Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 125
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT GÃY CHỎM QUAY MASON III 
BẰNG KIM KIRSCHNER: MỘT CHỌN LỰA KINH TẾ 
Nguyễn Tấn Luật* Đỗ Phước Hùng** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Điều trị gãy chỏm quay Mason III bao gồm lấy bỏ chỏm quay, thay chỏm quay nhân tạo hoặc kết 
hợp xương bên trong. 
Mục tiêu: Đánh giá sự phục hồi giải phẫu và chức năng, cũng như các biến chứng gặp phải của phương 
pháp kết hợp xương chỏm quay Mason III sử dụng kim Kirschner. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III được phẫu thuật kết 
hợp xương bằng kim Kirschner tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP. Hồ Chí Minh từ tháng 01/2016 đến 
tháng 12/2017. Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang. 
Kết quả: 33 bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Có 18 bệnh nhân nữ và 15 bệnh nhân nam với tuổi trung bình 
là 40. Có 23 bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III và 10 trường hợp gãy chỏm quay Mason III kèm trật khớp 
khuỷu. Thời điểm đánh giá trung bình là 11,6 tháng. Tỉ lệ liền xương là 81,8%. Tầm vận động trung bình khớp 
khuỷu đạt 1350 gấp, duỗi 90, sấp 650 và ngửa 830. Kết quả chức năng theo thang điểm Broberg và Morrey: 19 
trường hợp rất tốt, 12 tốt, 2 trung bình. Chạy kim Kirschner là biến chứng thường gặp nhất (21,2%). 
Kết luận: Phẫu thuật kết hợp xương sử dụng kim Kirschner hiệu quả cho những trường hợp gãy chỏm 
quay Mason III, giúp hạn chế việc lấy bỏ chỏm quay. 
Từ khóa: Chỏm quay, gãy xương, nhiều mảnh, kết hợp xương, kim Kirschner 
ABSTRACT 
OPEN REDUCTION AND INTERNAL FIXATION OF MASON TYPE-III RADIAL HEAD FRACTURES 
USING KIRSCHNER WIRES: AN ECONOMICAL CHOICE 
Nguyen Tan Luat, Do Phuoc Hung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 125-130 
Background: Treatment options in radial head fractures of Mason III include radial head resection, 
prosthetic replacement or open reduction and internal fixation. 
Objective: The purpose of this study was to evaluate the anatomic reduction and functional outcomes, 
complications of Mason type-III radial head fractures by open reduction with internal fixation using 
Kirschner wires. 
Materials and Methods: Retrospective Descriptive cross-sectional study. Mason type-III radial head 
fracture patients were treated with open reduction with internal fixation using Kirschner wires at Hospital for 
Traumatology and Orthopaedics from 1/2016 to 12/2017. 
Results: Thirty-three patients are included. There were 18 women and 15 men with a mean age of 40 years. 
Twenty-three fractures were Mason type III, and 10 fractures were Mason type III with elbow dislocation. The 
everage length of follow-up was 11.6 months. The union rate was 81.8%. The mean range of motion at the elbow 
joint was calculated as 90 extension to 1350 flexion, with 650 pronation and 830 supination. The Broberg and 
Morrey elbow score was excellent in 19, good in 12, and fair in 2. The most common complication was migration 
of Kirschner wires (21.2%). 
*Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình TP. Hồ Chí Minh, ** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tấn Luật ĐT: 0966817866 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 126
Conclusion: Open reduction and internal fixation using Kirschner wires is an efficient technique for Mason 
type III radial head fractures and radial head resection can be avoided. 
