Tài liệu Góp phần nghiên cứu điều trị bảo tồn vở lách do chấn thương: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN 
VỞ LÁCH DO CHẤN THƯƠNG 
Phạm Ngọc Lai *, Phan Minh Trí**, Nguyễn Thế Hiệp *** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả ban đầu của điều trị bảo tồn lách (BTL) bằng khâu (KL) hay cắt lách bán 
phần (CLBP) và theo dõi không mổ (TDKM) của lách vỡ do chấn thương từ 1996 đến 30/6/2001. 
Phương pháp: Tiền cứu, mô tả cắt ngang không nhóm chứng. 
 Kết quả: Có 176 trường hợp vở lách điều trị tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định (BVNDGĐ) từ 1996 đến 
30/6/2001. Trong đó có 52 trường hợp (TH) (30 %) BTL thành công, đã không có tử vong, không có biến 
chứng và không có truyền máu trong nhóm không mổ, 10 (19, 2 %) TDKM, 8 (15, 4 %) soi ổ bụng (SOB), 34 
(65, 4 %) KL và CLBP. 124 (70 %) cắt lách toàn phần do tổn thương nhu mô lách nặng, vì rách tới cuống 
lách, có tổn thư...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 754 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp phần nghiên cứu điều trị bảo tồn vở lách do chấn thương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN 
VỞ LÁCH DO CHẤN THƯƠNG 
Phạm Ngọc Lai *, Phan Minh Trí**, Nguyễn Thế Hiệp *** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả ban đầu của điều trị bảo tồn lách (BTL) bằng khâu (KL) hay cắt lách bán 
phần (CLBP) và theo dõi không mổ (TDKM) của lách vỡ do chấn thương từ 1996 đến 30/6/2001. 
Phương pháp: Tiền cứu, mô tả cắt ngang không nhóm chứng. 
 Kết quả: Có 176 trường hợp vở lách điều trị tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định (BVNDGĐ) từ 1996 đến 
30/6/2001. Trong đó có 52 trường hợp (TH) (30 %) BTL thành công, đã không có tử vong, không có biến 
chứng và không có truyền máu trong nhóm không mổ, 10 (19, 2 %) TDKM, 8 (15, 4 %) soi ổ bụng (SOB), 34 
(65, 4 %) KL và CLBP. 124 (70 %) cắt lách toàn phần do tổn thương nhu mô lách nặng, vì rách tới cuống 
lách, có tổn thương phối hợp hoặc lách to bệnh lý. Có 2 ca mổ lại ở nhóm mổ hở vi` không khâu. Phần lớn 
chấn thương là do tai nạn lưu thông (TNLT) và đả thương. Thời gian nằm viện trung bình 8 ngày. 
Kết luận: Phương pháp điều trị BTL của chúng tôi có thể áp dụng được với điều kiện chỉ định đúng, xử 
trí phù hợp theo bệnh cảnh lâm sàng và thương tổn. Tuy nhiên không thể chấp nhận tử vong do BTL gây ra, 
cần phải thận trọng và chỉ được phép BTL ở những bệnh nhân ổn định và không nên do dự chuyển mổ hở để 
khâu lách. Đã có nhiều tiến bộ trong BTL và gia tăng từng năm. Trong tương lai cần phải hoàn thiện các kỹ 
thuật đã có và phát triển thêm các kỹ thuật khác nhằm gia tăng tỷ lệ BTL. 
SUMMARY 
STUDY OF PRESERVATIVE THERAPY OF RUPTURED SPLEEN DUE TO TRAUMA 
Pham Ngoc Lai, Phan Minh Trí, Nguyen The Hiep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 7 * Supplement 
of No 1 * 2003: 68 - 74 
Objective: To evaluate the primitive results of splenic preservation by suture or partial splenectomy and 
nonoperative observation of ruptured spleen for trauma from 1996 to June 30, 2001. 
Methods: Prospective, cross-sectional descriptive study without comparing. 
Results: There were 176 cases of ruptuned spleen that was treated in Nhan Dan Gia Dinh Hospital 
from 1996 to June 30, 2001: Fifty-two (30 %) splenic conservation successfully. There were no death, no 
complication and no blood transfusion in the nonoperative group. Ten (19, 2 %) nonoperative management, 
eight (15, 4 %) laparoscopic surgery, thirty-four (65, 4 %) splenorrhaphy or partial splenectomy. One 
hundred and twenty-four (70%) splenectomies were performed because of either complete destruction of 
the splenic pulp, or separation of the spleen from its blood supply at the helium, or associated injuries, or 
pathological splenomegaly. There were two reoperative cases for nosplenorrhaphy The majority of splenic 
trauma was moto vehicle accidents and engagement. The time of hospital stay was mean eight days. 
