Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 28 
ĐỘNG KINH Ở TRẺ SỐT CO GIẬT: 
CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG ĐỘNG KINH 
Bùi Hiếu Anh*, Lê Thị Khánh Vân**, Nguyễn Lê Trung Hiếu*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu của chúng tôi có mục tiêu chẩn đoán, mô tả và so sánh các đặc điểm lâm sàng 
của các hội chứng động kinh ở trẻ sốt co giật. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt ca với cỡ mẫu thực tế là 103 bệnh nhi nhập viện khoa 
Thần kinh bệnh viện Nhi đồng 2 từ tháng 12 năm 2017 đến tháng 8 năm 2018. Các hội chứng động kinh 
được chẩn đoán theo phân loại động kinh của ILAE năm 2017. Các biến số được thu thập gồm đặc điểm lâm 
sàng, điện não, hình ảnh học não và xét nghiệm gen theo từng hội chứng. 
Kết quả: Chúng tôi thu thập được 4 hội chứng gồm hội chứng Dravet, sốt co giật thêm vào (FS+), động 
kinh do gen với sốt co giật thêm vào (GEFS+), Động kinh thùy thái dương trong (MTLE). Hội chứng Dravet 
đặc trưng bởi khởi phát sớm (trung bình 6,4 tháng), tỉ lệ chậm phát triển tâm vận cao và sốt co giật phức tạp 
với tính chất cục bộ và kéo dài trên 30 phút. 82,6% có đột biến gen SCN1A. FS+ và GEFS+ có tuổi khởi 
phát trong giai đoạn trẻ nhỏ (trung bình 14 tháng) với tiền căn sốt co giật đơn giản tái đi tái lại sau đó tiến 
triển thành co giật không sốt trong 40% hoặc còn sốt co giật sau 6 tuổi trong 27%. Tiên lượng của 2 hội 
chứng trên khá tốt với phát triển tâm vận bình thường. GEFS+ có tiền căn gia đình đặc trưng với sốt co giật 
hoặc động kinh. Bệnh nhi với MTLE biểu hiện động kinh thùy thái dương khởi phát muộn trong thời kì thanh 
thiếu niên (trung bình 94,2 tháng) và đặc trưng bởi tiền căn sốt co giật khi sốt cao và thời gian co giật kéo 
dài tương ứng với tổn thương hồi hải mã trên MRI não. 
Kết luận: Các hội chứng động kinh ở trẻ có tiền căn sốt co giật có những đặc trưng khác nhau về biểu 
hiện lâm sàng và tiên lượng nên chẩn đoán hội chứng thực sự quan trọng trong chẩn đoán động kinh và nên 
được thực hiện ngay khi có thể. 
Từ khóa: sốt co giật, động kinh, hội chứng động kinh, hội chứng Dravet, GEFS+, FS+, động kinh thùy thái 
dương trong 
ABSTRACT 
THE EPILEPSY FOLLOWING FEBRILE SEIZURES (FS) 
Bui Hieu Anh, Le Thị Khanh Van, Nguyen Le Trung Hieu 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 28 – 37 
Objectives: This study sought to describe and compare the clinical characteristics of epileptic 
syndromes in children with prior febrile seizures (FS). 
Method: Between December 2017 and August 2018, we enrolled 103 patients diagnosed epilepsy 
defined by the clinical definition of ILAE (2014) with prior FS (average age 61.2 months), admitted to the 
ChildrenHospital 2 in Vietnam. Data concerning clinical characteristics, electroencephalographic, 
neuroimaging and genetic features were collected from each patient. 
Results: In 103 epileptic patients, there were 32 cases diagnosed with Dravet syndrome, 14 cases with 
febrile seizures plus (FS+), 48 cases with genetic epilepsy with febrile seizures plus (GEFS+), 6 cases with 
mesial temporal lobe epilepsy (MTLE) and 3 cases not yet classified. Dravet syndrome characterized by 
early onset of disease (average 6.4 months), high prevalence of psychomotor developmental retardation 
(93.7%) and complex FS (93.8%) prominent with focal seizures (46.9%) and lasting more than 30 minutes 
(37.4%). The majority of Dravet’s patients (82.6%) had the SCN1A mutation. FS+ and GEFS+ typically had 
the onset in the early childhood (average 14 months) with history of recurrent simple FS (average 4.1 – 5.8 
times) then progressive to afebrile seizures in 40% or FS occuring after 6 years old in 27%. The prognosis of 
*Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BS. Bùi Hiếu Anh ĐT: 0772962612 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 29
these syndromes is good with normal psychomotor development (92.9 – 100%). GEFS+ has a characteristic 
family history of FS (79.2%) or eiplepsy (25%). In MTLE, patients manifested late – onset temporal epilepsy 
during adolescence (average 94.2 months) and had history of FS with high fever (average 40°C), prolonged 
seizure’s duration (50% over 30 minutes) corresponding to hippocampal injury on brain MRI film. 
Conclusion: The epileptic syndromes of children with prior FS had different characteristics concerning 
the clinical manifestations and the prognosis. Therefore, the diagnosis of these syndromes is really 
significant and should be done as soon as feasible. 
Key words: febrile seizures, epilepsy, epileptic syndrome, Dravet syndrome, GEFS+, FS+, mesial temporal 
lobe epilepsy 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sốt co giật (SCG) là rối loạn thần kinh thường 
gặp nhất ở trẻ em. Tỉ lệ chung là 2 – 5% trẻ từ 6 tháng 
đến 5 tuổi(10). Sốt co giật cũng là vấn đề thần kinh 
thường gặp nhất trong cấp cứu nhi khoa(11). Trong các 
nghiên cứu tiến cứu trên cộng đồng, nguy cơ động 
kinh (ĐK) sau SCG được báo cáo từ 2 – 7%(2), cao 
hơn nguy cơ ở dân số chung là 1,2% trước 24 tuổi(5). 
