Tài liệu Dùng xét nghiệm CEA: Để nhận biết nguy cơ tái phát sớm ung thư sau mổ ung thư phổi nguyên phát: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
DÙNG XÉT NGHIỆM CEA: ĐỂ NHẬN BIẾT NGUY CƠ TÁI PHÁT SỚM 
UNG THƯ SAU MỔ UNG THƯ PHỔI NGUYÊN PHÁT 
Lê Sỹ Sâm*, Đỗ Kim Quế* 
TÓM TẮT 
CEA là xét nghiệm hoá mô miễn dịch đưỡc dùng để xác định ung thư. Mục đích của nghiên cứu này 
nhằm đánh giá vai trò của xét nghiệm CEA trong theo dõisự tái phát ung thư phổi. 36 bệnh nhân ung thư phổi 
được làm xét nghiệm CEA trước mổ và theo dõi mỗi tháng sau mổ. 10 trường hợp có CEA bình thường trước 
mổ, 26 trường hợp có CEA > 5 ng/ml trước mổ, nhưng sau mổ giảm nhanh. Giá trị CEA không liên quan tới 
kích thước khối u. Sự gia tăng trở lại của CEA gợi ý ung thư tái phát. CEA trước mổ > 10 ng/ml là một yếu tố dự 
đoán nguy cơ tái phát cao. 
SUMMARY 
USAGE CEA AS A TUMOR MARKER TO REVEAL EARLY RECURRENCE OF 
POSTOPERATIVE BRONCHOGENIC CARCINOMA 
Le Sy Sam, ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 622 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Dùng xét nghiệm CEA: Để nhận biết nguy cơ tái phát sớm ung thư sau mổ ung thư phổi nguyên phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
DÙNG XÉT NGHIỆM CEA: ĐỂ NHẬN BIẾT NGUY CƠ TÁI PHÁT SỚM 
UNG THƯ SAU MỔ UNG THƯ PHỔI NGUYÊN PHÁT 
Lê Sỹ Sâm*, Đỗ Kim Quế* 
TÓM TẮT 
CEA là xét nghiệm hoá mô miễn dịch đưỡc dùng để xác định ung thư. Mục đích của nghiên cứu này 
nhằm đánh giá vai trò của xét nghiệm CEA trong theo dõisự tái phát ung thư phổi. 36 bệnh nhân ung thư phổi 
được làm xét nghiệm CEA trước mổ và theo dõi mỗi tháng sau mổ. 10 trường hợp có CEA bình thường trước 
mổ, 26 trường hợp có CEA > 5 ng/ml trước mổ, nhưng sau mổ giảm nhanh. Giá trị CEA không liên quan tới 
kích thước khối u. Sự gia tăng trở lại của CEA gợi ý ung thư tái phát. CEA trước mổ > 10 ng/ml là một yếu tố dự 
đoán nguy cơ tái phát cao. 
SUMMARY 
USAGE CEA AS A TUMOR MARKER TO REVEAL EARLY RECURRENCE OF 
POSTOPERATIVE BRONCHOGENIC CARCINOMA 
Le Sy Sam, Do Kim Que * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 87 – 92 
CEA is one of tumormaker for diagnosing some cancer. The aims of this study to determine the 
valuation of CEA in follow-up the patients who have lung cancer. 36 patient with lung cancer were access 
CEA before and every month after operation. 10 of them have normal CEA before operation, 26 cases 
have CEA > 5ng/ml, but it was drop down after resect the tumors. The level of CEA is not associate with 
the size of tumor. The re-increasing of CEA after operation point out the recurrent of cancer. CEA > 10 
ng/mL bobore operation is predictable of high risk recurrence. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
CEA là một hóa mô miễn dịch được dùng để 
nhận biết ung thư, đặc biệt trong ung thư phổi người 
ta đã chấp nhận như là một xét nghiệm trước mổ 
thường qui. Chúng tôi nhận thấy giá trị không hằng 
định của nó trong việc tầm soát ung thư, do có nhiều 
thay đổi về tính đặc hiệu so với từng loại ưng thư. Tuy 
nhiên, trên những bệnh nhân được mổ cắt thùy hoặc 
cắt toàn bộ phổi thấy có giảm nồng độ CEA đáng kể 
sau mổ, hơn thế nữa qua nghiên cứu chúng tôi nhận 
thấy có mối liên quan giữa sự gia tăng nồng độ CEA 
sau mổ với nguy cơ tái phát hoặc di căn trên những 
bệnh nhân đã được điều trị. 