Keywords: radial head, fracture, comminuted, internal fixation, Kirschner wires 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chỏm quay tham gia vào 2 trong tổng số 3 
khớp vùng khuỷu nên đóng vai trò quan trọng 
trong vận động cũng như việc giữ vững khớp 
khuỷu. Vì vậy việc điều trị gãy nhiều mảnh 
(Mason III) chỏm quay đặt ra thách thức cho 
phẫu thuật viên chỉnh hình trong việc phục hồi 
giải phẫu chỏm quay cũng như chức năng vùng 
khuỷu. Lấy bỏ chỏm quay là giải pháp cho kết 
quả bước đầu khá tốt, tuy nhiên có những biến 
chứng như mất vững khuỷu, khuỷu vẹo ngoài 
hay liệt trụ muộn(3,5). Thay chỏm quay giúp hạn 
chế những biến chứng liên quan đến lấy bỏ 
chỏm(7). Tuy vậy cũng có những biến chứng liên 
quan đến chỏm quay nhân tạo như giới hạn vận 
động, thoái hóa khớp cũng như có chi phí cao và 
hiện tại không có sẵn tại Việt Nam. Vì vậy phẫu 
thuật kết hợp xương để bảo tồn chỏm quay vẫn 
được xem là giải pháp phù hợp. Đã có một số tác 
giả nước ngoài báo cáo về điều trị gãy chỏm 
quay Mason III bằng nẹp vít như Ikeda(4), 
Nalbantoglu(11) hay bằng kim Kirschner (hệ 
thống FFS: fragment fixation system) như 
Koslowsky(9) cho kết quả khá tốt dù cỡ mẫu còn 
nhỏ cũng như những hạn chế về khả năng nắn 
chỉnh hay giới hạn vận động. Nguyễn Minh 
Tùng (12) báo cáo kết quả kết hợp xương chỏm 
quay bằng nẹp, vít nhỏ, kim Kirschner với hầu 
hết là gãy chỏm quay Mason II (21/34 trường 
hợp). Hiện nay, kim Kirschner là dụng cụ kết 
hợp xương khá phổ biến tại Việt Nam với chi 
phí thấp, dù vậy nghiên cứu của phương pháp 
này đối với gãy nhiều mảnh chỏm quay vẫn 
chưa có. Kết quả điều trị như thế nào vẫn còn là 
câu hỏi. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Các bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III đã 
được phẫu thuật kết hợp xương bên trong bằng 
kim Kirschner tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh 
hình TP. Hồ Chí Minh từ tháng 1/2016 đến tháng 
12/2017 được ghi nhận. Tất cả đều được phẫu 
thuật ít nhất 6 tháng tại thời điểm lấy mẫu. 
Những bệnh nhân có gãy xương khác vùng 
khuỷu kèm theo, có di chứng hay bệnh lí trước 
đó ở chi bị gãy được loại khỏi nghiên cứu. 
Bảng 1. Thang điểm chức năng Broberg và Morrey 
Mô tả Điểm 
Biên độ vận động: Biên độ gấp duỗi khuỷu (0,2 x độ) 
Độ sấp cẳng tay (0,1 x độ) 
Độ ngửa cẳng tay (0,1 x độ) 
27 
6 
7 
Sức cơ: Bình thường 
Giảm ít (có nhận biết nhưng không giới hạn hoạt động, khoảng 80% tay lành) 
Giảm vừa (giới hạn đến một số hoạt động, khoảng 50% tay lành) 
Giảm nhiều (hạn chế hoạt động hằng ngày, mất chức năng) 
20 
13 
5 
0 
Độ vững: Bình thường 
Mất vững nhẹ (nhận biết bởi bệnh nhân, không ảnh hưởng hoạt động) 
Mất vững trung bình (ảnh hưởng đến một số hoạt động) 
Mất vững nặng (ảnh hưởng đến mọi hoạt động hằng ngày) 
5 
4 
2 
0 
Đau: Không đau 
Đau nhẹ (khi làm việc, không cần dùng thuốc giảm đau) 
Đau vừa (đau khi làm việc, buộc phải sử dụng thuốc giảm đau) 
Đau nặng (khi nghỉ, cần dùng thuốc liên tục, mất chức năng) 
35 
28 
15 
0 
Những thông tin từ bệnh nhân và hồ sơ lưu 
trữ giúp ghi nhận đặc điểm tổn thương cũng 
như những xử trí đã được thực hiện. Bệnh nhân 
được chụp X quang khớp khuỷu đúng chuẩn tại 
thời điểm lấy mẫu để đánh giá sự liền xương, 
các biến chứng như chạy kim, tạo xương lạc chỗ. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 127
Bệnh nhân được thăm khám để ghi nhận tầm 
vận động gấp – duỗi khuỷu và sấp – ngửa cẳng 
tay, góc mang, độ vững dạng, khép và sau ngoài 
của khớp khuỷu. Sức nắm bàn tay được đo bằng 
máy đo lực kế Jamar. Kết quả chức năng được 
xếp thoại theo thang điểm Broberg và Morrey, 
với: 95 – 100 điểm, rất tốt; 80 – 94 điểm, tốt; 60 – 
79, trung bình; 0 – 59, kém. 