Conclusion: Our preservative therapeutic methods can be applied successfully on condition that: correct 
indication and reasonable treatment in the clinical state and its lesions. Any mortality from the conservation 
* BS khoa ngoại tổng hợp 2 – Bv Nhân Dân Gia Định.
** BS bộ môn ngoại tổng quát ĐHYD. 
*** Giám đốc BVND Gia Định. 
Chuyên đề Ngoại khoa 68 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
of splenic injury is unacceptable. The indication is prudent only for the stable patient and there should be no 
hesitation to proceed with laparotomy and splenic repair. There were progressing very much in splenic 
preservation and increasing for year. In the future, the requirement for perfection of available techniques 
and the development of other techniques to increase splenic preservative ratio. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
- Vỡ lách do chấn thương là 1 cấp cứu ngoại 
khoa thường gặp ở nước ta và trên thế giới. Lách là 
tạng dễ bị tổn thương (4, 11). Trước 1900, tử vong do 
chấn thương lách gây ra khá cao. Năm 1911, Kocher 
đã nhận xét: “ Nên cắt bỏ lách bị chấn thương, lấy 
bỏ nó không có hại gì, sự nguy hiểm của chảy máu 
phải được chấm dứt 1 cách hiệu quả”. Từ đó cắt lách 
được xem như phương pháp điều trị kinh điển để 
cứu sống người bệnh (5, 12). Từ 10 năm trở về trước tại 
Việt Nam cắt lách được thực hiện 1 cách hệ thống 
trong chấn thương, ở BVNDGĐ cũng không ngoại lệ. 
- Cơ sở để thực hiện phương pháp điều trị BTL 
là sự hiểu biết đầy đủ về giải phẩu học và sinh lý 
bệnh của lách. Trong những năm gần đây, nhờ tiến 
bộ y học, vai trò của lách đối với hệ thống tạo máu 
và hệ miễn dịch đã được biết rõ (1, 3, 12). 1952, King và 
Schumacher phát hiện hội chứng nhiễm khuẩn 
nặng sau cắt lách (OPSS) (1, 2). Từ đó vấn đề BTL 
được đặt ra ở hầu hết các khoa ngoại trên thế giới. 
- 1953, Nguyễn Hữu nghiên cứu sự phân bố 
mạch máu lách và cấu trúc của lách, nhờ đó có thể 
cắt lách 1 phần (13, 14). 
- 1984, Van Der Werken nhận thấy cũng như 
mô gan sự lành sẹo của lách phát triển từ mô hạt 
thành mô xơ. Tổ chức xơ có chức năng như bao lách 
mới sau 3 tháng từ khi lách bị vỡ. Bằng thực 
nghiệm ông đã chứng minh nếu được khâu, sự lành 
sẹo nhanh hơn (8). 
- Hiện nay BTL đã trở thành phổ biến và được 
viết vào sách giáo khoa, có nhiều kỹ thuật từ không 
mổ đến mổ hở. Trong nước cũng đã có nhiều công 
trình nghiên cứu, tuy nhiên bằng TDKM chỉ thấy 
thực hiện ở trẻ em, đặc biệt chưa có đề tài nào về 
SOB được công bố. Tại BVND Gia Định, chúng tôi đã 
thực hiện cả 3 kỹ thuật: TDKM, SOB và mổ hở để 
BTL. 
Mục tiêu nghiên cứu: 
- Xác định khả năng BTL (ở những mức độ khác 
nhau) trong điều trị tổn thương lách do chấn 
thương. 
- Đánh giá vai trò cũa siêu âm (SÂ) cũng như 
SOB trong chẩn đoán và điều trị BTL bàêng TDKM. 
- Xây dựng qui trình theo dõi chấn thương lách. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Thiết kế: 
Tiền cứu, mô tả cắt ngang không nhóm chứng. 
Thực hiện kỹ thuật và theo dõi bảo tồn lách vỡ do 
chấn thương ở những bệnh nhân (BN) có mổ và 
không mổ: 
Thời gian thực hiện từ 1996 - 30/6/2001 tại 
BVND Gia Định. 
