình thành những khối sừng nhỏ gọi là hạt trai 
trong bào tương. Ở những K biểu mô vảy biệt hóa 
vừa hay kém biệt hóa, nếu xem kỹ, toàn diện các 
phiến đồ vẫn có thể thấy ít nhiều tế bào biệt hóa 
sừng. 
Nhuộm Giemsa, keratin bắt màu xanh, làm cho 
bào tương từ xanh nhạt, sáng tới xanh đậm, đôi khi 
lạc sắc, có màu hồng. 
Nhân: trong đại đa số trường hợp, thường nằm 
giữa tế bào , tăng sắc và hình thái rất thay đổi, từ 
teo đặc, nhân lì đi như giọt mực tàu cho tới nhân 
quái, nhân nhiều múi đến nhân hình thoi, nòng nọc. 
Tế bào càng sừng hóa thì hình răng cưa của màng 
nhân không rõ, màng nhân kém dày, tính bắt màu 
giảm và hạt nhân khó thấy. Ở những nhân lớn, có 
thể thấy một vài hạt nhân không đều, vị trí thay 
đổi. Hiếm nhân chia nhất là loại bất thường. 
Trên nền phiến đồ, có thể thấy hồng cầu ít 
nhiều thoái hóa, tế bào viêm, chất cặn và mảnh 
vụn tế bào . 
K biểu mô tuyến 
Nhìn chung, nhóm u này đặc trưng bằng sự 
hiện diện các khoảng dạng tuyến (có hay không 
kèm cấu trúc nhú) và/hoặc có chất nhầy ở tế bào 
nằm trong các đám tế bào u thường chồng lên nhau 
song tính chất to nhỏ không đều của tế bào ở mức 
vừa phải và ranh giới của chúng tương đối rõ. Tế 
bào u riêng lẻ hay xếp thành nhóm nhỏ ít gặp hơn. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 3 
Tùy độ biệt hóa, nơi phát sinh và cách phát triển 
trong nhu mô phổi, chia 2 nhóm chính: K biểu mô 
tuyến phế quản, K biểu mô tiểu phế quản – phế 
nang. 
Bào tương: điển hình mới hình trụ hay khối 
vuông lớn (dễ xác định) nhưng thường hình elíp 
hay bầu dục song cũng không ít tế bào hình tròn 
hay đa diện lớn. Lượng bào tương thường vừa phải, 
ít nhiều ưa bazơ nhưng có khi khá nhiều, sáng, 
chứa các không bào cỡ khác nhau, trong có thể thấy 
rõ chất nhầy khi nhuộm đặc biệt song không nhận 
được các hình lông. Có thể thấy hoạt động thực bào 
, biểu thị bằng các mảnh vụn tế bào hoặc sự xâm 
nhập của bạch cầu đa nhân trong bào tương tế bào 
u. Trường hợp kém biệt hóa, bào tương có thể bị 
hư, để lại các bó, đám nhân trơ. 
Nhân: thường hình tròn hay bầu dục, nằm lệch 
một bên và ở tế bào trụ cao, dễ thấy nằm ở đáy; cỡ 
nhân thay đổi nhưng thường to hơn ở tế bào biểu 
mô phế quản (không thay đổi nhiều trong một số 
típ K tiểu phế quản phế nang), rìa nhân mảnh, nhẵn 
ít có hình gai hay răng cưa, nếp gấp (thường chỉ 
thấy loại sau khi đứng riêng lẻ hay nhóm nhỏ). 
Nhân thường tăng sắc nhẹ hoặc đục, cũng có khi 
khá sáng với lưới chromatin lấm chấm hạt nhỏ, cá 
biệt có hình nhiều nhân. Tỷ lệ nhân trên bào trương 
thay đổi nhưng lớn hơn so với tế bào biểu mô phế 
quản bình thường. Hạt nhân thường to, nổi rõ, nằm 
giữa nhân, thường hình tròn, đơn độc, dễ thấy ở típ 
K biểu mô phế quản và khó nhận trong K biểu mô 
tiểu phế quản – phế nang vì nhân đục hơn và khi 
có, hạt nhân thường nhỏ. 