KẾT QUẢ 
Có 33 bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên 
cứu (nữ: 18, nam: 15), thời điểm đánh giá trung 
bình 11.6 tháng sau phẫu thuật (6 – 22 tháng). 
Hầu hết bệnh nhân gãy chỏm quay từ 3 mảnh 
trở lên (57,6%), 7 trường hợp gãy cổ xương quay 
kèm theo. Có 10 trường hợp (TH) gãy chỏm 
quay kèm theo trật khớp khuỷu, sau khi kết hợp 
xương có 2 TH được khâu phục hồi dây chằng 
bên ngoài, 2 TH khâu phục hồi dây chằng bên 
trong lẫn bên ngoài và 2 TH được xuyên kim 
Kirschner đường kính lớn (2,0 – 2,4 mm) cố định 
khớp khuỷu tư thế 900. Bệnh nhân sau khi kết 
hợp xương bằng kim Kirschner được mang nẹp 
bất động trung bình 4,03 tuần (2 – 10 tuần), sau 
đó được hướng dẫn tập vật lí trị liệu tại nhà. 
Phục hồi giải phẫu 
Sự phục hồi mặt khớp đạt được: 27 TH cấp 
kênh mặt khớp dưới 1 mm, 5 TH từ 1 – 2 mm, 1 
TH trên 2 mm trên phim X quang ngay sau mổ. 
Trục cổ - chỏm quay trên mặt phẳng trán trung 
bình 60 (2,20 – 170), mặt phẳng đứng dọc 8,50 (30 – 
16,10). Có 27 TH liền xương, 6 TH không liền 
xương đều là giữa chỏm và cổ xương quay. 
Phục hồi chức năng 
Tầm vận động gấp đạt được trung bình 1350 
(khoảng 1200 – 1500), hạn chế duỗi 90 (khoảng 00 
– 250). Tầm vận động sấp và ngửa cẳng tay trung 
bình là 650 (400 – 800) và 830 (450 – 1000), tương 
ứng. Không có bệnh nhân nào cứng khớp 
khuỷu. Sức nắm bàn tay trung bình 31,6 ± 9,4 kg, 
giảm 3,27 kg so với tay lành (p=0,001). Góc mang 
trung bình 11,70 ± 3,80, tăng so với bên lành 1,760 
(p=0,000). Kết quả chức năng đạt được theo 
thang điểm Broberg và Morrey: 19 rất tốt, 12 tốt 
và 2 trung bình. Quá trình tập vật lí trị liệu sau 
mổ là yếu tố có liên quan đến kết quả phục hồi 
chức năng (p=0,034). Tất cả bệnh nhân đều quay 
trở lại công việc trước đó. 
Biến chứng 
Biến chứng chạy kim xảy ra ở 7 trường hợp, 
tổng cộng 11 trên 125 được sử dụng bị chạy 
(8%). Những bệnh nhân này phải tháo kim bị 
chạy sau đó. Có 4 TH mất vững dạng khớp 
khuỷu mức độ nhẹ, tất cả đều có trật khớp 
khuỷu kèm theo. Không có trường hợp nào 
nhiễm trùng hay tổn thương thần kinh. 
