Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 207
GIÁ TRỊ DỰ ĐOÁN ĐỘ ÁC TÍNH U BUỒNG TRỨNG 
CỦA MÔ HÌNH IOTA ADNEX TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ 
Lê Ngọc Diệp*, Tô Mai Xuân Hồng** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định giá trị chẩn đoán của mô IOTA ADNEX (International Ovarian Tumor Anaysis) ở 
ngưỡng cắt 10% trong dự đoán độ ác tính u buồng trứng tại Bệnh viện Từ Dũ. 
Phương pháp: Thử nghiệm chẩn đoán. Tất cả phụ nữ có chỉ định phẫu thuật vì khối u buồng trứng từ 
tháng 01/01/2018 đến 10/05/2018, được siêu âm sử dụng mô hình IOTA- ADNEX đánh giá độ ác tính trước 
phẫu thuật. Kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật u buồng trứng được xem là tiêu chuẩn vàng để đánh giá độ 
chính xác của siêu âm sử dụng mô hình IOTA-ADNEX. 
Kết quả: Nghiên cứu thu nhận được 522 phụ nữ đồng ý tham gia nghiên cứu, với 578 khối u, bao gồm 70 
bệnh ung thư buồng trứng (13,4%) và 452 phụ nữ có u buồng trứng lành tính (86,6%). Có 56 bệnh nhân có u 
buồng trứng 2 bên trong nhóm nghiên cứu chiếm tỉ lệ 10,7%. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 38,7 ± 
14,4, trong đó độ tuổi sinh sản chiếm 55,6%. Ở ngưỡng cắt 10%, mô hình IOTA ADNEX có: Khả năng dự đoán 
đúng: 89,8% (KTC 95%: 87,3-92,3%), độ nhạy: 94,7% (KTC 95%: 89,7-99,8%), độ đặc hiệu: 89,4% (KTC 95%: 
86,8-92,1%), diện tích dưới đường cong ROC: 0,965 (KTC 95%: 0,948 – 0,982). 
Kết luận: Mô hình siêu âm IOTA ADNEX có hay không có CA125 ở ngưỡng cắt 10% có thể được dùng để 
dự đoán độ ác tính của u buồng trứng tại bệnh viện Từ Dũ. 
Từ khóa: IOTA ADNEX, ung thư buồng trứng 
ABSTRACT 
EVALUATION OF IIOTA-ADNEX MODEL FOR PREDICTING OVARIAN CANCER IN TU DU HOSPITAL 
Le Ngoc Diep, To Mai Xuan Hong 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 207 - 213 
Objectives: Determine the diagnostic test of IOTA ADNEX (International Ovarian Tumor Anaysis) 
model in the cut-off point at 10% for predicting ovarian cancers in Tu Du hospital. 
Method: Diagnostic test. All women who were indicated an operation from January 1st, 2018 to May 10th, 
2018, have performed an ultrasound using IOTA-ADNEX for prediction the presence of ovarian cancers in the 
pre-operation. Histopathology is considered as a gold standard for evaluating the precision of IOTA-ADNEX 
model in ultrasound for ovarian cancers. 
Results: 522 women gave their consent to join in the research and there were 578 ovarian masses included 
70 cases of ovarian cancers (13.4%) and 452 cases of benign masses (86.6%), and 56 cases of bilateral ovarian 
masses (10.7%). The average age of present women is 38.7 ± 14.4 years old, and 55% of them were in the 
reproductive age. CA125 are indicated in all research women and 63.8% of them is less than 35 IU /ml. IOTA 
ADNEX model at the cut-off point of 10% has showed the high positive predictive value 89.8% (95% CI: 87.3-
92.3%), sensitivity 94.7% (95% CI: 89.7-99.8%), specificity 89.4% (95% CI: 86.8-92.1%), and AUC 0.965 
(95% CI: 0.948 – 0.982). 
Conclusion: IOTA ADNEX models with and without CA125 at cut-off point of 10% can routinely 
*Bệnh viện Từ Dũ, **Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Tô Mai Xuân Hồng ĐT: 0903727069 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 208
implement for predicting ovarian cancers in the Tu Du hospital. 
