Giáo trình môn Phân tích hoạt động kinh doanh

Tài liệu Giáo trình môn Phân tích hoạt động kinh doanh: 1 Lời mở đầu Trong điều kiện hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, muốn tồn tại và phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh có lãi. Muốn vậy, yêu cầu doanh nghiệp phải được thường xuyên tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh, nhằm đánh giá đúng đắn mọi hoạt động kinh doanh trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu và lựa chọn đưa ra quyết định tối ưu phương án hoạt động kinh doanh. Phân tích hoạt động kinh doanh là một môn khoa học không thể thiếu trong chương trình đào tạo. Để đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giáo viên và sinh viên, chúng tôi tổ chức biên soạn cuốn sách "Phân tích hoạt động kinh doanh" phù hợp nền kinh tế thị trường. Với kinh nghiệm giảng dạy được tích luỹ qua nhiều năm, cộng với sự nỗ lực nghiên cứu từ các nguồn tài liệu khác nhau, cuốn sách "Phân tích hoạt động kinh doanh" là tài liệu chính thức sử dụng giảng dạy và học tập cho sinh viên Cao đẳng nghề Kế ...

pdf69 trang | Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình môn Phân tích hoạt động kinh doanh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Lời mở đầu Trong điều kiện hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, muốn tồn tại và phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh có lãi. Muốn vậy, yêu cầu doanh nghiệp phải được thường xuyên tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh, nhằm đánh giá đúng đắn mọi hoạt động kinh doanh trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu và lựa chọn đưa ra quyết định tối ưu phương án hoạt động kinh doanh. Phân tích hoạt động kinh doanh là một môn khoa học không thể thiếu trong chương trình đào tạo. Để đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giáo viên và sinh viên, chúng tôi tổ chức biên soạn cuốn sách "Phân tích hoạt động kinh doanh" phù hợp nền kinh tế thị trường. Với kinh nghiệm giảng dạy được tích luỹ qua nhiều năm, cộng với sự nỗ lực nghiên cứu từ các nguồn tài liệu khác nhau, cuốn sách "Phân tích hoạt động kinh doanh" là tài liệu chính thức sử dụng giảng dạy và học tập cho sinh viên Cao đẳng nghề Kế toán. Đồng thời là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này. Nội dung cuốn sách gồm 6 chương đề cập toàn bộ kiến thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chương I: Khái quát chung của phân tích hoạt động kinh doanh. Chương II: Phân tích môi trường kinh doanh, thị trường và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Chương III: Phân tích tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Chương IV: Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chương V: Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chương VI: Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong lần chỉnh biên cuốn sách này sử dụng nhiều tài liệu để đáp ứng theo chương trình khung của Tổng cục dạy nghề ban hành kèm theo quyết định số 15/2008/QĐ-BLĐTBXH. Soạn giả rất mong muốn nhận được đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, sinh viên chuyên ngành Kế toán doanh nghiệp và bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng cuốn sách. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH TỔ MÔN KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP 2 CHƯƠNG I Khái quát chung của phân tích hoạt động kinh doanh 1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KD 1.1.1. Khái niệm phân tích hoạt động kinh doanh Trong xã hội tồn tại nhiều hoạt động như hoạt động chính trị, văn hoá, kinh tế, quân sự ... Hoạt động kinh tế là hoạt động chủ yếu, nó có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của các hoạt động khác. Tiêu thức để phân biệt các hoạt động là căn cứ vào công dụng sản phẩm dịch vụ tạo ra và theo tính chất mục đích của hoạt động đó. Hoạt động kinh tế là những hoạt động có ý thức nhằm tạo ra những sản phẩm dịch vụ đem lại lợi ích kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh là hoạt động kinh tế, khi việc tổ chức thực hiện hoạt động đó nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Trong hoạt động kinh doanh, con người luôn hướng tới mục tiêu đạt được kết quả và hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và toàn diện các hiện tượng, các quá trình và yếu tố xảy ra trong hoạt động. Để làm được những vấn đề đó không thể không sử dụng công cụ phân tích. Phân tích hiểu theo nghĩa chung nhất là sự chia nhỏ sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng đó. Trong lĩnh vực tự nhiên, việc chia nhỏ này được tiến hành với những vật thể bằng các phương tiện cụ thể. Ví dụ: Phân tích các chất hoá học bằng những phản ứng hoá học, phân tích các loại vi sinh vật bằng kính hiển vi ... Trái lại, trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. Do đó, việc phân tích phải thực hiện bằng những phương pháp trừu tượng. Các Mác đã chỉ ra rằng "Khi phân tích các hình thái kinh tế - xã hội thì không thể sử dụng hoặc kính hiển vi, hoặc những phản ứng hoá học. Lực lượng của trừu tượng phải thay thế bằng cái này hoặc cái kia". Phân tích hoạt động kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và các kết quả hoạt động kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành, trên 3 cơ sở đó, dùng các phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính quy luật và xu hướng phát triển của các hiện tượng nghiên cứu. Phân tích hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như những hoạt động tự giác và có ý thức cao của con người. Tuy nhiên trong điều kiện kinh doanh với quy mô và trình độ khác nhau, công việc phân tích cũng tiến hành khác nhau. Phân tích hoạt động kinh doanh có đồng thời với các hoạt động kinh doanh của con người. Nhưng lúc ban đầu nó chỉ là phép cộng trừ đơn giản và được tiến hành ngay trong công tác hạch toán. Khi hoạt động kinh doanh phát triển, yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và phức tạp thì phân tích hoạt động kinh doanh cũng ngày càng phát triển để đáp ứng yêu cầu đó. Từ chỗ đơn giản chỉ là phân tích lỗ lãi của từng thương vụ, sau phát triển phân tích các yếu tố hoạt đ kinh doanh và lỗ lãi của từng đơn vị, bộ phận hoạt động kinh doanh, đến nay việc phân tích hoạt động kinh doanh còn được thực hiện không chỉ phạm vi doanh nghiệp, mà đã mở rộng đến vùng kinh tế, toàn bộ nền kinh tế. Như vậy phân tích hoạt động kinh doanh đã hình thành như một hoạt động độc lập với hệ thống lý luận độc lập và trở thành một môn khoa học độc lập. Hoạt động kinh doanh luôn được tiến hành thường xuyên liên tục rất phong phú và phức tạp. Muốn thấy được một cách đầy đủ sự phát triển của các hiện tượng, quá trình kinh doanh, từ đó thấy được thực chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phải đi sâu nghiên cứu kết quả và mối quan hệ qua lại của các số liệu, tài liệu bằng những phương pháp khoa học. Đó là những phương pháp nhận biết các hoạt động thực tế, các hiện tượng, các quá trình trong mối liên hệ trực tiếp với nhận thức và sự tiếp nhận chủ động của con người, trên cơ sở đó đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, tìm nguyên nhân, đề ra những giải pháp và biện pháp khai thác có hiệu quả mọi năng lực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.2. Đối tượng phân tích hoạt động kinh doanh Trong điều kiện kinh doanh chưa phát triển, thông tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp nên công tác phân tích được tiến hành chỉ là các phép tính 4 cộng trừ đơn giản. Nền kinh tế ngày càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý kinh tế quốc dân không ngừng tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu của quản lý kinh doanh ngày càng cao, phức tạo, phân tích hoạt động kinh doanh được hình thành và ngày càng phát triển với hệ thống lý luận độc lập. Phân tích hoạt động kinh doanh là kết quả của quá trình hoạt động kinh doanh được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế cụ thể, với sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng. Kết quả hoạt động kinh doanh thuộc đối tượng phân tích có thể là kết quả riêng biệt của từng khâu, từng giai đoạn của quá trình hoạt động kinh doanh như: Kết quả của khâu chuẩn bị các yếu tố đầu vào, kết quả của việc tổ chức sản xuất, kết quả của khâu tiêu thụ sản phẩm ... hoặc có thể là kết quả tổng hợp của cả một quá trình kinh doanh. Phân tích hoạt động kinh doanh có mối liên hệ mật thiết với các môn khoa học kinh tế khác như: Các môn kinh tế ngành, thống kê, kế toán, tài chính, kế hoạch, định mức kinh tế - kỹ thuật ... Khi tiến hành phân tích phải có sự liên hệ với các môn khoa học khác để nghiên cứu, phân tích được sâu sắc và toàn diện hơn. Nhiều vấn đề khi phân tích không thể tách rời với sự tác động qua lại của các môn khoa học khác. 1.1.3. Ý nghĩa phân tích hoạt động kinh doanh Phân tích hoạt động kinh doanh là một công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, vấn đề đặt lên hàng đầu là phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả mới có thể đứng vững trên thị trường, đủ sức cạnh tranh vừa có điều kiện tích luỹ và mở rộng hoạt động kinh doanh, vừa đảm bảo đời sống cho người lao động và làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá đầy đủ chính xác mọi diễn biến và kết quả hoạt động kinh doanh, những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp trong mối quan hệ với môi trường kinh doanh và tìm mọi biện pháp để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Việc tiến hành phân tích một 5 cách toàn diện mọi mặt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hết sức cần thiết và có vị trí hết sức quan trọng. Phân tích hoạt động kinh doanh có ý nghĩa trong việc đánh giá, xem xét việc thực hiện các chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xem xét việc thực hiện các mục tiêu hoạt động kinh doanh, những tồn tại, nguyên nhân khách quan, chủ quan và đề ra biện pháp khắc phục nhằm tận dụng một cách triệt để thế mạnh của doanh nghiệp. Kết quả phân tích hoạt động kinh doanh là những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp có thể hoạch định chiến lược phát triển và phương án hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Phân tích hoạt động kinh doanh gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có vai trò và tác dụng đối với doanh nghiệp trong chỉ đạo mọi hoạt động kinh doanh của mình. Thông qua việc phân tích từng hiện tượng, từng khía cạnh của quá trình hoạt động kinh doanh, phân tích giúp doanh nghiệp điều hành từng mặt hoạt động cụ thể với sự tham gia cụ thể của từng bộ phận chức năng của doanh nghiệp. Phân tích cũng là công cụ quan trọng để liên kết mọi hoạt động của các bộ phận cho hoạt động chung của doanh nghiệp được nhịp nhàng và đạt hiệu quả cao. Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ được thực hiện trong mỗi kỳ kinh doanh, mà nó còn được thực hiện trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Vì vậy phân tích hoạt động kinh doanh sẽ giúp các nhà đầu tư quyết định hướng đầu tư và các dự án đầu tư. Các nhà đầu tư thường quan tâm đến việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý cũng như khả năng thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích hoạt động kinh doanh sẽ đáp ứng những đòi hỏi này của các nhà đầu tư. Tóm lại phân tích hoạt động kinh doanh là điều hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Nó gắn liền với hoạt động kinh doanh, là cơ sở của nhiều quyết định quan trọng và chỉ ra phương hướng phát triển của các doanh nghiệp. 1.1.4. Nhiệm vụ phân tích hoạt động kinh doanh 6 Muốn công tác phân tích hoạt động kinh doanh mang ý nghĩa thiết thực, làm cơ sở tham mưu cho các nhà quản lý đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, thì công tác phân tích hoạt động kinh doanh phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: - Tính đầy đủ: Nội dung và kết quả phân tích phụ thuộc rất nhiều vào sự đầy đủ nguồn tài liệu phục vụ cho công tác phân tích. Tính đầy đủ còn thể hiện phải tính toán tất cả các chỉ tiêu cần thiết thì mới đánh giá đúng đối tượng cần phân tích. - Tính chính xác: Chất lượng của công tác phân tích phụ thuộc rất nhiều vào tính chính xác về nguồn số liệu khai thác; phụ thuộc vào sự chính xác lựa chọn phương pháp phân tích, chỉ tiêu dùng để phân tích. - Tính kịp thời: Sau mỗi chu kỳ hoạt động kinh doanh phải kịp thời tổ chức phân tích đánh giá tình hình hoạt động, kết quả và hiệu quả đạt được, để nắm bắt những mặt mạnh, những tồn tại trong hoạt động kinh doanh, thông qua đó đề xuất những giải pháp cho thời kỳ hoạt động kinh doanh tiếp theo có kết quả và hiệu quả cao hơn. Để đạt được các yêu cầu trên đây, cần tổ chức tốt công tác phân tích hoạt động kinh doanh phù hợp với loại hình, điều kiện, quy mô hoạt động kinh doanh và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Tổ chức công tác phân tích phải thực hiện tốt các khâu: + Chuẩn bị cho quá trình phân tích + Tiến hành phân tích + Tổng hợp, đánh giá công tác phân tích Các khâu này có những nội dung, vị trí riêng nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, do đó cần tổ chức tốt từng bước để không ảnh hưởng đến quá trình phân tích chung. 