Trong hai năm 2003 -2004 chúng tôi đã phẫu 
thuật cắt thùy phổi, cắt phổi cho những bệnh nhân 
ung thư phổi, đã theo dõi sau mổ khá sát và có một số 
được điều trị hóa trị bổ trợ. Nghiên cứu này nhằm: 
Xác định mối liên quan của nồng độ CEA trong máu 
sau mổ với khả năng tiên đoán sớm nguy cơ tái phát 
ung thư trên những bệnh nhân ung thư phổi. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Xác định giá trị của định lượng CEA sau mổ theo 
dõi nguy cơ tái phát sớm ung thư phổi nguyên phát. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm tất cả những bệnh nhân ung thư phổi 
nguyên phát (loại những bệnh nhân là Small cell 
carcinoma), nhập viện điều trị: 
Được mổ cắt thùy phổi, cắt phổi hoặc sinh thiết 
với GPBL là ung thư phổi nguyên phát loại không 
phải tế bào nhỏ. 
* Khoa Ngoại - Bệnh viện Thống nhất TP. Hồ Chí Minh.
 87
Được làm xét nghiệm CEA trước mổ và làm lại 
hàng tháng để theo dõi sau mổ. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nồng độ CEA được theo dõi trước và sau mổ 
trong suốt thời giai theo dõi bệnh nhân. 
Đánh giá giai đoạn ung thư trước mổ và sau mổ. 
Đánh giá khả năng tái phát ung thư bằng X 
quang, CT scan và nhất là làm xạ hình xương. 
Số liệu thông kê được xử lý bằng phần mềm 
SPSS 11.0, excel 2000... 
Thiết kế nghiên cứu 
Dương tính thật: TP (true positive), khi nồng độ 
CEA tăng dần sau mổ và có u tái phát. 
Dương tính giả: FP (false positive), khi nồng độ 
CEA tăng dần sau mổ, không u tái phát. 
Âm tính thật: TN (true negative), N/độ CEA 
không tăng và không có u tái phát, di căn. 
Âm tính giả: FN (false negative), N/độ CEA 
không tăng nhưng có u tái phát, di căn. 
Xác định không có di căn trước mổ qua tầm soát 
bằng siêu âm, CT scan gan, thượng thận, não...hoặc 
vị trí nghi ngờ khác. Xác định có ung thư tái phát 
hoặc có di căn sau mổ ngoài những xét nghiệm trên 
chúng tôi còn dùng Xạ hình xương là tiêu chuẩn 
chính xác nhất. 
KẾT QUẢ 
Trong hai năm 10/2003 – 8/2004, chúng tôi 
nhận điều trị 107 bệnh nhân ung thư phổi kể cả 
ung thư phổi loại tế bào nhỏ (Small cell 
carcinoma), tất cả đều làm xét nghiệm CEA trước 
mổ, có những trị số nồng độ CEA rất cao một cách 
bất thường. Sau khi dùng công thức loại giá trị bất 
thường ở độ tin cậy 95% (OL = X ± 3*SD), kết quả 
có 38 bệnh nhân phù hợp với mẫu nghiên cứu và 
tính được khoảng trung bình nồng độ CEA là 13,79 
± 3,79 (ng/ml) và độ lệch chuẩn 18,47 ng/ml. 
