Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may VINATEXIMEX trên thị trường EU

Tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may VINATEXIMEX trên thị trường EU: Xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất - XNK dệt may VINATEXIMEX trên thị trường EU MỤC LỤC Danh mục bảng biểu đồ Bảng 1.2: Cơ cấu mặt hàng kinh doanh của công ty qua các năm(2004-2007) 7 Bảng 1.3: Cơ cấu lao động của công ty qua các năm( 2005-2008) 8 Bảng 1.4 : Cơ cấu nguồn vốn của công ty Vinateximex (2005- 2008) 11 Bảng 1.5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 12 Bảng 2.1 :Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty VinatexImex Từ năm 2004-2008 23 Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may của công ty VinatexImex sang các thị trường chính qua các năm 2004-2008 23 Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2004-2008) 25 Bảng 2.3: Kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may qua một số nước EU năm 2008 26 Bảng 2.4: Gía trị xuất khẩu theo mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2006-2008) 27 Biểu đồ 2.2: Cơ cấu chi phí mặt hàng may của công ty năm 2007 32 LỜI MỞ ĐẦU Hàng may mặc của công ty S...

doc63 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1006 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may VINATEXIMEX trên thị trường EU, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất - XNK dệt may VINATEXIMEX trên thị trường EU MỤC LỤC Danh mục bảng biểu đồ Bảng 1.2: Cơ cấu mặt hàng kinh doanh của công ty qua các năm(2004-2007) 7 Bảng 1.3: Cơ cấu lao động của công ty qua các năm( 2005-2008) 8 Bảng 1.4 : Cơ cấu nguồn vốn của công ty Vinateximex (2005- 2008) 11 Bảng 1.5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 12 Bảng 2.1 :Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty VinatexImex Từ năm 2004-2008 23 Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may của công ty VinatexImex sang các thị trường chính qua các năm 2004-2008 23 Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2004-2008) 25 Bảng 2.3: Kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may qua một số nước EU năm 2008 26 Bảng 2.4: Gía trị xuất khẩu theo mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2006-2008) 27 Biểu đồ 2.2: Cơ cấu chi phí mặt hàng may của công ty năm 2007 32 LỜI MỞ ĐẦU Hàng may mặc của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may là một trong những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao so với nhiều mặt hàng khác. Trong nhiều năm, hàng may mặc xuất khẩu trở thành mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu hàng hoá của công ty, hàng may mặc luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Thị trường EU là một trong những thị trường chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động thương mại của công ty. EU được xem là một trong những thị trường trọng điểm đối với mặt hàng may mặc xuất khẩu của công ty do EU mở rộng từ 15 quốc gia thành viên lên 27 quốc gia, là thị trường đông dân cư, mức chi tiêu cho hàng may mặc lớn. EU là một thị trường rộng lớn, đa dạng có nhiều triển vọng cho hàng xuất khẩu của công ty... nhưng cũng là một thị trường "sang trọng" và "khó tính". Chinh phục thị trường này là một điều không dễ, nhất là khi công ty phải cạnh tranh với hàng may mặc của Trung Quốc, một cường quốc về các mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, trong nhiều năm kim ngạch và thị phần xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường EU tăng giảm không ổn định. Để góp phần vào việc nâng cao hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trên thị trường quốc tế nói chung và thị trường EU nói riêng nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO. Em đã quyết định chọn đề tài: “ Xuất khẩu hàng dệt may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may VINATEX IMEX trên thị trường EU”. * Mục đích nghiên cứu. Nêu lên thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trên thị trường EU, từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trên thị trường EU. * Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu thực tiễn hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trên thị trường EU. - Phạm vi nghiên cứu là tập trung vào thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trên thị trường EU và các giải pháp để nâng cao hoạt động xuất khẩu hàng dệt may cho công ty trên thị trường, đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với chính phủ và các bộ ngành liên quan. - Thời gian nghiên cứu là từ năm 2003 đến năm 2008. * Bố cục của chuyên đề. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục chuyên đề chia làm ba chương: CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY SX _ XNK DỆT MAY VINATEX IMEX CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY SX _ XNK DỆT MAY VINATEX IMEX SANG THỊ TRƯỜNG EU CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY SX _ XNK DỆT MAY VINATEX IMEX SANG THỊ TRƯỜNG EU CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY SẢN XUẤT – XUẤT NHẬP KHẨU DỆT MAY VINATEX IMEX 1.1. Giới thiệu khái quát về công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may 1.1.1. Thông tin chung về công ty Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May là doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty Dệt May Việt Nam và là đơn vị kinh doanh thương mại hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước. Tên giao dịch quốc tế: The Garment-Textiles Import-and Production Corporation; Tên viết tắt:VINATEXIMEX. Trụ sở chính được đặt tại: số 20 Đường Lĩnh Nam-Quận Hoàng Mai-Tp Hà Nội Giấy phép đăng ký kinh doanh số 0116000693 Văn phòng tại TP Hồ Chí Minh: P.205, Số 4, Lê Lợi, Phường Bến Nghé, Quận 1 , Tp Hồ Chí Minh 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Được thành lập từ ngày 29 tháng 4 năm 1995, đến ngày 21 tháng 2 năm 2006 hợp nhất Công ty Xuất nhập khẩu Dệt May và Công ty Dịch vụ Thương mại số 1 thành Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May . Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May tiền thân là công ty Xuất nhập khẩu Dệt May. Khi mới thành lập công ty Xuất nhập khẩu Dệt May đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Tổng công ty và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan. Lúc mới thành lập công ty chỉ có 4 phòng bao gồm phòng Tài chính kế toán, phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp, phòng Xuất nhập khẩu dêt-may, phòng kinh doanh vật tư dệt may. Số vốn ban đầu của công ty như sau: Tổng số vốn pháp định ban đầu của công ty: 1.562.500 triệu đồng Trong đó: Vốn cố định: 1.015.360 triệu đồng Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng Vốn điều lệ: 30.338 triệu đồng Đến năm 2002 công ty thành lập thêm 2 phòng mới là phòng Tổ chức hành chính và phòng Kế hoạch thị trường nay gọi là phòng kế hoạch tổng hợp Đến năm 2003 công ty thành lập thêm phòng dự án để đảm bảo các hoạt động kinh doanh trong công ty không bị chồng chéo tránh một phòng phải đảm nhận nhiều công việc một lúc làm giảm hiệu quả kinh doanh của công ty. Với sự phát triển không ngừng qua các năm, theo đó quy mô của công ty ngày càng lớn mạnh. Bảng 1.1. Cơ cấu nguồn vốn của công ty Vinateximex (2005- 2008) Stt Năm Vốn 2005 2006 2007 2008 triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % 1 Vốn CSH 25.330 11,91 45.137 21,08 66.150 25,39 72.028 23,67 2 vốn vay tín dung 119.773 56,31 169.230 79,04 241.941 92,86 256.341 84,30 3 Vốn lưu động 208.463 98,01 210.002 98,08 253.781 97,4 294.372 96,81 4 Vốn cố định 4.229 1,99 4.116 1,92 6.773 2,60 9.714 3,20 Tổng nguồn vốn 212.692 100 214.118 100 260.554 100 304.086 100 {Nguồn: Phòng tài chính kế toán công ty VinatexImex} 1.1.3. Mô hình tổ chức sản xuất và bộ máy quản trị 1.1.3.1. Mô hình tổ chức sản xuất: Công ty sau khi chào hàng, nhận được đơn hàng tiến hành xúc tiến tìm các nguồn hàng hoặc tìm các đối tác để sản xuất sản phẩm sau đó giao thành phẩm cho khách hàng. Để thuận tiện cho việc giao nhận hàng và tìm đối tác làm ăn công ty đã có 2 văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh và Hải Phòng. Các doanh nghiệp mà công ty thường hợp tác để sản xuất hàng của như công ty May Vị Hoàng ở Hà Nội, công ty May Thái Hà ở Thái Bình, công ty May Hoa Phượng ở Nam Định... để đảm bảo đáp ứng đơn hàng cho khách hàng một cách tốt nhất. 1.1.3.2. Bộ máy quản trị: 1.1.4. Lĩnh vực kinh doanh của công ty Công ty có nhiệm vụ kinh doanh rất nhiều các ngành, nghề, lĩnh vực quy định trong Giấy phép đăng ký kinh doanh cụ thể gồm các mặt sau: -Công nghiệp dệt may Kinh doanh nguyên liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, sản xuất kinh doanh hàng dệt may gồm các chủng loại xơ, vải, hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn bông len, thảm đay tơ, tơ tằm. Kinh doanh nguyên liệu bông xơ, kiểm nghiệm chất lượng bông xơ phục vụ cho sản xuẩt kinh doanh và nghiên cứu khoa học. -Xuất nhập khẩu Hàng dệt may(gồm các chủng loại bông xơ, sợi,vải, hàng may mặc, dệt kim,chỉ khâu, khăn bông, len, thảm, đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu), thiết bị phụ tùng ngành dệt may, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm. Hàng công nghệ thực phẩm, Nông, lâm, hải sản, Thủ công mỹ nghệ, Ô tô, xe máy, các mặt hàng tiêu dùng khác,Trang thiết bị văn phòng, Thiết bị tạo mẫu thời trang,Phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử, cao su. -Dịch vụ Thi công, lắp đặt hệ thống điện dân dụng, công nghiệp phục vụ ngành dệt may, Thi công lắp đặt hệ thống điện lạnh, Tư vấn, Thiết kế quy trình công nghệ, bố trí máy móc thiết bị cho ngành dệt may, da giầy, lắp đặt hệ thống điện công nghiệp, hệ thống cẩu, thang nâng hạ, thang máy. Sản xuất kinh doanh, sửa chữa, lắp đặt các sản phẩm cơ khí và máy móc thiết bị công nghiệp. Thực hiện các dịch vụ thương mại và công việc có tính chất công nghiệp dịch vụ đào tạo nghề may công nghiệp. Uỷ thác mua bán xăng dầu. Kinh doanh kho vận, kho ngoại quan, Dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng, văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước. -Kinh doanh thương mại Kinh doanh hàng công nghệ phẩm: Nông, lâm, hải sản,Thủ công mỹ nghệ, Ô tô, xe máy, Các mặt hàng công nghệ tiêu dùng khác, Thiết bị phụ tùng ngành dệt may, Trang thiết bị văn phòng, Văn phòng phẩm, Thiết bị tạo mẫu thời trang, Phương tiện vận tải, Vật liệu điện, điện tử, đồ nhựa, cao su, Nước uống dinh dưỡng và mỹ phẩm các loại, Phụ tùng, máy móc, thiết bị phục vụ công nghiệp, Dụng cụ quang học, hệ thống kiểm tra đo lường phục vụ các công tác thí nghiệm, Phế liệu và thành phẩm sắt, thép và kim loại mầu. Cho thuê nhà phục vụ các mục đích kinh doanh( kiốt, trung tâm thương mại), Cho thuê kho, bãi đậu xe, dịch vụ giữ xe, Mua bán hàng dệt may thời trang, thực phẩm công nghệ, hoá mỹ phẩm, nông ,lâm, hải sản, thủ công mỹ nghệ, thiết bị văn phòng, văn phòng phẩm, vật liệu điện, điện tử, đồ nhựa, hàng công nghiệp tiêu dùng khác, Cho thuê nhà xưởng, Dịch vụ cho thuê nhà ở. Bảng 1.2: Cơ cấu mặt hàng kinh doanh của công ty qua các năm(2004-2007) ĐVT: 1000 USD Stt Năm Mặt hàng 2004 2005 2006 2007 1 May mặc 19.789 17.009 22.145 25.681 2 Hàng dệt 12.123 13.012 15.789 18.053 3 Thiết bị dệt may 3.789 6.501 7.560 9.325 4 Mặt hàng khác 259 430 498 578 Tổng giá trị 35.960 35.952 45.992 53.637 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm (2004-2007) Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy một cách tổng quát rằng trong số các mặt hàng kinh doanh của công ty thì hàng may mặc là mặt hàng sản xuất và kinh doanh chủ yếu của công ty, và do đó nó cũng là mặt hàng góp phần tạo ra doanh thu chủ yếu cho công ty. Tiếp đến là các mặt hàng dệt và thiết bị dệt may cũng chiếm đáng kể, còn các mặt hàng khác như mũ, vải, màn tuyn... cũng được công ty kinh doanh thêm để tăng doanh thu, lợi nhuận thêm cho công ty. Tuy trị giá các mặt hàng kinh doanh của công ty tăng giảm không ổn định nhưng qua các năm tổng giá trị các mặt hàng kinh doanh của công ty vẫn tăng đều đặn tuy năm 2005 tổng trị giá có giảm nhưng không đáng kể. Điều đó, chứng tỏ công ty đã có sự điều chỉnh trong cơ cấu mặt hàng kinh doanh một cách hợp lý. 1.2. Một số Đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của công ty 1.2.1. Đặc điểm về lao động Lao động là yếu tố rất quan trọng trong công ty, vì