Cần lưu ý là trong nhiều trường hợp, không thể 
phân biệt về tế bào học giữa 2 típ K biểu mô phế 
quản và K biểu mô tiểu phế quản – phế nang. 
K biểu mô tế bào nhỏ 
Dù chia thành các thứ nhóm tế bào lúa mạch, 
típ trung gian hay tổ hợp, đây là nhóm u có những 
đặc điểm chung giống nhau và phác đồ điều trị 
riêng. Đặc điểm đặc trưng và chung nhất là tế bào 
K nhỏ, không biệt hóa song cần phân biệt với các 
ung thư di căn. Tế bào u mất tính kết dính rõ, 
thường xếp thành từng đám lỏng lẻo, kèm các tế 
bào riêng lẻ, rải rác, đôi khi thành chuỗi ngắn, đôi, 
hoặc hình hoa hồng nhỏ. Kích thước tế bào rất thay 
đổi tùy típ, song trong mỗi típ, cỡ tế bào thay đổi từ 
nhẹ đến vừa phải. 
Bào tương: thường chỉ có một riềm bào tương 
mỏng ưa bazơ khó hay không thấy rõ làm cho ranh 
giới giữa các tế bào rất khó nhận. 
Nhân: Không đều, tăng sắc rõ, tương đối tròn 
hay hình thoi nếu cỡ nhỏ, teo đặc, giống mực tàu, 
không nhận được hạt nhân, nếu cỡ to, nhân sáng 
hơn, bờ nhân rõ, không cứng, có nhiều hạt nhân rõ, 
phân tán không đều, có thể nhận biết được. Hiếm 
thấy hình các nhân chồng lên nhau. Có thể thấy ít 
nhiều tế bào u hoại tử tạo ra hiện tượng vỡ nhân với 
các mảnh vụn thể hiện dưới dạng các chấm, vệt 
nhân xẫm màu. 
Cần chú ý phân biệt loại tế bào nhỏ với u 
limphô ác tính không Hodgkin (nhiều khi không 
xác định được nếu tế bào không kết hợp với một số 
tế bào u khác) và loại tế bào hình thoi với K biểu 
mô vảy hoặc K biểu mô tuyến không biệt hóa. 
K biểu mô tế bào lớn 
Trên thực tế có 2 mẫu cơ bản: 
Mẫu phát triển đặc có xu hướng tế bào đồng 
dạng trong đó biến thể tế bào sáng dễ chẩn đoán 
hơn. 
Mẫu phát triển lỏng lẻo, tế bào u mất cực tính, 
đa hình thái, điển hình là típ tế bào khổng lồ, cũng 
dễ chẩn đoán. 
Đặc điểm chung là sự hình thành các tế bào u 
cỡ lớn, không có sự biệt hóa, thường xếp thành các 
đám lớn, lan tỏa, lỏng lẻo, hiếm khi chồng nhau mà 
làm thành các đám dẹt kề nhau và/ hoặc cũng có 
thể đơn độc hay xếp thành các nhóm nhỏ song ranh 
giới các tế bào trong đám thường khó xác định và 
tỷ lệ nhân/bào tương thường tăng rõ (giảm hơn ở 
biến thể tế bào sáng). 
Bào tương: lượng từ ít đến vừa phải, thường 
đồng nhất, nhạt (có thể sàng), thường ưa bazơ nhẹ 
nhưng cũng có khi ưa axit, màng bào tương thường 
mờ hoặc nhăn nhúm, ít khi rõ, thỉnh thoảng có hốc 
sáng hoặc thể vùi nội bào tương. 
Nhân: thường nằm ở giữa, hình thay đổi, từ 
tròn, bầu dục, đa diện tới cổ quái, nhiều nhân 
nhưng tỷ lệ nhân/bào tương phần lớn tăng rõ. Màng 
nhân có ranh giới rõ, khi có riềm không đều, có 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học 
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 4 
nhú, góc cạnh, có khi lại nhẵn, không dày, chất 
chromatin thô, phân bố không đều; hạt nhân thường 
to, nổi rõ, vị trí không xác định, hình thái thay đổi, 
có một hay nhiều. Hiếm có nhân teo đặc và khi 
nhân trơ chiếm ưu thế khó chẩn đoán xác định. 