Qua vài thập kỷ gần đây, các tiến bộ quan trọng về 
hình ảnh học thần kinh, kĩ thuật gen và sinh học phân 
tử đã mở thêm những hiểu biết về sinh bệnh học của 
động kinh với sự cập nhật mới tiêu chuẩn thực hành 
chẩn đoán động kinh năm 2014(4) và phân loại bệnh 
động kinh năm 2017(9). Những hội chứng động kinh 
liên quan sốt co giật ngày càng được chẩn đoán chính 
xác và nhiều hơn với các tiêu chuẩn rõ ràng dưới sự 
trợ giúp của hình ảnh học và xét nghiệm gen như hội 
chứng Dravet, một bệnh não sinh động kinh có tiên 
lượng lâu dài nặng, hội chứng FS+, GEFS+, MTLE 
với xơ chai hồi hải mã. Các nghiên cứu về bệnh động 
kinh ở trẻ có sốt co giật trước đây chưa chẩn đoán và 
mô tả những hội chứng động kinh, có thể do số ca 
bệnh ít vì các hội chứng này hiếm gặp hoặc phải theo 
dõi trong một thời gian dài. Do đó, chúng tôi thực 
hiện nghiên cứu này. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Những nghiên cứu trước đây về động kinh ở trẻ 
sốt co giật không chẩn đoán các hội chứng động kinh 
có thể do cỡ mẫu nhỏ và thiếu tiêu chuẩn chẩn đoán 
cụ thể. Nghiên cứu của chúng tôi có mục tiêu chẩn 
đoán, mô tả và so sánh các đặc điểm lâm sàng của các 
hội chứng động kinh ở trẻ sốt co giật. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca nhóm bệnh của nghiên cứu 
bệnh chứng không bắt cặp. 
Đối tượng nghiên cứu 
Là nhóm bệnh của nghiên cứu bệnh chứng gồm 
các bệnh nhi động kinh có tiền căn sốt co giật. 
Sau thời gian lấy mẫu từ tháng 12 năm 2017 đến 
tháng 8 năm 2018, chúng tôi thu thập thực tế được số 
liệu của 103 bệnh nhi nhóm bệnh được điều trị nội và 
ngoại trú tại khoa Thần kinh bệnh viện Nhi đồng 2. 
Phương pháp chọn mẫu 
Tiêu chuẩn chọn mẫu phải thỏa định nghĩa thực 
hành bệnh động kinh của Liên đoàn chống động kinh 
thế giới (LĐCĐKTG) năm 2014 và có tiền căn sốt co 
giật theo tiêu chuẩn của LĐCĐKTG năm 1993. Tất cả 
các ca bệnh đều được chẩn đoán bệnh động kinh bởi 2 
bác sĩ chuyên khoa và có sự góp ý của các chuyên gia 
thế giới. Tiêu chuẩn loại trừ là bệnh nhi có tiền căn 
sanh ngạt, sanh khó, nhiễm trùng bào thai, bất thường 
não bẩm sinh, nhiễm trùng thần kinh trung ương, chấn 
thương đầu, xuất huyết nội sọ trước đó; loại trừ vì 
nhóm này nằm ngoài định nghĩa sốt co giật ở trẻ em. 
Ngoài ra, chúng tôi cũng loại trừ các trường hợp 
không có đầy đủ thông tin trong hồ sơ bệnh án theo 
yêu cầu nghiên cứu. 
Phương pháp chọn mẫu là lấy toàn bộ bệnh nhi 
động kinh đang điều trị và bệnh nhi chẩn đoán mới 
động kinh có tiền căn sốt co giật. 
Thu thập và phân tích số liệu 
Thu thập số liệu bằng cách tra cứu hồ sơ bệnh án 
kết hợp phỏng vấn người chăm sóc trực tiếp bệnh nhi 
được chọn mẫu bằng bảng câu hỏi. Các biến số 
nghiên cứu được chia thành 4 nhóm: các biến số dịch 
tễ (tuổi, giới), biến số tiền căn bản thân (non tháng, 
nhẹ cân, tuổi khởi phát SCG, số lần SCG trước đây và 
phát triển tâm vận) và gia đình SCG hoặc động kinh, 
biến số chi tiết về tiền căn sốt co giật và các biến số về 
bệnh động kinh gồm đặc điểm lâm sàng, điện não, 
hình ảnh học não và xét nghiệm gen theo từng hội 
chứng. 
Các số liệu được phân tích thống kê bởi phần 
mềm R 5.1 với thống kê mô tả và thống kê phân 
tích. Biến số định lượng được trình bày dưới dạng 
trung bình và độ lệch chuẩn. Nếu phân phối không 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 30 
chuẩn được trình bày với trung vị, khoảng tứ phân vị. 
Biến số định tính được trình bày dưới dạng tần số, tỉ lệ 
%. Sự khác biệt của biến định lượng phân phối chuẩn 
giữa nhiều nhóm được kiểm định bằng phương pháp 
ANOVA. Sự khác biệt của biến định lượng không 
phân phối chuẩn hoặc biến định tính thứ tự giữa nhiều 
nhóm được kiểm định bằng Kruskal – Wallis test. So 
sánh từng cặp giữa nhiều nhóm bằng phương pháp 
Tukey. Nếu giá trị p < 0,05 thì xác định sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (Bảng 1) 
Đặc điểm các hội chứng động kinh liên quan SCG 
Đặc điểm tiền căn bản thân và gia đình 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi khởi 
phát sốt co giật, tuổi khởi phát bệnh động kinh, tỉ lệ 
chậm phát triển tâm vận, tỉ lệ tiền căn gia đình sốt co 
giật và tỉ lệ tiền căn gia đình động kinh giữa các hội 
chứng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
số lần sốt co giật trước khi động kinh giữa các nhóm 
hội chứng (Bảng 2). 