BÀN LUẬN 
Phục hồi giải phẫu 
Sự phục hồi mặt khớp trong nghiên cứu của 
chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của 
Koslowsky (2007)(8). Ngoài ra, góc cổ – chỏm 
quay gần giống với kết quả của Lê Nguyên Bình 
đo trên mẫu xương tươi người Việt Nam là 3,410 
và 7,580 tương ứng trên mặt phẳng trán và đứng 
dọc(10). Tất cả kim Kirschner được dùng đề kết 
hợp xương đều là loại có ren ở phần đầu xa, 
đường kính nhỏ từ 1,0 đến 1,25mm, có thể gắn 
trực tiếp vào mảnh gãy bằng máy khoan, chiều 
dài tùy chỉnh. Phẫu thuật viên có thể chỉnh 
hướng, chiều dài kim. Điều này giúp giữ các 
mảnh gãy nhỏ và hạn chế sự di lệch các mảnh 
gãy giữa lúc khoan và bắt vít. 
Trong nghiên cứu cứu của chúng tôi tất cả 
các trường hợp đều được xuyên ít nhất 2 kim 
Kirschner chéo từ chỏm xuống thân xương, 
tương tự với kỹ thuật của Koslowsky(9). Tuy 
nhiên có 5/33 TH kim chéo này không đi qua 
được vùng vỏ xương cứng và chỉ có 1 TH trong 
số này liền xương. Khớp khuỷu ngoài vận động 
bản lề còn có vận động xoay, vì vậy cần đảm bảo 
độ vững giữa chỏm với thân xương quay. Để đạt 
được điều này, Ikeda đã sử dụng 2 nẹp chữ T 
với trên tất cả bệnh nhân gãy nhiều mảnh chỏm 
quay(4). Tuy nhiên nghiên cứu thực nghiệm cho 
thấy khả năng chịu lực của nẹp vít kém hơn 2 
lần so với kim Kirschner hay vit nhỏ(8). Như vậy 
cần tối thiểu hai kim xuyên chéo để giữ chỏm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 128
với thân xương và phải xuyên vào vùng vỏ 
xương cứng để đủ vững. Có thể thấy kết hợp 
xương bằng kim Kirschner phục hồi hầu hết các di 
lệch nhưng độ vững còn phụ thuộc vào mức độ 
phức tạp của mảnh gãy và kĩ thuật kết hợp xương. 
Hình 1 Bệnh nhân nam 39 tuổi chỏm quay gãy 4 mảnh, được kết hợp xương bằng kim Kirschner (a,b.); Bệnh 
nhân nam không liền xương, 2 kim Kirschner từ chỏm xuống thân bị chạy (c) 
Tỉ lệ liền xương đạt được là 81,8%. Có nhiều 
nguyên nhân được đưa ra để giải thích cho sự 
không liền xương sau khi gãy chỏm quay (6, 13). 
Nguồn cung cấp máu cho chỏm quay bị cắt đứt 
lúc chấn thương được xem là nguyên nhân 
chính. Ngoài ra, bóc tách quá nhiều làm mất 
nguồn cung cấp máu cho mảnh gãy, phương 
pháp kết hợp xương không tốt hay tập vận động 
quá sớm trong khi cố định không đủ vững chắc 
cũng có thể gây ra không liền xương. 