thế hàng năm công ty đã có những thay đổi hợp lý về cơ cấu lao động và có những chính sách tuyển dụng, khuyến khích lao động để họ lao động với năng suất cao hơn, trên cơ sở đó làm tăng tính cạnh tranh cho các mặt hàng kinh doanh của công ty. Bảng 1.3: Cơ cấu lao động của công ty qua các năm( 2005-2008) Stt Năm Lao động 2005 2006 2007 2008 Người % Người % Người % Người % 1 LĐ quản lý 18 15,3 21 16,5 32 24,4 35 18 2 LĐ nam 51 43,2 50 39,4 53 40,5 92 47,4 3 LĐ nữ 67 56,8 77 60,6 78 59,5 102 52,6 4 LĐ có trình độ trên ĐH 2 1,7 4 3,1 5 3,8 8 4,1 5 LĐ có trình độ ĐH 54 45,8 79 62,3 90 68,7 143 73,7 6 LĐ có trình độ dưới ĐH 62 52,5 44 34,6 36 27,5 45 26,3 7 LĐ thành thạo tiếng anh 19 16,1 29 22,8 30 22,9 43 22,2 8 LĐ trên 40 tuổi 49 41,5 63 49,6 64 48,9 108 55,7 Tổng lao động 118 127 131 194 {Nguồn: Phòng tổ chức hành chính công ty VinatexImex} Qua bảng trên ta thấy: Tình hình lao động của công ty qua các năm có nhiều biến đổi theo chiều hướng có lợi. Số lao động trong công ty tăng liên tục từ 118 lao động năm 2005 tăng lên 194 lao động năm 2008. Tuy nhiên, số lượng lao động trẻ dưới 40 tuổi hơi ít, phần lớn là lao động trên 40 tuổi cụ thể năm 2008 tăng 16% so với năm 2005. Điều này thể hiện công ty có đội ngũ lao động giàu kinh nghiệm, nhưng tính năng động và linh hoạt không cao so với đội ngũ lao động trẻ. Số lao động làm trong lĩnh vực quản lý tăng đều qua các năm từ 18 người năm 2005 tăng lên 35 người vào năm 2008 do yêu cầu thực tế của công ty đó là tăng lĩnh vực kinh doanh, tăng thị trường… - Về cơ cấu lao động theo giới: Số lao động nam trong công ty qua các năm đã tăng năm 2005 có 51 lao động nam thì năm 2008 là 92 người. Tuy nhiên số lao động nữ vẫn chiếm đa số, mức độ chênh lệch về số lượng lao động nam và nữ trong công ty qua các năm là không đều nhau năm 2005 số lao động nữ nhiều hơn số lao động nam là 14%, năm 2006 là 21%, năm 2007 là 19%, năm 2008 là 5%. - về cơ cấu lao động theo trình độ: Trình độ của người lao động trong công ty ngày càng được cải thiện và nâng cao. Số lượng lao động có trình độ trên ĐH từ lúc có 2 người vào năm 2005 thì sau 3 năm đến năm 2008 số lao động có trình độ trên ĐH là 8 người. Số lao động có trình độ ĐH liên tục tăng qua các năm, từ 43% năm 2005 đến 2008 là 75%. Điều đó chứng tỏ công ty luôn luôn quan tâm đến tuyển dụng, đào tạo để nâng cao trình độ và năng lực cho đội ngũ lao động trong công ty. Số lao động có trình độ từ CĐ trở xuống ngày càng giảm từ 52% năm 2005 xuống còn 26% vào năm 2008, số lao động này chủ yếu làm trong các phòng hành chính, phòng bảo vệ, lái xe… Về số lao động chuyên ngành ngoại thương, ngoại ngữ liên tục tăng qua các năm tăng từ 16% năm 2005 đến 22% năm 2008. Tuy nhiên tăng 10% là hơi ít vì với Doanh nghiệp kinh doanh thương mại chủ yếu các hoạt động liên quan đến lĩnh vực Xuất nhập khẩu thì chuyên ngành ngoại thương và ngoại ngữ là rất cần thiết. 1.2.2. Đặc điểm về công nghệ và thiết bị Tuy mới hợp nhất nhưng công ty có được cơ sở vật chất khá đầy đủ hầu hết người lao động thuộc bộ phận kinh doanh trong công ty đều được trang bị máy tính cá nhân nối mạng, máy in và điện thoại bàn, các máy điện thoại trong công ty đều nối với nhau để thuận tiện cho việc liên lạc giữa các phòng ban. Các trang thiết bị để sản xuất trực tiếp ra sản phẩm còn hạn chế chỉ có một xưởng sản xuất kinh doanh chỉ nhỏ với trên 20 máy sản xuất chỉ. Khi công ty có đơn hàng lớn thì để đảm bảo cho việc đáp ứng đơn hàng đúng hẹn, công ty liên doanh hoặc thuê công ty khác trong nước sản xuất, đồng thời có đầu tư thêm vốn và trang thiết bị sản xuất hiện đại cho các công ty này, bên cạnh đó công ty còn trực tiếp cử người xuống tận cơ sở sản xuất của các đơn vị để kiểm tra, nếu cần thiết công ty còn thuê thêm lao động. Để phục vụ cho nhu cầu may mẫu thiết kế công ty đã trang bị cho Trung tâm thiết kế mẫu 7 thiết bị máy may, 11 thiết bị máy may chuyên dùng và 3 thiết bị khác là máy cắt vải, bộ bàn là hơi và bàn cắt. Với nhiều thay đổi trong việc đầu tư cho thiết bị và công nghệ như thế sẽ góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá trong công ty. 1.2.3. Đặc điểm về vốn Vốn của công ty gồm có: vốn của Tổng công ty giao lần đầu, Vốn được Tổng công ty bổ sung, Việc phân phối lợi nhuận được thực hiện theo Quy chế tài chính của Tổng công ty đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc. Bảng 1.4 : Cơ cấu nguồn vốn của công ty Vinateximex (2005- 2008) Stt Năm Vốn 2005 2006 2007 2008 triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % 1 Vốn CSH 25.330 11,91 45.137 21,08 66.150 25,39 72.028 23,67 2 vốn vay tín dung 119.773 56,31 169.230 79,04 241.941 92,86 256.341 84,30 3 Vốn lưu động 208.463 98,01 210.002 98,08 253.781 97,4 294.372 96,81 4 Vốn cố định 4.229 1,99 4.116 1,92 6.773 2,60 9.714 3,20 Tổng nguồn vốn 212.692 100 214.118 100 260.554 100 304.086 100 {Nguồn: Phòng tài chính kế toán công ty VinatexImex} Qua bảng số liệu trên ta thấy: Nguồn vốn của công ty qua các năm đã tăng nhưng không đều qua các năm, năm 2004 và năm 2007 nguồn vốn của công ty tăng đột biến, tăng gần gấp 2 lần so với nguồn vốn năm trước đó do nhu cầu phát triển hoạt động kinh doanh của công ty. Nguồn vốn CSH của công ty tăng đều qua các năm, sau 3 năm nguồn vốn CSH của công ty đã tăng từ 12,24% năm 2004 đến 22,16% năm 2007. Điều đó chứng tỏ công ty đã chủ động hơn về nguồn vốn. Tuy nhiên vốn vay của công ty đã giảm sau 3 năm đã giảm 9,92% từ năm 2005(87,76%) đến năm 2007(77,84%). Vốn vay giảm do năm 2007 tình hình tài chính trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp, dẫn đến lãi suất vay cao do đó Tổng công ty Dệt May đã giao thêm vốn cho công ty để chủ động hơn trong kinh doanh. Nguồn vốn lưu động tăng giảm không đều nhau, mức độ tăng giảm giữa các năm chênh lệch nhau rất ít, chứng tỏ tốc độ quay vòng của vốn là tương đối ổn định qua các năm. Tuy nhiên sang năm 2007, vốn cố định của công ty đã tăng chiếm 5,57% tổng nguồn vốn so với các năm trước dó, bởi vì năm 2007 công ty đã đầu tư đổi mới thêm một số trang thiết bị cũ không còn sử dụng được nữa. Đến năm 2008, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nên vốn lưu động, vốn chủ sở hữu có giảm nhưng không đáng kể, một phần nữa do công ty đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm nhiều trang thiết bị mới và dây chuyền sản xuất hiện đại nên vốn cố định tăng mạnh từ 2,6% năm 2007 lên 3,2% năm 2008. 1.2.4. Đặc điểm về nguyên phụ liêu Nguồn nguyên phụ liệu của công ty chủ yếu nhập khẩu là chính, còn nguồn nguyên phụ liệu công ty tự sản xuất được là rất ít chủ yếu là những nguyên phụ liệu đơn giản như khuy áo, cúc áo, khoá, mex, chỉ may... Do đó cũng ảnh hưởng tới sức cạnh tranh cho hàng hoá của công ty. Bảng 1.5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ĐVT: VNĐ Danh mục Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng tài sản 207.328.188.202 215.304.853.160 217.730.985.737 253.780.805.967 326.381.293.172 Tổng nợ phải trả 150.373.381.008 175.755.157.782 172.027.302.553 217.065.249.079 239.374.375.003 Vốn lưu động 189.372.374.372 208.462.637.281 210.001.683.612 253.780.805.967 294.372.374.115 Doanh thu 682.372.366.873 721.640.371.150 722.156.921.081 886.881.186.221 907.385.558.776 lợi nhuận trước thuế 3.306.117.674 3.667.659.573 3.877.444.246 4.581.408.337 4.599.485.041 Lợi nhuận sau thuế 3.300.271.266 3.347.421.502 3.427.723.658 4.188.796.079 4.273.744.230 {Nguồn: phòng tài chính kế toán công ty VinatexImex} Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh thu của công ty qua các năm tăng giảm không ổn định tuy nhiên lợi nhuận của công ty lại tăng tương đối đồng đều và công ty đã có những đóng góp nhất định vào ngân sách nhà nước. Với tỷ suất lợi nhuận ngày càng tăng điều đó chứng tỏ công ty đã sử dụng nguồn vốn của mình một cách hiệu quả hơn. Thực hiện các chính sách khuyến khích người lao động có động lực làm việc tạo ra năng suất lao động cao góp phần nâng cao sức cạnh tranh đối với sản phẩm của công ty. Thành công của công ty là kết quả của quá trình đa dạng hóa sản phẩm đồng thời biết xác định mặt hàng nào là mặt hàng mũi nhọn của công ty và tăng cường đầu tư vào mặt hàng đó với chất lượng cao nhất tạo uy tín cho công ty đối với khách hàng trong nước và quốc tế. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY SX _ XNK DỆT MAY VINATEX IMEX SANG THỊ TRƯỜNG EU 2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến XK hàng dệt may vào thị trường EU 2.1.1. Các nhân tố bên ngoài công ty 2.1.1.1. Đối thủ cạnh tranh hiện tại Các đối thủ cạnh tranh trên thế giới: như Trung Quốc, Ấn độ… Những công ty này có nhiều lợi thế hơn hẳn cụ thể: Các công ty của Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất so với các đối thủ khác trên thị trường EU năm 2006 Trung Quốc chiếm 65% thị phần hàng may mặc của EU, hàng may mặc của Trung Quốc nổi bật với lợi thế chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng, phong phú, giá bán thấp và được nhiều khách hàng EU biết đến do có hệ thống kênh phân phối rộng khắp... Còn hàng may mặc của Ấn Độ tuy thị phần trên thị trường EU không bằng Thổ Nhĩ Kỳ, Rumani hay Bănglades nhưng Ấn Độ nhưng vẫn là đối thủ thứ hai của công ty do Ấn Độ là quốc gia trồng bông lớn thứ ba thế giới, và có đội ngũ các nhà thiết kế chuyên nghiệp nên Ấn Độ có ngành công nghiệp phụ trợ rất phát triển nhất là ngành dệt vải, do đó giá thành sản phẩm thấp dẫn tới giá bán thấp hơn. Đối thủ cạnh tranh thứ ba của hàng may mặc Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng là các công ty của Srilanca tuy thị phần trên thị trường EU thấp hơn Ấn Độ, Trung Quốc nhưng các doanh nghiệp của Srilanca biết sử dụng hình thức nhượng quyền thương mại trong kinh doanh bằng cách gắn cho hàng may mặc của họ những nhãn mác nổi tiếng trên thế giới mà những nhãn hiệu nổi tiếng này đã quá quen với khách hàng EU trong khi đó mặt hàng may mặc của công ty thì chưa làm được điều này, do đó làm giảm sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Các đối thủ cạnh tranh trong nước: Về đối thủ cạnh tranh trong nước công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may cũng phải cạnh tranh với nhiều đối thủ đã từng có tiếng không chỉ ở trên sân nhà như công ty May 10, công ty May Việt Tiến, công ty May Đức Giang, công ty An Phước...Công ty may 10 trung bình hàng năm kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt trên 28 nghìn USD/năm chiếm khoảng 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, với chất lượng tốt được khách hàng EU chấp nhận và thời gian giao hàng tương đối đúng thời hạn tạo dựng được uy tín đối với các đối tác EU. Công ty May Việt Tiến có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đạt trên 35 nghìn USD/năm chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn công ty. Công ty May Việt Tiến đã đầu tư 20 tỷ đồng để được chứng nhận đủ tiêu chuẩn SA 8000, trong lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may, Việt Tiến đã liên doanh với bốn công ty nước ngoài để sản xuất nút aó, xơ gòn, mex dựng các loại cho nên giá cả hàng may mặc công ty thấp mà công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may không thể cạnh tranh nổi trên thị trường EU. Nhìn chung, công ty May 10, công ty May Việt Tiến là hai trong số những công ty của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng đạt ở mức cao, cả hai công ty đều có dây chuyền may áo sơ mi, quần âu, veston rất đồng bộ tạo ra những mặt hàng may mặc có chất lượng không thua kém hàng may mặc của các đối thủ của Trung Quốc, Ấn Độ. Vì vậy, nếu công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may không có những đổi mới nhất định thì sẽ không thể cạnh tranh được với chính các đối thủ trên sân nhà chứ chưa nói đến cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài trên thị trường EU. 2.1.1.2. Những rào cản trên thị trường EU EU là thành viên của WTO, có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên các nguyên tắc của Tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều biện pháp phi quan thuế. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và có xu hướng giảm, nhưng EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng rào phi quan thuế (rào cản kỹ thuật) rất nghiêm ngặt. Do vậy, hàng xuất khẩu dệt may của công ty muốn vào được thị trường này thì phải vượt qua được rào cản kỹ thuật của EU.  