Đặc điểm lâm sàng nhóm nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng nhóm nghiên cứu: 
Đặc điểm bệnh Kết quả 
Giới (nam/nữ) 29 / 9 
Tuổi (Độ rộng / trung bình ở 95%) 43 – 79 / (65,5 ± 2,8)
Nồng độ CEA ( 5 / > 10 ng/ml) 14 / 7 / 17 
Loại tế bào K (A / Sq / L) 33 / 2 / 3 
Loại phẫu thuật (Cắt 1 thùy / 2 thùy / 
cắt Phổi / Sinh thiết) 
24 / 2 / 2 / 10 
Giai đoạn K (/IIA / IIB / IIIA / IIIB / 
IV)* 
4 / 1 / 19 / 13 / 1 
Yếu tố T (T1 / T2 / T3 / T4) 10 / 21 / 7 
Yếu tố N (N0 / N1 / N2 / N3) 2 / 10 / 22 / 4 
Yếu tố M (M0 / M1) 37 / 1 
U tái phát sau mổ (tại chỗù / di căn xa) 5 / 5 
Kích thước U (Độ rộng / trung bình ở 
KTC 95%), (mm) 
20 – 80 / (51 ± 8,3)
Thời gian theo dõi sau mổ 4 tháng – 5 năm 
Tình trạng (Còn sống/ Tử vong) 28 / 10 
A = adenocarcinoma; L = large cell carcinoma; Sq = 
squamous cell carcinoma; CEA = carcinoembryonic 
antigen; (*) Giai đoạn K theo giải phẫu bênh sau mổ. 
Nồng độ CEA nhóm nghiên cứu 
Nồng độ CEA có lẻ không đặc hiệu lắm trong việc 
chẩn đoán có bệnh ung thư, vì nhóm bệnh ung thư 
có CEA thấp dưới ngưỡng trong nghiên cứu này là 
cao (36,84%) (bảng 1 - 2) 
Bảng số 2: Nồng độ CEA trước và sau mổ 
Trung bình (KTC 95%) 
Số
BN Trước mổ Sau mổ 
t-test 
ts – t0,05
Giá trị
p = 
Sinh
thiết
3 
2,36 ± 2,28 
0,92 
3,69 ± 3,84 
0,89 
0,13 < 
2,01 
0,155CEA 
< 5 
ng/nl Mổ 
cắt
7 
3,16 ± 0,95 
1,07 
2,39 ± 0,64 
0,75 
1,92 < 
1,94 
0,051
Sinh
thiết
8 
39,23 ± 
27,68 
33,07 
58,74 ± 
4,40 
59,08 
1,98 > 
1,89 
0,043
CEA 
> 5 
ng/ml Mổ 
cắt 9 
17,01 ± 
10,64 
13,84 
8,78 ± 3,72 
4,84 
2,06 > 
1,85 0,036
G/đoạn ≤ IIIA
Mổ cắt 
7 
11,40 ± 
4,39 
4,75 
8,19 ± 4,75 
4,52 
2,04 > 
1,94 
0,044
G/đoạn IIIB, 
IV 
Sinh thiết 
8 
39,01 ± 
27,75 
33,19 
58,58 ± 
49,51 
59,22 
1,99 > 
1,89 0,042
t-Test: Paired Two Sample for Means 
Kiểm định t-test cho mẫu ghép đôi cho thấy có 
 88 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
sự giảm nồng độ CEA trong máu khi cắt bỏ được khối 
ung thư và không đổi hoặc tăng lên khi không cắt bỏ 
được khối ung thư. 
Nồng độ CEA và phương pháp phẫu thuật 
Bảng 4: Liên quan giữa nồng độ CEA trước mổ và 
sau mổ (cắt bỏ U): 
Trung bình (KTC 95%) Số BN Trước mổ Sau mổ 
t-test 
ts – t 0,05
Giá trị
p = 
Sinh thiết 11 
29,02 ± 
21,92 
32,63 
43,34 ± 
37,63 
56,61 
1,91 > 
1,81 
0,042
Cắt U 13 
7,08 ± 3,25 
5,83 
5,81 ± 2,78 
4,60 
2,04 > 
1,78 
0,031
t-Test: Paired Two Sample for Means 
Chúng tôi nhận thấy có sự thay đổi nồng độ CEA 
trong máu người bệnh khi cắt được “U”. 