Cả 6 TH không có sự liền xương đều giữa 
chỏm và thân xương, 3/6 TH này có sự di lệch 
thứ phát giữa chỏm và thân xương. Ngoài ra, 5/6 
TH có gãy cổ xương quay kèm theo, 4/6 trường 
hợp còn khoảng trống hơn 2 mm giữa chỏm và 
thân xương quay trên phim X quang sau mổ, 
không có trường hợp nào được ghép xương 
trong lúc phẫu thuật. Trái lại các tác giả khác chủ 
động ghép xương xốp cho các trường hợp gãy 
nhiều mảnh (Ikeda 10/10 TH, Nalbantaglu 4/25 
TH)(4,11). Vì vậy theo chúng tôi cần đảm bảo 
vững chắc giữa chỏm và thân xương và ghép 
xương nên được cân nhắc khi có tình trạng gãy 
lún chỏm quay hay vùng cổ xương quay. 
Phục hồi chức năng 
Ikeda báo cáo 10 trường hợp gãy chỏm quay 
Mason III được kết hợp xương bên trong bằng 
nẹp nhỏ chữ T, với điểm chức năng trung bình 
91, tầm vận động khớp khuỷu là 70 duỗi đến 1350 
gấp, 740 sấp và 850 ngửa. Nalbantoglu với 25 
bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III, trong đó 
có 7 ca trật khớp khuỷu kèm theo được kết hợp 
xương bên trong bằng nẹp nhỏ và vít nhỏ. Điểm 
chức năng cho nhóm 1 (không trật khớp khuỷu) 
và nhóm 2 (có trật khớp khuỷu) lần lượt là 88 và 
87. Tầm vận động trung bình là 00 – 50 – 1360 ở 
nhóm 1 và 00 – 70 – 1330 ở nhóm 2. Tầm vận động 
sấp – ngửa cẳng tay trung bình 670 và 740 cho cả 
2 nhóm. Koslowsky dùng hệ thống FFS trên 23 
bệnh nhân gãy chỏm quay Mason III gồm 12 ca 
không trật khớp khuỷu (nhóm 1) và 11 ca có trật 
khớp khuỷu (nhóm 2). Tầm vận động gấp – duỗi 
khuỷu trung bình 00 – 50 – 1300 ở cả 2 nhóm, sấp 
– ngửa là 850 – 00 – 850 và 850 – 00 – 700 tương ứng 
với nhóm 1 và 2. Điểm chức năng trung bình là 
97 cho cả 2 nhóm. 
Tầm vận động khớp khuỷu trong nghiên 
cứu của chúng tôi trung bình 90 duỗi và 135,20 
gấp, trung bình 650 sấp và 82,30 ngửa, điểm chức 
năng trung bình 94,6 điểm. Kết quả này cũng 
tương đồng với các nghiên cứu của những tác 
giả trên. 
Kết quả trong nghiên cứu lấy bỏ chỏm quay 
của Đỗ Hồng Phúc cho thấy cung gấp – duỗi đạt 
76,37% và cung sấp – ngửa đạt 91,92% so với tay 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 129
lành. Tỉ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi là 
90,11% và 91,39% tương ứng, có thể thấy việc lấy 
bỏ chỏm không giúp cải thiện tầm vận động hơn 
so với bảo tồn chỏm quay. 
Có 6/33 TH (18,2%) ghi nhận sức cơ giảm 
nhẹ. Trong số đó có 5 bệnh nhân nữ (4 TH >50 
tuổi, 1 TH 37 tuổi), 1 bệnh nhân nam không liền 
xương đã được lấy bỏ chỏm quay. Sức nắm bàn 
tay bên bệnh giảm trung bình 3,3 kg so với bên 
lành, tương đương 10,4% (p = 0,001), không có 
bệnh nhân nào cảm thấy trở ngại trong công việc 
và sinh hoạt. Các báo cáo của nhiều tác giả đều 
ghi nhận không có tỉ lệ nhất định về sức nắm 
bàn tay giữa tay thuận và không thuận, cũng 
như phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như giới, 
tay thuận là phải hay trái(1). Tỉ lệ này trong 
nghiên cứu trên những bệnh nhân được lấy bỏ 
chỏm quay của Đỗ Hồng Phúc là 20%(3), Antuna 
là 16%(1). Như vậy so với lấy bỏ chỏm quay, bảo 
tồn chỏm giúp giảm ảnh hưởng lên sức cơ và 
sức nắm bàn tay. 