Tuổi khởi phát sốt co giật 
Tuổi khởi phát SCG sớm nhất là ở hội chứng 
Dravet, với tuổi trung bình khởi phát SCG là 6,4 
tháng, tối thiểu là 2 tháng và tối đa là 18 tháng. Trong 
đó có 68,8% trường hợp khởi phát sốt co giật nhỏ hơn 
6 tháng, 90,6% ca khởi phát sốt co giật trước 12 
tháng, có 2 ca sau 12 tháng nhưng trễ nhất là 18 tháng 
tuổi (Hình 1). 
Bảng 1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n = 103) 
Đặc điểm Phân loại Tần số Tỉ lệ (%) Trung bình/ trung vị 
Đặc điểm dịch tễ 
Tuổi 50 ** (31 – 78) 
Giới 
Nam 63 61,2 
Nữ 40 38,8 
Đặc điểm tiền căn bản thân và gia đình 
Tuổi khởi phát sốt co giật (tháng) 
< 12 tháng 56 54,4 
14,0 (14,9) * 12 – 36 tháng 44 42,7 
> 36 tháng 3 2,9 
Số lần SCG trước khi ĐK (n = 99) 
< 3 lần 26 26,3 
5,2 (4,9) * 
 3 lần 73 73,7 
Phát triển tâm vận 
Bình thường 70 68,0 
 Chậm nhẹ 12 11,6 
Chậm nặng 21 20,4 
Tiền căn sản khoa 
Non tháng 14 13,6 
Nhẹ cân 8 7,8 
Tiền căn gia đình trong thế hệ 1 
Sốt co giật 40 38,8 
Động kinh 11 10,7 
Tiền căn gia đình trong thế hệ bất kỳ 
Sốt co giật 48 46,6 
Động kinh 15 14,6 
Đặc điểm tiền căn sốt co giật 
Nhiệt độ khi SCG (oC) 
(n = 101) 
< 39oC 32 31,7 
39,1 (0,7) * 
 39oC 69 68,3 
Thời gian từ sốt đến co giật (giờ) (n = 
95) 
< 1 giờ 22 23,2 5 ** 
(1 – 10,5)  1 giờ 73 76,8 
Kiểu cơn 
Khởi phát toàn thể 83 80,6 
Khởi phát cục bộ 20 19,4 
Thời gian co giật (phút) 
< 5 phút 68 66,0 
3 ** 
(1 – 5) 
5 – < 15 phút 11 10,7 
15 – < 30 phút 8 7,8 
 30 phút 16 15,5 
Số lần co giật/24 giờ 1 lần 49 48,0 2 ** 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 31
Đặc điểm Phân loại Tần số Tỉ lệ (%) Trung bình/ trung vị 
(n = 102)  2 lần 53 52,0 (1 – 3) 
Phân loại sốt co giật 
Đơn giản 29 28,2 
Phức tạp 74 71,8 
Đặc điểm bệnh động kinh 
Tuổi khởi phát động kinh (tháng) 
< 12 tháng 19 18,4 
24 * 
(13,5 – 44) 
12 – 60 tháng 69 67,0 
> 60 tháng 15 14,6 
Phân loại bệnh động kinh 
Toàn thể 69 67,0 
 Cục bộ 7 6,8 
Toàn thể và cục bộ 27 26,2 
Hội chứng động kinh 
Dravet 32 31,1 
FS + 14 13,6 
GEFS + 48 46,6 
MTLE 6 5,8 
Chưa phân loại 3 2,9 
Phân loại EEG (n = 103) 
Điển hình động kinh 84 81,5 
Không điển hình ĐK 8 7,8 
Bình thường 11 10,7 
Bất thường hình ảnh học thần kinh (n = 42) 10 23,8 
Đột biến gen SCN1A (n = 23) 19 82,6 
* trung bình (độ lệch chuẩn); ** trung vị (khoảng tứ phân vị) 
Bảng 2. Đặc điểm tiền căn bản thân và gia đình theo các hội chứng động kinh 
Đặc điểm Phân loại 
Dravet 
(n = 32) 
FS+ 
(n =14) 
GEFS+ 
(n = 48) 
MTLE 
(n = 6) 
Chưa phân loại p 
Tuổi khởi phát SCG 
(tháng) 
Trung bình 6,4 14,4 14,3 46,8 23,7 <0,001c 
< 12 90,6 35,7 43,8 16,7 0 
<0,001c 12 – 36 9,4 64,3 54,2 50,0 100 
> 36 0 0 2,1 33,3 0 
Tuổi khởi phát ĐK 
(tháng) 
Trung bình 12,3 36,1 41,6 94,2 32 <0,001c 
< 12 56,2 0 2,1 0 0 
<0,001c 12 – 60 43,8 85,7 81,2 16,7 100 
> 60 0 14,3 16,7 83,3 0 
Số lần SCG trung bình trước khi động kinh 
(lần) 
5,4 4,1 5,8 3 2,3 0,455a 
Phát triển tâm vận 
(%) 
Bình thường 6,3 92,9 100 83,3 66,7 
<0,001c Chậm nhẹ 31,2 7,1 0 16,7 0 
Chậm nặng 62,5 0 0 0 33,3 
Tiền căn gia đình (%) 
Sốt co giật 15,6 0 79,2 66,7 33,3 <0,001b 
Động kinh 3,1 0 25,0 0 66,7 0,002b 
aKiểm định ANOVA giữa các số trung bình của 5 nhóm, bKiểm định Fisher giữa 5 nhóm 
cKiểm định Kruskal – Wallis giữa 5 nhóm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 32 
12
24
36
48
60
72
84
96
108
Dravet FS+ GEFS+ MTLE Chưa phân loại
Hội chứng động kinh
Tu
ổi 
kh
ởi 
ph
át 
số
t c
o g
iật
 (th
án
g)
Hình 1. Tuổi khởi phát sốt co giật theo hội chứng động kinh (n =103) 
Nhóm FS+ và GEFS+ khởi phát sốt co giật trung 
bình khoảng 14 tháng. Cả 2 nhóm đều có tỉ lệ cao sốt 
co giật khởi phát từ 1 đến 3 tuổi (64,3% đối với FS+ 
và 54,2% đối với GEFS+) và hiếm khi khởi phát sốt 
co giật sau 3 tuổi. 