Trong nhóm chỉ sinh thiết mà không cắt được 
“U”. Kiểm định t-test cho mẫu sóng đôi (n = 11) 
thấy sự gia tăng nồng độ CEA trong máu khi u không 
được cắt bỏ có ý nghĩa thống kê với p = 0,042. 
 Trong khi đó, bệnh nhân mổ cắt bỏ được khối 
ung thư, nồng độ CEA trong máu đã giảm xuống rõ 
rệt. Kiểm định t-test với mẫu sóng đôi (n = 13) cho 
thấy sự giảm nồng độ CEA sau khi mổ cắt được khối 
ung thư có ý nghĩa thống kê với p = 0,031. 
Nồng độ CEA và kích thước khối ung 
thư 
Bảng 5: Liên quan giữa kích thước khối U và nồng độ 
CEA trong máu, trước mổ: 
Kích thước U 
 SốBN Trung bình 
(95%) 
Độ lệch 
chuẩn 
ts – t 0,05 
p = 
CEA < 5 
ng/ml 
7 54,28 ± 13,98 15,11 
CEA > 5 
ng/ml 9 53,33 ± 16,30 21,21 
0,104 < 
1,75 
p = 0,46 
t-Test: Two-Sample Assuming Unequal Variances 
Để tìm mối liên quan giữa kích thước khối ung 
thư với nồng độ CEA trước mổ trong hai nhóm có 
nồng độ CEA thấp 5 
ng/mL. kiểm định t-test trung bình cho hai mẫu khác 
phương sai, thấy sự khác nhau về kích thước khối ung 
thư theo nồng độ CEA là chưa có ý nghĩa thống kê với 
p = 0,46. 
Kiểm định cho thấy “Kích thước khối ung thư 
không liên quan lắm đến nồng độ CEA trong máu 
người bệnh ung thư. 
Vai trò của CEA theo dõi tái phát U 
Bảng 6: Độ nhạy, độ chuyên, độ chính xác, khả năng 
tiên đoán dương: 
 TP TN FP FN N = SE SP AC PPV NPV
CEA (<5 
ng/ml) 
2 5 3 0 10 100 62,5 70 40 100
CEA (>5 
ng/ml) 
2 3 1 0 6 100 75 83,3 66,7 100
CEA 
(>10ng/ml) 
4 3 3 3 13 57 50 53,8 57 50 
CEA + S/ 
THIẾT 
4 2 5 2 13 66,7 40 46 44,4 50 
CEA + CẮT U 2 11 1 0 14 100 91,6 92,8 66,7 100
CEA (IIA-IIIA) 3 11 2 1 17 75 84,6 82,3 60 91,6
CEA (IIIB,IV) 4 3 3 1 11 80 50 63,6 57,1 75 
TN = true negative; TP = true positive FN = false 
negative; FP = false positive; SE = Độ nhạy 
(sensitivity); SP = Độ chuyên (specificity); AC = Độ 
chuẩn xác (accuracy); PPV = Giá trị tiên đoán dương 
(positive predictive value); NPV = Giá trị tiên đoán âm 
(negative predictive value); CI = Độ tin cậy (confidence 
interval) 
Chúng tôi nghiên cứu CEA > 10 ng/mL nhận 
thấy mức tăng lên của nồng độ CEA sau mổ và có 
ung thư tái phát có độ nhạy 57% không cao nhưng 13 
trường hợp thì có 7/13 trường hợp tái phát hay di căn, 
giống các y văn trên thế giới (11). 
Những bệnh nhân sau mổ, có nồng độ CEA bình 
thường so với nhóm có nồng độ CEA cao, có tỷ lệ 
sống còn sau mổ cao hơn. So sánh hai nhóm (n = 
10, n = 13), tỷ lệ sống 5 năm là 80% so sánh với 13% 
ở nhóm chứng (11). 
BÀN LUẬN 
Về đặc điểm lâm sàng nhóm nghiên cứu 
Tỷ lệ giữa ung thư phổi không phải tế bào nhỏ 
loại Adenocarcinoma so với các loại tế bào khác là 
33/38 chiếm tỷ lệ 86,84%. Sự tăng lên của ung thư 
phổi loại tế bào Adenocarcinoma đã được ghi nhận 
trong các y văn trong nước trước đây(1,2,3,4,5). 