Ví như:   Đối với tiêu chuẩn chất lượng: Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển Châu A và Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: Thị trường EU yêu cầu hàng hoá có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo qui định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (Good agricultural Practice) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng được phổ biến, chứng tỏ các cấp độ khác nhau về môi trường tốt. Ngoài ra, các công ty phải tuân thủ hệ thống quản lý môi trường (các tiêu chuẩn ISO14000) và các bộ luật mang tính xã hội về đạo đức. Tiêu chuẩn The Social Accountability 8000 sẽ càng trở nên quan trọng trong những năm tới. Đối với tiêu chuẩn về lao động: Uỷ ban Châu Âu (EC) đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như lao động tù nhân, lao động trẻ em,v.v. đã được xác định trong các Hiệp ước Geneva ngày 25/9/1926 và 7/9/1956 và các Hiệp ước Lao động Quốc tế số 29 và 105. Ngoài ra về những điểm khác biệt về văn hoá giữa các nước thành viên. Mặc dù EU là một bức tranh hợp tác kinh tế đẹp nhưng đối với các công ty nước ngoài thì vẫn là những cách giải quyết đối với 27 nước khác nhau về văn hoá, ngôn ngữ, cũng như về các hệ thống pháp lý. Trên thực tế đã có những dấu hiệu cho người ta thấy tinh thần dân tộc giữa các nước thành viên của EU đang khuyếch đại những sự khác nhau giữa các nước. EU đã tiêu chuẩn hoá và nâng cấp việc thu thập dữ liệu cho các nước thành viên và đã lập một thủ tục kế toán thống nhất, một hệ thống hợp nhất rộng rãi của Liên minh đã hoàn thành về cơ bản để cho các công ty làm kinh doanh thuận lợi hơn về thủ tục. Đồng thời nhân danh người tiêu dùng, EU đã phát triển một chương trình trách nhiệm sản phẩm (nếu sản phẩm làm ra có những khuyết tật gây nguy hiểm cho người sử dụng thì người sản xuất phải có trách nhiệm đối với sản phẩm của họ). Trong thực tế, Liên minh Châu Âu không phải là một thực thể văn hóa có những mẫu hình đồng nhất về suy nghĩ, thái độ và cách ứng xử. Những quyết định mua hàng chịu ảnh hưởng bởi các mô hình văn hóa của thái độ ứng xử. Điều đó có nghĩa là thị trường EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật, còn trong thực tế là nhóm thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản sắc dân tộc và văn hoá đặc trưng riêng mà các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển chưa nghĩ tới. Mỗi nước thành viên tạo ra các cơ hội khác nhau và yêu cầu của họ cũng khác. 2.1.1.3. Các nhà cung ứng Các nhà cung ứng bao gồm các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động của công ty, như các nhà cung cấp vốn, nguyên vật liệu cho sản xuất dệt may, nhân công, … Các nhà cung ứng có thể gây một áp lực khá mạnh tới hoạt động của công ty. Các nhà cung cấp nguyên, vật liệu cho sản xuất: Những nhà cung ứng này có thể vắt kiệt lợi nhuận của các hãng bằng cách tăng giá cung ứng hoặc giảm mạnh chất lượng các yếu tố cung ứng. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các nhà cung ứng cũng tương tự như yếu tố làm tăng thế mạnh của khách hàng. Các nhà cung cấp tài chính : Công ty phải sử dụng vốn vay từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước cho nên công ty cũng chịu tác động một phần rất lớn đối với các nhà cung cấp tài chính này. 2.1.1.4. Thị hiếu người tiêu dùng EU là một thị trường phát triển ở trình độ cao nên đòi hỏi của người tiêu dùng đối với hàng hóa nhập khẩu rất khắt khe. Tại đây, giá cả hàng hóa vàdịch vụ không phải là yếu tố được quan tâm nhiều, mà yêu cầu trước hết là chất lượng, mẫu mã, những tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Giờ đây, trên thị trường tất cả các nước thành viên EU, mọi hàng hóa nhập khẩu thường phải được kiểm tra ngay từ khâu sản xuất tại nước xuất xứ nhằm bảo đảm cho sp làm ra đáp ứng được những tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu. Thông thường, người tiêu dùng thích tìm mua những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng thế giới, phần đông người tiêu dùng thích tìm mua những sản phẩm làm từ chất liệu tự nhiên, có kiểu dáng và mẫu mã thay đổi nhanh, có phương thức phục vụ tốt và đặc biệt là có dịch vụ hậu mãi chu đáo. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu vào EU cũng đang có sự chuyển dịch rõ nét theo hướng giảm dần các sản phẩm thô và gia tăng các sản phẩm có hàm lượng chế biến cao. Người tiêu dùng EU luôn đòi hỏi cao về chất lượng và dịch vụ đối với hàng may mặc. Họ yêu cầu hàng may mặc phải phong phú về mẫu mã, kích cỡ, đa dạng về chủng loại, mầu sắc đặc biệt hàng may mặc là loại hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của tính văn hóa, phong tục tập quán, sở thích…những mặt hàng này thì giá thấp cho nên người tiêu dùng có thể thay đổi một cách thường xuyên. 2.1.1.5. Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng Khi ngành xuất khẩu dệt may có sự gia tăng thêm số lượng các đối thủ cạnh tranh mới thì hệ quả có thể là tỷ suất lợi nhuận bị giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Các đối thủ cạnh tranh mới tham gia vào thị trừơng sau, nên họ có khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học, công nghệ. 2.1.2. Các nhân tố bên trong công ty Các nhân tố bên trong công ty bao gồm nguồn nhân lực, năng lực tài chính, năng lực về vật chất kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý và một loạt các hoạt động Maketing, mạng lưới phân phối để đưa sản phẩm tới khách hàng trên thị trường EU một cách tốt nhất. 2.1.2.1. Nguồn nhân lực Các cán bộ công nhân trong công ty nếu có trình độ quản lỳ chuyên nghiệp, tay nghê cao năng lực sản xuất có hiệu quả thì hoạt động sản xuất sẽ rất cao, hàng hóa làm ra cũng sẽ có tính cạnh tranh cao cả về chất lượng đến giá cả. Trình độ của người lao động trong công ty ngày càng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2008 công ty có 77,8 % lao động có trình độ đại học và trên đại học. 2.1.2.2. Năng lực tài chính Khả năng tài chính là quy mô tài chính của công ty và tình hình hoạt động. Các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả năng thanh toán… Nếu công ty có tình hình tài chính tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho phép công ty có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị, tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết. Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Qua đó đẩy cao tính khả thi của hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng và trên thế giới nói chung. 2.1.2.3. Mạng lưới phân phối Để tiêu thụ hàng hoá, công ty cần lựa chọn các kênh phân phối, từ đó có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả đúng nhu cầu của thị trường EU. Tuỳ vào chủng loại hàng hoá dệt may mà công ty xây dựng cho mình kênh phân phối riêng cho phù hợp. 2.1.2.4. Năng lực về vật chất kỹ thuật Năng lực về vật chất kỹ thuật của công ty tồn tại ở nhiều phương diện, trước tiên phải kể tới là trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của công ty và khả năng có được các công nghệ tiên tiến đó. Thứ hai năng lực về vật chất kỹ thuật của công ty thể hiện qua quy mô và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Nếu quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ giúp công ty tạo ra khối lượng hàng dệt may lớn hơn từ đó giảm giá thành tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng hơn, khi đó công ty hiểu rõ nhu cầu của khách hàng và dần dần chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường EU trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, để đạt hiệu quả cao trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU công ty phải có được những công nghệ tiên tiến hiện đại, đồng thời có được quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất bằng công suất thiết kế để tránh lãng phí. 2.2. Các hoạt động chủ yếu của công ty Sản xuất –xuất nhập khẩu dệt may VINATEX IMEX đã thực hiện để xuất khẩu hàng dệt may 2.2.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu trên thị trường EU Hiện nay, hình ảnh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU còn rất mờ nhạt trong quyết định mua hàng của khách hàng EU. Bên cạnh đó, hàng may mặc của công ty còn bị hàng may mặc của Trung Quốc lấn át về chất lượng, mẫu mã, giá cả, sự khác biệt, uy tín thương hiệu… những yếu tố đang được khai thác hiệu quả và đã, đang làm tăng hoạt động xuất khẩu cho hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Khi sức sức tiêu thụ hàng may mặc của công ty trên thị trường EU tăng lên sẽ làm thay đổi hình ảnh hàng may mặc của công ty trong tâm trí khách hàng EU theo chiều hướng tích cực hơn. Sức cạnh tranh của hàng may mặc có mối quan hệ chặt chẽ với doanh thu và thị phần, khi nào doanh thu và thị phần tăng lên thì sức cạnh tranh của hàng may mặc sẽ tăng lên và ngược lại. Trong các năm trước doanh thu và thị phần hàng may mặc của công ty tăng giảm không ổn định nhất là năm 2005 và 2008 doanh thu và thị phần hàng may mặc của công ty trên thị trường EU liên tục giảm. Việc sút giảm này, nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU chưa cao so với đối thủ cạnh tranh. Những năm gần đây, công ty đã thúc đẩy các chương trình marketing, xâm nhập chiếm lĩnh thị phần cho mặt hàng dệt may của công ty trên thị trường EU nhằm tăng hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu. Tuy rất khó khăn nhưng bước đầu công ty đã có những kết quả tốt đẹp, dành được nhiều hợp đồng lớn trên thị trường EU. Nghiên cứu thị trường EU bằng các nguồn tài liệu (từ phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, hiệp hội dệt may và cục xúc tiến thương mại) và nghiên cứu tại thị trường (hàng năm, Công ty VINATEX IMEX thường xuyên cử cán bộ thị trường qua tìm hiểu nắm bắt thị trường EU ). Nội dung nghiên cứu gồm các mặt hàng, dung lượng thị trường, hình thức biện pháp tiêu thụ, tình hình cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của công ty. Gồm cả nghiên cứu điều kiện chính trị thương mại (chính sách của các nước trên thị trường EU về các vấn đề luật pháp, vận tải, các đòi hỏi đặc biệt của thị trường, các tuyến tiêu thụ hàng, các công ty cạnh tranh...). Trước khi nghiên cứu chi tiết về các điều kiện thị trường, công ty đã nghiên cứu kỹ tình hình chung ở những nước trên thị trường EU có thể nhập khẩu hàng dệt may của công ty, về diện tích, dân số, chế độ chính trị xã hội, trình độ phát triển kinh tế, tài nguyên, tình hình tài chính - tiền tệ, ngoại hối, chế độ thuế quan... 2.2.2. Nghiên cứu, đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu Ở công ty VINATEX IMEX, phòng nghiên cứu được đặt ở bộ máy tiêu thụ sản phẩm trực thuộc giám đốc. Hướng nghiên cứu chủ yếu của phòng là phân tích các nghiệp vụ tiêu thụ và dự đoán nhu cầu ở thị trường nước ngoài, đề xuất cách tiêu thụ, giá cả mặt hàng để ký kết hợp đồng với nước ngoài. Trong ký kết hợp đồng, công ty và đối tác có trụ sở đóng ở xa nhau. Ngay trong thời đại thông tin liên lạc toàn cầu tức thời và du hành tốc độ cao thì khoảng cách vẫn làm phức tạp việc lập kế hoạch và tiến hành các cuộc đàm phán. Các giao dịch kinh doanh quốc tế không chỉ vượt qua biên giới quốc gia, chúng cũng vượt qua các nền văn hóa. Sự khác biệt văn hóa có thể tạo ra một rào cản trong đàm phán mà cuối cùng sẽ làm bế tắc bất kỳ giao dịch nào. Khi tham gia kinh doanh quốc tế là đi vào một thế giới có nhiều luật lệ và hệ thống chính trị khác nhau. Cho nên công ty rất chú trọng nghiên cứu các tập tục, nên văn hóa, pháp luật của các nước đối tác để hiểu rõ hơn yêu cầu cũng như thị hiếu tiêu thụ sản phẩn hàng dệt may,rào cản về luật pháp, các yêu cầu về chất lượng, giá thành… quá đó giúp công ty có thể có được những quyết định đúng đắn trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu, làm thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng về chất lượng lẫn giá thành, chủng loại. Điều đó giúp công ty có uy tin hơn trên thị trường cạnh tranh gay gắt như EU, cũng cố thêm hình ảnh của công ty và xứng tầm với các đối thủ cạnh tranh thế giới. 2.2.3. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Đối với công ty, việc sản xuất hàng dệt may xuất khẩu có những chính sách đặc biệt về chất lượng và mẫu mã. Công ty đã đạt được nhiều kết quả cao trong viêc khai thác lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của công ty để không những đạt được các hợp đồng lớn mà còn làm thỏa mãn đối tác. Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU giúp công ty khai thác tốt lợi thế so sánh bởi vì hàng may mặc của công ty có nhiều lợi thế so sánh hơn một số mặt hàng xuất khẩu khác. Trong nhiều năm qua, hàng may mặc vẫn là mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu sản phẩm của công ty và tỏ ra có khả năng cạnh tranh hơn so với các mặt hàng khác trên thị trường EU. Bên cạnh đó, hàng may mặc của công ty cũng có nhiều lợi thế cạnh tranh mà chưa được khai thác tốt như các chi tiết làm thủ công, những hoạ tiết thêu, ren, đan móc được nhiều khách hàng EU ưa chuộng và lao động Việt Nam nói chung cũng như lao động của công ty nói riêng vốn rất khéo léo trong các công đoạn này. Do đó, công ty đang khai thác mặt hàng này và chắc chắn sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh cho hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Bên cạnh đáp ứng nhu cầu của hợp đồng về chất lượng, giá cả, và mẫu mã, công ty luôn luôn giao hàng đúng thời hạn hợp đồng đã kỹ kết, tạo uy tín trên thị trường EU nói riêng và trên thế giới nói chung. 2.3. Kết quả xuất khẩu hàng dệt may cua công ty SX _ XNK DỆT MAY VINATEX IMEX vào thị trường EU 2.3.1. Kết quả hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trên thị trường thế giới Bảng 2.1 :Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty VinatexImex Từ năm 2004-2008 Đơn vị: Triệu USD Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Kim ngạch xuất khẩu 17,120 19,709 25,4 33,223 34,885 { Nguồn :phòng tài chính kế toán công ty vinatexImex } Hiện nay, hàng may mặc của công ty đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới, trong đó nhiều nhất là thị trường Mỹ, EU. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang các thị trường này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty. Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may của công ty VinatexImex sang các thị trường chính qua các năm 2004-2008 ĐVT: triệu USD Stt Năm Nước 2004 2005 2006 2007 2008 1 Mỹ 4,216 5,323 9,430 11,343 12,167 2 EU 6,503 7,233 7,451 8,465 8,231 {Nguồn: phòng tài chính kế toán công ty VinatexImex } Qua bảng số liệu trên ta thấy: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty qua các năm tăng giảm không ổn định. Tuy nhiên, nếu xét theo từng thị trường, thì kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng đều đặn, còn thị trường EU có tốc độ tăng giảm không ổn định qua các năm. Năm 2004 thị trường EU chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 61% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty, thị trường Mỹ chiếm 39%. Đến năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ tăng 1,2 lần so với năm 2004 đạt 5.323(triệu USD), thị trường EU tăng 730(triệu USD) so với năm 2004 đạt 6.503(triệu USD). Đến năm 2006 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang các thị trường này đều đạt giá trị thấp, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ tăng nhưng tăng với giá trị nhỏ tăng 1,05 lần so với năm 2005, riêng đối với thị trường EU thì kim ngạch tăng từ 7.233(triệu USD) 2005 lên 7.451(triệu USD)2006 do năm 2006 EU đã bãi bỏ chế độ hạn ngạch cho hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Sang năm 2007 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may sang một số quốc gia vẫn tăng, EU là thị trường xuất khẩu chính chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty đạt 8.465(triệu USD), thị trường Mỹ chiếm 34% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty đạt 11.343(triệu USD). Đến năm 2008 tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng nhưng không đáng kể do chịu ảnh hưởng chung của khủng hoảng toàn cầu. Trong đó thị trường Mỹ tăng 0,846 (triệu USD) so với năm 2007, còn thị trường EU đạt 8,231(triệu USD), giảm 0,234(triệu USD) so với năm 2007. Trong các mặt hàng may mặc xuất khẩu vào thị trường EU, công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may mới chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm như áo jacket, sơ mi... còn các mặt hàng có giá trị, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn như bộ complet hay các loại áo sơ mi cao cấp thì công ty chưa thể sản xuất được. Do đó, trên thực tế, nhiều mặt hàng có hạn ngạch nhưng công ty lại chưa xuất khẩu được. Những mặt hàng may mặc xuất khẩu chính của công ty là các mặt hàng truyền thống vì kỹ thuật đơn giản, dễ làm, đầu tư vốn ít, công nhân không cần tay nghề cao. 2.3.2. Kết quả xuất khẩu mặt hàng may của công ty trên thị trường EU 2.3.2.1. Kim ngạch xuất khẩu Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2004-2008) (ĐVT: 1000 USD) Nguồn: Báo cáo tình hình xuất khẩu của công ty qua các năm (2004-2008) Qua biểu đồ trên ta thấy: Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty trên thị trường EU qua các năm tăng ổn định, từ năm 2004 đến năm 2007 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường EU liên tục tăng, đến năm 2006 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường EU tưang mạnh hơn. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu tăng 10.08% so với năm 2004, đạt 7.233(triệu USD). Năm 2006 tăng lên 7.451(triệu USD). Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU của công ty năm 2007 đạt 8.465(triệu USD) tăng 14% so với năm 2006. Năm 2008 kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may đạt kết quả thấp. Giảm 0,234(triệu USD) so với năm 2007. Cụ thể từ 8,465(triệu USD) năm 2007 xuống còn 8.231(triệu USD) năm 2008. Trong thị trường EU các nước có kim ngạch xuất khẩu cao nhất là Đức, Hà Lan, Na uy, Nga, Tây Ban Nha vơi số liệu ở bảng dưới đây: Bảng 2.3: Kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may qua một số nước EU năm 2008 Đơn vị : USD Đức 447,611.57 Hà lan 54,969.98 Tây ban nha 32,445.09 Na uy 32,950.68 Nga 1,624,216.47 Cụ thể, theo bảng Kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may qua các nươc EU năm 2008 cho ta thấy Nga là nước dẫn đầu về thị trường xuất khẩu sang EU năm 2008 với 1,624,216.47(USD) và sau là Đức đạt 447,611.57(USD) sau đó đến Hà lan với 54,969.98(USD). Tiếp đến là Tây Ban Nha và Na uy với lần lượt đạt giá trị là 32,445.09(USD) với 32,950.68(USD). 2.3.2.2. Mặt hàng xuất khẩu Các mặt hàng may mặc xuất khẩu chủ lực của công ty sang thị trường EU là các mặt hàng truyền thống chiếm tới 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu vì những mặt hàng may mặc truyền thống là những mặt hàng dễ làm, dễ thu lợi nhuận tính trung bình hàng năm cơ cấu mặt hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường EU như áo Jacket chiếm 51,7%, quần chiếm 30%, áo sơ mi chiếm 11%, áo len và áo dệt kim chiếm 3,9%, áo T-shirt và polo shirt chiếm 3,4%. Các mặt hàng có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao như quần áo da, váy, vestong, complet, áo khoác thì công ty vẫn chưa sản xuất được hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ. Thực tế cho thấy, mặt hàng quần áo da mới chỉ một vài quốc gia như Anh, Pháp, Đức đặt hàng của công ty với giá trị nhỏ, không đều qua các năm và mặt hàng này chủ yếu là may gia công. Nhìn chung, chủng loại mặt hàng may mặc xuất khẩu sang EU của công ty còn rất hạn chế, điều này gây khó khăn cho công tác bán hàng và nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường EU của công ty. Bảng 2.4: Gía trị xuất khẩu theo mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2006-2008) ĐVT: 1000 USD Stt Năm Mặt hàng 2006 2007 2008 Tốc độ 07/06 Tốc độ 08/07 1 Áo jacket 3.855 4.626 4.163 1.20 0.90 2 Quần 2.236 3.399 3.467 1.52 1.02 3 Áo sơ mi 820 2.788 1.812 3.40 0.65 4 Quần áo khác 545 1.389 1.320 2.55 0.95 Nguồn: Báo cáo tình hình xuất khẩu của công ty qua các năm(2006-2008) Qua bảng số liệu trên ta thấy giá trị xuất khẩu theo mặt hàng may mặc của công ty sang thị trường EU qua các năm là không đều nhau. Tuy nhiên, mặt hàng Áo jacket vẫn là mặt hàng may mặc mũi nhọn của công ty, còn giá trị các mặt hàng may mặc khác thì tăng giảm theo từng năm, năm 2006 đứng thứ hai sau mặt hàng Áo Jacket là Quần xuất khẩu, tiếp đến là Áo sơ mi, sang các năm tiếp theo công ty đã có những điều chỉnh trong cơ cấu hàng may mặc xuất khẩu công ty đã tập trung hơn vào xuất khẩu quần. Năm 2007 công ty đã có bước đột phá vượt bậc giá trị xuất khẩu của các mặt hàng đều tăng với tốc độ tăng so với năm 2006. Năm 2008 vì chịu sự chi phối của tình hình khủng hoảng trên thế giới nên các mặt hàng xuất khẩu có chiều hướng giảm như: giảm mạnh nhất là mặt hàng Áo sơ mi (giảm 35%) tiếp theo là áo Jacket và Quần áo khác. Trừ mặt hàng Quần xuất khẩu vẫn tăng 0,2% so với năm 2007. Điều nổi bật của công ty là công ty biết tập trung vào những mặt hàng mũi nhọn của mình là mặt hàng Áo jacket, điều đó chứng tỏ công ty đã biết tận dụng một cách tối đa các điểm mạnh của mình đó là tập trung vào mặt hàng chủ lực, mặt hàng mà mình có sức cạnh tranh cao trên thị trường EU, nhưng mặt khác công ty cũng không quên tìm kiếm khách hàng mới để tiêu thụ sản phẩm may mặc khác không chỉ riêng trên thị trường EU điều đó được minh chứng qua giá trị hàng may mặc khác của công ty qua các năm vẫn tăng đều. 2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Đánh giá chung 2.4.1.1. Chất lượng Đối với thị trường EU, EU không yêu cầu cụ thể về chất lượng hàng may mặc, phần lớn hàng may mặc có chất lượng khi các doanh nghiệp xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO, hoặc là hàng hoá đạt được tiêu chuẩn Châu âu EN, các tiêu chuẩn quốc gia như Đức có DIN, Hà Lan có NEN và Anh có BS. Để đánh giá chất lượng hàng hoá, khách hàng EU thường đánh giá gián tiếp thông qua hệ thống tiêu chuẩn quốc tế mà doanh nghiệp có được như ISO 9000, ISO 14000, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000,hoặc các nhãn sinh thái được gián lên sản phẩm. Những hàng may mặc của các doanh nghiệp đạt các chứng chỉ tiêu chuẩn chất lượng quốc tế thường được khách hàng EU ưu tiên lựa chọn và sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Hiện nay, công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may đã đạt được chứng chỉ quốc tế ISO 9000, nhưng chưa đạt chứng chỉ trách nhiệm xã hội SA 8000 và chưa được gián nhãn sinh thái vì chi phí để thực hiện những tiêu chuẩn về môi trường trong quá trình sản xuất, kiểm soát chặt chẽ dư lượng kim loại nặng, chất tẩy, nhuộm độc hại sử dụng trong quá trình nhuộm đều vượt quá khả năng của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may. 2.4.1.2. Mức độ hấp dẫn Hàng may mặc của công ty chưa bắt kịp thị hiếu đa dạng của khách hàng EU, những sản phẩm xuất khẩu chủ lực như sơ mi, Jacket, áo khoác, áo len, quần âu được làm theo những mẫu chung, nguyên phụ liệu thông thường mà không có sự khác biệt, hơn nữa mức độ hấp dẫn hàng may mặc của công ty khó thể hiện được khi phương thức sản xuất và xuất khẩu chủ yếu qua các trung gian thương mại, làm theo yêu cầu của các trung gian thương mại. Những nguyên liệu cao cấp như những loại vải dệt được ứng dụng công nghệ Nano tạo ra loại vải có sợi vải nhỏ mà bền đẹp, độ mịn cao, chống nhàu, chống thấm nước khi được may các sản phẩm sử dụng nguyên liệu như thế sẽ tạo ra sản phẩm rất đẹp tuy nhiên rất tiếc những nguyên liệu cao cấp như vậy, chưa được ứng dụng rộng rãi trong hàng may mặc của công ty. Hàng may mặc của công ty chưa thể hiện được tính đa dạng trong mục đích sử dụng như các bộ quần áo mặc trong các buổi dạ hội, buổi lễ trang trọng, nơi công sở…Trong khi đó, hàng may mặc của đối thủ cạnh tranh đa dạng và số lượng lớn với nhiều kiểu dáng khác nhau đáp ứng mọi mục đích sử dụng, ở mọi lứa tuổi, ở mọi mức thu nhập từ mức thu nhập cao, thu nhập trung bình đến mức thu nhập thấp. Thêm vào đó, các đối thủ cạnh tranh còn có sự hỗ trợ đắc lực của các trung tâm thiết kế thời trang lớn như Tập đoàn gia công và sản xuất hàng may mặc Esquel china holdings của Trung Quốc có các trung tâm thiết kế thời trang ở Bắc kinh, Thượng hải, Thẩm quyến. Các trung tâm này nắm bắt rất tốt nhu cầu thị hiếu của khách hàng EU và có khả năng biến ý tưởng thành kiểu dáng mẫu mã. Còn hàng may mặc xuất khẩu của nhà sản xuất Nooyon Dentelle De Calaise của Pháp ở Srilanca cũng có sức hút với khách hàng EU rất lớn nhờ những thương hiệu nổi tiếng. . Mặt khác, công ty của Nooyon Dentelle De Calaise có lợi thế đội ngũ nhân viên giao dịch thông thạo tiếng Anh nên khả năng thu thập thông tin về nhu cầu của khách hàng