Nhóm động kinh thùy thái dương trong có tuổi 
khởi phát sốt co giật muộn hơn các nhóm còn lại, với 
tuổi khởi phát trung bình là 46,8 tháng nhưng tỉ lệ cao 
vẫn ở nhóm từ 1 đến 3 tuổi chiếm 50%. 
Chúng tôi sử dụng phương pháp Tukey để so 
sánh tuổi khởi phát SCG giữa 5 hội chứng động kinh 
cho thấy: 
Tuổi khởi phát SCG của hội chứng Dravet thấp 
hơn các nhóm GEFS+ và MTLE có ý nghĩa thống kê 
(p lần lượt là 0,040 và < 0,001). 
Giữa 2 hội chứng FS+ và GEFS+ không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi khởi phát sốt co 
giật (p = 1,000). 
Nhóm MTLE có tuổi khởi phát sốt co giật cao 
hơn có ý nghĩa thống kê so với 3 hội chứng còn lại (p 
< 0,001). 
Tuổi khởi phát bệnh động kinh 
Tuổi khởi phát bệnh động kinh sớm nhất là ở 
trẻ có hội chứng Dravet. Tuổi trung bình khởi phát 
động kinh là 12,3 tháng, tối thiểu là 3 tháng và tối 
đa là 36 tháng, với 56,2% ca được chẩn đoán bệnh 
động kinh trước 12 tháng tuổi (trong giai đoạn nhũ 
nhi) chiếm tỉ lệ cao nhất và còn lại là nhóm từ 12 – 
36 tháng tuổi chiếm 43,8% (Hình 2). 
Nhóm FS+ có tuổi trung bình khởi phát bệnh 
động kinh là 36,1 tháng, trong khi đó tuổi khởi phát 
bệnh trung bình nhóm GEFS+ là 41,6 tháng. Cả 2 hội 
chứng này đều có tỉ lệ cao bệnh ĐK khởi phát từ 1 
đến 5 tuổi (trong giai đoạn trẻ nhỏ) (85,7% đối với 
FS+ và 81,2% đối với GEFS+) và hiếm khi được chẩn 
đoán bệnh động kinh trước 1 tuổi (không có trường 
hợp FS+ và chỉ 2,1% ca GEFS+). 
24
48
72
96
120
144
Dravet FS+ GEFS+ MTLE Chưa phân loại
Hội chứng động kinh
Tu
ổi 
kh
ởi 
ph
át 
bệ
nh
 độ
ng
 ki
nh
 (th
án
g)
Hình 2. Tuổi khởi phát bệnh động kinh theo hội chứng động kinh (n = 103) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 33
Nhóm động kinh thùy thái dương trong có tuổi 
khởi phát bệnh động kinh muộn hơn các hội chứng 
ĐK còn lại, với tuổi khởi phát bệnh động kinh trung 
bình là 94,2 tháng và tỉ lệ cao nhất ở nhóm trên 5 tuổi 
chiếm 83,3% (giai đoạn trẻ lớn). 
Chúng tôi sử dụng phương pháp Tukey để so 
sánh tuổi khởi phát bệnh động kinh giữa 5 nhóm hội 
chứng động kinh cho thấy: 
Tuổi khởi phát bệnh động kinh của hội chứng 
Dravet thấp hơn các nhóm FS+, GEFS+ và động kinh 
thùy thái dương trong có ý nghĩa thống kê với số p lần 
lượt là 0,028, <0,001 và <0,001. 
Giữa 2 hội chứng FS+ và GEFS+ không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi khởi phát bệnh 
động kinh với số p là 0,949. 
Nhóm động kinh thùy thái dương trong có tuổi 
khởi phát bệnh động kinh cao hơn có ý nghĩa thống 
kê so với 3 hội chứng động kinh còn lại với 
p<0,001. 
Phát triển tâm thần vận động 
Hội chứng Dravet có tỉ lệ chậm phát triển tâm 
vận cao nhất chiếm 93,7%, trong đó 31,2% là chậm 
phát triển nhẹ và 62,5% là chậm phát triển nặng. 
Phần lớn trường hợp FS+ là phát triển tâm vận 
bình thường (92,9%), chỉ có 7,1% chậm phát triển 
tâm vận nhẹ. 
Tất cả bệnh nhi được chẩn đoán GEFS+ đều có 
phát triển bình thường. 
Nhóm động kinh thùy thái dương trong có 16,7% 
là chậm phát triển tâm vận nhẹ, còn lại 83,3% phát 
triển tâm vận bình thường. 
Các trẻ chậm phát triển tâm vận nặng phần lớn 
trong hội chứng Dravet. Các hội chứng FS+, GEFS+ 
và động kinh thùy thái dương trong không có trường 
hợp nào chậm phát triển nặng. 
Đặc điểm tiền căn sốt co giật 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ cơn 
cục bộ, thời gian co giật, tỉ lệ co giật nhiều lần trong 
24 giờ và tỉ lệ phân loại sốt co giật giữa các hội chứng 
động kinh. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về nhiệt độ SCG, thời gian từ lúc sốt đến lúc co giật 
giữa các hội chứng động kinh (Bảng 3). 