 89
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ chú ý phân 
tích nồng độ CEA đối với nhóm ung thư phổi loại 
Adenocarcinoma. Theo y văn thế giới cũng như trong 
nước, marker CEA chỉ có ý nghĩa đặc hiệu đối với ung 
thư loại tế bào tuyến, nhất là ung thư đường tiêu hoá(6). 
Ngưỡng nồng độ CEA được cho là bình thường 
hiện nay trên thế giới là < 5 ng/ml (tuỳ thuộc 
phương pháp xét nghiệm). Tuy nhiên, Kết quả nhóm 
nghiên cứu của chúng tôi, thấy ở bệnh nhân ung thư 
có nồng độ CEA < 5 ng/ml chiếm 36,84%. Theo 
Noriyoshi S. trong 297 bệnh nhân ung thư phổi giai 
đoạn I với nồng độ CEA < 7 ng/mL có 241/297 = 
81%, trong khi nhóm có nồng độ CEA cao > 7 
ng/mL chỉ 19%(10). 
Có 73,68% (28/38) bệnh nhân phẫu thuật cắt 
được “U” (giai đoạn ≤ IIIA). Kết quả giải phẫu bệnh lý 
(GPBL) sau mổ có khoảng 63% nằm giai đoạn phẫu 
thuật cắt được “U”. (Chúng tôi gọi cắt được “U” khi 
bệnh nhân được mổ và cắt đựoc một thùy, hai thùy 
hoặc cắt một bên phổi có ung thư). 
Chiếm đa số U ở giai đoạn T3 (55,3%), giai đoạn 
N1 - N2 (84,2%). Kết quả nghiên cứu của Gianfranco 
Buccheri (7) trong 118 bệnh nhân ung thư phổi không 
phải tế bào nhỏ có T3 là 10,2% (12/118) và N1 – N2 là 
33,9% (40/118). 
U tái phát sau mổ nhanh nhất là 3 tháng, 10 
trường hợp, trong đó tái phát tại chỗ 5 trường hợp và 
di căn xa 5 trường hợp nhiều nhất là di căn xương 
phát hiện qua xạ hình xương. 
Về nồng độ CEA nhóm nghiên cứu 
Nồng độ CEA có lẽ không đặc hiệu lắm trong việc 
chẩn đoán có bệnh ung thư, vì nhóm bệnh ung thư 
có CEA thấp dưới ngưỡng (< 5 nbg/mL) trong 
nghiên cứu này là cao (36,84%), (bảng 1 - 2). 
Với nồng độ CEA < 5 ng/ml, nhóm bệnh sinh thiết 
u thấy nồng độ CEA không thay đổi trước và sau mổ ở p 
= 0,155 và khi cắt được U, nồng độ CEA có giảm trong 
máu người bệnh nhưng vẫn chưa có giá trị thống kê với 
t-test cho mẫu sóng đôi ở ngưỡng α = 0,05. Nghĩa là 
khi bệnh nhân ung thư có nồng độ CEA thấp dưới 
ngưỡng (< 5 ng/mL) thì sau mổ nồng độ CEA giảm 
xuống rất ít, cần phải tìm hiểu thêm về tính đặc hiệu 
của marker này đối với ung thư tế bào tuyến. 
Trong nhóm bệnh nhân có nồng độ CEA cao trên 
ngưỡng (> 5 ng/mL), nếu chỉ mổ cắt một phần hay 
mổ sinh thiết thì nồng độ CEA sau mổ vẫn cứ tăng 
lên với khoảng trung bình của nồng độ CEA từ 39 
ng/mL tăng lên 58 ng/mL kiểm định t-test một chiều 
cho thấy sự tăng nồng độ CEA có ý nghĩa tiên đoán 
bệnh đang tiến triển, với p = 0,043. 