Keywords: IOTA-ADNEX models, ovarian cancer 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chẩn đoán tính lành ác của một khối u 
buồng trứng trước phẫu thuật là một thách thức 
trong thực hành lâm sàng phụ khoa vì có liên 
quan đến việc tiên lượng dự đoán phẫu thuật. 
Nếu u buồng trứng lành tính, phẫu thuật nội soi 
thường được áp dụng nhưng nếu nghi ngờ u 
buồng trứng ác tính, cần phải có một hướng can 
thiệp đầy đủ và đúng mức để cải thiện tỉ lệ sống 
còn và chất lượng cuộc sống. 
Siêu âm được xem như một phương tiện đầu 
tay trong đánh giá tính chất u buồng trứng lành 
tính và ác tính trước phẫu thuật. Từ năm 1999, 
nhóm nghiên cứu khối u buồng trứng quốc tế 
gọi tắt là IOTA ra đời với mục tiêu nhằm đồng 
thuận về thuật ngữ, định nghĩa và phép đo để 
mô tả đặc tính siêu âm của u buồng trứng. Mô 
hình ADNEX là một trong các mô hình được 
nhóm IOTA xây dựng được nhắc đến với độ 
chính xác cao và là mô hình tiên đoán đa lớp đầu 
tiên về giai đoạn của ung thư buồng trứng(2,3). 
Mô hình IOTA ADNEX được chính thức 
triển khai từ năm 2016 tại bệnh viện Từ Dũ. Trên 
thực tế, mô hình ADNEX đòi hỏi những chuyên 
gia siêu âm được đào tạo cũng như một máy 
siêu âm chất lượng để đảm bảo giá trị tiên đoán 
của mô hình. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa 
có nghiên cứu nào tập trung về giá trị của mô 
hình khi ứng dụng tại đây. Vì vậy, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu: “Giá trị chẩn đoán u buồng 
trứng ác tính của mô hình IOTA ADNEX tại 
bệnh viện Từ Dũ là bao nhiêu” để trả lời cho câu 
hỏi nghiên cứu: giá trị của mô hình này khi ứng 
dụng tại bệnh viện Từ Dũ là như thế nào? 
Mục tiêu 
Xác định giá trị chẩn đoán của mô hình 
IOTA ADNEX ở ngưỡng cắt 10% trong dự đoán 
độ ác tính u buồng trứng tại Bệnh viện Từ Dũ. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiệm chẩn đoán. 
Dân số mục tiêu 
Tất cả bệnh nhân phẫu thuật tại bệnh viện 
Từ Dũ vì khối u buồng trứng. 
Dân số nghiên cứu 
Tất cả phụ nữ đến khám, nhập viện vì lý do 
u buồng trứng và có chỉ định phẫu thuật từ 
01/01/2018 đến 5/2018 tại bệnh viện Từ Dũ. 
Dân số chọn mẫu 
Tất cả bệnh nhân phẫu thuật vì khối u buồng 
trứng tại bệnh viện Từ Dũ từ 01/01/2018 đến 
10/05/2018 thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. 
Tiêu chuẩn nhận vào 
Tất cả bệnh nhân phẫu thuật vì khối u buồng 
trứng từ 01/01/2018 đến 10/05/2018 có kết quả 
siêu âm sử dụng mô hình IOTA- ADNEX trước 
phẫu thuật tại bệnh viện Từ Dũ, và đồng ý tham 
gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các tổn thương xác định không phải là u 
buồng trứng khi phẫu thuật hay khi có kết quả 
giải phẫu bệnh. Bệnh nhân có tiền căn ung thư 
buồng trứng. Bệnh nhân có thai. Bệnh nhân dưới 
18 tuổi. Bệnh nhân có u buồng trứng trong các ca 
mổ cấp cứu. Trường hợp không thu nhận được 
mẫu gửi giải phẫu bệnh. 
Cỡ mẫu 
Mẫu toàn bộ và liên tục từ 01/01/2018 đến 
10/05/2018. 
Địa điểm 
Khoa Phụ, Khoa Nội Soi, khoa Ung bướu 
phụ khoa- Bệnh viện Từ Dũ. 