tốt hơn, và góp phần làm cho hàng may mặc của công ty đa dạng mẫu mã hơn. Trước thực tế, là các đối thủ cạnh tranh có nhiều lợi thế trong cạnh tranh thì hàng may mặc của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may muốn cạnh tranh được cần có kế hoạch rõ ràng để nâng cao mức độ hấp dẫn của hàng may mặc để có thể đứng vững trên thị trường EU. 2.4.1.3. Uy tín thương hiệu Uy tín thương hiệu sẽ là chỗ dựa vững chắc cho niềm tin của khách hàng. Khách hàng EU thông thường họ có xu hướng lựa chọn những hàng hoá mà thương hiệu đã được khẳng định trên thị trường EU. Hàng may mặc của công ty đang trong quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu tại thị trường EU. Nhìn chung, thương hiệu hàng may mặc của công ty trên thị trường EU khá quen thuộc với người tiêu dùng trong nước, nhưng đối với khách hàng EU thì chưa nhiều người biết đến. Sở dĩ, uy tín thương hiệu hàng may mặc của công ty bị hạn chế trong cạnh tranh với các thương hiệu của đối thủ cạnh tranh bởi các yếu tố sau: Thứ nhất: Do phương thức sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc của công ty chủ yếu làm gia công cho nhà nhập khẩu EU. Các nhà nhập khẩu EU cung cấp nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, máy móc thiết bị và thị trường đầu ra sau khi hàng may mặc được công ty làm xong và xuất khẩu dưới nhãn mác của nhà nhập khẩu hoặc một nhãn mác nổi tiếng nào đó. Khách hàng EU khi tiêu dùng không biết đó là hàng may mặc được sản xuất tại công ty, trong khi đó những hàng may mặc tương tự được bầy bán trong các cửa hàng, siêu thị của EU như mặt hàng sơ mi, quần âu của công ty họ lại e ngại, thậm chí hàng may mặc mang thương hiệu của công ty được bán với giá rẻ hơn. Đây chính là hạn chế của công tác xúc tiến thương mại chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng EU được biết về những hàng may mặc của công ty đang được bán dưới những thương hiệu nổi tiếng và những sản phẩm đó có chất lượng tương đương với sản phẩm mang thương hiệu của công ty. Thứ hai: Thương hiệu hàng may mặc của công ty chưa chứng minh cho khách hàng EU những giá trị gia tăng hàng may mặc của công ty mang lại. Gía trị gia tăng của hàng hoá là chất lượng, mẫu mã, giá cả, giá trị nghệ thuật của hàng hoá, dịch vụ khách hàng,sự an toàn… đó là những yếu tố quan trọng đánh giá mức độ giá trị gia tăng của hàng hoá nói chung và hàng may mặc nói riêng. Chỉ khi nào hàng may mặc của công ty luôn chứng minh được giá trị gia tăng này với khách hàng, và giá trị gia tăng này luôn ổn định đồng thời không ngừng có các biện pháp làm tăng giá trị gia tăng này lên thì mới thuyết phục được khách hàng EU tiêu dùng hàng may mặc của công ty, lúc đó thương hiệu hàng hoá sẽ được định hình trong tâm trí khách hàng từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Trong khi đó, Tập đoàn gia công và sản xuất quần áo Esquel china holdings ở Trung Quốc rất chú trọng tới phát triển thương hiệu với nhiều hoạt động Maketing rầm rộ, làm cho mọi khách hàng EU đều biết đến thương hiệu hàng may mặc của công ty. Trong khi đó, công ty của nhà sản xuất Nooyon Dentelle De Calaise ở Srilanca chủ yếu xây dựng thương hiệu dựa vào mua bản quyền sử dụng thương hiệu nổi tiếng trên thị trường EU, nhưng công ty của ông hơn công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may là công ty của ông đã tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, khách hàng EU vẫn biết được đây là hàng may mặc của công ty ông, chính vì thế dựa vào thương hiệu này mà công ty của ông đã đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường EU. Công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may cần tiếp thu và học hỏi chính các đối thủ của mình để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU bằng uy tín thương hiệu. 2.4.1.4. Giá thành, giá cả Giá thành Một trong những yếu tố cấu tạo nên giá thành của hàng hoá nói chung và hàng may mặc nói riêng là chi phí nhân công để sản xuất hàng hoá. Hàng may mặc Việt Nam nói chung được xếp vào nhóm hàng có sức cạnh tranh nhờ lợi thế chi phí lao động/ giờ công tương đối thấp. Trong số các quốc gia có hàng may mặc xuất khẩu vào thị trường EU như Trung Quốc, Ấn Độ thì Việt Nam vẫn có chi phí nhân công lao động tương đối thấp. Chính nhờ chi phí nhân công lao động thấp nên giá hàng may mặc xuất khẩu của công ty ở mức vừa phải có thể chấp nhận được, tuy giá một vài sản phẩm cao hơn chút ít so với đối thủ cạnh tranh, nhưng nhà nhập khẩu vẫn chấp nhận được. Về dài hạn chi phí nhân công của công ty bị cạnh tranh bởi chi phí nhân công rẻ của các công ty của Campuchia, Lào, Myanma có chi phí thấp hơn, đồng thời cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của xã hội mà nhu cầu của người lao động cũng tăng theo do đó chi phí nhân công/ giờ của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng sẽ dần tăng lên theo mức độ phát triển của xã hội. Tuy nhiên, chi phí nhân công chỉ là một yếu tố tạo nên giá thành của hàng hoá ngoài ra còn có nhiều loại chi phí khác tạo nên, các chi phí này đều ở mức cao hơn các công ty khác trong khu vực như giá vải của Việt Nam thường đắt hơn so với Trung Quốc như vải kỹ thuật của Việt Nam khổ 45 có giá 0,75 USD/met và khổ 60 có giá khoảng 0,95USD/met, cao hơn giá vải của Trung Quốc từ 10%-15%. Vải kaki mầu của Việt Nam có giá từ 1,3-1,5USD/met, cao hơn giá vải cùng loại của Trung Quốc từ 15%-20% do đó làm tăng giá thành hàng may mặc của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam nói chung và của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu nói riêng. Ngoài ra, hàng may mặc của công ty khi xuất khẩu sang thị trường EU còn phải chịu các chi phí như cước bưu chính viễn thông, vận tải biển, hàng không, các khoản phí và lệ phí đều cao, bên cạnh những chi phí chính thức này còn có các chi phí không chính thức do thủ tục hành chính của Việt Nam còn rườm rà, quan liêu, tham nhũng điều đó đã góp phần làm tăng giá thành của hàng may mặc xuất khẩu của công ty trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Biểu đồ 2.2: Cơ cấu chi phí mặt hàng may của công ty năm 2007 ĐVT: % trong tổng giá thành hàng may mặc Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của công ty năm 2007 Qua biểu đồ trên ta thấy: Chi phí cho nguyên phụ liệu nhập khẩu của hàng may mặc của công ty ở mức quá cao chiếm tới 80% tổng giá thành hàng may mặc. Phần quan trọng hơn là giá trị gia tăng trong hàng may mặc của công ty chỉ có 6,25% nếu chỉ số này càng cao thì sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty càng cao. Gía trị gia tăng hàng may mặc của công ty thấp do quá trình thay đổi công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực của công ty chậm, năng suất lao động thấp, lao động không có kỹ năng chiếm 6,34% trong giá thành hàng may mặc của công ty, còn lao động có kỹ năng chiếm tỷ trọng rất nhỏ chỉ đạt 3,50% trong giá thành hàng may mặc của công ty, từ đó tạo ra giá bán cao làm giá trị gia tăng trong hàng may mặc của công ty thấp góp phần làm giảm sức cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Với lợi thế chi phí nhân công rẻ, đáng lẽ hàng may mặc của công ty phải có sức cạnh tranh cao so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU nhưng lại ngược lại giá thành hàng may mặc của công ty còn cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Điều này, công ty cần phải điều chỉnh nhanh chóng cho phù hợp với điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường EU. Giá cả Giá cả hàng may mặc của công ty xuất khẩu sang thị trường EU còn cao thông thường cao hơn 10%-15% so với các công ty khác trong khu vực. Riêng so với hàng may mặc của các doanh nghiệp Trung Quốc hàng may mặc của công ty cao hơn 20%-30%, giá xuất khẩu một số mặt hàng may mặc của công ty như áo sơ mi, quần áo lót, các loại áo bó chui đầu đều có giá cao hơn so với các công ty xuất khẩu khác với cùng mặt hàng trong khu vực. Trước tình hình thực tế là EU đã bãi bỏ hạn ngạch cho hàng may mặc Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường EU, thì giá hàng may mặc Việt Nam nói chung cũng như hàng may mặc của công ty nói riêng cần được tính toán cho phù hợp. Nếu không điều chỉnh sẽ có sự chênh lệch về giá giữa hàng may mặc của công ty so với các đối thủ cộng với khả năng cung ứng hàng nhỏ, thời gian giao hàng không đúng hạn sẽ chuyển nhiều đơn hàng sang các doanh nghiệp của Trung Quốc hoặc doanh nghiệp của các quốc gia khác khiến hàng may mặc xuất khẩu của công ty đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. 2.4.2.Những kết quả đạt được Hàng may mặc là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của công ty. Hàng năm, việc xuất khẩu mặt hàng này của công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ với kim ngạch xuất khẩu lớn hơn những mặt hàng khác. Trong bối cảnh giá nguyên phụ liệu trong nước và thế giới có nhiều thay đổi, khả năng tiếp cận và cạnh tranh hàng may mặc của công ty vào thị trường EU được xem là có bước tiến tốt, mặc dù giá một số mặt hàng may mặc còn cao hơn so với đối thủ. Điều này, đã được minh chứng qua kim ngạch và thị phần trên thị trường EU năm 2006 tăng lên. Trong quá trình sản xuất và kinh doanh công ty đã tìm mọi biện pháp hữu ích để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc, từ đó nhiều công nghệ sản xuất hiện đại đã được công đưa vào sử dụng như máy nhuộm Jetoverflow, máy in trục quay, in thăng hoa... nhờ đó mà năng suất lao động ngày càng cải thiện, chất lượng hàng may mặc tăng lên công ty đã đạt được chứng chỉ ISO 9000 từ đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc trên thị trường EU của công ty. Tuy không đạt được kết quả như mong muốn nhưng công ty đã có nhiều nỗ lực trong việc cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá chủng loại, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang thị trường EU. Công tác đào tạo thiết kế và Maketing được quan tâm chú trọng hơn. Thay vì may gia công công ty cũng đã dần chủ động hơn trong khâu thiết kế mẫu mã, tăng giá trị cho hàng may mặc của mình. Trước sức ép mạnh mẽ của đối thủ cạnh tranh buộc các ban lãnh đạo của công ty không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng đàm phán, giao dịch thương mại, nghiên cứu thị trường, tìm kiếm hệ thống kênh phân phối, thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại… Do đó mà trình độ của các nhà quản lý trong công ty không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Có thể nói, với những kết quả đạt được như vậy cùng với sự nỗ lực lớn của công ty, công ty trong thời gian tới sẽ tiếp tục khẳng định được vị thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu hàng may mặc ra thế giới nói chung và sang thị trường EU nói riêng. 2.4.3.Những mặt tồn tại 2.4.3.1. Chất lượng, mẫu mã, thời gian giao hàng Chất lượng hàng may mặc của công ty chưa ổn định và đồng đều, một số sản phẩm còn bị phai màu dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời do công tác kiểm tra kiểm soát trong quá trình nhuộm bị hạn chế. Mẫu mã hàng may mặc của công ty còn đơn điệu về mầu sắc, các sản phẩm may mặc ít có sự khác biệt. Để tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm đòi hỏi phải có đội ngũ thiết kế thời trang chuyên nghiệp, nắm bắt kịp thời thị hiếu của khách hàng EU. Thời gian giao hàng của công ty thường không đúng hạn do quy mô sản xuất hàng may mặc của công ty nhỏ, trong khi những đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu có số lượng lớn và thời gian giao hàng ngắn thêm vào đó công ty lại bị động về nguyên phụ liệu do phải nhập khẩu, đồng thời máy móc thiết bị lạc hậu, các thủ tục hành chính rườm rà, cơ sở hạ tầng chưa phù hợp. 2.4.3.2. Chưa khai thác tốt những lợi thế cạnh tranh Thứ nhất: Mặt hàng may mặc của công ty có rất nhiều lợi thế để xuất khẩu trên thị trường EU mà chưa khai thác một cách tối ưu như trình độ khéo léo của người lao động Việt Nam trong sản xuất các sản phẩm làm gia công như thêu, đan, móc... trong khi đó những sản phẩm thuộc loại này công ty lại xuất khẩu rất ít. Nếu hàng may mặc của công ty khai thác tốt lợi thế này, thì sẽ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Thứ hai: Công ty chưa khai thác tốt lợi thế từ Việt kiều ở EU nhằm nghiên cứu thị trường, mở rộng hệ thống kênh phân phối, đưa hàng may mặc của công ty vào các cửa hàng, siêu thị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Thứ ba: Chưa khai thác tốt sự lên giá của đồng Euro so với đồng Việt Nam vì theo lý thuyết khi đồng Euro lên giá so với đồng Việt Nam thì việc xuất khẩu sang thị trường này sẽ có lợi và được đẩy mạnh, trên thực tế đồng Euro và đồng USD là hai đồng tiền được công ty sử dụng trong thanh toán với các nhà nhập khẩu EU, nhưng việc công ty sử dụng đồng Euro để thanh toán chỉ chiếm 10%. 