Trong khi đó, ở những bệnh nhân nồng độ CEA 
cao trên ngưỡng nhưng khi đã cắt bỏ U, nồng độ CEA 
đã giảm xuống (ở độ tin cậy 95%), khoảng trung bình 
nồng độ CEA giảm từ 17,01 ng/mL xuống còn 8,78 
ng/mL. Kiểm định t-test một chiều cho mẫu sóng đôi 
thấy sự giảm xuống của nồng độ CEA khi cắt bỏ “U” 
có ý nghĩa thống kê, với p = 0,036. 
Với nhóm có ngưỡng CEA cao trên 5 ng/ml, khi 
bệnh nhân cắt bỏ được “U” (giai đoạn < IIIA) nồng 
độ CEA trong máu sau mổ cũng giảm có ý nghĩa 
thống kê, với p = 0,044, và ở nhóm bệnh nhân ung 
thư giai đoạn muộn IIIA, IV sau mổ cắt một phần 
hoặc chỉ sinh thiết nhận thấy nồng độ CEA vẫn tăng 
cao có ý nghĩa thống kê, với p = 0,042. 
Về nồng độ CEA và phương pháp phẫu 
thuật 
Chúng tôi nhận thấy có sự thay đổi nồng độ CEA 
trong máu người bệnh khi cắt được “U”. 
Trong nhóm những bệnh nhân ung thư chỉ sinh 
thiết mà không cắt được “U”, kết quả theo dõi sau khi 
sinh thiết thấy nồng độ trung bình của CEA tăng dần 
lên theo thời gian, khoảng trung bình nồng độ CEA 
tăng từ 29,02 ng/mL lên 43,34 ng/mL. Kiểm định t-
test cho mẫu sóng đôi (n = 11) thấy sự gia tăng nồng 
độ CEA trong máu khi u không được cắt bỏ, có ý 
nghĩa thống kê, với p = 0,042. 
Trong khi đó, những bệnh nhân mổ cắt bỏ được 
khối ung thư, nồng độ CEA trong máu đã giảm xuống 
rõ rệt, khoảng trung bình nồng độ CEA giảm từ 7,08 
ng/mL xuống còn 5,81 ng/mL. Kiểm định t-test với 
mẫu sóng đội (n = 13) cho thấy sự giảm nồng độ 
CEA sau khi mổ cắt được khối ung thư có ý nghĩa 
 90 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
thống kê, với p = 0,031. 
Nghiên cứu của Yukinori Sakao (9) trong 54 
bệnh nhân ung thư phổi Adenocarcinoma giai đoạn I, 
phẫu thuật cắt thùy phổi kết hợp nạo hạch trung thất, 
hạch rốn phổi, kết luận rằng: những bệnh nhâncó 
nồng độ CEA cao và loại tế bào tuyến kém biệt hóa 
thì có nguy cơ di căn hạch trung thất rất cao. 
Nghĩa là nồng độ CEA trong máu người bệnh ung 
thư phụ thuộc sự hiện diện của khối ung thư trong 
bệnh nhân. Nồng độ CEA tăng lên khi U vẫn còn 
trong bệnh nhân và giảm dần xuống khi khối ung thư 
được cắt bỏ. Tuy nhiên, nồng độ này có liên quan đến 
kích thước khối ung thư hay không? 
Về nồng độ CEA và kích thước khối 
ung thư 
Để tìm mối liên quan giữa kích thước khối ung 
thư với nồng độ CEA trước mổ trong hai nhóm có 
nồng độ CEA thấp < 5 ng/mL và nhóm có nồng độ 
CEA > 5 ng/mL, kích thước trung bình của khối ung 
thư lần lượt là (54,28 ± 13,98) mm và (53,33 ± 16,3) 
mm. kiểm định t-test trung bình cho hai mẫu khác 
phương sai, thấy sự khác nhau về kích thước khối ung 
thư theo nồng độ CEA là chưa có ý nghĩa thống kê, 
với p = 0,46. 