Chúng tôi ghi nhận có 19 TH rất tốt, 12 TH 
tốt, 2 TH kết quả trung bình. Trong đó có một 
bệnh nhân 76 tuổi, gãy chỏm quay kèm trật 
khớp khuỷu, liền xương nhưng có sức cơ giảm, 
cảm thấy đau nhẹ khi làm việc. Trường hợp còn 
lại đau mức độ trung bình, tăng khi làm việc, đôi 
khi phải sử dụng thuốc giảm đau. Khi so sánh 
kết quả với các nghiên cứu về gãy nhiều mảnh 
chỏm quay, tỉ lệ rất tốt và tốt của nghiên cứu này 
đạt 93,9%, cao hơn Ikeda (90%)(4), Koslowsky 
(87%)(9), Đỗ Hồng Phúc (90,1%)(3). Kết quả này có 
thể do bảng đánh giá chủ yếu tập trung vào biên 
độ vận động và tình trạng đau, 2 tiêu chí nghiên 
cứu này đạt kết quả rất tốt. 
Biến chứng 
Một trong những biến chứng hay gặp của 
kết hợp xương bằng kim Kirschner là sự di lệch 
kim khỏi vị trí ban đầu. Koslowsky ghi nhận 
2/23 TH chạy một phần kim phải phẫu thuật 
tháo dụng cụ, tất cả đều liền xương(9). Con số đó 
của chúng tôi là 7/33 TH (21,2%), tổng số kim bị 
chạy là 11/125 kim (8%). Có 2/7 TH này không 
liền xương, mà một trong số đó phải lấy bỏ 
chỏm quay sau 3 tháng, trường hợp còn lại chạy 
cả 2 kim xuyên từ chỏm xuống thân gây di lệch 
thứ phát cả khối chỏm quay. Mặc dù không có 
tổn thương nghiêm trọng như mạch máu, thần 
kinh do kim chạy gây ra tuy nhiên cũng có 2 
bệnh nhân có kim chạy đâm ra da phải mổ lấy 
những kim này trước khi tháo dụng cụ. Tất cả 
kim Kirschner được sử dụng là loại có ren nhằm 
tăng khả năng kết dính với xương, dù vậy vẫn 
có khả năng kim bị chạy sau đó. Chúng tôi cho 
rằng có thể hạn chế kim Kirschner bị chạy nếu 
thực hiện đúng kĩ thuật xuyên kim, kim chéo giữ 
chỏm vào thân xương được xuyên vào vỏ cứng 
và kim ngang giữ các mảnh chỏm quay phải đủ 
vững, hạn chế số lần xuyên tránh mất xương. 
Có 4 trường hợp (12,1%) mất vững dạng, tất 
cả đều có trật khớp khuỷu trước đó. Trong đó có 
2 TH đã được khâu phục hồi dây chằng bên 
trong và bên ngoài, 2 TH không được khâu phục 
hồi dây chằng. Các tác giả Ikeda(4), 
Nalbaltoglu(11) đều khâu phục hồi dây chằng bên 
trong, bên ngoài hay sử dụng bất động ngoài 
Orthofix (Koslowsky(9)) cho tất cả các trường 
hợp có tổn thương(9) và không ghi nhận mất 
vững sau đó. Trong khi đó Đỗ Hồng Phúc ghi 
nhận có đến 78,8% các trường hợp có mất vững 
khuỷu ở mức độ từ nhẹ đến nặng sau khi lấy bỏ 
chỏm quay ở những bệnh nhân gãy nhiều mảnh 
mà không có trật khớp(3). Như vây bên cạnh bảo 
tồn chỏm quay cần phục hồi tổn thương dây 
chằng để cải thiện kết quả điều trị. 