Quy trình thực hiện nghiên cứu 
Bước 1 
Thu nhận tất cả bệnh nhân được nhập viện 
phẫu thuật u buồng trứng có siêu âm tại bệnh 
viện áp dụng mô hình ADNEX IOTA. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 209
Bước 2 
Giải thích cho bệnh nhân để có được sự 
đồng ý tham gia nghiên cứu và sau đó phỏng 
vấn bằng bảng câu hỏi, kết hợp thu thập hồ sơ 
bệnh án. 
Bước 3 
Các bệnh nhân sau phẫu thuật có kết quả 
giải phẫu bệnh là u thực thể buồng trứng được 
đưa vào nghiên cứu có đối chiếu với kết quả 
siêu âm. 
KẾT QUẢ 
Có 522 phụ nữ tham gia nghiên cứu với 
578 khối u, bao gồm 70 bệnh ung thư buồng 
trứng (13,4%) và 452 cá thể có u buồng trứng 
lành tính (86,6%). Có 56 bệnh nhân có u buồng 
trứng 2 bên trong nhóm nghiên cứu chiếm tỉ lệ 
10,7%. Tuổi trung bình của quần thể nghiên 
cứu là 38,7 ± 14,4, nhỏ tuổi nhất là 18 tuổi và 
lớn nhất là 84 tuổi. 
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Trong nhóm nghiên cứu, số u buồng trứng 
không có phần đặc chiếm 54,5%. U đặc chiếm tỉ 
lệ thấp nhất (6,9%) (Bảng 1). 
Trong nhóm ung thư buồng trứng nguyên 
phát, ung thư biểu mô chiếm tỉ lệ cao nhất 
(71,1%), tiếp theo đó là u ác tế bào mầm (15,8%), u 
ác mô đệm dây giới bào (9,2%), u di căn hỗn hợp 
ác tính (1,3%). Loại u có giải phẫu bệnh giáp biên 
ác gồm 24 u, chiếm tỉ lệ 31,6%. Có 1 bệnh nhân 
với u buồng trứng 2 bên do thứ phát từ đường 
tiêu hóa (Bảng 2). 
Bảng 1. Phân loại khối u buồng trứng trên siêu âm 
theo IOTA của mẫu nghiên cứu 
Đặc điểm Tần số (N= 578) Tỷ lệ (%) 
U đơn thùy 
U đơn thùy đặc 
U đa thùy 
U đa thùy đặc 
U đặc 
153 
130 
162 
93 
40 
26,5 
22,5 
28,0 
16,1 
6,9 
Bảng 2. Giải phẫu bệnh của nhóm u ác tính 
Loại u Tần số 
(N=76) 
Tỷ lệ 
(%) 
U biểu mô 54 71,1 
Carcinom tuyến dịch trong 2 2,6 
Carcinom tuyến dịch nhầy 10 13,2 
U bọc dịch trong giáp biên ác 9 11,8 
U bọc dịch nhầy giáp biên ác 11 14,5 
Carcinom tuyến dạng nội mạc tử cung 12 15,8 
Carcinom tế bào sáng 
U Brenner ác 
9 
1 
11,8 
1,3 
U tế bào mầm 12 15,8 
U nghịch mầm 
U túi noãn hoàng 
4 
3 
5,3 
3,9 
U quái không trưởng thành 5 6,6 
U mô đệm dây giới bào 7 9,2 
U tế bào hạt 2 2,6 
U sợi giàu tế bào 4 5,3 
U tế bào Sertoli-Leydig biệt hóa kém 
4.U hỗn hợp 
Tế bào trung mô và biểu mô ác tính 
5.U di căn từ nơi khác 
Tế bào nhẫn 
1 
1 
1 
2 
2 
1,3 
1,3 
1,3 
2,6 
2,6 
Tổng cộng 76 100 
Giá trị của mô hình IOTA ADNEX 
Bảng 3. Đặc điểm phân bố các yếu tố trong mô hình IOTA ADNEX theo giai đoạn phẫu thuật ung thư buồng trứng 
 Lành tính 