Kiểm định cho thấy “Kích thước khối ung thư 
không liên quan lắm đến nồng độ CEA trong máu 
người bệnh ung thư. Theo Ottavio Rena (8) trên 667 
bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn I được phẫu thuật 
thì tỷ lệ sống 5 năm với loại Adenocarcinoma là 67% 
và Squasmous là 51% và kích thước U < 30 mm là 
67% còn kích thước u > 30 mm là 40%. Tác giả kết 
luận rằng Những khối ung thư loại tế bào tuyến 
(Adenocarcinoma) có kích thước nhỏ dưới 30 mm sẽ 
có một dự hậu tốt hơn. 
Vai trò của CEA theo dõi tái phát U 
Nhóm bệnh nhân có nồng độ CEA thấp (< 5 
ng/mL), sau mổ nồng độ này giảm chưa có ý nghĩa 
thống kê với p = 0,051. tuy nhiên khi nồng độ này 
tăng lên sau mổ báo hiệu có U tái phát với độ nhạy 
100%. Độ chuyên 62,5%. Độ chuẩn xác 70% và giá trị 
tiên đoán âm cũng 100%. Nghĩa là dù cho nồng độ 
CEA thấp ở bệnh nhân ung thư phổi, nhưng sau mổ, 
nồng độ này tăng dần lên là báo hiệu tình trạng bệnh 
đang tái phát hoặc di căn. 
Chúng tôi nghiên cứu nhóm có Nồng độ CEA > 
10 ng/mL nhận thấy mức tăng lên của nồng độ CEA 
sau mổ kết hợp có ung thư tái phát, độ nhạy 57% 
không cao, nhưng 13 trường hợp thì có 7/13 trường 
hợp tái phát hay di căn, giống các y văn trên thế giới 
(11). Có thể nồng độ CEA ở một số bệnh nhân ung thư 
phổi cao bất thường còn do nguyên nhân kết hợp 
khác như hút thuốc lá.v.v... bởi thế khi nồng độ CEA 
tăng lên sau mổ có lẽ không đặc hiệu để xác đinh tái 
phát sau mổ, nhưng vẫn có ý nghĩa cảnh giác tốt để 
kịp thời nhận định điều trị. 
Nghiên cứu của Gianfranco Buccheri (7) trên 
118 bệnh nhân, thấy rằng: với nồng độ CEA > 10 
ng/mL, ung thư giai đoạn IA – IIIA, có tỷ lệ 67% tái 
phát sau mổ, còn nồng độ CEA < 10 ng/mL có 80 – 
88% trường hợp không tái phát sớm. 
Theo tác giả Noriyoshi Sawabata (10) nghiên cứu 
297 bệnh nhân đã kết luận rằng: Nhóm bệnh có 
nồng độ CEA cao thì tỷ lệ sống 5 năm là 49% so với tỷ 
lệ sống 72% ở nhóm có nồng độ CEA bình thường. 
Bệnh nhân có nồng độ CEA cao sau mổ có tiên lượng 
xấu hơn nhóm có nồng độ trở về bình thường với tỷ 
lệ sống 5 năm lần luợt là 18% (n = 15) và 68% (n = 
41). Tác giả còn cho rằng nồng độ CEA cao liên tục 
sau mổ là một chỉ điểm đặc biệt mạch để tiên lượng 
bệnh. 
KẾT LUẬN 
Nồng độ CEA liên quan không nhiều đến kích 
thước khối u. 
Nồng độ CEA giảm xuống khi bệnh nhân được 
cắt bỏ khối ung thư, và khi nồng độ này tăng trở lại, 
báo hiệu một tình trạng tái phát hoặc di căn sau mổ. 
Khi nồng độ CEA cao (> 10 ng/mL) trước mổ, 
khả năng tái phát hoặc di căn sau mổ cao. 
Ung thư phổi giai đoạn trước IIIA, nồng độ CEA 
sau mổ giảm xuống rõ rệt với p = 0,044. khi nồng độ 
này biến đổi tăng lên sau mổ thì khả năng tái phát 
hoặc di căn cao 75%. 
 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 9 Sakao Y, Sakuragi T, Natsuaki M, Itoh T: Clinicopathological analysis of prognostic factors in 
clinical IA peripheral adenocarcinoma of the lung Ann 
Thorac Surg 2003; 75: 1113-1117. 