1.1.5. Nội dung phân tích hoạt động kinh doanh Hoạt động kinh doanh là một phạm trù rất rộng có liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Hoạt động này của các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực hiện theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Đây là một phạm trù kinh tế khách 7 quan, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế, giữa các tổ chức kinh tế với nhau cũng như giữa các bộ phận trong tổ chức kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có mối quan hệ với các tổ chức kinh tế khác nhau và với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nó được tiến hành trong sự độc lập tương đối và sự ràng buộc thuộc hữu với môi trường xung quanh. Mặt khác, hạch toán kinh doanh là một phương pháp quản lý kinh tế mà yêu cầu cơ bản là các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, tự trang trải chi phí và đảm bảo có lợi nhuận. Để thực hiện được điều này, phân tích hoạt động kinh doanh phải thường xuyên kiểm tra đánh giá mọi diễn biến và kết quả quá trình hoạt động kinh doanh, tìm giải pháp khai thác tiềm năng của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Như vậy nội dung chủ yếu của phân tích hoạt động kinh doanh là các hiện tượng, các quá trình kinh doanh đã hoặc sẽ xảy ra trong các đơn vị, bộ phận và doanh nghiệp dưới sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Các hiện tượng, các quá trình kinh doanh được thể hiện bằng một kết quả hoạt động kinh doanh cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu. Kết quả hoạt động kinh doanh có thể là kết quả của từng khâu riêng biệt, cũng có thể là kết quả tổng hợp của quá trình hoạt động kinh doanh. Khi phân tích kết quả hoạt động kinh doanh phải hướng vào kết quả thực hiện các định hướng, mục tiêu và phương án đặt ra. Trong phân tích, kết quả hoạt động kinh doanh được biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu hiện vật, hiện vật quy ưc và chỉ tiêu giá trị. Đó là sự xác định về nội dung và phạm vi của kết quả hoạt động kinh doanh. Nội dung chủ yếu của phân tích kết quả hoạt động kinh doanh là phân tích sản lượng, doanh thu hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên việc phân tích này phải luôn luôn đặt trong mối quan hệ với các yếu tố của quá trình hoạt động kinh doanh như lao động, vật tư, tiền vốn ... Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu kết quả, mà còn phải đi sâu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh. Thông qua 8 việc phân tích đánh giá được kết quả đạt được, điều kiện hoạt động kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và từng bộ phận, từng khía cạnh, từng đơn vị nói riêng. Để thực hiện được các nội dung trên, phân tích hoạt động kinh doanh cần phải xác định các đặc trưng về mặt lượng của các giai đoạn, các quá trình kinh doanh (số lượng, kết cấu, mối quan hệ, tỷ lệ ...) nhằm xác định xu hướng và nhịp độ phát triển, xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của quá trình kinh doanh, tính chất và trình độ chặt chẽ của mối liên hệ giữa kết quả kinh doanh với các điều kiện (yếu tố) kinh doanh. 1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH 1.2.1. Phương pháp so sánh So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích kinh doanh nói chung đặc biệt trong phân tích tài chính nói riêng. So sánh nhằm xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Do vậy, để đảm bảo ý nghĩa của chỉ tiêu khi so sánh, cần phải thực hiện các vấn đề cơ bản như: Xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện để so sánh và xác định mục tiêu để so sánh. * Xác định số gốc để so sánh phụ thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích: - Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu, số gốc để so sánh là trị số của chỉ tiêu ở kỳ trước (thực tế năm nay so với thực tế năm trước ...). - Khi đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch của các chỉ tiêu phân tích, số gốc để so sánh là trị số của chỉ tiêu ở kỳ kế hoạch (thực hiện năm nay so với kế hoạch đưa ra). - Khi nghiên cứu khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường có thể so sánh số thực tế với mức độ hợp đồng hoặc tổng nhu cầu của thị trường ... Các trị số của chỉ tiêu ở kỳ trước, kế hoạch hoặc thực tế năm trước gọi chung là trị số kỳ gốc và thời kỳ chọn làm gốc so sánh đó gọi chung là kỳ gốc. Trị số của chỉ tiêu ở kỳ thực hiện, thực tế năm nay gọi là trị số kỳ phân tích, thời kỳ chọn để phân tích gọi tắt là kỳ phân tích. 9 Ngoài việc so sánh theo thời gian, phân tích kinh doanh còn tiến hành so sánh kết quả kinh doanh theo không gian giữa các đơn vị, các bộ phận. * Xác định điều kiện để so sánh: Điều kiện so sánh cần được quan tâm khác nhau khi so sánh theo thời gian và khi so sánh theo không gian. Khi so sánh theo thời gian cần chú ý các điều kiện: - Bảo đảm tính thống nhất về nội dung kinh tế, cách tính, phương pháp tính, đơn vị tính của các chỉ tiêu kinh tế. Thông thường nội dung kinh tế của các chỉ tiêu có tính ổn định và thường được thống nhất theo quy định của cơ chế tài chính mỗi thời kỳ và mỗi quốc gia. Tuy nhiên, do sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh và nền kinh tế chung, nên nội dung kinh tế của chỉ tiêu có thể thay đổi theo các chiều hướng khác nhau phụ thuộc vào tính hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới của mỗi đất nước. - Bảo đảm tính thống nhất về phương pháp tính toán các chỉ tiêu. Trong kinh doanh, các chỉ tiêu có thể được tính theo các phương pháp khác nhau. Từ các chỉ tiêu giá trị sản lượng, doanh thu, lợi nhuận đến các chỉ tiêu năng suất lao động, khấu hao tài sản cố định ... có thể được tính toán theo các kỹ thuật khác nhau. Khi so sánh cần lựa chọn một phương pháp thống nhất. - Bảo đảm tính thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu cả về số lượng thời gian và giá trị. Khi so sánh mức đạt được trên các chỉ tiêu ở các đơn vị khác nhau, ngoài các điều kiện đã nêu, cần đảm bảo các điều kiện khác như: cùng hoạt động và cùng ngành nghề kinh doanh, có điều kiện kinh doanh tương tự nhau. Tất cả các điều kiện trên gọi chung là đặc tính "có thể so sánh" hay tính "so sánh được" của chỉ tiêu phân tích. * Xác định mục tiêu so sánh: Mục tiêu so sánh trong phân tích kinh doanh là xác định mức biến là xác định mức biến động tuyệt đối và mức biến động tương đối, xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích (năng suất tăng lên, giá thành giảm ...). 10 Mức biến động tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu giữa hai kỳ: kỳ phân tích và kỳ gốc hay là so sánh giữa số phân tích và số gốc. Mức biến động tương đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số của các chỉ tiêu kinh tế nhưng có liên hệ với các chỉ tiêu kết quả hoặc điều kiện kinh doanh để thấy được bản chất của các hiện tượng nghiên cứu, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm khai thác tối đa các yếu tố sản xuất. Bài tập: Hãy phân tích tình hình quỹ tiền lương của công nhân doanh nghiệp X, căn cứ vào tài liệu sau: Bảng phân tích quỹ tiền lương của công nhân sản xuất Chỉ tiêu - nhân tố Kế hoạch Thực hiện Chênh lệch +/- % 1. Quỹ tiền lương của công nhân (đơn vị: triệu đồng) 500 600 100 20 2. Khối lượng sản phẩm sản xuất (đơn vị: tấn) 300 480 180 12,5 Bài giải: Căn cứ vào kết quả tính toán trên cho thấy: Tổng mức tiền lương của công nhân sản xuất kỳ thực hiện tăng so với kỳ kế hoạch là 100 triệu đồng, tương ứng tốc độ tăng là 20%, điều đó cho thấy chi phí của doanh nghiệp tăng lên. Mặt khác khi so sánh liên hệ với chỉ tiêu kết quả sản xuất ta thấy: tổng mức tiền lương của công nhân sản xuất thực tế chi ra không phải là tăng thêm, mà đã tiết kiệm được 200 triệu đồng so với kế hoạch, với số tương đối giảm đi 25%. Nghĩa là nếu doanh nghiệp X hoàn thành kế hoạch sản lượng sản phẩm hàng hoá là 100% thì được phép chi ra là 500 triệu đồng tổng mức tiền lương của công nhân. Do doanh nghiệp đã hoàn thành kế hoạch sản lượng sản phẩm bằng 160%, thì được phép chi ra là 800 triệu đồng về tổng mức tiền lương, nhưng trên thực tế doanh nghiệp chỉ chi ra là 600 triệu đồng nên đã tiết kiệm được 200 triệu đồng về chi phí tiền lương của công nhân, với số tương đối giảm được 25%. 11 Phương pháp phân tích trên được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như: phân tích tình hình sử dụng lao động, tình hình sử dụng vật tư, tiền vốn, lợi nhuận ... 1.2.2. Phương pháp liên hệ Mọi kết quả sản xuất kinh doanh đều có mối liên hệ, cân đối mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận ... Để lượng hoá các mối liên hệ, cân đối đó, ngoài các phương pháp đã nêu, trong phân tích kinh doanh còn sử dụng phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ biến như: liên hệ cân đối, liên hệ tuyến tính, liên hệ phi tuyến. a) Liên hệ cân đối Liên hệ cân đối có cơ sở là sự cân bằng về lượng giữa hai mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh. Ví dụ: giữa tổng số tài sản cân bằng với tổng số nguồn vốn; giữa tình hình huy động và sử dụng các nguồn vốn quỹ; giữa nhu cầu và khả năng thanh toán; giữa nguồn mua sắm và tình hình sử dụng các loại vật tư; giữa thu, chi và kết quả kinh doanh ... Mối liên hệ cân đối vốn có về lượng của các yếu tố dẫn đến sự ảnh hưởng của các yếu tố tới chỉ tiêu phân tích ... Dựa vào nguyên tắc đó, cũng có thể xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Bài tập: Hãy phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình cung ứng và sử dụng vật tư của doanh nghiệp X, căn cứ vào tài liệu như sau: Bảng phân tích tình hình cân đối vật tư giữa cung ứng và sử dụng ĐVT: tấn Nguồn cung ứng vật tư Kỳ kế hoạch Kỳ thực hiện Chênh lệch Tình hình sử dụng vật tư Kỳ kế hoạch Kỳ thực hiện Chênh lệch 1. Số tồn kỳ trước 300 320 +20 1. Hao phí cho SX 1600 1590 -10 2. Tự tìm kiếm 200 240 +40 2. Hao phí ngoài định mức - 40 +40 12 3. Cung ứng theo hợp đồng 1400 1360 -40 3. Số tồn kho cho kỳ sau 300 290 -10 Cộng 1900 1920 +20 Cộng 1900 1920 +20 Bài giải: Dựa vào mức chênh lệch của từng nhân tố ở bảng trên có thể phân loại các nhân tố làm tăng (giảm) nguồn vật tư như sau: Nhân tố tăng nguồn vật tư S.lượng Nhân tố giảm nguồn vật tư Số.lượng 1. Tăng nguồn kho đầu kỳ 20 1. Giảm nguồn hợp đồng 40 2. Tăng nguồn tự tìm kiếm 40 2. Để xảy ra hao hụt trên định mức 40 3. Giảm chi phí cho SX 10 4. Giảm tồn kho cuối kỳ 10 Cộng 80 Cộng 80 Kết quả cân đối trên cho thấy: - Nhân tố chủ yếu để tăng nguồn vật tư là: tăng tồn kho kỳ trước chuyển cho kỳ này 20 tấn, tăng vật tư tự tìm kiếm 40 tấn, giảm chi phí cho sản xuất 10 tấn, giảm tồn kho cuối kỳ 10 tấn, tổng hợp các nhân tố tăng nguồn 80 tấn. - Nhân tố giảm nguồn như: giảm nguồn hợp đồng thu mua cho sản xuất 40 tấn, để xảy ra hao hụt vượt định mức quá lớn 40 tấn, tổng hợp các nhân tố giảm nguồn 80 tấn. Thông qua phân tích trên ta có thể đưa ra các biện pháp phù hợp cho từng nhân tố nhằm khai thác tối đa các yếu tố sản xuất và nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. b) Liên hệ trực tuyến Liên hệ trực tuyến thường là mối liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ tiêu cần phân tích với các nhân tố ảnh hưởng. Ví dụ: doanh thu có quan 13 hệ cùng chiều với lượng hàng bán ra; lợi nhuận có quan hệ ngược chiều với chi phí... Trong mối quan hệ trực tuyến này, tuỳ theo mức phụ thuộc giữa các chỉ tiêu có thể phân thành hai loại quan hệ chủ yếu sau: - Liên hệ trực tiếp giữa các chỉ tiêu, ví dụ: doanh thu một loại sản phẩm và khối lượng sản phẩm tiêu thụ, lợi nhuận và chi phí của doanh nghiệp ... Trong trường hợp này, các mối liên hệ không qua một chỉ tiêu liên quan nào: giá bán tăng hoặc chi phí tăng sẽ làm lợi nhuận tăng hoặc giảm. - Liên hệ gián tiếp là quan hệ giữa các chỉ tiêu, trong đó mức phụ thuộc giữa chúng được xác định bằng một hệ số điều chỉnh. Ví dụ: mức tăng chi phí sản xuất chung của phân xưởng phụ thuộc vào tỷ lệ (%) hoàn thành kế hoạch sản xuất chung của doanh nghiệp. Ví dụ: Một nhà hàng có doanh thu bán ra là 120.000.000 đồng. Giá vốn của cửa hàng bán ra là 60.000.000 đồng. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp gồm: - Định phí gồm: chi phí về tài sản cố định, về quản lý, về quảng cáo, thuê bất động sản ... trị giá 20.000.000 đồng. - Biến phí gồm: lương khoán cho nhân viên bán hàng, vận chuyển hàng hoá, dịch vụ mua ngoài ... trị giá: 10.000.000 đồng. Tính ra lợi nhuận gộp là 60.000.000 đồng, lợi nhuận là 30.000.000 đồng. Mối quan hệ giữa doanh thu của nhà hàng và lợi nhuận là liên hệ trực tiếp, quan hệ giữa tổng chi phí và định phí được coi là liên hệ gián tiếp. Sự phân biệt quan hệ trực tiếp và gián tiếp chỉ là tương đối, chúng có thể chuyển hoá cho nhau tuỳ theo mục đích của việc nghiên cứu các chỉ tiêu kinh tế. 1.2.3. Phương pháp chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích Mọi kết quả kinh doanh đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hướng khác nhau. Thông thường trong phân tích, phương pháp chi tiết thường được phân loại theo những hướng sau: - Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu (nội dung kinh tế của chỉ tiêu): Mọi kết quả kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu đều bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Chi tiết các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về 14 lượng của các bộ phận đó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả đạt được. Với ý nghĩa đó, phương pháp chi tiết theo bộ phận cấu thành được sử dụng rộng rãi trong phân tích mọi mặt kết quả kinh doanh. Ví dụ: Khi phân tích chỉ tiêu giá thành sản xuất đơn vị sản phẩm, ta có thể chi tiết theo ba khoản mục chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, nhằm xác định sự biến động của từng khoản mục chi phí tới sự biến động của chỉ tiêu giá thành sản xuất sản phẩm. - Chi tiết theo thời gian: Kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một khoảng thời gian dài, dưới sự ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, tác động tới tiến độ thực hiện của chỉ tiêu phân tích. Chi tiết theo thời gian sẽ giúp ích cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được sát, đúng và tìm được các giải pháp có hiệu lực cho công việc kinh doanh. Tuỳ vào đặc điểm của quá trình kinh doanh, nội dung kinh tế của chỉ tiêu phân tích và mục đích phân tích ... khác nhau có thể lựa chọn khoảng thời gian cần chi tiết khác nhau và chỉ tiêu khác nhau phải chi tiết. Ví dụ: Khi nghiên cứu chỉ tiêu giá trị sản lượng xây dựng của một công trình ta có thể chi tiết thành từng tuần, từng tháng để biết được mức độ thực hiện thi công của các công trình và sự ảnh hưởng của các nhân tố như thời tiết, tình hình cung ứng vật tư, tình hình tài chính tới chỉ tiêu nghiên cứu. - Chi tiết theo địa điểm phát sinh của chỉ tiêu: Thông thường các kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là do các bộ phận thực hiện như phân xưởng, đội, tổ sản xuất kinh doanh. Do vậy, chi tiết theo địa điểm nhằm đánh giá các kết quả kinh doanh của từng bộ phận phát sinh từ đó góp phần tăng cường công tác hạch toán kinh doanh nội bộ, qua đó phát hiện các đơn vị tiên tiến hoặc lạc hậu trong thực hiện các mục tiêu kinh doanh để có các chế độ khen thưởng, xử phạt thích đáng. Thông qua phân tích nhằm khai thác các khả năng tiềm tàng về sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, đất đai ... để nâng cao kết quả của hoạt động kinh doanh. 1.2.4. Phương pháp loại trừ (phương pháp phân tích ảnh hưởng của nhân tố) 15 Trong phân tích hoạt động kinh tế, nhiều trường hợp cần xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phântích bằng định lượng, sau đó kết hợp với định tính để đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường kết quả của hoạt động kinh doanh. Loại trừ là phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh, bằng cách khi xác định sự ảnh hưởng của nhân tố này thì loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Chẳng hạn, khi phân tích tổng doanh thu thu được từ một hoạt động sản xuất kinh doanh, một loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của một doanh nghiệp có thể quy về sự ảnh hưởng của hai nhân tố: - Số lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã bán ra, được phân tích bằng các đơn vị tự nhiên (cái, chiếc, suất ăn ...) hoặc đơn vị trọng lượng (tấn, tạ, yến, kg...) hay khối lượng dịch vụ hoàn toàn (tấn/kg, người/km vận chuyển ...) - Doanh thu trên một đơn vị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ đó là giá bán đơn vị sản phẩm hàng hoá. Cả hai nhân tố trên cùng đồng thời ảnh hưởng đến tổng doanh thu tiêu thụ, nhưng để xác định mức độ ảnh hưởng của một nhân tố này thì phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác, điều này có thể thực hiện bằng hai phương pháp chi tiết: - Phương pháp thứ nhất, dựa trực tiếp vào mức biến động của từng nhân tố được gọi là phương pháp "số chênh lệch". - Phương pháp thứ hai, dựa vào phép thay thế sự ảnh hưởng lần lượt của từng nhân tố và được gọi là phương pháp "thay thế liên hoàn". a) Phương pháp số chênh lệch Gọi Q0 ; Q1 là các chỉ tiêu kinh tế cần phải phân tích ở kỳ kế hoạch và kỳ thực hiện; a0 ; b0 ; c0 ; a1 ; b1 ; c1 là các nhân tố kinh tế có quan hệ với chỉ tiêu dưới dạng tích ở kỳ kế hoạch, kỳ thực hiện. Ta có: Q0 = a0 x b0 x c0 Q1 = a1 x b1 x c1 16 Vậy đối tượng phân tích là: Q = Q1 - Q0 Q : thể hiện quy mô tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu 0Q Q x 100%: thể hiện tốc độ tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu Từ đây ta xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới đối tượng cần phân tích: - Ảnh hưởng của nhân tố a: Qa = (a1 - a0) x b0 x c0 - Ảnh hưởng của nhân tố b: Qb = (b1 - b0) x a1 x c0 - Ảnh hưởng của nhân tố c: Qc = (c1 - c0) x b1 x a1 Tổng hợp các kết quả phân tích để đưa ra nhận xét cho từng nhân tố, đâu là nhân tố tích cực cần phát huy và đâu là nhân tố tiêu cực cần đưa ra các biện pháp tương ứng nhằm nâng cao kết quả của chỉ tiêu phân tích. * Điều kiện để vận dụng phương pháp số chênh lệch là: - Các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng một tích số. - Việc sắp xếp và trình tự xác định ảnh hưởng của các nhân tố cần tuân theo quy luật "lượng biến dẫn đến chất biến". b) Phương pháp thay thế liên hoàn Ta có thể xác định ảnh hưởng của các nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó lấy kết quả trừ đi chỉ tiêu khi chưa có biến đổi của nhân tố nghiên cứu sẽ xác định được ảnh hưởng của nhân tố này. Điều kiện vận dụng phương pháp thay thế liên hoàn khi các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu dưới dạng biểu thức đại số, khi phân tích ra chỉ việc thay thế liên tiếp các nhân tố để xác định trị số ảnh hưởng của mỗi nhân tố tới kết quả phân tích. 17 Phương pháp số chênh lệch là trường hợp đặc biệt của phương pháp loại trừ, phương pháp thay thế liên hoàn có thể sử dụng cho tất cả mọi trường hợp, khi ta muốn xác định ảnh hưởng của các nhân tố tới chỉ tiêu phân tích. Gọi Q0, Q1 là các chỉ tiêu kinh tế cần phân tích ở kỳ kế hoạch và kỳ thực hiện; a0 ; b0 ; c0 ; a1 ; b1 ; c1 là các nhân tố kinh tế có quan hệ với chỉ tiêu dưới dạng biểu thức đại số ở kỳ kế hoạch, kỳ thực hiện. Ta có: Q0 = a0 + b0 x c0 Q1 = a1 + b1 x c1 Vậy đối tượng cần phân tích: Q = Q1 - Q0 Q: thể hiện quy mô tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu; 0Q Q x 100%: thể hiện tốc độ tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu Từ đây ta xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới đối tượng cần phân tích: - Ảnh hưởng của nhân tố a: Qa = (a1 + b0 x c0) - Q0 - Ảnh hưởng của nhân tố b: Qb = (a1 + b1 + c0) - (a1 + b0 + c0) - Ảnh hưởng của nhân tố c: Qc = Q1 - (a1 + b1 + c0) Tổng hợp các kết quả phân tích để đưa ra nhận xét cho từng nhân tố, đâu là nhân tố tích cực cần phát huy và đâu là nhân tố tiêu cực cần đưa ra các biện pháp tương ứng nhằm nâng cao kết quả của chỉ tiêu phân tích. Bài tập: Hãy phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm A (bằng phương pháp thay thế liên hoàn) thông qua tài liệu của doanh nghiệp X như sau: Bảng phân tích doanh thu theo quan hệ với khối lượng tiêu thụ và giá bán Chỉ tiêu - nhân tố Đơn vị Kỳ kế Kỳ thực Chênh lệch 18 tính hoạch hiện +/- % 1. Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ tấn 500 480 -20 -4 2. Đơn giá bán 1000 đồng/tấn 40 45 5 12,5 3. Tổng doanh thu 1000 đồng 20000 21600 1600 8 Bài giải: Căn cứ vào kết quả tính toán ta thấy tổng doanh thu tiêu thụ kỳ thực hiện tăng so với kế hoạch là 1600 (nghìn đồng), tương ứng 8%. Tổng doanh thu tiêu thụ tăng là do ảnh hưởng của các nhân tố sau: - Ảnh hưởng của khối lượng sản phẩm tiêu thụ: khối lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ thực hiện giảm so với kế hoạch 20 tấn, tương ứng 4%, do vậy làm doanh thu tăng. Doanh thu giảm = (480 x 400)-20000 =-800 (nghìn đồng), tương ứng(-4)%, như vậy tốc độ giảm của doanh thu tương ứng với tốc độ giảm của khối lượng hàng hoá tiêu thụ. Do vậy doanh nghiệp muốn tăng doanh thu cần phải tăng khối lượng hàng bán. - Ảnh hưởng của đơn giá bán: giá bán một tấn sản phẩm kỳ thực hiện tăng so với kỳ kế hoạch 5 (nghìn đồng), tương ứng 12,5%, do vậy doanh thu tăng: Doanh thu tăng = (480 x 45) - 19200 = 2400 (nghìn đồng), tương ứng 12%, như vậy tốc độ tăng của doanh thu nhỏ hơn tốc độ tăng của đơn giá bán. Do vậy, doanh nghiệp muốn tăng doanh thu có thể hạ thấp giá bán để đẩy nhanh khối lượng hàng tiêu thụ. Trong trường hợp này, khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ là nhân tố số lượng, còn giá bán là nhân tố chất lượng. * Điều kiện để vận dụng phương pháp thay thế liên hoàn: Các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng biểu thức đại số, gồm nhiều các phép tính khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. 19 1.3. TỔ CHỨC VÀ PHÂN LOẠI PHÂN TÍCH KINH DOANH 1.3.1. Tổ chức công tác phân tích kinh doanh Sau khi nghiên cứu nội dung và phương pháp phân tích có thể thấy hệ thống phân tích bao gồm nhiều yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau: từ đối tượng khái quát đến nội dung chi tiết và các phương pháp phân tích như: chi tiết, so sánh, liên hệ, loại trừ ... Nhiệm vụ của tổ chức phân tích kinh tế là tạo ra mối liên hệ giữa các yếu tố này trong từng nội dung phân tích cụ thể như: sản xuất, cung ứng và tiêu thụ, chi phí, tài chính ... nhằm đánh giá đúng tình hình kinh doanh của đơn vị và vạch ra những tiềm năng có thể khai thác được trong kỳ kinh doanh tới. Như vậy, tổ chức phân tích kinh tế là vận dụng tổng hợp các phương pháp phân tích để đánh giá đúng kết quả, chỉ rõ những nhân tố tích cực và tiêu cực, từ đó đưa ra các biện pháp ứng xử cho phù hợp trong từng tình huống kinh doanh cụ thể. Vậy tổ chức phân tích kinh tế là một nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp và có ý nghĩa thực tiễn đối với các nhà quản trị. Trong thực tế, các nhà phân tích không chỉ thảo ra những kế hoạch phân tích chung chung, mà phải phân tích thực sự từ các tài liệu kế toán, tài chính của doanh nghiệp. Thông tin từ việc phân tích là căn cứ để đưa ra các quyết định phục vụ cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao. Cùng với việc xác định quy trình, mục tiêu phân tích cần biết tổ chức lực lượng phân tích phù hợp cho các nội dung đã xác định. Như vậy, tổ chức phân tích kinh tế có thể bao gồm các nội dung công việc sau đây: - Lựa chọn các loại hình phân tích phù hợp với nội dung và mục tiêu cụ thể của từng đối tượng phân tích. - Tổ chức cán bộ và phương tiện phân tích phù hợp với mục tiêu, loại hình đã xác định cho từng đối tượng. - Vận dụng phương pháp phân tích phù hợp với nội dung và mục tiêu đã đề ra của các nhà quản trị. - Xây dựng quy trình tổ chức phân tích phù hợp với mục tiêu, lực lượng và các điều kiện vật chất hiện có nhằm giảm chi phí tối thiểu cho việc phân tích. 20 Cũng như mọi mặt tổ chức khác trong doanh nghiệp, tổ chức phân tích kinh tế cần được thực hiện thường xuyên nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin cho nhà quản trị kinh doanh đưa ra các quyết định ngắn hạn và dài hạn. 1.3.2. Các loại hình phân tích kinh doanh Để nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, cần kết hợp nhiều loại hình phân tích đánh giá sát thực từng hoạt động kinh doanh cụ thể. Mỗi loại hình phân tích đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau phù hợp với mục đích nghiên cứu của thông tin cho từng đối tượng sử dụng. a) Căn cứ vào thời điểm phân tích Theo tiêu chí này, phân tích kinh tế được chia thành: phân tích trước, phân tích hiện hành và phân tích sau: - Phân tích trước là phân tích khi chưa tiến hành