(N= 502) 
Giáp biên ác 
(N=24) 
Giai đoạn I 
(N= 37) 
Giai đoạn II-IV 
(N=17) 
Di căn thứ 
phát (N=2) 
Tuổi TV (TPV) 35 (27-46) 46 (37-62) 43 (27-53) 52 (48-67) 57 
CA 125 TV (TPV) 23,1 (13,8-49,4) 26,7 (13,5-105) 55 (32,9-108,4) 71,1 (25,9-277,2) 242 
Đường kính lớn nhất của 
khối u 
TV (TPV) 78,5 (62-100) 105 (65-157) 137 (94-167) 103 (80-137) 93,5 
Có hiện diện mô đặc Số lượng (%) 144 (28,7) 15 (37,5) 32 (86,5) 17 (100) 2 (100) 
Tỉ lệ mô đặc (nếu có) TV (TPV) 0,39 (0,26-0,68) 0,51 (0,37-1) 0,45 (0,26-0,77) 0,61(0,47-0,83) 1 (1) 
Có nhiều hơn 10 thùy Số lượng (%) 50 (10) 14 (58,3) 19 (51,4) 5 (29,4) 0 (0) 
Số nhú: 0 
 1 
 2 
 3 
 >3 
Số lượng (%) 470 (93,6) 
12 (2,4) 
13 (2,6) 
4 (0,8) 
3 (0,6) 
17 (70,8) 
1 (4,2) 
1 (4,2) 
1 (4,2) 
4 (16,7) 
14 (37,8) 
7 (18,9) 
0 (0) 
1 (2,7) 
15 (40,5) 
6 (35,3) 
6 (35,3) 
0 (0) 
0 (0) 
5 (29,4) 
2 (100) 
0 
0 
0 
0 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 210
 Lành tính 
(N= 502) 
Giáp biên ác 
(N=24) 
Giai đoạn I 
(N= 37) 
Giai đoạn II-IV 
(N=17) 
Di căn thứ 
phát (N=2) 
Có bóng lưng Số lượng (%) 150 (29,9) 1 (4,2) 5 (13,5) 0 (100) 0 (100) 
Có dịch ổ bụng Số lượng (%) 8 (1,6) 3 (12,5) 7 (18,9) (35,3) 0 (100) 
TV: Trung vị - TPV: Tứ phân vị 
Bảng 4. Giá trị của mô hình ADNEX có CA 125 tại 
ngưỡng cắt 10% 
ADNEX có CA 125 Ác Lành Tổng 
XN (+) ≥10% 72 (56,7) 55 (43,3) 127 
XN (-) <10% 4 (0,89) 447 (99,1) 451 
Tổng 76 502 578 
Khả năng dự đoán đúng: 89,8% (KTC 95%: 
87,3-92,3%). 
Độ nhạy: 94,7% (KTC 95%: 89,7 - 99,8%). 
Độ đặc hiệu: 89,4% (KTC 95%: 86,8 - 92,1%). 
Giá trị tiên đoán dương: 57,0% (KTC 95%: 
48,2 - 65,7%). 
Giá trị tiên đoán âm: 99,1% (KTC 95%: 
98,2-100%). 
Bảng 5. Giá trị của mô hình ADNEX không có 
CA125 tại ngưỡng cắt 10% 
ADNEX không có CA125 Ác Lành Tổng 
XN (+) ≥10% 70 (56,9) 53 (43,1) 123 
XN (-) <10% 6 (1,3) 449 (98,7) 455 
Tổng 76 502 578 
Khả năng dự đoán đúng: 89,8% (KTC 95%: 
87,3-92,3%). 
Độ nhạy: 92,1% (KTC 95%: 86,0-98,2%). 
Độ đặc hiệu: 89,0% (KTC 95%: 86,3-91,8%). 
Giá trị tiên đoán dương: 56,7% (KTC 95%: 
48,1-65,3%). 
Giá trị tiên đoán âm: 98,7% (KTC 95%: 97,6-99,7%). 
Bảng 6. Diện tích dưới đường cong ROC của mô 
hình ADNEX có CA 125 và mô hình ADNEX không 
có CA 125 
Mô hình ADNEX 
Diện tích dưới 
đường cong 
ROC 
KTC 95% P 
Có CA 125 0,965 0,948 – 0,982 <0,001 
Không có CA 
125 
0,961 0,943 – 0,978 
<0,001 
Kết quả kiểm định Hanlay –McNeil: Không 
có sự khác biệt AUC giữa hai mô hình ADNEX 
và ADNEX không có CA125 với Z = 0,4 và 
p=0,34. 