Ung thư biểu mô – vảy tuyến 
Chẩn đoán tế bào học chỉ xác định khi có sự 
phối hợp đầy đủ các đặc điểm của tế bào vảy và tế 
bào tuyến ung thư trên cùng một bệnh nhân với 
một tỷ lệ đáng kể, theo kinh nghiệm của chúng tôi, 
ít nhất từ 2 trở lên đối với đám tế bào và từ 10 trở 
lên, đối với các tế bào riêng lẻ. 
Một vài nhận xét 
Xu hướng phân loại típ ung thư phổi ngày càng 
sâu và phức tạp. Ở Việt Nam, nhiều cơ sở y tế còn 
chưa làm quen với phân loại mô học ung thư phổi 
năm 1981 của WHO thì nay lại có phân loại WHO, 
1999 về mô học nhóm u này
(10)
. Chỉ riêng với 5 típ 
mô học nêu ở công trình này, các tiêu chuẩn chẩn 
đoán tế bào học ở y văn nước ngoài còn chưa thống 
nhất và dĩ nhiên chưa đầy đủ giữa các tác giả
(6,7,8,9)
. 
Khi chẩn đoán 5 típ mô học này còn chưa trở thành 
thông lệ ngay ở giữa những trung tâm y tế lớn hoặc 
chuyên sâu thì việc chúng tôi giới thiệu nhằm hoàn 
chỉnh hoặc bổ sung các tiêu chuẩn chẩn đoán tế 
bào học 5 típ ung thư phổi thường gặp ở Việt Nam 
trước hết là nhằm phục vụ cán bộ chuyên ngành ở 
94 cơ sở giải phẫu bệnh trong cả nước có thêm điều 
kiện để nhân lên rộng rãi một phương pháp chẩn 
đoán hiện đại, có giá trị cao nhưng lại ít tốn kém và 
trang bị, phương tiện không quá phức tạp. 
Trong 50 bệnh nhân ở công trình này, chẩn 
đoán tế bào học dương tính đã được xác lập ngay từ 
đầu vì có những tổn thương điển hình cho từng típ 
và còn hội tụ được đồng thời nhiều tiên chuẩn chẩn 
đoán đặc trưng. Song trong quá trình chẩn đoán 
hàng nghìn trường hợp ung thư phổi về tế bào học, 
chẩn đoán âm tính giả thường chiếm trên dưới 15% 
do lấy không trúng vùng ung thư
(2,3,4)
, còn chẩn 
đoán sai típ thường có một số nguyên nhân sau: 
Không đọc kỹ các phiến đồ. Y văn chưa nêu 
một điểm rất quan trọng trong thực tế là: ở bất kỳ 
loại tổn thương ung thư phổi nào, cũng có thể thấy 
đồng thời nhiều loại tế bào của nhiều típ vi thể 
khác nhau. Chẩn đoán có ung thư không phức tạp 
song nếu không xem kỹ, toàn diện, việc nhận định 
cục bộ ắt sẽ định sai típ. Ví dụ: nếu chỉ dựa vào 
một vài đám lớn tế bào ung thư, nhiều khi rất khó 
phân biệt một ung thư biểu mô vảy kém biệt hóa 
với ung thư biểu mô tế bào lớn phát triển đặc hoặc 
một ung thư biểu mô tuyến kém biệt hóa. 
Khi có nhiều típ tế bào ung thư phối hợp, việc 
định típ nên dựa vào loại tế bào nào chiếm ưu thế 
nhất hoặc điển hình nhất. Nếu vẫn phân vân, nên 
xếp vào nhóm linh tinh (hoặc không xếp loại)
(10)
. 
Cố định và/hoặc nhuộm tồi: cần xét nghiệm lại 
Bỏ qua những tế bào riêng lẽ hoặc nhóm nhỏ, 
chuỗi, dây tế bào . Sai lầm này rất hay gặp. Ví dụ: 
trong ung thư biểu mô vảy biệt hóa rõ, bên cạnh 
nhiều tế bào bình thường có thể thấy tế bào nòng 
nọc hoặc sừng hóa riêng lẻ nhân chỉ hơi bất thường. 