1 Nguyễn Việt Cồ, Tô Kiều Dung, Vũ Chí Thành. Phẫu 
thuật điều trị ung thư phế quản qua 500 trường hợp 
tại Viện Lao và Bệnh Phổi. Báo cáo Khoa học. Đại hội 
Hội Ngoại Khoa Việt Nam lần thứ X (29-30/10/1999). 
Tập 2. 1999. 238-341. 
10 Sawabata N, Ohta M, Takeda S-I, H Hirano, Okumura 
Y, Asada H, Maeda H,. Serum carcinoembryonic 
antigen level in surgically resected clinical stage i 
patients with non-small cell lung cancer. Ann Thorac 
Surg 2002;74:174-179. 
2 Trần Văn Ngọc: Đặc tính Giải phẫu bệnh lý của ung 
thư phế quản. Luận án Tiến sĩ Y học – 1998. ĐHYD 
Tp Hồ Chí Minh. 11 Sawabata N, Hirano H, Inoue M, Okumura Y, Asada 
H, Takeda S-I, Maeda H,. Immunohistochemical 
analysis of resected clinical stage I pulmonary 
adenocarcinomas with high preoperative levels of 
serum carcinoembryonic antigen. Ann Thorac Surg 
2003;76: 203 – 207. 
3 Đỗ Kim Quế, Lê Sỹ Sâm. Một vài nhận xét về chẩn 
đoán và điều trị ung thư phổi nguyên phát tại Bệnh 
Viện Thống Nhất. Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa 
học BVTN năm 2003. 409 – 418. 
4 Lê Sỹ Sâm. Một số nhận xét về điều trị phẫu thuật 
bệnh ung thư phổi nguyên phát tại Bệnh Viện Thống 
Nhất. Kỷ yếu công trình NCKH - BVTN năm 2002. 
193 – 200. 
12 Fang D, Zhang D, Huang G, Zhang R, Wang L, Zhang 
D, Results of surgical resection of patients with 
primary lung cancer: a retrospective analysis of 1,905 
cases. Ann Thorac Surg 2001;72:1155-1159. 5 Lê Sỹ Sâm. Một vài nhận xét về vai trò của hệ thống 
phân loại TNM trong ung thư phổi nguyên phát tại 
Bệnh Viện Thống Nhất. Kỷ yếu công trình nghiên cứu 
khoa học BVTN năm 2002. 201 – 212. 
13 Furák J, Troján I, Tamás S, Tiszlavicz L, Morvay Z, J 
Eller. Bronchioloalveolar lung cancer: occurrence, 
surgical treatment and survival. Eur J Cardiothorac 
Surg 2003; 23: 818-823 6 Nguyễn Sào Trung, Hứa Thị Ngọc Hà, Nguyễn Văn 
Thành. Giải phẫu bệnh ung thư. Ung bướu học nội 
khoa. Nhà xuất bản Y Học 2004; 45 – 72. 
14 Suzuki K, Asamura H, Kusumoto M, Kondo H, 
Tsuchiya R: "Early" peripheral lung cancer: 
prognostic significance of ground glass opacity on 
thin-section computed tomographic scan. Ann Thorac 
Surg 2002; 74: 1635-1639 
7 Buccheri G, Ferrigno D: Identifying patients at risk of 
early postoperative recurrence of lung cancer: a new 
use of the old CEA test. Ann Thorac Surg 2003;75:973-
980 15 Altorki N, Kent M, Pasmantier M, Detection of early-
stage lung cancer: Computed tomographic scan or 
chest radiograph?. J Thorac Cardiovasc Surg 2001; 
121: 1053 - 1057. 
8 Rena O, Oliaro A, Cavallo A, Filosso PL, Donati G, Di 
Marzio P, Maggi G, Ruffini E: Stage I non-small cell 
lung carcinoma: really an early stage? Eur J 
Cardiothorac Surg 2002;21:514-519. 
 92 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dung_xet_nghiem_cea_de_nhan_biet_nguy_co_tai_phat_som_ung_th.pdf dung_xet_nghiem_cea_de_nhan_biet_nguy_co_tai_phat_som_ung_th.pdf