Đối tượng: 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: 
- Bệnh nhân có chấn thương bụng kín (CTBK) 
hoặc vết thương thấu bụng. Tuổi từ 15 - 55, lâm 
sàng có các triệu chứng vỡ lách do chấn thương: 
Đạu bụng ¼ trên trái, (±) gãy sườn trái, (±) dấu hiệu 
Kehr. SÂ ghi nhận tổn thương lách có hay không có 
dịch ổ bụng. Tùy vào sinh hiệu, tình trạng bụng và 
mức độ tổn thương mà thực hiện kỷ thuật BTL như: 
TDKM, SOB hoặc mổ hở. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Có tiền căn bệnh mãn tính nặng, bệnh máu 
không đông. 
- Có thay đổi tri giác, choáng mất máu nặng. 
Lúc mổ tổn thương lách độ IV, V hoặc tổn thương tại 
cuống lách, chảy máu không kiễm soát nổi. 
- Có phối hợp các thương tổn khác nặng nề, 
thủng tạng rỗng. 
- BTL thất bại, phải mổ lại. 
Chuyên đề Ngoại khoa 69
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
Phương pháp 
 Theo dõi không mổ: 
- Lâm sàng ổn, không đòi hỏi truyền máu (Hct 
≥ 30 %). Không chọn những bệng nhân có vết 
thương thấu bụng. 
- Siêu âm thấy thương tổn lách < 20 % thể tích 
lách (theo tiêu chuẩn của Hiệp hội ngoại chấn 
thương Hoa Kỳ= AAST). 
- Được lưu tại cấp cứu 3 - 6 giờ, sau đó ổn sẽ 
chuyển trại theo dõi về lâm sàng, Hct và SÂ. Xuất 
viện sau 5 - 7 ngày. Tái khám và theo dõi tại đa 
khoa, hẹn SÂ sau 3 tháng. 
Soi ổ bụng quan sát: 
- Giống như tiêu chuẩn theo dõi không mổ, 
nhưng lượng dịch nhiều trên SÂ và nghi ngờ thương 
tổn lách chưa thật sự ổn định, cần quan sát trực 
tiếp, hút bớt máu đọng, dẫn lưu. 
Máy nội soi Olympus, ống soi 0o và các dụng cụ: 
kềm không sang chấn, ống hút, các trocar ∅: 5 mm 
và 10 mm. Bệnh nhân nằm ngữa, đặt sonde dạ dầy, 
thông bàng quang. Phương pháp vô cảm mê toàn 
thân hoặc tê tại chỗ + tiền mê sâu, áp lực CO2 điều 
chỉnh tùy phương pháp vô cảm: tê (8 mmHg), mê 
(10 - 12 mmHg). Vị trí trocar: tại rốn ∅ 10 mm (đặt 
ống soi), hạ sườn phải ∅ 5 mm, hạ sườn trái ∅ 10 
mm, cho phép thao tác thám sát ổ bụng. Khi thám 
sát lách, có thể chuyển camera từ rốn sang hạ sườn 
trái. 
- Chi tiết ghi nhận: Thám sát theo trình tự kinh 
điển của mổ hở, tổng kê các tổn thương. Đánh giá 
lượng dịch, thương tổn bề mặt của lách, máu có còn 
đang chảy không. Từ đó quyết định bảo tồn không 
mổ hay mổ hở khâu hoặc cắt lách. 
Mổ hở khâu hoặc cắt lách bán phần: 
- Các bệnh nhân TDKM, SOB quan sát, nếu diễn 
tiến lâm sàng không cải thiện hoặc nghi ngờ máu 
còn đang chảy hoặc / và có triệu chứng của choáng 
mất máu là chuyễn mổ hở. 
- Thực hiện truyền máu hoàn hồi khi máu mất 
≥ 500 ml và có độ tán huyết (-). 
- Kỹ thuật 
Khâu lách: 
Đường mổ giữa trên rốn. Nếu cuống lách đủ dài 
(thường ¾ cuống lách đủ dài), trình diện lách ở 
đường giữa bằng cách độn từ 3-5 miếng gạc bụng ở 
hố lách. Dùng chỉ chromic hoặc vicryl loại liền kim 
số 0 hay 00. Khâu mũi đơn, chữ u hoặc X có hay 
không có đắp mạc nối lớn. Đặt dẫn lưu hố lách. 