Bảng 3. Đặc điểm tiền căn sốt co giật theo các hội chứng động kinh 
Đặc điểm 
Dravet 
(n = 32) 
FS+ 
(n=14) 
GEFS+ 
(n = 48) 
MTLE 
(n = 6) 
Chưa phân loại p 
Nhiệt độ trung bình (oC) 39,1 39,3 39,0 40,0 39,2 0,083a 
Thời gian trung vị từ sốt đến co giật (giờ) 4,0 8,5 4,5 4,0 5,0 0,309c 
Kiểu cơn (%) 
Toàn thể 53,1 100 97,9 66,7 33,3 
<0,001b 
Cục bộ 46,9 0 2,1 33,3 66,7 
Thời gian co giật TB (phút) 18,9 2,8 2,8 18,2 12,7 <0,001c 
Phân nhóm thời gian co 
giật (%) 
< 5 phút 40,6 71,4 87,5 33,3 33,3 
<0,001c 
5 – < 15 6,3 28,6 8,3 0 33,3 
15 – < 30 15,6 0 4,2 16,7 0 
 30 phút 37,5 0 0 50 33,3 
Liệt Todd sau cơn (%) 25 0 0 16,7 33,3 0,002b 
Số lần co giật /24 giờ (%) 
1 lần 45,2 14,3 54,2 83,3 66,7 
0,031b 
 2 lần 54,8 85,7 45,8 16,7 33,3 
Phân loại sốt co giật (%) 
Đơn giản 6,2 14,3 50 16,7 0 
<0,001b 
Phức tạp 93,8 85,7 50 83,3 100 
aKiểm định ANOVA giữa các số trung bình của 5 nhóm, bKiểm định Fisher giữa 5 nhóm 
cKiểm định Kruskal – Wallis giữa 5 nhóm 
Kiểu cơn sốt co giật 
Hội chứng Dravet có tỉ lệ kiểu cơn khởi phát cục 
bộ cao nhất (46,9%) so với các hội chứng khác. Tuy 
nhiên, trong hội chứng Dravet tỉ lệ các cơn khởi phát 
toàn thể vẫn chiếm đa số (53,1%) so với cơn khởi 
phát cục bộ. 
Tất cả trường hợp FS+ là cơn khởi phát toàn 
thể. 
Hầu hết các ca được chẩn đoán GEFS+ đều có 
kiểu cơn khởi phát toàn thể trước đây, chỉ có 2,1% là 
cơn khởi phát cục bộ. 
Nhóm động kinh thùy thái dương trong có tỉ lệ 
cơn sốt co giật trước đây là khởi phát toàn thể cao 
hơn cục bộ (66,7% so với 33,3%). Tuy nhiên, cơn 
cục bộ ở hội chứng này chiếm một tỉ lệ lớn so với 
FS+ và GEFS+, chỉ xếp sau hội chứng Dravet. 
Thời gian co giật trong đợt sốt co giật 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 34 
Trong hội chứng Dravet, với thời gian co giật 
trung bình là 18,9 phút, tối thiểu là 1 phút và tối đa là 
80 phút, với 59,4% ca trạng thái động kinh (kéo dài 
trên 5 phút), trong đó kéo dài trên 15 phút chiếm 
53,1% và kéo dài trên 30 phút chiếm 37,5% tổng số. 
Nhóm FS+ và GEFS+ có thời gian co giật trung 
bình ngắn nhất 2,8 phút. Với FS+, 74,5% co giật ngắn 
hơn 5 phút và 100% ngắn hơn 15 phút. Tương tự, 
nhóm GEFS+ phần lớn co giật dưới 5 phút (87,5%), 
co giật kéo dài trên 15 phút chiếm 4,2% nhưng không 
ca nào vượt quá 30 phút. 
ĐK thùy thái dương trong có thời gian co giật 
trung bình là 18,2 phút, với 66,7% co giật kéo dài trên 
15 phút, và có 3 trường hợp (chiếm 50%) kéo dài trên 
30 phút. 
Số lần co giật trong 24 giờ 
Hội chứng Dravet và GEFS+ đều có tỉ lệ co giật 1 
cơn và hơn 2 cơn trong 24 giờ tương đương nhau. 
Tỉ lệ co giật trên 2 cơn trong 24 giờ cao nhất với 
hội chứng FS+ (85,7%). 
Phần lớn các trường hợp động kinh thùy thái 
dương trong chỉ co giật 1 lần trong 24 giờ (83,3%). 
Phân loại sốt co giật 
Sốt co giật phức tạp chiếm ưu thế trong tất cả hội 
chứng. 
Hội chứng Dravet có tỉ lệ kiểu sốt co giật phức 
tạp cao nhất (93,8%), tiếp đến là FS+ (85,7%), động 
kinh thùy thái dương trong (83,3%) và thấp nhất là 
GEFS+ (50%). 
Riêng hội chứng GEFS+, tỉ lệ sốt co giật phức tạp 
và đơn giản bằng nhau. 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi về bệnh động kinh ở trẻ 
sốt co giật là nghiên cứu với nhóm bệnh lớn (103 ca) 
có phân loại và mô tả các hội chứng động kinh có liên 
quan SCG. 
Hội chứng Dravet 
Đây là nghiên cứu có số ca hội chứng Dravet lớn 
(32 trường hợp), vốn là một hội chứng động kinh 
hiếm gặp và có tiên lượng lâu dài nặng nề. Nghiên 
cứu của chúng tôi có nhiều đặc điểm tương đồng với 
nghiên cứu của Huỳnh Thị Thúy Kiều (2016) trên 21 
ca(6) và Cetica (2017) trên 97 ca(1) về: 
Tuổi khởi phát sốt co giật trung bình 6,4 tháng 
của chúng tôi tương tự với 6,9 tháng của Thúy Kiều 
và 5,2 tháng của Cetica. 
Tỉ lệ cao (90,6%) khởi phát trước 12 tháng tương 
đồng với nghiên cứu của Thúy Kiều (96%) và của 
Cetica (100%). 
Tuổi trung bình được chẩn đoán động kinh trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 12,3 tháng giống với kết 
quả 13,9 tháng của Thúy Kiều. 
Tiền căn gia đình động kinh là 3,1% (4% trong 
nghiên cứu của Thúy Kiều). 