KẾT LUẬN 
Gãy chỏm quay Mason III có thể được nắn 
chỉnh và phục hồi giải phẫu mặt khớp và trục cổ 
– chỏm về vị trí di lệch chấp nhận được với tỉ lệ 
liền xương khá cao. Gãy lún mất xương hay gãy 
cổ chỏm quay kèm theo cộng với sự cố định 
không đủ vững giữa chỏm và thân xương là 
những yếu tố ảnh hưởng đến sự liền xương. 
Mặc dù kết hợp xương chỏm quay bằng kim 
Kirschner là loại không vững và cần có một thời 
gian bất động sau mổ nhưng kết quả phục hồi 
tầm vận động gấp duỗi khuỷu và sấp ngửa cẳng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 130
tay gần như hoàn toàn. Quá trình tập vật lí trị 
liệu sau phẫu thuật là yếu tố có ảnh hưởng đến 
kết quả phục hồi chức năng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Antuna SA, Sanchez-Marquez JM, and Barco R (2010). Long-
term results of radial head resection following isolated radial 
head fractures in patients younger than forty years old. J Bone 
Joint Surg Am, 92(3): pp. 558-66. 
2. Bohannon RW (2003). Grip strength: a summary of studies 
comparing dominant and nondominant limb measurements. 
Percept Mot Skills, 96(3 Pt 1): pp. 728-30. 
3. Đỗ Hồng Phúc (2012). Đánh giá kết quả điều trị gãy nát chỏm 
quay ở người lớn bằng phẫu thuật lấy bỏ chỏm. Luận văn thạc 
sĩ. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
4. Ikeda M, Mamashina Y, Kamimoto M, Oka Y (2003). Open 
reduction and internal fixation of comminuted fractures of the 
radial head using low-profile mini-plates. The Journal of Bone 
and Joint Surgery. British volume, 85-B(7): pp. 1040-1044. 
5. Jordan RW and Jones ADR. (2017). Radial Head Fractures. The 
Open Orthopaedics Journal, 11: pp. 1405-1416. 
6. Kang HJ, Shin SJ, and Kang SS (2012). Nonunion of the radial 
neck following operative treatment for displaced radial head 
and neck fractures. Acta Orthop Belgm 78(5): pp. 597-602. 
7. Kodde IF, Kaas L, Flipsen M, van den Bekerom MP, et al. 
(2015). Current concepts in the management of radial head 
fractures. World Journal of Orthopedics, 6(11): pp. 954-960. 
8. Koslowsky TC, Mader K, Dargel J, Koebke J (2007). 
Reconstruction of a Mason type-III fracture of the radial head 
using four different fixation techniques. J Bone Joint Surg Br, 
89(11): pp. 1545-1550. 
9. Koslowsky TC, Mader K, Gausepohl T, Pennig D (2007). 
Reconstruction of Mason type-III and type-IV radial head 
fractures with a new fixation device: 23 patients followed 1–4 
years. Acta Orthopaedica, 78(1): pp. 151-156. 
10. Lê Nguyên Bình (2017). Khảo sát đặc điểm giải phẫu ứng 
dụng chỏm xương quay. Luận văn Bác sĩ nội trú. Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh. 
11. Nalbantoglu U, Kocaoglu B, Gereli A, Aktas S (2007). Open 
reduction and internal fixation of Mason type III radial head 
fractures with and without an associated elbow dislocation. J 
Hand Surg Am, 32(10): pp. 1560-8. 
12. Nguyễn Minh Tùng (2014). Đặc điểm tổn thương và kết quả 
phẫu thuật gãy kín chỏm xương quay do chấn thương tại 
bệnh viện 103. Tạp chí Y Học Thực Hành, 1: pp. 40-45. 
13. Yamaguchi K, Sweet FA, Bindra R, Morrey BF, et al. (1997). 
The extraosseous and intraosseous arterial anatomy of the 
adult elbow. J Bone Joint Surg Am, 79(11): pp. 1653-62 
Ngày nhận bài báo: 8/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019