Cắt lách bán phần 
Kỹ thuật trình diện lách và chỉ khâu cũng như 
khâu lách. Bộc lộ nhánh mạch máu nuôi lách, cắt, 
cột từng phần một theo vùng tổn thương ở cực trên 
hay dưới. Quan sát sự đổi màu của lách và cắt bỏ 
phần đổi màu tại ranh giới ghi nhận. Khâu ép mặt 
cắt theo kiểu chữ u. Đặt dẫn lưu hố lách. 
KẾT QUẢ 
- Trong 5 năm rưởi (từ 1996 đến 30/6/2001), 
khoa ngoại BVND Gia Định tiếp nhận 176 chấn 
thương lách. 52 (30 %) BTL thành công và không có 
tử vong: 10 (19, 2 %) TDKM, 8 (15, 4 %) SOB quan 
sát, 34 (65, 4 %) mổ hở trong đó khâu lách = 30 
hoặc CLBP = 4. 124 (70 %) cắt bỏ lách toàn phần: 
50 đường rách đi vào cuống lách; 29 lách vỡ nhiều 
mảnh; 10 có tổn thương phối hợp đi kèm; 13 lách to 
bệnh lý, sốt rét, lymphoma; 2 tụ máu lớn dưới bao. 
Tất cả lách cắt bỏ đều gởi GPBL, kết quả ghi nhận 
20 lách có tổn thương nông, nhẹ, đa số của các năm 
96, 97. 
52 BTL có tỷ lệ nam/ nữ = 2:1, tuổi trung bình: 
26, 29 ± 9, 64, đa số do TNLT = 24 (46 %), đả 
thương = 16 (31 %), rủi ro trong sinh hoạt = 10 
(19 %) và tai nạn lao động (TNLĐ) = 2 (4 %). Thời 
gian nằm viện từ 5 - 12 ngày, trung bình 8 ngày. Có 
1 trường hợp kéo dài 22 ngày do đa chấn thương, 
gãy xương, phải mổ lần 2 kết hợp xương. 
Theo dõi không mổ 
Bắt đầu áp dụng từ năm 1998, có 15 trường hợp 
(TH) được chọn để theo dõi thành công dựa vào 
triệu chứng lâm sàng của chấn thương lách và kết 
quả SÂ. Tuy nhiên chỉ đưa vào nghiên cứu có 10 
TH, trong đó có 7 TH SÂ ghi nhận lượng máu ít, 3 
Chuyên đề Ngoại khoa 70 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
TH lượng máu vừa và không có TH nào lượng máu 
nhiều được chọn. Thương tổn thấy được chủ yếu ở 2 
cực và mặt hoành (8 TH) và rốn lách (2 TH). 5 TH 
còn lại bị loại ra khỏi nghiên cứu vì kết quả siêu âm 
không đủ kết luận có thương tổn lách, chỉ thấy dịch 
ổ bụng và dịch quanh lách. 
5 
10 
15 
20 
25 
30 
35 
BN 
Hình 1 : Biểu đồ so sánh bảo tồn lách và cắt lách từ 1996 đến nay 
Soi ổ bụng quan sát 
Thực hiện từ 11/1997, có 11 TH chấn thương 
lách được SOB để có chẩn đoán và đánh giá thương 
tổn bề mặt của lách. 8 TH đã bảo tồn được lách 
thành công mà không phải chuyễn mổ hở, chỉ hút 
bớt máu và đặt dẫn lưu để theo dõi. Khi quan sát, 
lượng máu ổ bụng ghi nhận từ 100 - 1000 ml, trung 
bình khoảng 400 ml. Đa số đọng ở hố lách, ít ở rảnh 
đại tràng, dưới gan và Douglas. Có 1 TH kèm dập 
đuôi tụy. 3 TH soi thất bại, trong đó 2 TH phải mổ 
hở vì máu đang chảy (1 khâu lách thành công và 1 
cắt lách toàn phần), 1 không quan sát được rõ tổn 
thương lách, chỉ thấy đọng 1 ít máu ở hố lách). 