Tỉ lệ cao (93,7%) chậm phát triển tâm vận giống 
với Thúy Kiều (96%). 
Về cận lâm sàng, tỉ lệ điện não đồ bất thường điển 
hình ĐK trong hội chứng Dravet là 59,4%, tương tự 
với kết quả của Thúy Kiều (54%), Cetica (48,2%) và 
tỉ lệ bất thường trên MRI não là 18,8% trong đó chủ 
yếu là teo não nhẹ. 
Trong 32 trường hợp đủ tiêu chuẩn lâm sàng 
chẩn đoán hội chứng Dravet có 23 trường hợp được 
xét nghiệm gen tìm đột biến gen SCN1A, trong đó 
có 19 ca tìm được đột biến gen SCN1A phù hợp hội 
chứng Dravet chiếm 82,6%, 1 ca đột biến câm dị 
hợp tử chiếm 4,3%, 3 ca không có đột biến chiếm 
13,1%. Tỉ lệ đột biến gen này tương tự kết quả 
nghiên cứu của Thúy Kiều (70,8%)(6), Okumura 
(82,5%)(8), Kwong (83%)(7). Việc phát hiện được 
đột biến gen có vai trò rất quan trọng, cho biết 
nguyên nhân ở mức độ phân tử, tránh một số loại 
thuốc có thể làm nặng bệnh và tiên lượng lâu dài 
trong hội chứng Dravet. 
So với các hội chứng khác trong nhóm bệnh, hội 
chứng Dravet nổi bật với tuổi khởi phát SCG sớm 
(đặc biệt trước 12 tháng), tỉ lệ chậm phát triển tâm vận 
rất cao (đặc biệt chậm phát triển nặng). Trong khi đó 
tỉ lệ tiền căn gia đình sốt co giật và động kinh so với tỉ 
lệ chung lại khá thấp, điều này có thể giải thích là vì 
đột biến gen trong hội chứng Dravet thường là đột 
biến mới, tự phát (90%). Đột biến được di truyền hoặc 
có tính gia đình chỉ chiếm 5 – 10%, trong đó cha mẹ 
mang thể khảm chiếm 2/3 những trường hợp có tính 
gia đình và thường không bị ảnh hưởng hoặc ảnh 
hưởng nhẹ(3). Về đặc điểm sốt co giật, hội chứng 
Dravet có tỉ lệ sốt co giật phức tạp cao nhất trong các 
hội chứng ĐK (93,8%), nổi bật với tính chất cục bộ 
(46,9%) tương tự với kết quả của Cetica (24%) và cơn 
giật kéo dài, đặc biệt kéo dài trên 30 phút (37,4%) 
tương tự với kết quả của Cetica (25,3%). Điều này 
phù hợp với kết luận của các nghiên cứu trước rằng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 35
thời gian co giật kéo dài có thể là dữ kiện đầu tiên của 
một hội chứng động kinh nặng nề(3). 
Những điểm khác biệt của hội chứng Dravet với 
những hội chứng khác về tuổi khởi phát sốt co giật 
sớm trước 12 tháng, tỉ lệ tiền căn gia đình thấp hơn, 
cơn sốt co giật cục bộ và kéo dài trên 30 phút có ý 
nghĩa thống kê, kết quả này giống với những so sánh 
của Cetica năm 2017 trên 97 trẻ Dravet và 103 trẻ với 
các hội chứng động kinh khác(1). Những đặc trưng 
trên có ý nghĩa lâm sàng quan trọng trong việc nhận 
diện sớm hội chứng động kinh nguy hiểm này ở 
những bệnh nhi SCG lần đầu sớm trước 12 tháng, đặc 
biệt trước 6 tháng tuổi và có thời gian co giật kéo dài 
trên 30 phút; từ đó có những can thiệp thích hợp nhằm 
ngăn ngừa sự tiến triển do bệnh não sinh động kinh 
gây ra. 
Hội chứng FS+ và GEFS+ 
FS+ và GEFS+ chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhóm 
bệnh của chúng tôi (60,2%), trong y văn được ghi 
nhận là thường gặp tuy nhiên chưa có nghiên cứu cụ 
thể về tần suất hiện mắc của các hội chứng này. Hai 
hội chứng động kinh trên có những đặc điểm chung là 
tuổi khởi phát sốt co giật trung bình khoảng 14 tháng, 
được chẩn đoán bệnh ĐK ở giai đoạn trẻ nhỏ (1 – 5 
tuổi) với tuổi trung bình là 36,1 tháng (FS+) và 41,6 
tháng (GEFS+), sốt co giật nhiều lần trước khi được 
chẩn đoán động kinh với trung bình 4,1 lần (FS+) và 
5,8 lần (GEFS+) và hầu hết (92,9 – 100%) phát triển 
tâm vận bình thường. 
Riêng đối với hội chứng GEFS+ có 79,2% có tiền 
căn gia đình sốt co giật và 25% có tiền căn gia đình 
động kinh. Trong nhóm bệnh có 2 cặp sinh đôi cùng 
trứng được phân loại GEFS+. Điều này củng cố thêm 
cơ chế di truyền cho hội chứng này. Dù nhiều gen có 
ý nghĩa trong GEFS+, đột biến không được xác định 
trong nhiều trường hợp. Sự di truyền phức tạp, độ 
thâm nhập không hoàn toàn và sự tác động của môi 
trường góp phần vào sự không chắc chắn của xét 
nghiệm gen nên hiện nay vẫn chưa được khuyến cáo 
ở hội chứng này. 
Về đặc điểm sốt co giật, sốt co giật đơn giản 
chiếm ưu thế, thường kiểu cơn khởi phát toàn thể 
(100% với FS+ và 97,9% với GEFS+), thời gian co 
giật ngắn dưới 5 phút (71,4% với FS+ và 87,5% với 
GEFS+) nhưng tỉ lệ co giật trên 2 lần trong 24 giờ 
lại tương đối cao (85,7% với FS+ và 45,8% với 
GEFS+). 