Giá trị chẩn đoán ung thư buồng trứng của 
hai mô hình là tương đương nhau. 
Hai mô hình này có giá trị tương đồng trong 
chẩn đoán ung thư buồng trứng lành ác với diện 
tích dưới đường cong ROC của 2 mô hình như 
nhau (p=0,34). 
Ở ngưỡng cắt khuyến cáo của nghiên cứu 
IOTA ADNEX (10%), khả năng chẩn đoán đúng 
của cả 2 mô hình là 89,8%. 
Biểu đồ 1. So sánh diện tích dưới đường cong ROC 
của mô hình ADNEX có sử dụng yếu tố CA125 và 
không có sử dụng yếu tố CA 125. 
BÀN LUẬN 
Về điểm cắt 10% 
Ngưỡng cắt 10% là ngưỡng cắt được kiểm 
nghiệm ở trung tâm trong nhóm IOTA và ngoài 
nhóm IOTA, thực hiện bởi người siêu âm ở 
những trình độ khác nhau vẫn cho kết quả đáng 
tin cậy(4). Vì thế, chúng tôi khảo sát giá trị của mô 
hình IOTA ADNEX khi thực hiện tại bệnh viện 
Từ Dũ với ngưỡng cắt 10%. 
Bảng 7 cho thấy, so với ngưỡng cắt do IOTA 
đề nghị, ngưỡng cắt tối ưu trong nghiên cứu của 
chúng tôi không khác biệt, đây là cơ sở cho việc 
đề xuất chọn ngưỡng cắt này trong thực hành, 
nhằm đáp ứng được nhu cầu chẩn đoán ung thư 
trước phẫu thuật trong một đơn vị y tế chuyên 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 211
khoa phụ sản nhưng cũng có chuyên khoa ung 
thư như bệnh viện Từ Dũ(4). 
Bảng 7. Giá trị của mô hình siêu âm ADNEX tại 
ngưỡng cắt tối ưu 
 ADNEX có CA 
125 
ADNEX không có 
CA 125 
Diện tích dưới đường 
cong (KTC 95%) 
0,965 
(0,948 – 0,982) 
0,961 
(0,943 – 0,978) 
Điểm cắt tối ưu 10,4% 8,85% 
Độ nhạy 94,7% 94,7% 
Độ đặc hiệu 89,2% 88,6% 
Hệ số Youden 0,839 0,833 
Likelihood ratio (+) 8,77 8,31 
Nhóm IOTA cũng không đề xuất một cách 
chung thuật toán áp dụng với các ngưỡng cắt cố 
định, vì nhóm cho rằng, mô hình sẽ được sử 
dụng trong hoàn cảnh lâm sàng nào là rất quan 
trọng(3,4). 
Diện tích dưới đường cong ROC 
Chúng tôi ghi nhận diện tích dưới đường 
cong ROC của mô hình ADNEX có và không có 
CA 125 là 0,965 và 0,961 cho thấy cả 2 mô hình 
này đều có giá trị cao. 
Giá trị chẩn đoán của siêu âm IOTA ADNEX có 
CA 125 và không có CA 125 
Khi so sánh giá trị của mô hình ADNEX có 
CA 125 và không có CA125 nhận thấy không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p= 0,691) mặc 
dù độ nhạy của mô hình có CA 125 có cao hơn 
mô hình không có CA 125. Trong nhóm nghiên 
cứu của chúng tôi, mô hình ADNEX có CA 125 
bỏ sót 4 trường hợp ác tính, mô hình ADNEX 
không có CA125 bỏ sót 5 trường hợp ác tính. 