hoạt động kinh doanh như: phân tích các dự án, kế hoạch, dự toán ... để đánh giá tính khả thi của các dự toán, kế hoạch ... là cơ sở khoa học để đưa ra các quyết định đầu tư, triển khai các dự án trong kinh doanh. - Phân tích hiện hành là phân tích đồng thời với quá trình kinh doanh đang xảy ra trong doanh nghiệp, nhằm xác định tính khả thi của các dự án, kế hoạch, dự toán. Thông qua phân tích có thể điều chỉnh kịp thời các quyết định trong sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả của từng hoạt động, phân tích hiện hành thường gọi là phân tích tác nghiệp. - Phân tích sau là phân tích kết quả kinh doanh thu về thường thể hiện thông qua các báo cáo tài chính, báo cáo kinh doanh bộ phận ... nhằm đánh giá hiệu quả toàn bộ hoạt động kinh doanh, từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh trong kỳ tới. b) Căn cứ vào thời hạn phân tích Phân tích kinh tế được chia thành hai loại chính là: phân tích hằng ngày và phân tích định kỳ: - Phân tích hàng ngày nhằm đánh giá sơ bộ kết quả kinh doanh theo tiến độ thực hiện hàng ngày, phục vụ kịp thời cho lãnh đạo nghiệp vụ kinh doanh của 21 đơn vị. Phân tích hàng ngày có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà quản trị trong việc đưa ra các quyết định ngắn hạn. - Phân tích định kỳ theo tháng, quý, năm là việc phân tích theo thời hạn phụ thuộc vào nhu cầu thông tin quản trị doanh nghiệp. Phân tích định kỳ nhằm cung cấp thông tin cho các nhà quản trị kinh doanh đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh của một kỳ, từ đó đưa ra các quyết định cụ thể cho từng nội dung kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ tới. c) Căn cứ vào nội dung phân tích Theo nội dung phân tích, phân tích kinh tế được chia thành phân tích chuyên đề và phân tích toàn diện: - Phân tích chuyên đề là việc phân tích tập trung vào một hay một số khía cạnh nào đó của hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp cho các nhà quản trị kinh doanh thông tin theo nhu cầu thực tiễn. Ví dụ: phân tích về tình hình sử dụng lao động để có kế hoạch tuyển dụng lao động phù hợp; phân tích hiệu quả kinh doanh để đưa ra quyết định đầu tư; phân tích khả năng thanh toán để đưa ra quyết định cho vay phù hợp. - Phân tích toàn diện là phân tích tất cả các giai đoạn của hoạt động kinh doanh trong một tổ chức kinh tế. Thông thường các giai đoạn kinh doanh của doanh nghiệp thường có mối liên hệ hữu cơ với nhau và chúng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bên trong, bên ngoài. Phân tích toàn diện thường cho biết được bản chất của hiện tượng nghiên cứu để có các kế hoạch phù hợp với hoạt động kinh doanh. d) Căn cứ vào phạm vi phân tích Theo tiêu chí này, phân tích kinh tế được chia thành phân tích điển hình và phân tích tổng thể: - Phân tích điển hình chỉ giới hạn phạm vi ở những đơn vị trong doanh nghiệp (đơn vị tiên tiến hoặc đơn vị lạc hậu). Ví dụ: phân tích một công ty trong tổng thể các đơn vị của tổng công ty. Thông qua phân tích điển hình để có các bài học kinh nghiệm cho các đơn vị cùng nghiên cứu, nhằm giảm bớt các chi phí không đáng có, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 22 - Phân tích tổng thể là phân tích kết quả kinh doanh trong phạm vi toàn đơn vị nghiên cứu. Thông thường phân tích tổng thể cho biết được mối quan hệ hữu cơ giữa các đơn vị trong hoạt động kinh doanh. Ví dụ: phân tích toàn bộ các công ty trong tổng công ty nghiên cứu để thấy được tình hình tài chính thực sự của tổng công ty nhằm đưa ra quyết định ứng xử cho phù hợp. Tuy nhiên, việc phân tích chia loại hình kinh doanh chỉ là tương đối, tuỳ theo mục tiêu của việc phân tích và điều kiện cụ thể để lựa chọn loại hình cho phù hợp. e) Căn cứ theo nguồn gốc phát sinh thông tin từ việc phân tích Theo nguồn gốc phát sinh của thông tin từ việc phân tích, phân tích kinh tế được chia thành hai loại: - Phân tích bên ngoài doanh nghiệp như: phân tích môi trường kinh doanh, phân tích các yếu tố dân số, nguồn cung ứng vật tư, điều kiện chính trị ... Phân tích bên ngoài nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý của các nhà chuyên môn để đưa ra quyết định phù hợp. - Phân tích bên trong doanh nghiệp như: phân tích tài chính, tiêu thụ, cung ứng vật tư, tình hình sử dụng lao động ... Phân tích bên trong nhằm đáp ứng yêu cầu quản trị của các cấp doanh nghiệp để đưa ra quyết định chính xác. Trong các bộ phận quản lý doanh nghiệp hiện nay thường không có các bộ phận chức năng chuyên làm nhiệm vụ phân tích kinh doanh, mà thường kết hợp chức năng từng bộ phận, phòng, ban, cùng thực hiện công việc phân tích theo những yêu cầu khác nhau của quá trình quản lý. Để đáp ứng nhu cầu thông tin của nền kinh tế thị trường, cần có những bộ phận trung tâm chuyên phân tích làm tham mưu cho giám đốc về phân tích hoạt động kinh doanh để giám đốc có cơ sở khoa học đưa ra quyết định kinh doanh cụ thể. Do đó, lực lượng phân tích có thể được tổ chức như sau: - Bộ phận thu thập tài liệu hàng ngày bao gồm: nhân viên thống kê hoặc nhân viên kinh tế của các phòng, ban có nhiệm vụ thông tin nhanh các chỉ tiêu về tiến độ và chất lượng công việc hàng ngày tại các bộ phận kinh doanh như 23 phân xưởng, đội, cửa hàng, khách sạn ... và từ đó báo cáo lên các bộ phận chức năng. - Các bộ phận chức năng đảm nhiệm các phần hành phân tích phù hợp với lĩnh vực công tác của mình như: phân tích trước, phân tích hiện hành, phân tích sau, phân tích chuyên đề, phân tích bên trong, phân tích bên ngoài ... cần thu thâp các nguồn thông tin để chuẩn bị cho phân tích. Ví dụ: Các chuyên gia kế toán có nhiệm vụ phân tích tất cả các vấn đề về vốn: từ việc huy động, sử dụng các loại nguồn vốn và định kỳ đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp; Chuyên gia tại phòng kinh doanh có nhiệm vụphân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, thị trường để nâng cao khối lượng tiêu thụ cho doanh nghiệp; Các chuyên gia phòng tổ chức nhân sự phân tích tình hình sử dụng số lượng, chất lượng lao động để đưa ra các quyết định tuyển dụng cho phù hợp. - Hội đồng phân tích của doanh nghiệp sẽ co nhiệm vụ tư vấn cho hội đồng quản trị và ban giám đốc toàn bộ công tác tổ chức phân tích kinh doanh. Đồng thời hướng cho các nhà quản trị chọn lọc thông tin từ kết quả phân tích một cách chính xác nhằm đưa ra các quyết định phù hợp vận dụng trong các tình huống cụ thể. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I 1. Trình bày đối tượng nghiên cứu khái quát của phân tích hoạt động kinh doanh. 2. Trình bày chỉ tiêu kinh tế được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh doanh. 3. Trình bày nhân tố kinh tế được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh doanh. 4. Trình bày ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường. 5. Cho biết các phương pháp thường được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh doanh. 24 6. Trình bày phương pháp so sánh được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh doanh 7. Trình bày phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh doanh. Ví dụ minh hoạ. 8. Cho biết các loại hình phân tích hoạt kinh doanh. Mỗi loại hình thường được vận dụng để phân tích cho những mục tiêu nào. 25 BÀI TẬP VẬN DỤNG CHƯƠNG I Bài số 1: Có tài liệu về chi phí nguyên vật liệu của doanh nghiệp A như sau: Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế 1. Số lượng sản phẩm sản xuất (sản phẩm) 2.000 2.400 2. Mức tiêu hao nguyên vật liệu để sản xuất một sản phẩm (kg/sản phẩm) 50 60 3. Đơn giá mua nguyên vật liệu (1000đồng/kg) 6 5,4 4. Tổng chi phí vật liệu trong kỳ (1000 đồng) 600.000 777.600 Yêu cầu: 1. Áp dụng phương pháp số chênh lệch và phương pháp thay thế liên hoàn để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến việc hoàn thành kế hoạch chi phí nguyên vật liệu trong kỳ của doanh nghiệp. 2. Nhận xét ảnh hưởng của từng nhân tố và các biện pháp phù hợp có thể áp dụng để tiết kiệm hơn nữa chi phí nguyên vật liệu trong kỳ kinh doanh tiếp theo. 3. Nhận xét việc áp dụng hai phương pháp trên. Bài số 2: Tài liệu về doanh thu bán hàng sản phẩm A của Công ty D như sau: Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế 1. Doanh thu bán hàng (1000 đồng) 15.000 19.250 2. Số lượng sản phẩm (cái) 3.000 3.500 3. Giá bán đơn vị sản phẩm (1000 đồng/ cái) 5 5,5 Yêu cầu: 1. Sử dụng các cách so sánh khác nhau để nhận xét và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu bán hàng. 2. Áp dụng phương pháp số chênh lệch để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến việc thực hiện kế hoạch doanh thu bán hàng. Nhận xét ảnh hưởng của từng nhân tố. 3. So sánh việc áp dụng giữa hai phương pháp số chênh lệch và phương pháp thay thế liên hoàn. 26 Bài số 3: Tài liệu về kết quả sản xuất của Công ty Mai Hoa như sau: Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế 1. Tổng giá trị sản xuất (1000 đồng) 25.000 29.250 2. Số lượng công nhân sản xuất (người) 300 350 3. Tổng quỹ tiền lương của công nhân SX (1000 đồng) 5.250 5.860 Yêu cầu: 1. Sử dụng các cách so sánh khác nhau để nhận xét và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sử dụng số lượng công nhân sản xuất. 2. Sử dụng các cách so sánh khác nhau để nhận xét và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch quỹ tiền lương của công nhân sản xuất. Bài số 4: Tài liệu về doanh thu bán hàng sản phẩm A của công ty M như sau: Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế 1. Doanh thu bán hàng (1000 đồng) 40.000 42.000 2. Số lượng sản phẩm (cái) 4.000 3.500 3. Giá bán đơn vị sản phẩm (1000 đồng/ cái) 10 12 Yêu cầu: 1. Xây dựng phương trình kinh tế biểu diễn quan hệ giữa số lượng sản phẩm và giá bán đơn vị sản phẩm với chỉ tiêu doanh thu bán hàng. 2. Áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến việc thực hiện kế hoạch doanh thu bán hàng. Nhận xét ảnh hưởng của từng nhân tố. Bài số 5: Tài liệu về kết quả sản xuất của Công ty Hoàng Sơn như sau: Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế 1. Khối lượng sản phẩm sản xuất (tấn) 45.000 49.250 2. Số lượng công nhân sản xuất (người) 500 550 3. Tổng quỹ tiền lương của công nhân SX (1000 đồng) 3.250 3.860 27 Yêu cầu: 1. Xây dựng phương trình kinh tế biểu diễn quan hệ giữa số lượng công nhân sản xuất và năng suất bình quân của một công nhân với chỉ tiêu khối lượng sản phẩm sản xuất. 2. Áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến việc thực hiện kế hoạch khối lượng sản phẩm sản xuất. Nhận xét ảnh hưởng của từng nhân tố. 3. Xây dựng phương trình kinh tế về quan hệ giữa số lượng công nhân sản xuất và tiền lương bình quân của một công nhân với chỉ tiêu tổng quỹ tiền lương của công nhân sản xuất. Nhận xét ảnh hưởng của từng nhân tố. 28 CHƯƠNG II phân tích môi trường kinh doanh, thị trường và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp 2.1. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP 2.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Theo Luật Doanh nghiệp của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thì doanh nghiệp thành lập phải có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký theo quy định của pháp luật. Kinh doanh là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh là một hoạt động kinh tế do một chủ thể kinh doanh thực hiện. Chủ thể kinh doanh có thể là hộ gia đình hay các doanh nghiệp. Kinh doanh bao giờ cũng gắn với thị trường, không có thị trường thì không có kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể đảm nhận tất cả các khâu của quá trình kinh doanh, nhưng cũng có thể chỉ thực hiện một khâu nào đó, chẳng hạn như: sản xuất hay tiêu thụ (doanh nghiệp thương mại). 