So với các hội chứng ĐK khác, GEFS+ đặc trưng 
bởi tính chất gia đình, phát triển tâm vận bình thường 
và khởi đầu với sốt co giật đơn giản ở giai đoạn trẻ 
nhỏ (trung bình 14 tháng, chỉ có 6,3% trước 6 tháng 
tuổi) sau đó tiến triển thành cơn động kinh không sốt 
(40%) hoặc cơn SCG kéo dài hơn 6 tuổi (27%), tương 
tự với kết quả của Zhang nghiên cứu trên 40 trẻ 
GEFS+ năm 2017 với tuổi khởi phát trung bình là 14 
tháng, với tỉ lệ tiến triển thành co giật không sốt là 
60% và sốt co giật kéo dài hơn 6 tuổi là 37,5%(12). 
Động kinh thùy thái dương trong 
Nhóm bệnh của chúng tôi có 6 ca được chẩn đoán 
ĐK thùy thái dương trong có tiền căn SCG, số mẫu 
tương đối ít; trong đó 3 ca xơ chai hồi hải mã trên 
MRI 1,5 Tesla và 3 ca theo dõi trên lâm sàng (2 ca 
chưa phát hiện tổn thương với MRI 1,5 Tesla, 1 ca 
chưa chụp MRI). 
Diễn tiến tự nhiên điển hình cho động kinh thùy 
thái dương trong: 
Khởi phát SCG vào giai đoạn trẻ nhỏ 1 đến 5 tuổi 
(trung bình 46,8 tháng). 
Sau đó là một giai đoạn không triệu chứng (kéo 
dài trung bình 47,3 tháng). 
Tiếp theo khởi phát bệnh ĐK trễ, trung bình là 
94,2 tháng (từ 7 – 8 tuổi). 
Phát triển tâm vận phần lớn bình thường (83,3%). 
Về đặc điểm SCG, nhiệt độ trung bình lúc SCG là 
40oC (từ 39 – 410C), cao nhất trong các hội chứng 
động kinh (sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê), đặc 
điểm này lí giải sự tổn thương hồi hải mã sau này vì 
đây là vùng não nhạy cảm nhất với nhiệt độ cao. Phần 
lớn SCG là cơn khởi phát toàn thể (66,6%), có 3 trong 
tổng số 6 ca (50%) có thời gian co giật kéo dài trên 30 
phút và đây cũng là 3 ca có tổn thương thùy thái 
dương rõ trên MRI não. 
Tất cả 6 ca đều tiến triển thành bệnh động kinh 
cục bộ thùy thái dương, với các cơn động kinh cục bộ 
toàn thể hóa có tiền triệu trong 3 ca, chủ yếu là cảm 
xúc hoảng sợ, lo lắng, có 1 ca có ngưng hoạt động, đơ 
người khoảng 10 phút mới xuất hiện co giật, có 1 ca 
có những cử động tự động trước khi diễn tiến thành co 
cứng co giật 2 bên. Các ca đều có bất thường điện não 
đồ điển hình ĐK hoặc sóng chậm khu trú thái dương 
ưu thế một bên. 
Đặc trưng của ĐK thùy thái dương trong so với 
các hội chứng ĐK khác là diễn tiến bệnh điển hình 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 36 
với ĐK cục bộ thùy thái dương trong khởi phát muộn 
trong thời kì trẻ lớn (từ 5 – 12 tuổi), có tiền căn sốt co 
giật lúc nhỏ với nhiệt độ lúc SCG cao và thời gian co 
giật kéo dài tương ứng với tổn thương hồi hải mã trên 
phim MRI não. 
KẾT LUẬN 
Một hội chứng động kinh là một nhóm các đặc 
điểm về loại cơn co giật, phát triển tâm vận, điện não 
đồ và hình ảnh học thường xảy ra cùng với nhau. 
Chúng tôi mô tả và so sánh 4 hội chứng động kinh ở 
trẻ có tiền căn sốt co giật có những đặc trưng khác 
nhau về biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng cũng như 
nguyện nhân và tiên lượng. Do đó, chẩn đoán hội 
chứng là một bước quan trọng trong quy trình chẩn 
đoán động kinh của ILAE 2017 và nên được thực hiện 
càng sớm càng tốt ở bệnh nhân động kinh có tiền căn 
sốt co giật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cetica V (2017). "Clinical and genetic factors predicting Dravet 
syndrome in infants with SCN1A mutations". Neurology, 88(11):1037-
1044. 
2. Chungath M, Shorvon S (2008). "The mortality and morbidity of 
febrile seizures". Nat Clin Pract Neurol, 4(11):610-621. 
3. Nascimento FA, Andrade DM (2018). "Dravet syndrome: Genetics, 
clinical features, and diagnosis". Uptodate, 
https://www.uptodate.com/contents/dravet-syndrome-genetics-clinical-
features-and-diagnosis/print. 
4. Fisher RS (2014). "ILAE official report: a practical clinical definition 
of epilepsy". Epilepsia, 55(4):475-482. 
5. Hauser WA, Annegers JF, Kurland LT (1993). "Incidence of epilepsy 
and unprovoked seizures in Rochester, Minnesota: 1935-1984". 
Epilepsia, 34(3):453-468. 
6. Huỳnh Thị Thúy Kiều, Lê Thị Khánh Vân (2017). "Hội chứng Dravet: 
đặc điểm lâm sàng và di truyền học". Y Học TP. Hồ Chí Minh, 
21(2):129-133. 
7. Kwong AK (2012). "Identification of SCN1A and PCDH19 mutations 
in Chinese children with Dravet syndrome". PLoS One, 7(7):e41802. 
8. Okumura A (2012). "Acute encephalopathy in children with Dravet 
syndrome". Epilepsia, 53(1):79-86. 
9. Scheffer IE (2017), "ILAE classification of the epilepsies: Position 
paper of the ILAE Commission for Classification and Terminology". 