2.4.3.3. Công ty chủ yếu sản xuất và kinh doanh mặt hàng đơn giản, giá trị thấp và sức ép cạnh tranh cao Công ty chủ yếu tập trung vào sản xuất và kinh doanh các mặt hàng đơn giản, dành cho khách hàng có thu nhập thấp và trung bình như quần âu, áo sơ mi, áo Jacket. Trong khi đó, những loại sản phẩm cao cấp như các bộ vestong, váy, complet, quần áo da thì công ty chưa đầu tư vào xuất khẩu nếu có thì rất ít. Các mặt hàng may mặc xuất khẩu còn đơn điệu thiếu sáng tạo trong thiết kế, đôi khi còn rập khuôn theo các mẫu thiết kế của nước ngoài. Điều này không tạo nên sự khác biệt hàng may mặc của công ty so với hàng may mặc của đối thủ cạnh tranh làm giảm sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Những sản phẩm may mặc mà công ty sản xuất, kinh doanh dễ làm và dễ bán cũng là những mặt hàng bán mạnh của các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, đối thủ cạnh tranh hơn hàng may mặc của công ty là họ không ngừng đầu tư vào các mặt hàng may mặc cao cấp để tạo ra sự khác biệt giúp tăng khả năng cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường EU mà hàng may mặc của công ty không có được, do đó sức ép cạnh tranh đối với hàng may mặc của công ty trên thị trường EU là rất 2.4.3.4. Hệ thống kênh phân phối Hàng may mặc của công ty chưa tiếp cận trực tiếp được với những kênh phân phối của các nhà bán lẻ, siêu thị lớn. Hàng may mặc của công ty mới chỉ đưa vào kênh phân phối của các nhà sản xuất EU, các nhà sản xuất EU cung cấp nguyên phụ liệu và công ty liên doanh với các công ty khác hoặc thuê công ty khác để sản xuất, sau đó được các nhà sản xuất EU nhập khẩu về để bán. Ngoài ra, công ty thường sử dụng những kênh phân phối gián tiếp thông qua các trung gian thương mại ở các quốc gia và vùng lãnh thổ, việc sử dụng các kênh phân phối như vậy rất bị động, sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU bị ảnh hưởng rất nhiều. 2.4.3.5. Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế Hiện nay, trở ngại lớn cho hàng may mặc của công ty trong việc nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường EU là tính đến thời điểm này công ty mới chỉ đạt được chứng chỉ ISO 9000 còn chứng chỉ SA 8000 và chứng chỉ ISO 14000 vẫn chưa đạt được. Tuy nhiên, một thực tế là khách hàng EU chỉ mua những hàng may mặc được sản xuất theo hệ thống quản lý chất lượng quốc tế thì mới đạt tiêu chuẩn chất lượng. Do đó, với khách hàng khó tính như EU công ty cần có biện pháp để đáp ứng tới mức cao nhất nhu cầu của khách hàng thì mới mong tăng doanh thu, tăng thị phần trên thị trường này. 2.4.3.6. Hoạt động xúc tiến thương mại Các hoạt động quảng cáo của công ty chưa thực hiện tốt bởi chi phí cho hoạt động này rất tốn kém, đồng thời thiếu tính linh hoạt và đa dạng về cách thức, phương tiện quảng cáo. Công tác quan hệ công chúng PR của công ty còn hạn chế dẫn tới các thông tin về hàng may mặc của công ty còn bị hạn chế. Quan hệ của công ty với hội bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia EU thiếu tính chuyên nghiệp.Việc tham gia các hội chợ, triển lãm, các cuộc tiếp xúc của công ty với các doanh nghiệp trên thị trường EU là chưa đủ cần phải có nhiều hình thức quảng cáo hơn nữa hoặc phải có hàng của công ty ở các trung tâm thương mại đặt tại một số quốc gia tiêu thụ hàng may mặc lớnhàng hoá 2.4.4 Nguyên nhân của những tồn tại 2.4.4.1. Nguyên nhân bên trong công ty Nguyên liệu công ty sử dụng chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài nên giá thành sản phẩm cao vì nguồn nguyên liệu trong nước không đảm bảo chất lượng để sản xuất hàng may mặc sang thị trường EU. Vì vậy, công ty đã dùng chính sách giá để cạnh tranh thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Công ty có đội ngũ thiết kế chưa thực sự có chuyên môn cao, và có những hiểu biết sâu sắc về thị trường EU để thiết kế những mẫu trang phục cho thực sự phù hợp. Chính điều này đã làm giảm tính phong phú, đa dạng của các mẫu mã sản phẩm làm cho hàng may mặc của công ty không đáp ứng được mong muốn của khách hàng. Bên cạnh đó, công ty xuất khẩu chủ yếu qua hình thức gia công xuất khẩu nên công ty làm theo những mẫu mốt sẵn có được bên đối tác đặt hàng nên đôi khi chính điều này đã làm hạn chế sự sáng tạo trong mẫu mã sản phẩm của công ty. Công ty chưa có chính sách đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu thị trường EU nếu có thì cũng rất ít. Công ty đã có một số chính sách Maketing để giới thiệu hàng may mặc và nâng cao hình ảnh của công ty nhưng không đủ mạnh. Các biện pháp chưa được phối hợp đồng bộ, không liên tục rời rạc. Các biện pháp mà công ty đã sử dụng chủ yếu là giới thiệu qua sách báo, tạp chí, qua internet còn các biện pháp sử dụng để tiếp xúc trực tiếp với khách hàng qua hội chợ triển lãm còn rất ít vì chi phí để mang hàng sang các hội chợ để giới thiệu sản phẩm tới khách hàng EU là rất lớn mà khả năng tài chính của công ty còn eo hẹp. Công ty phần nào đã chưa tận dụng hết được hết năng lực sản xuất của mình dẫn chứng là mặt hàng đòi hỏi trình độ khéo léo của người lao động như đan móc là rất ít, trong khi lao động của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng rất khéo léo trong khâu sản xuất này. Chất lượng hàng may mặc của công ty chưa ổn định do công tác kiểm tra giám sát sản xuất hàng may mặc của công ty chưa thực sự đạt hiệu quả, máy móc thiết bị mặc dù công ty đã chú ý tới việc đổi mới cùng với doanh nghiệp mà công ty phối hợp cùng sản xuất tuy nhiên hiệu quả chưa cao. Thêm vào đó, trình độ người lao động khéo léo nhưng không đồng đều cũng làm cho chất lượng hàng may mặc của công ty chưa ổn định. Thời gian giao hàng của công ty thường không đúng hạn do quy mô sản xuất của công ty còn nhỏ, thêm vào đó công ty còn bị động về nguyên phụ liệu do phải nhập khẩu nhiều. Không riêng công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may mà các công ty của Việt Nam nói chung còn yếu trong khâu quản lý, việc quản lý kém dẫn tới năng suất không cao làm giảm tính cạnh tranh. Nhìn chung, các nhà quản lý của công ty còn thiếu kinh nghiệm trong đàm phán với các đối tác nước ngoài, thiếu kiến thức về ngoại ngữ cũng như trình độ vi tính gây ra những khó khăn trong gia dịch với các đối tác nước ngoài. 2.4.4.2. Nguyên nhân bên ngoài công ty Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU đã có nhiều khởi sắc từ đó tạo ra những điều kiện thuận lợi cho thương mại của Việt Nam, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những thách thức đó là công ty phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Hiện nay, Việt Nam còn có quá nhiều thủ tục hành chính rườm rà trong việc xuất khẩu làm mất thời gian, công sức, gây ra sự chậm chễ trong việc thực hiện các đơn hàng của công ty. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường chưa liên tục và kém hiệu quả. Vấn đề sản xuất nguyên phụ liệu trong nước đã được Nhà nước quan tâm nhưng chưa thực sự đạt hiệu quả như các doanh nghiệp may mặc Việt Nam mong muốn, dẫn tới công ty không có đủ nguyên phụ liệu cần thiết về số lượng cũng như chất lượng để sản xuất. Chính điều này đã buộc công ty phải nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài, làm cho giá hàng may mặc của công ty bị đội lên rất cao dẫn tới khó khăn trong việc cạnh tranh bằng giá. Ngành mốt của Việt Nam còn quá non trẻ về kiến thức và kinh nghiệm thiết kế còn bị hạn chế, số lượng các nhà thiết kế giỏi mang tính chuyên nghiệp còn rất ít. Điều này làm cho hàng may mặc của công ty còn đơn điệu về kiểu dáng mẫu mã, chủng loại hàng từ đó làm hạn chế sức cạnh tranh đối với hàng may mặc của công ty. Qua phân tích thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU chúng ta đã thấy được thực tế toàn cảnh về sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Công ty đã biết tận dụng những lợi thế, điểm mạnh của mình để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng may mặc. Tuy nhiên, công ty vẫn còn tồn đọng những khó khăn, chính điều này đã làm giảm sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Biết được thực tế đó, công ty cũng không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để khắc phục những khó khăn, tồn tại đó nhằm nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh về hàng may mặc của công ty trên thị trường thế giới cũng như trên thị trường EU. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY SX _ XNK DỆT MAY VINATEX IMEX SANG THỊ TRƯỜNG EU 3.1. Đặc điểm thị trường EU và những yêu cầu đặt ra cho xuất khẩu hàng dệt may 3.1.1. Đặc điểm thị trường EU Chính sách thương mại chung của EU hiện nay đang hướng tới xóa bỏ dần những hạn chế trong buôn bán, giảm thuế, tạo thuận lợi cho các hoạt động buôn bán bằng cách kết hợp các chính sách song phương, đa phương và khu vực. Những năm gần đây, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam. EU là thị trường tiêu thụ hàng may mặc đầy tiềm năng. Nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc thông thường của thị trường này càng lớn khi EU mở rộng ra thành 25 nước thành viên. Theo thống kê Anh, Đức, Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan là những quốc gia tiêu dùng hàng may mặc lớn nhất EU chiếm khoảng 77% trong tổng mức chi tiêu của 25 quốc gia thuộc EU. Tuy nhiên, các quốc gia nhỏ và ít dân cư như Bỉ, Thuỵ Điển cũng đều có mức tiêu dùng/người cho hàng may mặc khá cao. Với 10 quốc gia thành viên mới, các quốc gia này đều có mức tăng trong tiêu dùng hàng may mặc cao, trong đó mức tiêu dùng/người của Slovennia là lớn nhất đạt hơn 401 Euro năm 2008, tiếp đến người tiêu dùng Malta đạt 310 Euro. Trong các thành viên mới này có nhiều quốc gia đã từng là thị trường truyền thống của hàng may mặc Việt Nam như cộng hoá Sec, Hungari, Balan, Latvia, Lithuanie, Slovakia, Estonia. Nhìn chung, 10 quốc gia thành viên mới của EU không phải là thị trường khó tính đối với hàng may mặc và do thu nhập bình quân đầu người thấp nên mức chi tiêu cho hàng may mặc thấp, vì thế hàng may mặc từ cấp thấp, cấp trung đến cao cấp đều có thể tiêu thụ được trên thị trường này. Nghành xuất khẩu dệt may Việt Nam tại thị trường EU có rất nhiều đối thủ nặng ký như các công ty của Trung Quốc, Srilanca, Ấn Độ... 3.1.2. những yêu cầu đặt ra cho xuất khẩu hàng dệt may EU có xu hướng nhập khẩu hàng may mặc từ các nước đang phát triển với mức giá thấp vì các nước EU hầu hết là các nước công nghiệp, họ chú trọng vào công nghiệp nặng và công nghệ thông tin để xây dựng và phát triển kinh tế, ngoài ra các nước trong EU chủ yếu tập trung vào việc sản xuất hàng may mặc cao cấp, đòi hỏi kỹ thuật cao, mẫu mã phức tạp chứ không chú ý tới đoạn thị trường phục vụ nhu cầu ăn mặc thông thường, mặt khác chi phí sản xuất ở đây cũng rất cao. Người tiêu dùng EU thích tiêu dùng theo mốt cho nên doanh nghiệp phải chú trọng khâu thiết kế .Thiết kế nhiều mẫu mã sản phẩm mới thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.Những nước nhập khẩu mặt hàng này lớn là Anh, Pháp, Ý, bên cạnh đó một số nước cũng đã và đang tăng khả năng nhập khẩu đối với nhóm hàng này là Đan Mạch, Hà Lan, Thuỵ Điển… Người tiêu dùng EU có xu hướng tiêu dùng những hàng may mặc sản xuất từ nguồn nguyên liệu tự nhiên. Vì thế, xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trong những năm tới là dùng các sản phẩm được làm từ tơ tằm, thổ cẩm, lụa… vì những hàng may mặc được sản xuất từ chất liệu này vừa độc đáo, lạ mắt, mát mẻ mà việc sản xuất chúng không ảnh hưởng gì tới môi trường. Để có thể xuất khẩu vào thị trường EU, hàng hóa dệt may của Việt Nam trước hết phải vượt qua các rào cản về các tiêu chuẩn, đó là: an toàn cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái, vấn đề sử dụng lao động, cần phải tìm hiểu kỹ các đặc điểm cung – cầu về hàng hóa của thị trường toàn khối và thị trường từng nước thành viên, phải áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14.000, SA 8.000, phải có chứng chỉ ISO 14.000 và phải chứng minh được nguồn gốc hàng hóa cùng với những biện pháp bảo