2.1.2. Chức năng của doanh nghiệp a) Chức năng sản xuất Để thực hiện chức năng sản xuất, doanh nghiệp cần có các yếu tố đầu vào như: lao động; vốn; công nghệ; nguyên, nhiên, vật liệu; máy móc thiết bị; cũng như các dịch vụ cần thiết khác. Doanh nghiệp phối hợp các yếu tố đầu vào này trong quá trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm hàng hoá hoặc các dịch vụ và cung cấp các sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ này cho thị trường, nhằm thoả mãn các nhu cầu của con người và xã hội. 29 Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cũng thải ra môi trường các phế thải, tiếng ồn, khói bụi ... Có thể tóm tắt quá trình sản xuất theo sơ đồ sau b) Chức năng thương mại Kinh doanh gắn với thị trường với các hoạt động mua, bán. Vì vậy, chức năng thương mại rất quan trọng. Chức năng thương mại gồm các hoạt động cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất (hoạt động cung ứng), hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra (hoạt động tiêu thụ) và các hoạt động liên quan tới việc đưa các sản phẩm hàng hoá và dịc vụ của doanh nghiệp từ lĩnh vực sản xuất đến người tiêu dùng có nhu cầu (hoạt động phân phối). - Hoạt động cung ứng: Để có thể sản xuất, doanh nghiệp cần có các yếu tố đầu vào. Doanh nghiệp phải mua các yếu tố đó trên các thị trường khác nhau. Doanh nghiệp mua nhiên liệu, nguyên liệu, máy móc, thiết bị trên thị trường tư liệu sản xuất, tìm kiếm vốn trên thị trường tài chính, thuê lao động trên thị trường lao động. Đây là quá trình chuyển hoá vốn từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật chất (T - H). - Hoạt động tiêu thụ: Kết quả của quá trình sản xuất là doanh nghiệp tạo ra các hàng hoá và dịch vụ. Những hàng hoá và dịch vụ này được cung cấp ra thị trường hàng hoá và thị trường dịch vụ và bán cho người có nhu cầu. Trong quá trình này doanh Các yếu tố đầu vo:  Nguyên, nhiên, vật liệu  Máy móc, thiết bị, nh xưởng  Lao động  Vốn  Đất đai Các yếu tố đầu ra:  Sản phẩm hng hoá  Dịch vụ  Chất phế thải (nước, khói bụi, tiếng ồn) Quá trình sản xuất 30 nghiệp thực hiện việc chuyển hoá vốn từ hình thái vật chất trở về hình thái tiền tệ ban đầu (H -T). Để bán được, doanh nghiệp phải cung cấp các sản phẩm hàng hoá mà thị trường cần, những sản phẩm hàng hoá đó phải có khả năng cạnh tranh với những doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hàng hoá cùng loại. Doanh nghiệp bán sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của mình với những điều kiện phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận. - Hoạt động phân phối sản phẩm: Gồm hàng loạt các hoạt động như: vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến thị trường tiêu thụ, phân loại, chia nhỏ, đóng gói, lưu kho, gia công thêm ... Thị trường lao động Thị trường nguyên, nhiên, vật liệu Thị trường vốn Thị trường chất xám Thị trường tư liệu sản xuất Các yếu tố đầu vo Vận chuyển, dự trữ Quá trình sản xuất Thị trường dịch vụ Vận chuyển, dự trữ, bao gói, gia công ... Thị trường hng hoá THƯƠNG MẠI ĐẦU VO THƯƠNG MẠI ĐẦU RA 31 Chức năng thương mại có thể được mô tả theo sơ đồ trên. c) Chức năng phân phối Doanh nghiệp bán các sản phẩm và các dịch vụ cho khách hàng và có doanh thu. Thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau: - Chi trả tiền mua hàng cho người cung ứng: tiền mua nguyên liệu, vật liệu, giá các khoản dịch vụ đã tiêu dùng cho quá trình sản xuất. - Trả lương và các khoản phụ cấp xã hội cho người lao động. - Khấu hao máy móc, thiết bị. - Nộp thuế cho Nhà nước. - Trả lãi vốn vay cho chủ nợ. - Phần còn lại là lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ phân phối một phần lợi nhuận này cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức và giữ phần còn lại của lợi nhuận dùng làm quỹ phát triển doanh nghiệp. Chức năng phân phối có thể mô tả theo sơ đồ sau: 2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp THU NHẬP CỦA DOANH NGHIỆP Nguyên liệu, vật liệu, dịch vụ đầu vo cho sản xuất Giá trị gia tăng Người cung ứng Thuế Lương, BHXH Lãi tiền vay Cổ tức Lợi nhuận Nh nước Người lao động Chủ nợ Chủ sở hữu Doanh nghiệp 32 a) Vai trò kinh tế Doanh nghiệp luôn cố gắng đạt tới lợi nhuận tối đa, đó là mục tiêu kinh tế quan trọng nhất. Để đạt tới điều đó, nó phải thực hiện được các mục tiêu kinh tế khác như: - Các mục tiêu về thị trường: chất lượng sản phẩm, dịch vụ khách hàng, bảo vệ và nâng cao thị phần, chiến thắng các đối thủ cạnh tranh. - Mục tiêu tài chính: bảo toàn vốn, gia tăng tài sản, gia tăng vòng quay vốn, giảm chi phí ... - Mục tiêu cải tiến công nghệ, mở rộng quy mô và nâng cao hệ số sử dụng công suất ... Doanh nghiệp chỉ thực hiện được các mục tiêu này khi nó kinh doanh có lãi. Ngược lại, đạt được các mục tiêu kinh tế khác chính là điều kiện để nó thực hiện được mục tiêu lợi nhuận đặt ra. b) Vai trò ngoài kinh tế - Nâng cao uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp. - Đảm bảo công ăn việc làm ổn định và lâu dài cho người lao động. - Nâng cao phúc lợi của các thành viên trong doanh nghiệp. - Cung cấp hàng hoá và dịch vụ thoả mãn tốt nhu cầu xã hội. - Đảm bảo lợi ích nhà cung cấp, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của xã hội: giúp đỡ người nghèo, làm từ thiện, ủng hộ các phong trào khác của xã hội... - Bảo vệ môi trường sinh thái: không sử dụng công nghệ gây ô nhiễm môi trường sống và phải xử lý các phế thải trước khi đổ ra môi trường. 2.2. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP Môi trường của doanh nghiệp là một khái niệm rộng gồm môi trường tự nhiên: đất đai, khí hâu, môi trường sinh thái, hạ tầng kỹ thuật; môi trường xã hội: chế độ xã hội, thể chế chính trị, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, tôn giáo, luật pháp, phong tục tập quán ... Môi trường của doanh nghiệp được chia thành hai nhóm yếu tố: + Môi trường vĩ mô 33 + Môi trường vi mô 34 2.2.1. Phân tích môi trường vĩ mô Các yếu tố môi trường vĩ mô bao gồm: các yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị và luật pháp, yếu tố xã hội, yếu tố tự nhiên và yếu tố công nghệ, yếu tố môi trường quốc tế. Mỗi yếu tố môi trường vĩ mô nói trên có thể ảnh hưởng đến tổ chức một cách độc lập hoặc trong mối liên kết với các yếu tố khác. a) Các yếu tố kinh tế Các ảnh hưởng chủ yếu về kinh tế gồm các yếu tố lãi suất ngân hàng, giai đoạn của chu kỳ kinh tế, cán cân thanh toán, chính sách tài chính và tiền tệ. Vì các yếu tố này tương đối rộng nên cần chọn lọc để nhận biết các tác động cụ thể ảnh hưởng trực tiếp nhất đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính trị Kinh tế Tự nhiên Công nghệ Văn hoá Xã hội Doanh nghiệp Công chúng Khách hng Đối thủ cạnh tranh Nh cung cấp Các nh môi giới Luật pháp Hội nhập kinh tế MÔI TRƯỜNG VI MÔ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 35 Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các doanh nghiệp kinh doanh. Chẳng hạn như lãi suất và xu hướng lãi suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng tới xu thế của tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư, do vậy sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp. Lãi suất tăng sẽ hạn chế nhu cầu vay vốn để đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra khi lãi suất tăng cũng sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, do vậy cũng sẽ làm cho nhu cầu tiêu dùng giảm xuống. Xu hướng của tỷ giá hối đoái: Sự biến động của tỷ giá làm thay đổi những điều kiện kinh doanh nói chung, tạo ra những cơ hội đe doạ khác nhau đối với các doanh nghiệp, đặc biệt nó có những tác động điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu. Mức độ lạm phát: Lạm phát cao hay thấp có ảnh hưởng đến tốc độ đầu tư vào nền kinh tế. Khi lạm phát quá cao sẽ không khuyến khích tiết kiệm và tạo ra những rủi ro lớn cho sự đầu tư của các doanh nghiệp, sức mua của xã hội cũng bị giảm sút và làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Trái lại thiểu phát cũng làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Việc duy trì một tỷ lệ lạm phát vừa phải có tác dụng khuyến khích đầu tư vào nền kinh tế, kích thích thị trường tăng trưởng. Tuy có nhiều số liệu cụ thể, song việc dự báo kinh tế không phải là một khoa học chính xác. Một số doanh nghiệp thường sử dụng các mô hình dự báo thay vì dựa vào các số liệu dự báo sẵn có. Đối với các doanh nghiệp chưa xây dựng được mô hình đó cũng cần phải xác định các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất đối với tổ chức. Các kiến thức kinh tế sẽ giúp các nhà quản trị xác định những ảnh hưởng của một doanh nghiệp đối với nền kinh tế của đất nước, ảnh hưởng của các chính sách kinh tế của Chính phủ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính ổn định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đây là những vấn đề các doanh nghiệp rất quan tâm và liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của họ. b) Yếu tố chính trị và luật pháp 36 Các yếu tố chính trị và luật pháp có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp, bao gồm hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của Chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, các xu hướng ngoại giao của Chính phủ, những diễn biến chính trị trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Doanh nghiệp phải tuân theo các quy định về thuê mướn, thuế, cho vay, an toàn, vật giá, quảng cáo nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường .v.v... Luật pháp: đưa ra những quy định cho phép hoặc không cho phép, hoặc những ràng buộc đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ. Chính phủ là cơ quan giám sát, duy trì, thực hiện pháp luật và bảo vệ lợi ích quốc gia. Chính phủ có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ, các chương trình chi tiêu của mình. Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp, Chính phủ vừa đóng vai trò là người kiểm soát, khuyến khích, tài trợ, quy định ngăn cấm, hạn chế, vừa đóng vai trò là khách hàng quan trọng đối với các doanh nghiệp (trong các chương trình chi tiêu của Chính phủ) và sau cùng Chính phủ cũng đóng vai trò là nhà cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp: cung cấp các thông tin vĩ mô, các dịch vụ công cộng khác ... Như vậy, hoạt động của Chính phủ cũng có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ. Thí dụ, một số chương trình của Chính phủ (như biểu thuế hàng ngoại nhập cạnh tranh, chính sách miễn giảm thuế) tạo cho doanh nghiệp cơ hội tăng trưởng hoặc cơ hội tồn tại. Ngược lại, việc tăng thuế trong một ngành nhất định nào đó có thể đe doạ đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhìn chung, các doanh nghiệp hoạt động được là vì điều kiện xã hội cho phép. Chừng nào xã hội không còn chấp nhận các điều kiện và bối cảnh thực tế nhất định, thì xã hội sẽ rút lại sự cho phép đó bằng cách đòi hỏi Chính phủ can thiệp bằng chế độ chính sách hoặc hệ thống pháp luật. Thí dụ, mối quan tâm của xã hội đối với vấn đề ô nhiễm môi trường hoặc tiết kiệm năng lượng được phản ánh trong các biện pháp của Chính phủ. Xã hội cũng đòi hỏi có các quy định nghiêm ngặt đảm bảo các sản phẩm tiêu dùng được sử dụng an toàn. 37 Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi đối với các hoạt động kinh doanh. Một Chính phủ mạnh và sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của xã hội sẽ đem lại lòng tin và thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong một xã hội ổn định về chính trị, các nhà kinh doanh đượcđảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu các tài sản khác của họ, như vậy họ sẽ sẵn sàng đầu tư với số vốn nhiều hơn vào các dự án dài hạn. Chính sự can thiệp nhiều hay ít của Chính phủ vào nền kinh tế đã tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn và cơ hội kinh doanh khác nhau cho từng doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách thức mới trong nền kinh tế, từ đó điều chỉnh thích ứng các hoạt động nhằm tránh những đảo lộn lớn trong quá trình vận hành, duy trì và đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong kinh doanh. Vấn đề then chốt là cần phải tuân thủ các quy định có thể được ban hành. c) Yếu tố văn hoá - xã hội Môi trường văn hoá - xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận và tôn trọng bởi một xã hội hoặc một nền văn hoá cụ thể. Sự thay đổi của các yếu tố văn hoá - xã hội một phần là hệ quả của sự tác động lâu dài của các yếu tố vĩ mô khác, do vậy nó thường biến đổi chậm hơn so với các yếu tố khác. Một số đặc điểm mà các nhà quản trị cần chú ý là: sự tác động của các yếu tố văn hoá - xã hội thường có tính dài hạn và tinh tế hơn so với các yếu tố khác, nhiều lúc khó mà nhận biết được. Mặt khác, phạm vi tác động của các yếu tố văn hoá - xã hội thường rất rộng: "nó xác định cách thức người ta sống, làm việc, sản xuất và tiêu thụ các sẩn phẩm và dịch vụ". Các khía cạnh hình thành môi trường văn hoá - xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh như: những quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, về nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm ưu tiên của xã hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội ... Tất cả các doanh nghiệp cần phân tích rộng rãi các yếu tố xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra. Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến doanh nghiệp, như xu hướng nhân chủng học, sở 38 thích vui chơi giải trí, chuẩn mực đạo đức và quan điểm về mức sống, cộng đồng kinh doanh và lao động nữ. Các yếu tố xã hội học trên thường biến đổi hoặc tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết. Thí dụ, hiện nay có một số lượng lớn lao động là nữ giới. Điều này do quan điểm của nam giới cũng như nữ giới đã thay đổi. Nhưng rất ít doanh nghiệp nhận ra sự thay đổi quan điểm này để dự báo tác động của nó và đề ra chiến lược tương ứng. Các thay đổi khác diễn ra nhanh hơn nếu chúng gây ra bởi sự gián đoạn bên ngoài nào đó trong hành vi chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trong môi trường văn hoá, các nhân tố nổi lên giữ vai trò đặc biệt quan trọng là tập quán, lối sống, tôn giáo. Các nhân tố này được coi là "hàng rào chắn" các hoạt động giao dịch thương mại. Thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu, vì ngay cả trong trường hợp hàng hoá thực sự có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó được họ chấp nhận. Chính thị hiếu, tập quán người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng dân tộc và phản ánh yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo của từng địa phương, từng quốc gia. Trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đạo đức xã hội trong đó có đạo đức kinh doanh được coi là một khía cạnh thiết thực và quan trọng của môi trường kinh doanh. Đạo đức đặt cương lĩnh cho hoạt động hàng ngày trong một xã hội và chi phối mọi hành vi và tác phong cá nhân. Đạo đức là giới hạn ngăn cách những hành vi xấu và là động lực thúc đẩy những hành vi tốt. Đạo đức có thể coi như một nhu cầu xã hội và vì vậy bất kỳ một thể chế kinh tế nào cũng phải xây dựng một khuôn khổ đạo đức để làm một trong những nguyên tắc điều hành. d) Yếu tố tự nhiên Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, cảnh quan thiên nhiên, đất đai, sông biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, tài nguyên rừng biển, sự trong sạch của môi trường nước, không khí ... Tác động của các điều kiện tự nhiên đối với các quyết sách trong kinh doanh từ lâu đã được các 39 doanh nghiệp thừa nhận. Trong rất nhiều trường hợp, chính sách điều kiện tự nhiên trở thành một yếu tố quan trọng để hình thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ. Tuy nhiên, cho tới nay các yếu tố về duy trì môi trường tự nhiên rất ít được chú ý tới. Sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách của Nhà nước ngày càng tăng vì công chúng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng môi trường tự nhiên. Các vấn đề ô nhiễm môi trường, sản phẩm kém chất lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn khiến công chúng cũng như các nhà doanh nghiệp phải thay đổi các quyết định và biện pháp hoạt động liên quan. e) Yếu tố công nghệ Đây là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và đe doạ đối với các doanh nghiệp. Những áp lực và đe doạ từ môi trường công nghệ có thể là: sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh của các sản phẩm thay thế, đe doạ các sản phẩm truyền thống của ngành hiện hữu. Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện tại bị lỗi thời và tạo ra áp lực đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh. Sự ra đời của công nghệ mới làm tăng thêm áp lực đe doạ các doanh nghiệp hiện có trong ngành. Sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công nghệ có xu hướng rút ngắn lại, điều này càng làm tăng thêm áp lực phải rút ngắn thời gian khấu hao so với trước. Ít có ngành công nghiệp và doanh nghiệp nào mà lại không phụ thuộc vào cơ sở công nghệ ngày càng hiện đại. Các nhà nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ hàng đầu nói chung đang lao vào công việc tìm tòi các giải pháp kỹ thuật mới nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại và xác định các công nghệ hiện tại có thể khai thác trên thị trường. Các doanh nghiệp cũng phải cảnh giác đối với các công nghệ mới có thể làm cho sản phẩm của họ bị lạc hậu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Bên cạnh đó, các nhà quản trị cần lưu ý thêm khi đề cập đến môi trường công nghệ. 40 - Áp lực tác động của sự phát triển công nghệ và mức chi tiêu cho sự phát triển công nghệ khác nhau theo ngành. Như vậy, đối với những nhà quản trị trong những ngành bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi kỹ thuật nhanh thì quá trình đánh giá những cơ hội và đe doạ mang tính công nghệ trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng của việc kiểm soát các yếu tố bên ngoài. - Một số ngành nhất định có thể nhận được sự khuyến khích và tài trợ của Chính phủ cho việc nghiên cứu và phát triển, khi có sự phù hợp với các phương hướng và ưu tiên của Chính phủ. Nếu các doanh nghiệp biết tranh thủ những cơ hội từ sự trợ giúp này sẽ gặp được những thuận lợi trong quá trình hoạt động. 2.2.3. Môi trường vi mô Môi trường vi mô bao gồm các yếu tố trong ngành và là các yếu tố ngoại cảnh đối với doanh nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành kinh doanh đó. Có 5 yếu tố cơ bản là: đối thủ cạnh tranh, người mua, người cung cấp, các đối thủ mới tiềm ẩn và sản phẩm thay thế. Vì ảnh hưởng chung của cac yếu tố này thường là một sự miễn cưỡng đối với tất cả các doanh nghiệp, nên chìa khoá để ra được một chiến lược thành công là phải phân tích từng yếu tố chủ yếu đó. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh giúp các doanh nghiệp nhận ra mặt mạnh và mặt yếu của mình liên quan đến các cơ hội và nguy cơ mà ngành kinh doanh đó gặp phải. a) Các đối thủ cạnh tranh Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là các đối thủ cạnh tranh quyết định tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật giành lợi thế trong ngành. Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí cố định và mức độ đa dạng hoá sản phẩm. Sự hiện hữu của các yếu tố này có xu hướng làm tăng nhu cầu hoặc nguyện vọng của doanh nghiệp muốn đạt được và bảo vệ thị phần của mình. Vì vậy chúng làm cho sự cạnh tranh thêm gay gắt. 41 Các yếu tố chủ yếu liên quan đến mục đích của đối thủ cạnh tranh là: - Các mục đích về tài chính - Quan điểm hoặc giá trị về mặt tổ chức - Cơ cấu tổ chức - Các hệ thống kiểm soát - Các nhân viên quản trị, nhất là tổng giám đốc điều hành - Sự nhất trí của lãnh đạo về hướng đi trong tương lai - Thành phần Hội đồng quản trị - Các giao ước Hợp đồng có thể hạn chế các thay đổi - Những hạn chế liên quan đến các quy định điều chỉnh, quy định về chống độc quyền và các quy định khác của Chính phủ hoặc xã hội. Các doanh nghiệp phải xem xét đến tiềm năng chính yếu của đối thủ cạnh tranh, các ưu, nhược điểm của họ trong các lĩnh vực hoạt động sau đây: - Các loại sản phẩm - Hệ thống phân phối - Marketing và bán hàng - Các hoạt động tác nghiệp sản xuất - Nghiên cứu và thiết kế công nghệ - Giá thành sản phẩm - Tiềm lực tài chính - Tổ chức - Năng lực quản lý chung - Danh mục đầu tư của Công ty - Nguồn nhân lực - Quan hệ xã hội (như đối với Chính phủ) Ngoài các yếu tố kể trên cần xem xét đến tính thống nhất của các mục đích và chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tìm hiểu khả năng tăng trưởng của các đối thủ cạnh tranh và đánh giá xem: - Các năng lực của họ gia tăng tăng hay giảm xuống nếu có sự tăng trưởng. 42 - Khả năng tiềm ẩn để tăng trưởng, cụ thể tiềm năng về con người, tay nghề của người lao động và công nghệ. - Mức tăng trưởng mà họ có thể giữ vững theo triển vọng tài chính Một điều hết sức quan trọng là khả năng đối thủ cạnh tranh có thể thích nghi với những thay đổi. Các doanh nghiệp cần xem xét khả năng phản ứng của đối thủ cạnh tranh trước các diễn biến của các tiến bộ công nghệ, lạm phát và sự can thiệp mạnh của Chính phủ. b) Khách hàng Vấn đề khách hàng là một bộ phận không tách rời trong môi trường cạnh tranh. Sự tín nhiệm của khách hàng có thể là tài sản có giá trị nhất của hãng. Sự tín nhiệm đó đạt được do biết thoả mãn tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Một vấn đề mấu chốt khác liên quan đến khách hàng là khả năng trả giá của họ. Người mua có ưu thế có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch vụ hơn. Người mua có tương đối nhiều thế mạnh hơn khi họ có các điều kiện sau: - Lượng hàng người mua chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng bán ra của hãg, như lượng bán hàng mà hãng General Motors mua của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện nhỏ. - Việc chuyển sang mua hàng của người khác không gây nhiều tốn kém. - Người mua đưa ra tín hiệu đe doạ đáng tin cậy sẽ hội nhập ngược với các bạn hàng cung ứng, như các hãng sản xuất ô tô thường làm. - Sản phẩm của người bán ít ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của người mua. c) Nhà cung ứng Các doanh nghiệp cần phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau, như vật tư, thiết bị, lao động và tài chính. * Người bán vật tư, thiết bị 43 Các tổ chức cung cấp vật tư, thiết bị có ưu thế có thể gây khó khăn bằng cách tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm dịch vụ đi kèm. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm. Cụ thể là các yếu tố: số lượng cung cấp ít, không có mặt hàng thay thế khác và không có nhà cung cấp nào chào bán các sản phẩm có tính khác biệt. Nếu người cung cấp có được điều kiện thuận lợi như vậy thì các doanh nghiệp mua hàng cần kiếm cách cải thiện vị thế của họ bằng cách tác động đến một hay nhiều yếu tố nói trên. Họ có thể đe doạ hội nhập dọc bằng cách mua lại các cơ sở cung cấp hàng cho chính họ, hoặc có thể mua giấy phép độc quyền. * Người cung cấp vốn Trong những thời điểm nhất định phần lớn các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp làm ăn có lãi, điều phải vay vốn tạm thời từ người tài trợ. Nguồn tiền vốn này có thể nhận được bằng cách vay ngắn hạn hoặc dài hạn hoặc phát hành cổ phiếu. Khi doanh nghiệp tiến hành phân tích về các tổ chức tài chính thì trước hết cần chú ý xác định vị thế của mình so với các thành viên khác trong cộng đồng. Cần đặt ra các câu hỏi cơ bản sau: - Cổ phiếu của doanh nghiệp có được đánh giá đúng không ? - Các điều kiện cho vay hiện tại của chủ nợ có phù hợp với các mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp không ? - Người cho vay có khả năng kéo dài ngân khoản và thời gian cho vay khi cần thiết không. * Nguồn lao động Nguồn lao động cũng là một phần chính yếu trong môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng thu hút và giữ được các nhân viên có năng lực là tiền đề để đảm bảo thành công cho doanh nghiệp. Các yếu tố chính cần đánh giá là đội ngũ lao động chung bao gồm: trình độ đào tạo và trình độ chuyên môn của họ, mức độ hấp dẫn tương đối của doanh nghiệp với tư cách là người sử dụng lao động và mức tiền công phổ biến. 44 Các nghiệp đoàn cũng có vai trò đáng kể trong môi trường cạnh tranh. Tính chất đặc thù của mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các nghiệp đoàn liên quan, với tư cách là người cung cấp lao động, có thể tác động mạnh đến khả năng đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. d) Đối thủ tiềm ẩn mới Đối thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới, với mong muốn giành được thị phần và các nguồn lực cần thiết. Cần lưu ý là việc mua lại các cơ sở khác trong ngành với ý định xây dựng phần thị trường thường là biểu hiện của sự xuất hiện đối thủ mới xâm nhập. Mặc dù không phải bao giờ doanh nghiệp cũng gặp phải đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn mới, song nguy cơ đối thủ mới hội nhập vào ngành vừa chịu ảnh hưởng đồng thời cũng có ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. e) Sản phẩm thay thế Sức ép do có sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại với các thị trường nhỏ bé. Thí dụ: như các doanh nghiệp sản xuất máy chơi bóng bàn không chú ý tới sự bùng nổ của các trò chơi điện tử. Vì vậy, các doanh nghiệp cần không ngừng nghiên cứu và kiểm tra các mặt hàng thay thế tiềm ẩn. 2.3. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG 2.3.1. Ý nghĩa của phân tích thị trường Nghiên cứu thị trường là một nhiệm vụ quan trọng đối với mọi doanh nghiệp vì trong nền kinh tế thị trường, muốn bán được hàng hoá và dịch vụ doanh nghiệp phải cung cấp cái mà thị trường cần chứ không phải cái mà nó có hoặc có khả năng cung cấp. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải hiểu biết về thị trường, nghĩa là phải nghiên cứu thị trường. 45 Ở những doanh nghiệp lớn có thể có bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường. Ở những doanh nghiệp nhỏ chủ doanh nghiệp phải làm việc này. Doanh nghiệp nhỏ nếu không tự làm được thì có thể thuê chuyên gia hoặc tổ chức tư vấn về nghiên cứu thị trường để họ tư vấn cho doanh nghiệp. 