Nếu chúng ta càng ít bỏ sót trường hợp ác tính, 
bệnh nhân càng có lợi và về mặt lâm sàng, vì vậy 
mô hình CA125 có lợi hơn. Thực tế lâm sàng tại 
bệnh viện Từ Dũ, tất cả các bệnh nhân đều được 
thực hiện xét nghiệm CA125 huyết thanh. Tuy 
vậy, nhóm IOTA cũng khuyến cáo, nếu không 
có sẵn xét nghiệm CA125, có thể thực hiện 2 
bước: (1) dùng mô hình ADNEX để đưa các 
bệnh nhân có nguy cơ ung thư ở ngưỡng mong 
đợi, thường là 10%, (2) làm thêm xét nghiệm 
CA125, nhằm phân định rõ nguy cơ ung thư 
theo các nhóm giai đoạn để có kế hoạch can 
thiệp tùy năng lực của cơ sở y tế. 
Nghiên cứu của Van Calster và cộng sự(5) cho 
thấy: Việc thiếu giá trị của CA125 ít có tác động 
về việc phân biệt giữa các khối u lành tính và ác 
tính: diện tích dưới đường cong khi có CA125 là 
0,943 và là 0,932 khi CA125 không được đưa vào 
mô hình như một yếu tố dự đoán. Mức chênh 
lệch diện tích dưới đường cong ROC ở mô hình 
có và không có CA125 rất thấp. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, sự khác biệt này là không có ý 
nghĩa, tương tự như các nghiên cứu của Van 
Calster, A Sayasneh. 
Mặc dù mô hình ADNEX tiên lượng nguy 
cơ ung thư buồng trứng dựa trên các yếu tố 
bao gồm cả mức CA 125 trong huyết thanh, 
nhưng các ứng dụng trực tuyến và điện thoại 
di động cho phép tính toán rủi ro mà không có 
thông tin này. Khi đó, chương trình đưa ra 
cảnh báo: “Tính toán kết quả không có mức 
CA125 huyết thanh? Điều này tùy chọn nhưng 
sẽ làm giảm sự phân biệt giữa các khối u giai 
đoạn II-IV và các phân nhóm ác tính khác”. 
Theo nhóm IOTA, xét nghiệm CA125 huyết 
thanh không phải lúc nào cũng sẵn có tại bệnh 
viện. Thực tế trong nghiên cứu của nhóm IOTA, 
trong giai đoạn xác thực của nghiên cứu IOTA 
ADNEX, có 31% số ca không có xét nghiệm này. 
Vì vậy, nếu thiếu dữ liệu của CA125, trước tiên 
hãy áp dụng mô hình ADNEX không có CA125 
huyết thanh và sử dụng những dự đoán nguy cơ 
này để phân biệt các khối u ở 2 mức: lành tính và 
ác tính. Sau đó, nếu nguy cơ mắc bệnh ác tính 
cao, CA-125 có thể được đưa vào để cập nhật các 
dự đoán nguy cơ của u giáp biên, ung thư giai 
đoạn I, giai đoạn II-IV và ung thư di căn thứ 
phát(5,6). Bằng cách này, việc đo nồng độ CA-125 
trong huyết thanh có thể chỉ giới hạn ở những 
bệnh nhân có nguy cơ ung thư buồng trứng. 
Phân tích những trường hợp âm tính giả 
Có 4 trường hợp u giáp biên bị bỏ sót trước 
phẫu thuật theo ngưỡng cắt 10% của mô hình 
ADNEX, trong đó có 3 u bọc dịch trong và 1 u 
bọc dịch nhầy. Không có u nào là u đa thùy đặc 
hay u đặc. Cả 4 u đều không có chồi và không có 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 212
phần đặc trong u. Trong đó, có 3 u có nhiều hơn 
10 thùy. Nguy cơ ác tính của các u này từ 2,6-
6,1%. Khi sử dụng mô hình không có CA 125, có 
6 u bị bỏ sót, trong đó có 1 u đặc theo siêu âm. 
Tất cả các u này đều là u giáp biên ác. 
Phân biệt u giáp biên từ các khối u lành 
tính hoặc ung thư giai đoạn I có thể là một 
thách thức đối với các nhà giải phẫu bệnh, sự 
không đồng thuận trong đánh giá kết quả giải 
phẫu bệnh có thể cho kết quả chẩn đoán không 
chính xác cho mô hình ADNEX trong những 
trường hợp này(6). Nghiên cứu của Wouter 
Froyman thực hiện loại các u giáp biên ác ra 
khỏi phân tích. Tác giả nhận định: có khó khăn 
trong phân loại u giáp biên thành lành tính 
hay ác tính, mặt khác, các khối u buồng trứng 
giáp biên hiếm khi đứng trước nguy cơ ung 
thư biểu mô buồng trứng xâm lấn. Trong 
nghiên cứu của Sayasneh A(3) ông giải thích là 
giải phẫu bệnh được đọc tại các trung tâm ung 
thư. Nếu có sự sai khác biệt, mẫu được kiểm 
chứng tại một trung tâm của trường đại học. 