Hoặc bên cạnh những đám tế bào ung thư biểu mô 
tế bào lớn khó xác định, có thể dễ dàng định típ 
biểu mô tuyến nếu thấy nhưng tế bào riêng lẻ hay 
chuỗi ngắn, tế bào hình trụ, nhân nằm lệch về đáy 
tế bào ung thư. 
Khi phân vân, nên nhuộm đặc biệt để phát hiện 
chất sừng hoặc chất nhầy trong tế bào . Chỉ có một 
số hạt trai cũng đủ xác định ung thư biểu mô vảy 
hoặc các giọt chất nhầy trong bào tương, ở ung thư 
biểu mô tuyến. 
KẾT LUẬN 
Những kinh nghiệm về tiêu chuẩn chẩn đoán tế 
bào học 5 típ ung thư phổi thường gặp nêu ở tài liệu 
này được tổng hợp trong y văn, được bổ sung thêm 
với quá trình chẩn đoán hơn 30 năm tại Bộ môn 
giải phẫu bệnh Đại Học Y Hà Nội và đối chiếu kỹ 
tế bào học – mô bệnh học ở 50 trường hợp tương 
đối điển hình. 
Việc xét nghiệm đờm và dịch rửa phế quản cho 
hiệu quả dương tính rất thấp (dưới 20%)
(2,3,5)
. 
Chúng tôi đề nghị: chỉ nên áp dụng việc lấy bệnh 
phẩm quyết, áp, chọc hút kim nhỏ xuyên thành 
ngực, xuyên vách phế quản
(1,3,5)
. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. NGÔ QUÝ CHÂU, NGUYỄN VĂN THÀNH, NGUYỄN 
VƯỢNG..Sinh thiết phổi hút kim nhỏ trong chẩn đoán ung thư 
phổi. Nội san lao và bệnh phổi, 1993 (114). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 5 
2. NGUYỄN VƯỢNG – Chẩn đoán tế bào ung thư phế quản Kỹ 
Thuật Y Dược, số 3, 1977, (3-18). 
3. NGUYỄN VƯỢNG – Chẩn đoán tế bào ung thư phổi. Trong 
sách: Giải phẫu bệnh học. Nhà xuất bản Y học, 1998 (287-289). 
4. NGUYỄN VƯỢNG, NGUYỄN NGỌC HÙNG, NGUYỄN 
TRỌNG CHĂM – chẩn đoán mô bệnh học trước phẫu thuật ung 
thư phế quản – phổi. Phụ trương Y học Việt Nam. Chuyên đề 
giải phẫu bệnh – Y pháp 1998 (1-3). 
5. NGUYỄN VƯỢNG, NGUYỄN NGỌC HÙNG, LÊ TRUNG 
THỌ – chẩn đoán tế bào học ung thư phế quản. Đặc san Giải 
phẫu bệnh – Y pháp 1998 (48-50). 
6. NATIONAL CANCER INSTITUTE Atlas of early lung 
cancer.. US department of health and human services. Igaku – 
Shoin. New york, Tokyo, 1983, 351. 
7. BIBBO. M. In: Comprehensive cytopathology, Respiratory 
tract W.B Saunders Company, 1991 (320-399). 
8. KOSS L.G. In Diagnostic cytology and its histopathologic basis. 
Cancer of the lung. Vol 1. J. B. lippincott Company, 1992 (769-
864). 
9. WHO. Cytology of non gynecological sites (Pulmonary 
cytology) Geneva, 1977 (19-29). 
10. WHO. Classification of lung tumors. Geneva Original, 1977, 
2
nd
 edition 1981, 3
rd
 edition, 1999.. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 gop_phan_nghien_cuu_xac_dinhk_va_hoac_hoan_thien_mot_so_tieu.pdf gop_phan_nghien_cuu_xac_dinhk_va_hoac_hoan_thien_mot_so_tieu.pdf