Epilepsia, 58(4):512-521. 
10. Steering Committee on Quality, Improvement and Management, 
Subcommittee on Febrile Seizures American Academy of Pediatrics 
(2008). "Febrile seizures: clinical practice guideline for the long-term 
management of the child with simple febrile seizures". Pediatrics, 
121(6):1281-1286. 
11. Sugai K (2010). "Current management of febrile seizures in Japan: an 
overview". Brain Dev, 32(1):64-70. 
12. Zhang YH (2017). "Genetic epilepsy with febrile seizures plus: 
Refining the spectrum". Neurology, 89(12):1210-1219. 
Ngày nhận bài báo: 13/06/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/06/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/08/2019 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019 37
ĐẶC ĐIỂM KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ 
BỆNH NHÂN HẸP KHÍ QUẢN BẨM SINH CÓ PHẪU THUẬT 
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ THÁNG 8/2013 ĐẾN THÁNG 4/2018 
Nguyễn Hoàng Phong*, Trần Thị Mộng Hiệp*, Lại Lê Hưng* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá mô tả đặc điểm và các yếu tố tiên lượng nặng về lâm sàng và cận lâm sàng trên các 
bệnh nhân biến chứng nặng sau phẫu thuật hẹp khí quản để từ đó hạn chế tỉ lệ tử vong trên các bệnh nhân phẫu 
thuật khí quản. 
Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân được chẩn đoán xác định hẹp khí quản bẩm sinh, có chỉ định phẫu 
thuật và được phẫu thuật tại bệnh viện Nhi đồng 2 từ tháng 8/ 2013 – 4/2018. Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Xử 
lý, phân tích và đánh giá lâm sàng, cận lâm sàng, các yếu tố liên quan bằng phần mềm Stata 14. 
Kết quả: Có 43 bệnh nhân hẹp khí quản bẩm sinh, phần lớn có biểu hiện Khò khè (76,7%), suy dinh 
dưỡng mạn (51,2%); viêm phổi trước phẫu thuật (79,1%), tiền căn nhập viện (69,8%), suy hô hấp (60,5%). 
Vị trí hẹp khí quản tập trung ở vị trí 1/3 dưới khí quản (79,1%); đường kính khí quản hẹp 3,2 ± 0,75 mm, 
chiều dài đoạn hẹp 28,2 ± 12,6 mm.Qua nội soi khí phế quản bằng phế quản ống soi mềm thì vị trí hẹp khí 
quản 1/3 dưới (65,3%), đường kính khí quản hẹp 3,2 ±1,5 mm, chiều dài đoạn hẹp 33,2 ± 3,9 mm. Đa số số 
lượng tế bào bạch cầu <15,000 tế bào/mm3 (chiếm 83,7%) và nhóm CRP <20 mg/L (88,4%); cấy máu 
dương (9,3%); cấy NTA dương (23,3%); XQ phổi bất thường (34,9%); oxy liệu pháp (62,8%); thở Cannula 
(55,8%); thở NCPAP (25,6%); thở máy (16,3%); sử dụng kháng sinh (83,7%). Tỷ lệ tử vong (11,6%), thời 
gian rút NKQ >72 giờ (90,7%), thời gian nằm hồi sức >10 ngày (32,6%), nhiễm trùng hậu phẫu (11,6%), 
phẫu thuật lại (9,3%). Biến chứng hậu phẫu nặng (16,3%). Nghiên cứu tìm ra mối liên quan giữa biến chứng 
nặng hậu phẫu và đường kính khí quản bình thường; mức độ hẹp khí quản qua CT Scan ngực có cản quang 
và dựng hình, sửa chữa phế quản gốc trước phẫu thuật, thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể, cấy dịch hầu 
họng hậu phẫu, CRP hậu phẫu với p<0,05. 
Kết luận: Phẫu thuật quản lý hẹp khí quản là thách thức và đòi hỏi phương pháp tiếp cận liên chuyên khoa. 
Chuẩn bị trước phẫu thuật và lập kế hoạch chuyên khoa liên quan đến nhu cầu và thời gian phẫu thuật, kỹ thuật 
phẫu thuật tỉ mỉ, và chăm sóc hậu phẫu tích cực là chìa khóa để phẫu thuật thành công, có thể chữa trị lâu dài 
cho những bệnh nhân này. 
Từ khoá: hẹp khí quản bẩm sinh, bệnh viện Nhi đồng 2 
ABSTRACT 
TREATMENT OUTCOME OF SURGICAL CONGENITAL TRACHEAL STENOSIS PATIENTS IN 
CHILDREN’S HOSPITAL 2 FROM AUGUST 2013 TO APRIL 2018 
Nguyen Hoang Phong, Tran Thi Mong Hiep, Lai Le Hung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 38 - 46 
Objectives: To evaluate the clinical and subclinical characterization and prognostic factors in severe 
postoperative patients in order to limit mortality in patients with tracheal surgery. 
Method: Patients diagnosed with congenital tracheal stenosis, surgical indications and surgery at Children's 
Hospital 2 from August 2013 to April 2018. Case series report. Clinical, subclinical characterization and related 
factors were analysis and evaluation using STATA 14 software. 
Results: There are 43 CTSpatients, mostly with wheezing (76.7%), chronic malnutrition (51.2%); pneumonia 
before surgery (79.1%), pre-hospital admission (69.8%), respiratory failure (60.5%). The point of stenosis was 
located at 1/3 of the trachea (79.1%); the diameter of stenosis segmentwas 3.2 ± 0.75 mm, the length of 
stenosiswas 28.2 ± 12.6 mm on CT-Scan. Through bronchoscopy, The point of stenosis was located at 1/3 of the 
*Bệnh viện Nhi Đồng 2 
Tác giả liên lạc: BSCK2. Nguyễn Hoàng Phong ĐT: 0903833321 Email: 
[email protected]