Phân tích những trường hợp dương tính giả 
Dương tính giả của mô hình ADNEX trong 
nghiên cứu của chúng tôi gặp ở nhiều loại u như 
bọc dịch trong, bọc dịch nhầy, u bì, u quái 
trưởng thành, u quái giáp, u sợi lành, u vỏ bào 
lành, lạc nội mạc tử cung buồng trứng và gặp 
trong cả 5 phân loại của IOTA. Mô hình có 
CA125 có nhiều hơn 5 ca dương tính giả so với 
mô hình không có CA125. Có 3/55 trường hợp 
dương tính giả có nhiều hơn 3 chồi trong u. 81% 
các u bị chẩn đoán nhầm ác tính ở ngưỡng cắt 
10% có phần đặc trong u. 43/55 ca không có bóng 
lưng và 3 ca có dịch ổ bụng. Đây là các yếu tố 
làm dự đoán nguy cơ không lành tính cao lên. 
Mục đích của sàng lọc ung thư buồng trứng 
là làm giảm tử vong do ung thư buồng trứng. Để 
thực hiện điều này, việc sàng lọc cần phát hiện 
ung thư ở giai đoạn sớm, tức là tỷ lệ phát hiện 
ung thư buồng trứng giai đoạn I-II nên cao. Tuy 
nhiên, sự thay đổi chiến lược trong phát hiện 
sớm ung thư buồng trứng chỉ được thể hiện ở 
hai trong số ba thử nghiệm ngẫu nhiên có đối 
chứng về sàng lọc ung thư buồng trứng, và 
không có nghiên cứu nào cho thấy có bằng 
chứng về việc làm giảm tử vong do ung thư 
buồng trứng trong nhóm được sàng lọc. Trong 
hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đã hoàn 
thành về sàng lọc ung thư buồng trứng, siêu âm 
theo đánh giá chủ quan của người đọc. Kết quả 
là, nhiều bệnh nhân bị bệnh lành tính được lên 
kế hoạch phẫu thuật, tức là, một số lượng lớn các 
ca phẫu thuật đã được thực hiện để phát hiện 
một ca ung thư. Wouter Froyman(1) dự đoán 
rằng giá trị tiên đoán dương của tầm soát có thể 
được cải thiện nếu các phương pháp IOTA được 
sử dụng để xác định kết quả tầm soát bất 
thường. Cho đến nay, mô hình IOTA chưa được 
thực hiện trong việc sàng lọc ung thư buồng 
trứng trong dân số. 
Phân tích trên nhóm có u buồng trứng 2 bên có 
đặc tính lành ác khác nhau 
Mô hình siêu âm ADNEX có các yếu tố như 
tuổi, trung tâm ung thư hay không, CA125, dịch 
ổ bụng sẽ giống nhau khi phân tích 2 u buồng 
trứng trên cùng 1 bệnh nhân. Trên 4 bệnh nhân 
có u hai bên có đặc tính lành ác khác nhau, chỉ có 
1 trường hợp dương tính giả cho u lành tính. Các 
trường hợp còn lại đều cho dự đoán tỉ lệ ung thư 
phù hợp tại ngưỡng cắt 10%. 
Các tác động lên quyết định lâm sàng của 
mô hình ADNEX cũng giống với bất kỳ các xét 
nghiệm khác: không áp dụng một quy tắc cố 
định duy nhất để đưa ra một kết luận cho mọi 
bệnh nhân. Các mô hình rủi ro nhằm cung cấp 
các ước tính nguy cơ chính xác cho từng bệnh 
nhân. Các ước tính này được sử dụng như thế 
nào, thảo luận với bệnh nhân hoặc đưa ra quyết 
định phụ thuộc vào nhiếu yếu tố khác, như 
mong muốn của bệnh nhân, tuổi, bệnh lý đi 
kèm, các quy định y tế của mỗi địa phương. 