Mổ hở khâu lách và cắt lách bán phần 
Bắt đầu từ năm 1996, trong năm đầu chỉ có 3 
TH được thực hiện, đến nay đã có 30 TH khâu lách, 
trong đó tổn thương ở 2 cực chiếm đa số (17 TH), 
chỉ có 5 tổn thương ở gần rốn lách đã được khâu 
thành công (khâu tăng cường mũi chữ X trên mũi 
chữ U), 8 TH còn lại là ở mặt hoành. Có 4 TH cắt 1 
phần lách thì 3 xảy ra ở cực dưới. Trong 34 trường 
hợp mổ hở có 7 tổn thương phối hợp được ghi nhận: 
3 rách gan, 2 rách hoành, 1 vỡ thận và gãy xương 
cẳng chân, 1 tụ máu sau phúc mạc. 28 trường hợp 
dùng chỉ vicryl 0 và 00, 6 TH dùng chromic. Có 4 
TH đã sử dụng mạc nối lớn để đắp lên chỗ khâu. 1 
TH khâu lách thất bại, phải cắt lách. 2 TH thấy tổn 
thương lách nhỏ, đã ngưng chảy máu nên không 
khâu và đã được mổ lại để cắt lách vì chảy máu thứ 
phát ở ngày hậu phẩu thứ hai. 
Vấn đề truyền máu 
- 18 TDKM và SOB quan sát: không có trường 
hợp nào phải đòi hỏi truyền máu. Trong 34 mổ hở 
khâu lách và cắt lách bán phần: 7 truyền máu hoàn 
hồi từ 500 - 1200 ml và 2 truyền máu dự trữ từ 2 - 4 
đơn vị. 
BÀN LUẬN 
- Trong báo cáo này gần 80 % chấn thương lách 
vào bệnh viện là do TNLT và đả thương. Số lượng 
chấn thương lách ngày càng gia tăng, chỉ riêng 6 
tháng đầu năm 2001 đã bằng cả năm 96 hoặc 99. 
Nhờ đa dạng hóa các kỹ thuật mà tỉ lệ BTL do chấn 
thương cũng tăng từ 11, 5 % (1996) đến nay đã đạt 
96 97 98 99 00 6/2001
25
13
26 
35 35
30
23 19
3 
 Chấn thương lách 
 Cắt lách 
 Bảo tồn lách 
Năm 
1762529 
26 124
14 52
12
11 11
9
6 
Chuyên đề Ngoại khoa 71
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
được 48 % và giảm đáng kể số trường hợp phải cắt 
lách toàn phần (xem biểu đồ so sánh). 
Chỉ định 
Trước đây khi đã có chẩn đoán tổn thương lách 
là mổ cắt lách, nếu ghi nhận có máu trong xoang 
bụng là phải mở bụng thăm dò. Ngược lại ngày nay 
cũng có một số báo cáo cho thấy họ bảo tồn lách 
không mổ một cách rộng rãi hơn, thậm chí ngay cả 
phải truyền máu. Không thể cực đoan về một phía 
nào giữa mổ hở và TDKM, cần phải cân nhắc, có chỉ 
định rõ ràng, cụ thể và không ngần ngại chuyển mổ 
hở sớm để khâu lách nếu đe dọa phải truyền máu. 
Dẫu sao cũng còn có thể bảo tồn được lách, còn hơn 
là chọn 1 giải pháp mà tính an toàn của nó luôn bị 
thách thức. 
- 1886 Evans đưa ra ý nghĩ, lách có thể chảy 
máu lại dữ dội vào thời điểm xa của chấn thương vì 
bao lách mỏng, nên dưới áp lực liên tục của động 
mạch và nhu mô lách bị chấn thương, tụ máu đã 
không thể chịu nổi. Chúng tôi có chỉ định khá chặt 
chẽ, nhất là đối với BTL bằng TDKM, kể cả với biện 
pháp xâm nhập tối thiểu như SOB (lâm sàng ổn 
định, Hct > 30% và siêu âm không có tụ máu lớn 
dưới bao). Chính triệu chứng lâm sàng và tình 
trạng huyết động học của BN chứ không phải kết 
quả SÂ hay CT Scan mới quyết định BTL bằng 
TDKM hay mổ hở(7). Trong quá trình theo dõi phải 
luôn nhớ rằng khả năng chảy máu thứ phát có thể 
xảy ra bất cứ lúc nào trong 2 tuần đầu (Baudet 
1907). Do đó dặn dò BN trước khi xuất viện là rất 
cần thiết và bắt buộc. 