2.3.2. Nội dung phân tích thị trường Đây là một nội dung rất rộng nhưng về cơ bản gồm những nội dung sau: - Nghiên cứu môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: sự ổn định của hệ thống chính trị, hệ thống luật pháp trong sản xuất kinh doanh và các văn bản hướng dẫn thực hiện, những tiến bộ khoa học công nghệ, các yếu tố cạnh tranh, các yếu tố văn hoá xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo ... - Nghiên cứu dự báo thị trường gồm những nội dung như: dự báo về số lượng hàng hoá cung ra thị trường, dự báo về nhu cầu thị trường, dự báo về thay đổi thị hiếu người tiêu dùng, dự báo về giá cả ... - Nghiên cứu về quy mô và cơ cấu thị trường, về hành vi mua sắm của khách hàng: lượng khách hàng, doanh thu theo thời gian, không gian, phân tích về thị phần, cơ cấu thị trường theo mặt hàng và theo khu vực địa lý, phân tích động cơ và thói quen khi mua hàng của dân cư ... - Nghiên cứu về sản phẩm: chủng loại, màu sắc, kích cỡ, những sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường, nghiên cứu về sản phẩm mới và sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu về bao bì và nhãn hiệu hàng hoá, nghiên cứu về những kiến nghị của khách hàng về sản phẩm ... - Nghiên cứu giá cả: Sự biến động giá cả trên thị trường, sự thay đổi giá cả của những đối thủ cạnh tranh, biến động tỷ giá ngoại tệ ... - Nghiên cứu về phân phối: Nghiên cứu điểm bán hàng, bố trí kho, nghiên cứu về mạng phân phối của đối thủ cạnh tranh, mạng lưới đại lý và mạng lưới bán lẻ. - Nghiên cứu về quảng cáo, khuyến mại, các hình thức bán hàng. 2.4. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 2.5. LỰA CHỌN VÀ QUYẾT ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH 46 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 1. Phân tích sự ảnh hưởng của môi trường vi mô và môi trường vĩ mô đến hoạt động sản xuất kinh doanh. 2. Trình bày ý nghĩa và nội dung của phân tích thị trường kinh doanh. BÀI TẬP CHƯƠNG II 47 CHƯƠNG III Phân tích tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp 3.1. PHÂN TÍCH CÂN ĐỐI CỦA CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT 3.2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG LAO ĐỘNG 3.2.1. Phân tích tình hình sử dụng số lượng lao động Số lượng lao động là chỉ tiêu phản ánh quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sử dụng số lượng lao động nhiều hay ít phụ thuộc vào đặc điểm của ngành nghề kinh doanh và trình độ trang bị vật chất cho từng doanh nghiệp cụ thể. Thông thường ở những doanh nghiệp trang bị công nghệ máy móc hiện đại, tự động hoá thì số lượng lao động ít, tỷ trọng của lao động trực tiếp thường chiếm tỷ trọng nhỏ. Những doanh nghiệp trang bị máy móc thô sơ số lượng lao động nhiều, tỷ trọng lao động trực tiếp chiếm tỷ trọng cao. Để phân tích tình hình sử dụng số lượng lao động ta thường sử dụng phương pháp so sánh dưới 2 dạng: so sánh đơn giản và so sánh có liên hệ. a) So sánh đơn giản Gọi L0, L1 là số lượng lao động tham gia sản xuất của doanh nghiệp kỳ kế hoạch, kỳ thực hiện; IL: mức biến động tương đối số lượng lao động kỳ thực hiện so với kỳ kế hoạch; L: mức biến động tuyệt đối số lượng lao động kỳ thực hiện so với kỳ kế hoạch, vậy công thức so sánh trực tiếp số lượng lao động có dạng: IL = %100x L L 0 1 ; L = L1 - L0 - Nếu IL > 100%, L > 0, chứng tỏ số lượng lao động mà doanh nghiệp sử dụng vào sản xuất kinh doanh kỳ thực hiện tăng so với kỳ kế hoạch, quy mô lao động tăng, doanh nghiệp đã góp phần giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp cho xã hội. 48 - Nếu IL < 100%, L < 0, chứng tỏ số lượng lao động sử dụng vào sản xuất kinh doanh giảm, có thể do doanh nghiệp đã đầu tư máy móc thiết bị để giảm bớt nhân công trực tiếp. Bài tập: Năm trước doanh nghiệp A sử dụng 100 lao động vào hoạt động sản xuất kinh doanh, năm nay doanh nghiệp sử dụng 120 lao động. Tỷ lệ % biến động kết quả sản xuất năm nay so với năm trước bằng 150%. Hãy phân tích tình hình sử dụng số lượng lao động của doanh nghiệp A. Bài giải: Phân tích tình hình sử dụng số lượng lao động năm nay so với năm trước bằng công thức so sánh đơn giản, ta có kết quả phân tích như sau: IL = %120 100 120 %100x L L 0 1  L = L1 - L0 = 120 - 100 = 20 (người) Kết quả tính toán cho thấy năm nay doanh nghiệp đã sử dụng lao động tăng so với năm trước là 20% (hay tăng 20 người). Song mục đích của việc so sánh tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất là phải đưa ra được nhận xét doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm (hay lãng phí) yếu tố sản xuất. Do vậy, phương pháp so sánh đơn giản số lượng lao động không đáp ứng được mục đích nói trên. b) So sánh có liên hệ với hệ số điều chỉnh Công thức so sánh thường có dạng: IL = %100x xIL L Q0 1 ; L = L1 - (L0 x IQ) Trong đó: IQ: mức biến động tương đối kết quả sản xuất kỳ thực hiện so với kỳ kế hoạch, thường là các chỉ tiêu tổng giá trị sản phẩm sản xuất, khối lượng sản phẩm sản xuất, doanh thu bán hàng hoặc chi phí của doanh nghiệp ... (đóng vai trò là hệ số điều chỉnh). (L0 x IQ): số lượng lao động kỳ kế hoạch được điều chỉnh theo mức biến động tương đối của kết quả sản xuất. 49 - Nếu IL < 100%, L < 0, chứng tỏ số lượng lao động doanh nghiệp sử dụng vào sản xuất kinh doanh ở kỳ thực hiện tiết kiệm hơn so với kỳ kế hoạch, khi đó chi phí giảm và lợi nhuận của doanh nghiệp tăng. - Nếu IL > 100%, L > 0, chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng số lượng lao động không đạt hiệu quả cao, khi tốc độ tăng chi phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu dẫn đến lợi nhuận giảm. Ví dụ: Với tài liệu đã cho ở bài tập trên, ta có kết quả phân tích như sau: IL = %100x 5,1x100 120 %100x xIL L Q0 1  = 80% L = L1 - (L0 x IQ) = 120 - 150 = (-30) (người) Kết quả tính toán cho thấy năm nay doanh nghiệp A đã sử dụng lao động tiết kiệm hơn so với năm trước 30% (hay tiết kiệm 30 người). Xét ở góc độ doanh nghiệp, chứng tỏ đã tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm. 3.2.2. Phân tích tình hình tăng (giảm) năng suất lao động Chất lượng lao động là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ, năng lực của người lao động trong quá trình sản xuất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi phân tích chất lượng lao động có thể chia thành hai nhóm lao động cơ bản: - Lao động trực tiếp như công nhân sản xuất trong các phân xưởng công nhân bốc vác, vận chuyển ... ta có thể đánh giá chất lượng lao động trực tiếp thông qua các chỉ tiêu sau: - Hệ số đảm nhiệm công việc (H) H = Bậc thợ bình quân thực tế (T1) Bậc thợ bình quân theo kế hoạch (T0) Chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm công việc (H) cao quá không tốt, chứng tỏ trình độ tay nghề của công nhân khác xa với nhiệm vụ công việc được giao. Chỉ tiêu này thấp quá càng không tốt, chứng tỏ trình độ tay nghề của công nhân chưa đáp ứng được nhu cầu công việc, do vậy chỉ tiêu này xấp xỉ 1 là tốt nhất. Chỉ tiêu này là căn cứ để các nhà quản trị sắp xếp, bố trí công nhân trong một ca sản xuất 50 phù hợp, vừa tiết kiệm chi phí vừa khai thác hết khả năng làm việc của công nhân để nâng cao năng suất lao động. - Bậc thợ bình quân của một ca sản xuất (T), cách xác định: T = i ii Q hQ Qi : là số lượng công nhân thứ i trong một ca sản xuất hi : là tay nghề bậc thợ của công nhân thứ i Chỉ tiêu này phản ánh trình độ phổ biến của công nhân tính theo một ca sản xuất, chỉ tiêu này phụ thuộc vào từng loại công việc cụ thể để bố trí và sắp xếp lao động phù hợp cho từng bộ phận trong doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trên được tính cho từng nhóm lao động trực tiếp sản xuất, ca sản xuất và so sánh giữa kỳ thực hiện với kỳ kế hoạch hoặc giữa các doanh nghiệp có điều kiện sản xuất tương đương. - Lao động gián tiếp như nhân viên các phòng ban, để phân tích tình hình sử dụng chất lượng lao động ra thường so sánh kết quả của các chỉ tiêu thực tế với kế hoạch đưa ra nhằm biết được mức độ thực hiện của từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu thường so sánh là kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao, kết quả của các bài thi viết, phỏng vấn, trình độ chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo. Thông qua việc phân tích tình hình sử dụng chất lượng lao động để các nhà quản trị đánh giá thực chất trình độ, năng lực lao động của doanh nghiệp mình, từ đó đưa ra các kế hoạch tuyên dụng, đào tạo, bồi dưỡng lao động nhằm đáp ứng nhu cầu công việc hiện tại. Thời gian lao động Thời gian lao động sử dụng trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất về mặt quy mô. Song với trình độ ngày càng hiện đại hoá quá trình sản xuất, thì thời gian lao động có xu hướng giảm nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của người lao động. Đơn vị tính thời gian lao động thường được xác định bằng ngày công, giờ công, khi phân tích ta thường so sánh giữa kết quả thực hiện với kế hoạch hoặc thời gian theo quy định của chế độ để thấy được 51 tình hình tăng, giảm về mặt thời gian lao động đã ảnh hưởng như thế nào đến kết quả sản xuất của doanh nghiệp. * Chỉ tiêu phân tích thường bao gồm: - Số ngày làm việc bình quân của một lao động theo tuần, tháng, quý, năm, cách xác định như sau: - Số giờ làm việc bình quân một ngày của người lao động: Từ đây ta so sánh các chỉ tiêu về thời gian lao động của một công nhân và toàn doanh nghiệp giữa kỳ thực hiện với kỳ kế hoạch hoặc quy định của chế độ để thấy được tình hình tăng giảm về thời gian lao động ảnh hưởng tới kết quả sản xuất của doanh nghiệp như thế nào. Ta có thể so sánh tình hình sử dụng thời gian lao động liên hệ với các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất hay quỹ tiền lương của lao động để thấy được hiệu quả sử dụng thời gian lao động. Thông qua việc phân tích để đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm sử dụng thời gian lao động có hiệu quả và đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Bài tập: Tình hình sử dụng thời gian lao động của doanh nghiệp Tú Minh được cho trong tài liệu sau: Chỉ tiêu Kỳ kế hoạch Kỳ thực hiện 1. Tổng số ngày làm việc của công nhân SX (ngày) 78.000 94.500 2. Tổng số giờ làm việc của công nhân sản xuất (giờ) 624.000 774.900 3. Số công nhân sản xuất bình quân (người) 300 350 4. Tổng quỹ tiền lương của công nhân SX (triệu đồng) 10.800 16.800 Yêu cầu: Số ngày làm việc bình quân của một công nhân = Tổng số ngày làm việc của công nhân Số công nhân sản xuất bình quân Số giờ làm việc bình quân 1 ngày của một công nhân = Tổng số giờ làm việc của công nhân Số ngày làm việc bình quân của công nhân 52 1. Vận dụng phương pháp so sánh trực tiếp, hãy phân tích số ngày bình quân và thời gian bình quân một ngày của một công nhân trong doanh nghiệp. 2. Vận dụng phương pháp so sánh liên hệ, hãy phân tích số ngày làm việc bình quân và thời gian bình quân một ngày của một công nhân trong doanh nghiệp. Bài giải: 1. Vận dụng phương pháp so sánh trực tiếp, hãy phân tích số ngày bình quân và thời gian bình quân một ngày của một công nhân trong doanh nghiệp. Dựa vào tài liệu đã cho ta tính được kết quả theo bảng sau: Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện Chênh lệch +/- % 1. Số ngày làm việc bình quân của một công nhân sản xuất (ngày) 260 270 10 3,84 2. Thời gian làm việc bình quân một ngày của một công nhân sản xuất (giờ) 8 8,2 0,2 2,5 3. Tổng quỹ tiền lương của công nhân sản xuất (triệu đồng) 10.800 16.800 6.000 55,5 Căn cứ vào bảng tính toán ta thấy, số ngày làm việc bình quân của một công nhân kỳ thực hiện tăng so với kế hoạch 10 ngày, tương ứng 3,84%, như vậy doanh nghiệp sử dụng thời gian lao động vượt so với kế hoạch. Mặt khác, thời gian bình quân một ngày của một công nhân sản xuất tăng 0,2 giờ, tương ứng 2,5%. Như vậy doanh nghiệp đã khai thác tối đa thời gian một ngày của lao động theo quy định của chế độ. 2. Vận dụng phương pháp so sánh liên hệ, hãy phân tích số ngày bình quân và thời gian bình quân một ngày của một công nhân trong doanh nghiệp. Ta thấy quỹ lương của công nhân sản xuất tăng 6.000 triệu đồng, tương ứng với 55,5%, tốc độ tăng quỹ lương của công nhân sản xuất tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của thời gian lao động, chứng tỏ thời gian lao động của công nhân đạt hiệu quả cao, khuyến khích tăng năng suất lao động và thời gian cống hiến cho doanh nghiệp. 