Về phương pháp nghiên cứu 
Một hạn chế của nghiên cứu của chúng tôi là 
các phương pháp chẩn đoán đã được xác nhận 
trên những bệnh nhân trải qua phẫu thuật. Giới 
hạn thứ hai là chúng tôi không đọc đối chứng 
giữa các bác sĩ siêu âm. Các bác sĩ đọc siêu âm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 213
theo mô hình ADNEX trong nghiên cứu đều có 
trên 10 năm kinh nghiệm và được xác nhận qua 
việc cho phép thực hiện tại khoa sau huấn luyện. 
Theo nghiên cứu của nhóm IOTA về mô hình 
ADNEX, mô hình này vẫn giữ nguyên giá trị khi 
ứng dụng ra ngoài nhóm(5). Một nghiên cứu khác 
về ứng dụng mô hình ADNEX trên nhóm bác sĩ 
siêu âm và cả bác sĩ phụ khoa trải qua đào tạo 
huấn luyện cũng cho thấy mô hình giữ nguyên 
được giá trị(3). 
KẾT LUẬN 
Qua phân tích 522 bệnh nhân với 578 khối u 
buồng trứng được phẫu thuật từ 3/01/2018 đến 
10/05/2018 tại bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi ghi 
nhận kết quả như sau: 
Ở ngưỡng cắt 10%, dùng giải phẫu bệnh là 
tiêu chuẩn vàng để xác nhận đặc tính lành ác của 
khối u, mô hình IOTA ADNEX có: 
Khả năng dự đoán đúng: 89,8% (KTC 95%: 
87,3-92,3%). 
Độ nhạy: 94,7% (KTC 95%: 89,7 - 99,8%). 
Độ đặc hiệu: 89,4% (KTC 95%: 86,8 - 92,1%). 
Diện tích dưới đường cong ROC: 0,965 (KTC 
95%: 0,948 – 0,982). 
Mô hình siêu âm IOTA ADNEX có CA125 và 
mô hình siêu âm IOTA ADNEX không có CA125 
có giá trị tương đồng trong chẩn đoán ung thư 
buồng trứng lành ác với diện tích dưới đường 
cong ROC của 2 mô hình như nhau (p=0,34). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Froyman W, Wynants L, Landolfo C et al (2017). "Validation 
of the Performance of International Ovarian Tumor Analysis 
(IOTA) Methods in the Diagnosis of Early Stage Ovarian Cancer 
in a Non-Screening Population". Diagnostics, 7: 32. 
2. Meys EMJ, Jeelof LS, Achten NMJ et al (2017). "Estimating risk 
of malignancy in adnexal masses: external validation of the 
ADNEX model and comparison with other frequently used 
ultrasound methods”. Ultrasound Obstet Gynecol. Medscape, 49(6): 
784-792 
3. Sayasneh A, Ferrara L, De Cock B, Saso S, Al-Memar M, et al. 
(2016), "Evaluating the risk of ovarian cancer before surgery 
using the ADNEX model: a multicentre external validation 
study". Br J Cancer, 115(5): 542-8. 
4. Tô Thị Thục Trang (2014). Giá trị của HE4 trong chẩn đoán ung 
thư biểu mô buồng trứng tại bệnh viện Từ Dũ, Đại học Y Dược. 
Luận văn chuyên khoa 2, Đại học Y Dược, tr 57 
5. Van Calster B, Van Hoorde K, Valentin L, Testa AC, Fischerova 
D et al (2014). "Evaluating the risk of ovarian cancer before 
surgery using the ADNEX model to differentiate between 
benign, borderline, early and advanced stage invasive, and 
secondary metastatic tumours: prospective multicentre 
diagnostic study". BMJ: British Medical Journal, pp.349. 
6. Van Gorp T, Cadron I, Despierre E, Daemen A, Leunen K et al. 
(2011). "HE4 and CA125 as a diagnostic test in ovarian cancer: 
prospective validation of the Risk of Ovarian Malignancy 
Algorithm". Br J Cancer, 104 (5): 863-70. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019