Vấn đề truyền máu 
- Từ 1981 -1986 tại BV nhi ở Toronto có 75 chấn 
thương lách trẻ em: 10 (13 %) mổ hở cắt lách hay 
khâu lách, 65 (87 %) thành công bằng TDKM trong 
đó có 23 % đòi hỏi truyền máu. Do sự gia tăng của 
những bệnh truyền nhiễm thông qua việc sử dụng 
máu và những sản phẩm từ máu, câu hỏi đặt ra là 
có nên truyền máu nhiều cho những BN TDKM 
không (7). 
- Báo cáo của chúng tôi không có trường hợp 
nào phải truyền máu ở nhóm không mổ. Còn ở 
nhóm mổ hở, chúng tôi áp dụng truyền máu hoàn 
hồi, nhờ đó đã làm lợi cho BN về cả 2 mặt là tài 
chánh và an toàn trong truyền máu. 
Giá trị của siêu âm trong theo dõi 
không mổ 
- Một số lớn tác giả nước ngoài chọn CT Scan để 
đánh giá tổn thương khi BTL bằng TDKM. Vì khách 
quan chúng tôi không thể thực hiện được, do đó SÂ 
đã được thay thế. Siêu âm lách có thể cung cấp rõ 
ràng máu tự do ổ bụng và tụ máu quanh bao lách 
với độ chính xác cao(6, 9). Ở Châu Âu, đặc biệt là ở 
Đức, đã có nhiều kinh nghiệm đối với SÂ trong chấn 
thương lách. Trong 15 báo cáo tại Đức ghi nhận độ 
nhạy của siêu âm từ 60 - 100%(10). Do SÂ có các ưu 
điểm: giá rẻ, dễ sử dụng, cơ động, có thể lập lại 
nhiều lần, đặc biệt nó theo dõi lượng dịch xoang 
bụng tốt không kém gì CT Scan và có thể thấy được 
thương tổn dập hay tụ máu nhu mô lách. 
Trong nghiên cứu này SÂ đã được sữ dụng đến 
như là một phương tiện hổ trợ và kết hợp với lâm 
sàng để TDKM. 
Soi ổ bụng quan sát 
- Vì siêu âm khó phát hiện các tổn thương bề 
mặt của lách và không xác định được máu có còn 
đang chảy hay không. Nên chúng tôi áp dụng thêm 
kỹ thuật SOB để khắc phục 2 nhược điểm này. Đồng 
thời qua đó còn giải quyết được 2 vấn đề mà TDKM 
không thể thực hiện được: hút bớt phần lớn lượng 
máu đọng trong xoang phúc mạc và đặt được dẫn 
lưu để theo dõi các ngày sau. Ở những bệnh nhân 
này hậu phẩu cảm thấy dễ chịu hơn so với nhóm chỉ 
TDKM. 
Mổ hở 
- Thực hiện kỹ thuật khâu mũi đơn, U hay X 
bằng chỉ tan chromic hay vicryl liền kim và nhận 
thấy không bị tổn thương do kim khâu gây ra, 
chúng tôi không phải dùng đến miếng đệm và mỡ 
chài cũng ít khi dùng (chỉ có 4/30 TH), 1 TH khâu 
thất bại, máu vẫn chảy và đã cắt lách ngay. Có 1 TH 
do không khâu và đã mổ lại ngày thứ 2. Rút kinh 
nghiệm trường hợp này chúng tôi cho rằng một khi 
Chuyên đề Ngoại khoa 72 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
đã mổ hở dù tổn thương lách đã tự cầm cũng nên 
khâu lại để tránh chảy máu thứ phát sau mổ. 
- Có 6 TH tổn thương rộng, đường rách đi gần 
rốn lách, sau khi khâu chử U, thấy còn rỉ máu, 
chúng tôi khâu tăng cường thêm mũi chử X thì thấy 
cầm máu tốt (trong TH này các tác giã nước ngoài 
dùng keo sinh học). 
- Những năm đầu, có đa chấn thương (ĐCT) là 
không BTL, 6 tháng đầu năm có 3 TH ĐCT nhưng 
lách vở độ I, II và chúng tôi BTL thàng công. Chúng 
tôi có nhận xét: Nếu quen vơi kỹ thuật BTL thì ĐCT 
không phải là chống chỉ định, nhưng với điều kiện 
tổn thương lách nhẹ và không rối loạn huyết động 
học nặng. 