53 3.2.3. Phương hướng nâng cao năng suất lao động Năng suất lao động là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp thường xuyên tính toán và phân tích năng suất lao động để từ đó có các biện pháp tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các chỉ tiêu phản ánh năng suất lao động thường được tính như sau: a) Xác định các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh mức năng suất lao động - Năng suất bình quân một giờ làm việc (ký hiệu Wg) Năng suất bình quân một giờ làm việc (Wg) = Kết quả sản xuất (Q) Thời gian sản xuất (T) Trong đó: Q: chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất trong kỳ phân tích có thể là: khối lượng sản phẩm sản xuất, tổng giá trị sản phẩm sản xuất, doanh thu bán hàng ... T: Thời gian sản xuất, có thể đo bằng ngày công, giờ công. Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị thời gian lao động tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả sản xuất, chỉ tiêu này càng cao, năng suất lao động càng tốt. - Hoặc chỉ tiêu năng suất lao động có thể tính theo công thức: Năng suất bình quân một ngày làm việc (ký hiệu Wn) Năng suất bình quân một giờ làm việc (Wn) = Thời gian sản xuất (T) Kết quả sản xuất (Q) Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị kết quả sản xuất cần bao nhiêu đơn vị thời gian, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả sử dụng năng suất lao động càng cao. Khi phân tích, ta thường so sánh năng suất lao động thực tế với kế hoạch hoặc kỳ trước hay năng suất lao động của doanh nghiệp có cùng điều kiện tương đương để thấy được tình hình tăng, giảm sản xuất lao động đã ảnh hưởng như thế nào đến kết quả sản xuất của doanh nghiệp. b) Phân tích năng suất lao động 54 Phân tích mối quan hệ giữa năng suất lao động với các chỉ tiêu phản ánh tình hình sử dụng số lượng, thời gian, năng suất lao động và kết quả sản xuất của doanh nghiệp, thường được biểu hiện qua chương trình sau: Q = S x T x W Q: chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất của kỳ phân tích S: chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động bình quân của kỳ phân tích T: chỉ tiêu phản ánh thời gian bình quân của một lao động trong kỳ phân tích W: chỉ tiêu phản ánh năng suất bình quân của một đơn vị thời gian thuộc kỳ phân tích Phương pháp phân tích, ta thường kết hợp phương pháp so sánh và phương pháp loại trừ để phân tích các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất của doanh nghiệp dưới sự tác động của các nhân tố như số lượng lao động, thời gian lao động, năng suất lao động. Mỗi một nhân tố cần xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể bằng định lượng và định tính, từ đó phát huy những nhân tố tích cực và đưa ra các biện pháp khắc phục những mặt còn tồn tại, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Bài tập: Hãy phân tích tình hình sử dụng lao động của doanh nghiệp X trong năm N, dựa vào tài liệu cho trong bảng 1 như sau: Bảng 1: Tình hình sử dụng lao động của doanh nghiệp X Chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch năm N Thực hiện năm N So sánh () (%) 1. Tổng giá trị sản xuất triệu đồng 20.500 23.500 +3.000 14,63 2. Số lao động tham gia sản xuất bình quân người 326 288 -38 -11,65 3. Tổng số ngày của lao động tham gia sản xuất ngày 74.980 72.000 -2.980 -3,97 4. Tổng số giờ của lao động sản xuất giờ 525.000 540.000 +15.000 2,85 55 Bài giải Bảng 2: Phân tích tình hình sử dụng lao động của doanh nghiệp X Chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch năm N Thực hiện năm N So sánh () (%) 1. Số ngày làm việc thực tế bình quân một lao động ngày 230 250 20 8,69 2. Độ dài bình quân ngày làm việc thực tế giờ 7 7,5 +0,5 7,14 3. Năng suất lao động bình quân một giờ làm việc triệuđồn g/giờ 0,02 0,025 +0,005 25 Theo số liệu của bảng 1 và 2 ta thấy: - Tổng giá trị sản xuất thực hiện tăng so với kế hoạch 3.000 triệu đồng, tương ứng 14,63%, việc tăng đó là do ảnh hưởng của các nhân tố sau: + Do số lượng lao động tham gia sản xuất giảm 38 người, tương ứng 11,65%, do vậy dẫn tới tổng giá trị sản xuất giảm 1.223,6 triệu đồng tương ứng 5,97%. Q = (-38) x 230 x 7 x 0,02 = (-1.223,6) triệu đồng Tương ứng với 500.20 6,223.1  x 100 = -5,97%. Vậy tốc độ giảm của kết quả sản xuất thấp hơn tốc độ giảm của số lao động bình quân. Do vậy, doanh nghiệp muốn tăng kết quả sản xuất có thể tăng số lao động bình quân. + Do số ngày làm việc thực tế bình quân của một lao động trong năm tăng 20 ngày, tương ứng 8,69%, do vậy làm tổng giá trị sản xuất tăng 806,4 triệu đồng, tương ứng 3,93%. Q = 288 x 20 x 7 x 0,02 = 806,4 (triệu đồng) Tương ứng với 500.20 4,806 x 100 = 3,93%. Như vậy tốc độ tăng của kết quả sản xuất thấp hơn tốc độ tăng của thời gian bình quân một lao động, doanh nghiệp muốn tăng kết quả sản xuất có thể tăng thời gian lao động bình quân, song cần cân nhắc với thời gian theo quy định của chế độ. 56 + Do độ dài bình quân ngày làm việc thực tế tăng 0,5 giờ, tương ứng 7,14% làm giá trị sản xuất tăng 720 triệu đồng. Tương ứng với 500.20 720 x 100 = 3,51%.Vậy tốc độ tăng kết quả sản xuất thấp hơn tốc độ tăng thời gian bình quân một ngày lao động. Doanh nghiệp muốn tăng kết quả sản xuất cần phải tăng thời gian lao động nhưng không nên vượt quá quy định theo chế độ lao động. + Do năng suất lao động bình quân một giờ làm việc tăng 0,005 triệu đồng, tương ứng 25%, do vậy làm tổng giá trị sản xuất tăng 2.700 triệu đồng, tương ứng với 13,1%. Q = 288 x 250 x 7,5 x (0,005) = 2.700 triệu đồng Tương ứng với 500.20 700.2 x 100 = 13,1%. Như vậy, tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng kết quả sản xuất. Doanh nghiệp cần có các biện pháp để đẩy mạnh tăng năng suất lao động như phối hợp đồng bộ các yếu tố sản xuất. - Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố: - 1.223,6 + 806,4 + 720 + 2.700 = 3000 (triệu đồng) 3.3. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn dần và đến một lúc nào đó sẽ không còn sử dụng được nữa. Ngoài ra quá trình hao mòn diễn ra đồng thời với quá trình hoạt động kinh doanh. Nghĩa là hoạt động kinh doanh càng khẩn trương thì trình độ hao mòn càng nhanh. Phân tích hiện trạng TSCĐ nhằm đánh giá đúng mức TSCĐ của đơn vị, doanh nghiệp đang sử dụng còn mới hay cũ hoặc mới, cũ ở mức nào, trên cơ sở đó có biện pháp đúng đắn để tái sản xuất TSCĐ. Chỉ tiêu phân tích: Hệ số hao mòn TSCĐ = Tổng mức khấu hao TSCĐ Nguyên giá TSCĐ 57 Nếu chỉ tiêu này càng gần tới 1, chứng tỏ TSCĐ càng cũ và đơn vị phải chú trọng đến việc đổi mới và hiện đại hoá TSCĐ. Nếu chỉ tiêu này càng nhỏ hơn 1 bao nhiêu, chứng tỏ TSCĐ càng được đổi mới. 3.3.1. Phân tích tình hình trang bị kỹ thuật Phân tích tình hình trang bị TSCĐ là đánh giá mức độ đảm bảo TSCĐ, đặc biệt là máy móc thiết bị sản xuất cho một lao động, trên cơ sở có kế hoạch trang bị thêm TSCĐ, nhằm tăng năng suất lao động, tăng sản lượng sản phẩm dịch vụ, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ. Chỉ tiêu phân tích: Nguyên giá TSCĐ bình quân tính cho một lao động = Nguyên giá TSCĐ Số lao động Chỉ tiêu này phản ánh chung trình độ trang bị TSCĐ cho một người lao động. Chỉ tiêu này càng tăng, chứng tỏ trình độ cơ giới hoá của đơn vị, doanh nghiệp càng cao. Nguyên giá máy móc thiết bị bình quân tính cho một lao động = Nguyên giá máy móc, thiết bị Số lao động Chỉ tiêu này phản ánh trình độ trang bị kỹ thuật cho một lao động. Chỉ tiêu này càng tăng, chứng tỏ trình độ trang bị kỹ thuật cao. Xu hướng chung là nguyên giá máy móc, thiết bị bình quân cho một lao động tăng với tốc độ tăng nhanh hơn nguyên giá TSCĐ bình quân cho một lao động. Có như vậy mới tăng nhanh quy mô năng lực kinh doanh, tăng năng suất lao động. 3.3.2. Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định Hiệu quả sử dụng TSCĐ là mục đích của việc trang bị TSCĐ trong các đơn vị, doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ chính là kết quả của việc cải tiến tổ chức lao động và tổ chức sản xuất, hoàn chỉnh kết cấu TSCĐ. Đây cũng là biện pháp sử dụng vốn tốt nhất, tiết kiệm và có hiệu quả. Chỉ tiêu phân tích: Hq TSCĐ = Doanh thu thuần (Dt) Nguyên giá bình quân TSCĐ 58 Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh thì tạo ra cho đơn vị, doanh nghiệp bao nhiêu doanh thu thuần.Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ việc quản lý và sử dụng TSCĐ càng tốt. Để phân tích, từ công thức trên suy ra: Dt = Nguyên giá bình quân TSCĐ x HqTSCĐ Sử dụng phương pháp loại trừ, có thể xác định mức độ ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng TSCĐ đến doanh thu thuần. Dt (HqTSCĐ) = Nguyên giá bình quân TSCĐ kỳ phân tích x HqTSCĐ Từ công thức trên cho thấy doanh thu thuần biến động do ảnh hưởng của hai nhân tố. Đó là, nguyên giá bình quân của tài sản cố định và hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Trong hai nhân tố này thì nhân tố hiệu quả sử dụng TSCĐ là nhân tố phát triển kinh doanh theo chiều sâu, do đó có thể tăng lên vô hạn. 3.4. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGUYÊN VẬT LIỆU Nguyên vật liệu là bộ phận chủ yếu của hàng tồn kho trong doanh nghiệp sản xuất, dùng để sản xuất sản phẩm. Trong quá trình chuẩn bị cho sản xuất sản phẩm nếu doanh nghiệp làm tốt khâu cung ứng và dự trữ nguyên vật liệu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất tiến hành được thường xuyên và liên tục. Mặt khác, do chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá thành sản phẩm, nên muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận thì cần phải phấn đấu sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, thu mua các nguồn cung ứng rẻ, giảm chi phí bảo quản. Do vậy nhiệm vụ của phân tích tình hình cung ứng, dự trữ và sử dụng nguyên vật liệu bao gồm các nội dung sau: - Phân tích tình hình thực hiện các hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, phát hiện các diễn biến không bình thường để kịp thời thông báo cho nguồn cung ứng duy trì tiến độ cung ứng, đảm bảo cung ứng đủ số lượng, chủng loại và chất lượng các loại nguyên vật liệu đã ký kết trong hợp đồng. - Phân tích tình hình dự trữ các loại nguyên vật liệu chủ yếu, đối chiếu với yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình kho chứa và mức dự trữ hợp lý để thông báo cho bộ phận thu mua có biện pháp xử lý kịp thời. 59 - Thường xuyên và định kỳ phân tích tình hình sử dụng nguyên vật liệu, để xác định các nguyên nhân ảnh hưởng và đưa ra các giải pháp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu. 3.4.1. Phân tích hiệu suất sử dụng nguyên vật liệu Chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá thành sản xuất của doanh nghiệp, cho nên muốn tiết kiệm chi phí sản xuất, ha giá thành sản phẩm, nâng cao lợi nhuận thì giải pháp cơ bản nhất là cần phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất. Nội dung cơ bản của phân tích tình hình sử dụng nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm: 60 a) Phân tích biến động khối lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm - Khối lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm trong kỳ của doanh nghiệp (ký hiệu M) được xác định bằng công thức: Khối lượng vật liệu sử dụng trong kỳ (M) = Khối lượng vật liệu tồn đầu kỳ + Khối lượng vật liệu thu mua trong kỳ - Khối lượng vật liệu tồn cuối kỳ Nếu tính cho từng loại nguyên vật liệu thì M được tính bằng đơn vị hiện vật hoặc giá trị, còn nếu tính chung cho các loại nguyên vật liệu khác nhau thì M được tính bằng đơn vị tiền tệ. Khi đó M còn được gọi là tổng mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm trong kỳ của doanh nghiệp. - Gọi k là tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch về sử dụng vật liệu trong kỳ, k được xác định như sau: k = Khối lượng vật liệu thực tế sử dụng (M1) x 100% Khối lượng vật liệu theo kế hoạch sử dụng (M0) M: quy mô biến động của M (tính bằng đơn vị hiện vật hoặc đơn vị tiền tệ) (M = M1 - M0). M0, M1: lần lượt là số lượng (hay giá trị) nguyên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm kỳ kế hoạch và kỳ thực hiện. - Nếu k > 100%, M > 0: khối lượng nguyên vật liệu tiêu dùng cho sản xuất sản phẩm kỳ thực hiện tăng so với kỳ kế hoạch, chứng tỏ doanh nghiệp hoàn thành và vượt mức kế hoạch sản xuất các sản phẩm. - Nếu < 100%, M < 0: khối lượng nguyên vật liệu tiêu dùng cho sản xuất sản phẩm kỳ thực hiện giảm so với kỳ kế hoạch, chứng tỏ doanh nghiệp không hoàn thành kế hoạch sản xuất các sản phẩm, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. b) Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm, được thực hiện nhờ kết hợp việc sử dụng 61 phương pháp so sánh và phương pháp loại trừ để phân tích các chỉ tiêu (hay phương trình kinh tế) như sau: Tổng mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm: M = q x m Trong đó: Q là số lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ m là mức tiêu dùng n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgt_phan_tich_hoat_dong_kinh_doanh_p1_4192.pdf