Quy trình theo dõi điều trị btl của chúng tôi 
C T L 
Truyền dịch 
< 1 lít 
Tiếp tục chảy máu 
 (Rối loạn huyết động học) 
Thể nhẹ Thể nặngThể trung bình
MỔ HỞT D K M SOB
ổn 
Lâm sàng: Nghi ngờ 
Siêu âm: Dịch nhiều 
Hút máu 
Dẫn lưu 
 KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu BTL, chúng tôi rút ra được 1 số 
kết luận như sau: 
Vở lách xảy ra ở nam nhiều hơn nữ, TNLT 
chiếm hàng đầu. Tỷ lệ BTL chưa cao, nhưng tăng 
theo từng năm (từ 11, 5% đến nay 48%). 
Nếu biết tận dụng SÂ, sẽ có giá trị trong chẩn 
đoán và theo dõi vở lách. 
SOB góp phần làm giảm tỷ lệ thất bại của 
TDKM, đồng thời còn giúp cho điều trị: hút máu 
đọng, đặt ODL theo dõi. 
Chỉ đinh của các kỹ thuật BTL phụ thuộc phần 
lớn vào lâm sàng, và đây cũng chính là qui trình 
Chuyên đề Ngoại khoa 73
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học
theo dõi chấn thương lách mà chúng tôi muốn xây 
dựng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Trương Đình Kiệt. Các cơ quan tạo huyết và miễn dịch. 
Mô học trường ĐHYD TP. HCM (1993), trang 68 – 74. 
2 Nguyễn Lung. « Phẫu thuật bảo tồn trong vỡ lách chấn 
thương ». Tập san ngoại khoa (1986), tập XIV, số 6, 
trang 1 – 5. 
3 Trần Thị Liên Minh. Sinh lý học của máu. Sinh lý học 
y khoa (1991). Bộ môn sinh lý học, trường ĐHYD TP. 
HCM, trang 21 – 45. 
4 Nguyễn Quang Quyền. Lách. Bài giảng giải phẫu học 
tập II. Trường ĐHYD TP. HCM. Nhà xuất bản y học 
(1995), trang 112 – 116. 
5 Beal - Sandra L. et al. "The Risk of splenorrhaphy ". 
Arch Surg (1988), vol. 123, PP. 1158 - 1163. 
6 Bennett. Mary K. et al. "Ultrasonography in blunt 
abdominal trauma". Emergency medicine clinics of 
North America (1997), vol. 15, No. 4, PP. 764 - 786. 
7 Bond - Sheldon J et al. "Nonoperative Management of 
blunt hepatic and splenic injury in children". Annals of 
surgery (1996), vol. 223, No 3, PP. 286 – 290. 
8 Johnson C. D. “ Healing in the liver, Bile ducts, 
Pancreas, and spleen”. Prolems in general surgery 
(1989), vol. 6, No 2, PP. 304-306. 
9 Pearl and Todd. "Ultrasonography for the initial 
evaluation of blunt abdominal trauma: A review of 
prospective trials". Annals of emergency medicine 
(1996), vol. 27, No3, PP. 353 – 361. 
10 Porter R. S et al. "Use of ultrasound to detemine need 
for laparotomy in trauma patients ". Annals of 
emergency medicine (1997) vol 29, No3, PP. 323 – 330. 
11 Smith and Meyer. "Anatomy, immunology, and 
physiology of the spleen". ShackelFord's surgery of the 
Alimentary tract (1996), 4th edition, vol 3, chapter 39, 
PP. 619 – 627. 
12 Wesson D. E et al. "Ruptured spleen - when to 
operate?". Journal of Pediatric surgery (1981), vol. 16, 
No3, PP. 324 – 326. 
13 Breil P, Bahnini A, Fékéte ù F. “ Splénectomie et 
chirurgie conservatrice de la rate”, Encyclopédie 
Medico-chirurgicale. Techniques chirurgicales – 
Appareil digestif, 40 750 et 40 751 (1990), PP. 1-6. 
14 Nguyễn Hữu. Territoire arteriels de la rate, étude 
experimentale: Possibilité de resections partielles 
régleés de la rate. La press medicale (1956), PP. 1749 – 
1750. 
Chuyên đề Ngoại khoa 74 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 gop_phan_nghien_cuu_dieu_tri_bao_ton_vo_lach_do_chan_thuong.pdf gop_phan_nghien_cuu_dieu_tri_bao_ton_vo_lach_do_chan_thuong.pdf