vệ môi trường đã được áp dụng ngay từ khâu sản xuất tại nước minh. Tóm lại nghành dệt may của Việt Nam muốn xuất khẩu có hiệu quả vào thị trường khó tính EU cần chú trọng những điều sau: Thứ nhất: Coi chất lượng là hàng đầu Hàng may mặc của chúng ta phải không ngừng được nâng cao chất lượng, thông qua đổi mới máy mọc, thiết bị công nghệ. Tạo lập cơ sở xây dựng thương hiệu, nhờ vào uy tín của những thương hiệu đã trở nên nổi tiếng trên thị trường EU. Qua đó, chất lượng hàng may mặc luôn bảo đảm. Thứ hai: Hạ giá thành hàng may mặc xuất khẩu dựa trên hạ chi phí sản xuất và phát huy lợi thế sản xuất theo quy mô lớn. Nghành dệt may của Việt Nam cần đảm bảo tăng khối lượng hàng may mặc cung cấp ra thị trường, nhưng luôn giữ được mức hạ giá thành sản xuất. Đây là bài toán khó mà hàng may mặc của các công ty ở Trung Quốc đã thực hiện được. Nghành dệt may của Việt Nam đòi hỏi cần có nhiều biện pháp kết hợp trong sản xuất hàng nguyên phụ liệu, sản xuất hàng may mặc và xuất khẩu, giữa quy mô sản xuất với hạ giá thành trên mỗi sản phẩm. Thứ ba: Nắm bắt kịp thời nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng trên thị trường EU Đa dạng hoá mẫu mã và nhu cầu sử dụng là rất cần thiết nhất là đối với các mặt hàng may mặc. Muốn đa dạng hoá mẫu mã hàng may mặc của công ty thì chúng ta cần nắm bắt kịp thời nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng trên thị trường EU. Càng đa dạng hàng may mặc xuất khẩu, khách hàng càng dễ lựa chọn theo sở thích, nhu cầu của mình, ngược lại hàng may mặc thiếu tính đa dạng, khách hàng sẽ khó khăn lựa chọn theo nhu cầu, thị hiếu của mình hơn, như vậy khả năng cạnh tranh sẽ không cao. Thứ tư: Mở rộng kênh phân phối Muốn hàng may mặc có khả năng cạnh tranh cao dệt may của Việt Nam cần phải có hệ thống phân phối rộng khắp trên thị trường EU. Thiết lập kênh phân phối rộng không nhất thiết công ty phải tự thực hiện, mà dựa luôn vào các kênh phân phối sẵn có của các quốc gia nhập khẩu. Điều quan trọng là hàng may mặc của chúng ta phải đáp ứng được yêu cầu của các kênh phân phối này. Thứ năm: Quan tâm tới chất lượng người lao động Chúng ta cần đội ngũ cán bộ quản lý đòi hỏi trình độ tiếng Anh khá để giao dịch tốt với các đối tác nước ngoài, để thực hiện điều tra nghiên cứu thị trường, nhanh chóng nắm bắt xu hướng, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng EU. Ngoại ngữ trở thành yếu tố quan trọng trong giao tiếp trực tiếp với khách hàng. Chúng ta cần có chính sách tốt để đầu tư đào tạo đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của Việt Nam. Thứ sáu: Phối hợp với các công ty sản xuất hàng công nghiệp phụ trợ Các mặt hàng công nghiệp phụ trợ cho hàng may mặc như khuy áo, chỉ, khóa kéo, nhãn, mác. Ngành dệt may cần phải tạo sự liên kết chặt chẽ với các công ty cung cấp nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Đây là một bài học hay nhằm tạo điều kiện chủ động trong sản xuất và kinh doanh của công ty, góp phần hạ chi phí và hạ giá thành sản phẩm, có sự gắn bó chặt chẽ với các công ty sản xuất các mặt hàng công nghiệp phụ trợ phát triển rõ rà khả năng cạnh tranh cũng cao hơn. 3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng dệt may của công ty trên thị trường EU 3.2.1 Nghiên cứu và đánh giá thị trường mặt hàng may mặc EU Để công ty có thể kinh doanh thành công trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng thì công tác nghiên cứu và và đánh giá thị trường là hết sức quan trọng. Thứ nhất: Thị trường EU sau khi mở rộng và loại bỏ chế độ hạn ngạch đối với hàng may mặc sẽ có nhiều thay đổi về chính sách thương mại, hệ thống thuế, các yêu cầu về chất lượng, nhu cầu khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Chẳng hạn về nhu cầu của khách hàng đã hình thành tới mười nhóm khách hàng với mười xu hướng tiêu dùng khác nhau, hay về đối thủ cạnh tranh sẽ hình thành nhiều mặt hàng may mặc mới với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng….Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Do đó, việc nắm bắt những thông tin về thị trường là điều không thể thiếu và cần phải liên tục được cập nhật. Thứ hai: Nghiên cứu và đánh giá thị trường hàng may mặc EU là cơ sở để phân đoạn thị trường khách hàng, việc phân đoạn thị trường khách hàng giúp hàng may mặc của công ty tiếp cận đúng nhóm khách hàng khi EU mở rộng lên 25 thành viên. Mỗi quốc gia thành viên EU có thị hiếu, xu hướng tiêu dùng và mức thu nhập cũng rất khác nhau.Với nhóm khách hàng lựa chọn hàng may mặc theo thương hiệu thì hàng may mặc của công ty cần tăng cường xây dựng thương hiệu, đối với nhóm khách hàng ưa thích kiểu dáng thì hàng may mặc của công ty cần phải có nhiều kiểu dáng, đối với nhóm khách hàng mua hàng may mặc xa xỉ, đắt tiền rất thích hàng may mặc kết hợp giữa thủ công và hiện đại nhờ những hoạ tiết, chi tiết thuê, ren, móc, đan bằng tay, và sản phẩm được làm bằng chất liệu có chất lượng tốt thì hàng may mặc của công ty cần phải cố gắng đổi mới máy móc thiết bị để sản xuất ra những mặt hàng đáp ứng nhu cầu… Thứ ba: Nghiên cứu và đánh giá thị trường hàng may mặc EU để tìm ra được những “ ngách” thị trường này. Ngoài ra, những mảng thị trường mà có nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng hàng may mặc của công ty muốn tham gia thì đòi hỏi phải có sức cạnh tranh lớn, để nâng cao được sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên các thị trường này thì cũng đòi hỏi phải nghiên cứu và đánh giá thị trường hàng may mặc EU. 3.2.2 Giải pháp đáp ứng các tiêu chuẩn của EU 3.2.2.1. Nâng cao chất lượng mặt hàng may Công ty cần nâng cao chất lượng hàng may mặc trên thị trường EU theo hướng cố gắng đạt chứng chỉ quản lý chất lượng ISO 9000, chứng chỉ về môi trường ISO 14000, và chứng chỉ trách nhiệm xã hội SA 8000. Đây là biện pháp hữu hiệu nhằm đáp ứng yêu cầu của EU về tiêu chuẩn đối với hàng may mặc nhập khẩu. Cụ thể, công ty có thể mời các chuyên gia đánh giá về chất lượng của EU trong thẩm định chất lượng hàng may mặc của công ty xuất khẩu sang thị trường EU bởi vì, ngoài đánh giá chất lượng hàng may mặc xuất khẩu sang EU bằng các tiêu chuẩn quốc tế, EU còn có các tiêu chuẩn riêng cùng với tiêu chuẩn của các quốc gia để đánh giá. Đây là biện pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao uy tín hàng may mặc của công ty, khẳng định chất lượng hàng may mặc của công ty có phù hợp với tiêu chuẩn của EU, từ đó nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Công ty trong một vài năm tới khi đã có điều kiện về tài chính nên nghiên cứu và thực hiện các tiêu chuẩn nhãn hiệu sinh thái của EU, để hàng may mặc của công ty sớm được dán nhãn sinh thái, trong khi hàng may mặc của các doanh nghiệp Trung Quốc, Ấn Độ đang có chiến lược thực hiện dán nhãn sinh thái, nếu họ thực hiện trước thì hàng may mặc của các doanh nghiệp này có sức cạnh tranh rất mạnh do đó công ty nên cố gắng thực hiện sớm. Hiện nay, EU ngoài các tiêu chuẩn chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế còn áp dụng chính sách kiểm soát ngặt nghèo về dư lượng kim loại nặng và dư lượng hoá chất có trong hàng may mặc. Một minh chứng cụ thể là hàng may mặc của các doanh nghiệp Trung Quốc đã bị loại khi quá hàm lượng kim loại nặng mà EU cho phép, tuy nhiên hàng may mặc của công ty vẫn chưa bị trả lại nhưng đây cũng là một cảnh báo cho hàng may mặc của công ty là phải tuân thủ những quy định về chất lượng của EU để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.2.2. Đa dạng hoá mặt hàng may xuất khẩu Một trong những biện pháp của công ty để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường EU là đa dạng hoá hàng may mặc xuất khẩu, có nhiều cách thức để đa dạng hoá: Đa dạng hoá chất liệu nhờ vào ý tưởng thiết kế Để đa dạng hóa hàng may mặc xuất khẩu trước tiên công ty cần phải đa dạng hoá về chất liệu để tạo ra sản phẩm tuy nhiên để đa dạng hoá chất liệu không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trong nước mà vai trò của các ý tưởng thiết kế của đội ngũ thiết kế trong công ty là rất quan trọng vì nếu có nhiều nguyên phụ liệu mà ý tưởng thiết kế thiếu sáng tạo, thiếu ý tưởng mới thì hàng may mặc của công ty sẽ không thể cạnh tranh được với các đối thủ. Ý tưởng của đội ngũ thiết kế trong công ty nếu hay, đặc sắc sẽ tạo nên những sản phẩm may mặc với nhiều màu sắc khác nhau, công dụng khác nhau sẽ kết hợp với các chất liệu khác nhau, ý tưởng của đội ngũ thiết kế trong công ty phải xuất phát từ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng EU. Đa dạng hoá chủng loại Mỗi chủng loại hàng may mặc phù hợp từng thời gian khác nhau, trong mỗi chủng loại công ty cần hình thành theo những bộ sưu tập thời trang theo mùa, làm được điều này hàng may mặc của công ty sẽ thể hiện được tính chuyên nghiệp cao. Từ đó, hàng may mặc của công ty sẽ dần dần hoà nhập hơn với xu hướng thời trang của thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng vì thị trường này có xu hướng tiêu dùng theo mốt , và đồng thời giúp nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Công ty muốn đa dạng hoá được sản phẩm, cần có những thông tin nghiên cứu thị trường biết được thị trường cần gì và công ty sẽ cố gắng thay đổi cho phù hợp với nhiều chủng loại hàng và nhiều chất liệu khác nhau, đây là biện pháp rất tốt để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.2.3. Đăng ký nhãn hiệu mặt hàng may của công ty trên thị trường EU Khách hàng EU quen sử dụng những hàng may mặc có thương hiệu, những mặt hàng không có thương hiệu thường gắn với chất lượng thấp, không có tính thời trang và chiếm 10% thị phần hàng may mặc EU. Điều này, cho thấy công ty cần nhanh chóng đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU, việc đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU tạo ra các thuận lợi là nếu đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU hàng may mặc của công ty sẽ loại bỏ được hàng nhái, hàng giả lấy nhãn hiệu hàng may mặc của công ty. Nếu công ty không đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU thì hàng nhái, hàng giả kém chất lượng sẽ làm mất uy tín hàng may mặc của công ty, từ đó làm giảm sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.3 Giải pháp hạ chi phí trong sản xuất và kinh doanh Hiện nay, giá bán một số mặt hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường EU của công ty còn cao. Do đó, trong sản xuất kinh doanh hàng may mặc công ty cần hạ chi phí từ đó làm giảm giá bán. Tuy nhiên trong vấn đề hạ giá bán công ty cần chú ý tới các yêu cầu sau: Thứ nhất: Hạ chi phí trong sản xuất kinh doanh góp phần làm giảm giá bán nhưng mà không được vi phạm Luật chống bán phá giá của EU. Trường hợp rủi ro xảy ra là công ty có thể bị kiện là bán phá giá thì công ty cần bình tĩnh chứng minh là mình không bán phá giá bằng cách thuê các công ty kiểm toán đánh giá tình hình tài chính của công ty trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư, doanh thu, chi phí. Thứ hai: Giảm chi phí bằng cách đẩy mạnh công tác quản lý chặt chẽ khâu sản xuất và xuất khẩu. Công ty cần có sự phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang thị trường EU, đồng thời cần có sự phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng phụ trợ để tránh thời gian chết giữa các công đoạn sản xuất hàng may mặc của công ty. Thứ ba: Đẩy mạnh giao dịch bằng các ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh. Thông qua đó mà công ty có thể giảm chi phí hạ giá thành hàng may mặc điều này thì công ty đã và đang thực hiện, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 3.2.4 Giải pháp về nhượng quyền thương mại Nhượng quyền thương mại là việc công ty thuê sử dụng một thương hiệu, phương thức kinh doanh, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất định. Đổi lại công ty phải trả cho bên nhượng quyền một khoản lệ phí và tuân thủ theo các yêu cầu của bên nhượng quyền về chất lượng sản phẩm, kiểu dáng và những yêu cầu khác để đảm bảo uy tín cho bên nhượng quyền. Do thực tế là công ty chưa tạo dựng được uy tín cao với khách hàng EU, nên việc đẩy mạnh xuất khẩu thông qua nhượng quyền thương mại là rất cần thiết đối với công ty. Giải pháp này giúp hàng may mặc của công ty nâng cao uy tín, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường EU. 3.2.5 Sử dụng đa dạng các kênh phân phối Sử dụng đa dạng các kênh phân phối là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU do được nhiều tiêu dùng EU biết đến, từ đó mà hình ảnh hàng may mặc của công ty được cải thiện hơn. Thứ nhất: Công ty nên cung cấp hàng may mặc cho các tổ hợp thương mại và các siêu thị lớn, khi đó công ty phải đáp ứng những yêu cầu chặt chẽ của các nhà nhập khẩu EU đề ra là phải cung cấp một khối lượng lớn, thời gian giao hàng phải tuyệt đối đúng hạn, giá cả rẻ, chất lượng hàng tốt và những điều kiện thanh toán thuận lợi. Với hình thức cung cấp này công ty sẽ có được đơn hàng lớn, ổn định và không lo khâu phân phối bởi các nhà nhập khẩu có hệ thống các cửa hàng, siêu thị bán lẻ khắp EU từ đó hình ảnh hàng may mặc của công ty cũng được tăng lên hơn trước. Thứ hai: Công ty nên cung cấp qua những trung gian thương mại như các nhà bán buôn nhập khẩu sau đó các nhà bán buôn này lại bán cho các nhà bán lẻ, các đại lý từ đó tăng doanh thu, tăng thị phần cho công ty. Thứ ba: Công ty nên cung cấp qua các nhà bán lẻ đây là kênh phân phối tốt nhất vì những nhà bán lẻ có vai trò quan trọng trong hệ thống kênh phân phối hàng may mặc trên thị trường EU. Các nhà phân phối này ngoài hệ thống các cửa hàng, siêu thị khắp các quốc gia trong EU còn có hệ thống các cửa hàng, siêu thị ở các quốc gia trên châu lục khác. Qua đó, hàng may mặc của công ty không chỉ được biết tới ở thị trường EU mà còn ở các quốc gia trên thế giới. Tóm lại, khi kênh phân phối hàng may mặc của công ty được mở rộng, sẽ tạo sự ảnh hưởng nhất định đối với đối thủ cạnh tranh và khách hàng EU từ đó nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.6 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại Để khách hàng EU có được những thông tin tốt về chất lượng hàng may mặc của công ty thì công ty nên tạo mối quan hệ tốt với các tổ chức liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới mua sắm hàng may mặc của khách hàng EU như hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thị trường EU. Đồng thời, công ty nên tăng cường các hoạt động quảng cáo, tham gia các hội chợ được tổ chức hàng năm tại thị trường EU từ đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.3. Một số kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ ngành liên quan Hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu thị trường Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm thông tin, thiết lập các kênh phân phối, tham gia hội chợ, triển lãm, hội thảo, các quan hệ công chúng, đặc biệt cung cấp thông tin về thị trường, những biến động của thị trường và những dự báo cần thiết. Những thông tin thu thập được rất quan trọng, bởi vì nó quyết định tới việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trêng thị trường EU.Việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là của các hiệp hội và phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, tuy nhiên các doanh nghiệp chủ yếu thu thập thông tin từ các nguồn khác do các hiệp hội và phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam chưa làm được điều này. Vì vậy, trong thời kỳ mở cửa và hội nhập nền kinh tề thế giới, các hiệp hội và phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của mình để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Phối hợp thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp Phối hợp chặt chẽ giữa Hệp hội dệt may Việt Nam với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và Cục xúc tiến thương mại trong xây dựng chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu theo từng nhóm hàng, từng khu vực thị trường, cần có đội ngũ tư vấn thị trường, kinh doanh, tìm đối tác, luật pháp, xúc tiến bán hàng để sẵn sàng giúp đỡ các doanh nghiệp khi cần. Sự phối hợp hoạt động này, góp phần tăng sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Các Hiệp hội, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại Việt Nam nên tiếp cận hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp để phát triển các hoạt động của mình cho phù hợp với thực tế thị trường, thay đổi cách tiếp cận xúc tiến thương mại theo kiểu truyền thống mang nặng thủ tục hành chính mà không hiệu quả. Hiệp hội dệt may Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và Cục xúc tiến thương mại cần sớm đưa ra giải pháp kiến nghị với các cơ quan trong việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính xét duyệt các chương trình xúc tiến thương mại trên thị trường EU, hỗ trợ các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các nguồn tài chính của Chính phủ. Đây là giải pháp thiết thực giúp nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Hoàn thiện chính sách tín dụng cho ngành dệt may Chính phủ nên thay đổi quy chế hỗ trợ xuất khẩu theo hướng nới lỏng các quy định về bảo đảm tiền vay, ưu tiên các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, các doanh nghiệp tạo thành chuỗi trong sản xuất và xuất khẩu, các doanh nghiệp đạt các chứng chỉ tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp được Hiệp hội dệt may bảo lãnh. Chính phủ nên thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không đủ tài sản để thế chấp vay vốn. Chính phủ nên rà soát, loại bỏ hoặc giảm các loại phí và lệ phí có thể làm tăng chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp như các chi phí dịch vụ công đang là vấn đề lo ngại của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp Môi trường kinh doanh sẽ trở nên lành mạnh, minh bạch, hoàn thiện khi có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển tự do kinh doanh những hàng hoá không bị Nhà nước cấm và cạnh tranh lành mạnh. Hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa phát huy hết khả năng trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc, nguyên nhân chính là các bộ luật liên quan còn chưa hoàn chỉnh theo thông lệ quốc tế, tính minh bạch, rõ ràng chưa cao, tạo ra sự lo ngại của các nhà đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề bất cập khác mà hệ thống luật pháp Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh do đó Chính phủ cần sớm ban hành các bộ luật để hoàn chỉnh hệ thống luật pháp tạo điều kiện để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Hiện nay, cùng với xu hướng hội nhập và mở cửa nền kinh tế thì hơn lúc nào hết doanh nghiệp muốn cạnh tranh được thì cần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng, tạo khả năng tiếp thu với công nghệ tiến tiến do quá trình phát triển kinh tế, khoa học của thế giới. Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực theo hướng: Thứ nhất: Cần có chương trình đào tạo lao động cho ngành dệt may theo chương trình đào tạo quốc gia ở các trường đại học và cao đẳng, trường dạy nghề, Thứ hai: Có chính sách tăng tiếp nhận và chuyển giao những chương trình dạy nghề, thường xuyên mời các chuyên gia nước ngoài trực tiếp đào tạo tại các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng Chính phủ cùng với Bộ công nghiệp, Bộ thương mại, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam xây dựng cơ chế và thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát việc sử dụng những hoá chất trong sản xuất các nguyên phụ liệu phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Căn cứ vào hệ thống chất lượng quốc tế làm căn cứ cho xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam, các tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam nên gắn với các tiêu chuẩn chất lượng của quốc tế. Chính phủ phối hợp với các Bộ xây dựng những phòng thí nghiệm với trang thiết bị hiện đại để đánh giá chất lượng hàng may mặc trên cơ sở tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách thủ tục hải quan Hiện nay, vấn đề về các thủ tục hải quan của Việt Nam đã có nhiều thay đổi tuy nhiên vấn còn nhiều vấn đề cần giải quyết để hoàn thiện nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu cụ thể: Cải cách thủ tục hải quan theo hướng một cửa, một dấu nhằm giảm tối đa thời gian cho các khẩu thủ tục hành chính để đáp ứng thời gian giao hàng. Thống nhất trong việc áp mã thuế đối với nguyên phụ liệu, hàng may mặc ở các cửa khẩu hải quan khác nhau theo tiêu chuẩn phân loại hàng hoá của WTO. Nâng cao tỷ lệ kiểm tra đối với hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu và giảm tỷ lệ kiểm tra xác suất để loại những hàng hoá không đạt tiêu chuẩn ngay tại cửa khẩu. Tăng sử dụng máy móc thiết bị hiện đại trong việc kiểm tra hàng may mặc xuất khẩu để giảm thời gian thông quan. KẾT LUẬN Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã được hai năm, cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may nói riêng là rất lớn, nhưng cơ hội chỉ là tiềm năng, mà thách thức đang là hiện thực. Doanh nghiệp sẽ có cơ hội được hưởng lợi nhờ thuế nhập khẩu nguyên, phụ liệu giảm trong khi nguồn cung cấp sẽ phong phú hơn. Nhờ vậy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ có kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, đó mới chỉ là cơ hội mà thôi, còn việc có giảm được chi phí đầu vào, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm hàng hóa dịch vụ của công ty hay không là vấn đề khác. EU vốn là thị trường truyền thống của hàng dệt may Việt Nam nói chung và luôn đứng ở vị trí dẫn đầu trong số các thị trường xuất khẩu của công ty. Việc EU mở rộng thành 27 nước thành viên, chắc chắn là thị trường thuận lợi cho hàng dệt may của công ty nói chung và hàng may mặc nói riêng. Mặt khác, trình độ phát triển của các nước EU không đồng đều, nhu cầu của từng đối tượng khác nhau, các thành viên mới cũng có tiềm năng sản xuất hàng dệt may nói chung và hàng may mặc nói riêng. Do vậy, để có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty sang thị trường EU cần phải đưa ra những chiến lược cụ thể và thật sự có hiệu quả. Nghiên cứu đề tài: : “ Xuất khẩu hàng dệt may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may VINATEX IMEX trên thị trường EU” đã giúp em hiểu một số hoạt động xuất khẩu hàng may mặc trên thị trường trong những năm qua diễn ra như thế nào. Trên cơ sở đó, bằng vốn kiến thức ít ỏi của mình em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để nâng cao hoạt động XNK hàng dệt may của công ty trên thị trường EU. Từ đó, đưa ra những kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ ngành liên quan. Do giới hạn về thời gian và hiểu biết có hạn của bản thân, bài viết này sẽ có nhiều sai sót. Vì vậy, em tha thiết mong các thầy cô xem xét và có những nhận xét đánh giá để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo Sách 1. GS.TS Nguyễn kế Tuấn “ Giáo trình quản trị chức năng thương mại cho các doanh nghiệp Công nghiệp” 2004 Nhà xuất bản Thống kê 2. PGS.TS Nguyễn Thị Hường “Giáo trình kinh doanh quốc tế” tập 1, tập 2(2003) Nhà xuất bản lao động xã hội 3. GS.TS Lê văn Tâm “Giáo trình Quản trị chiến lược” đại học Kinh tế quốc dân 4. TS Vũ Trọng Lâm “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” (2006) Nhà xuất bản chính trị quốc gia 5. Tác giả Trần Chí Thành “Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam” (2002) Nhà xuất bản lao động xã hội 6. PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân “Thâm nhập thị trường EU-những điều cần biết” (2004) Nhà xuất bản thống kê 7. GS.TS Nguyễn Đình Phan “Giáo trình quản lý chất lượng trong các tổ chức” 2005 nhà xuất bản Lao động – Xã hội Tài liệu công ty 8. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm(2004-2008) 9. Báo cáo tài chính của công ty qua các năm(2005-2008) 10. Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu của công ty qua các năm(2004-2008) 11. Báo cáo cơ cấu lao động của công ty (2005-2008) 12.Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu của công ty năm 2008 tại một số nước EU Các trang web 13. Dệt may Việt Nam vào EU: Vì sao tăng trưởng chưa như mong đợi? 14. Kinh nghiệm của SRILANCA về nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc trên thị trường EU và bài học rút ra cho hàng may mặc Việt Nam. 15. Vào WTO, dệt may VN vẫn chưa thể 'cất cánh' 16. Cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam 17. Dệt may Việt Nam trước thềm 2005: Đối đầu với hàng Trung Quốc 18. truong/ Thị trường EU: “Cô nàng đỏng đảnh” 19. Hiệp định về dệt may 20. Hướng dẫn kinh doanh tại thị trường EU 21. Các quy định cần biết về hàng dệt may 22. Đánh giá triển vọng phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 – 2010 23. Dự báo xu hướng trong hành vi mua sắm ở Châu Âu 24. Các giải pháp thiết yếu nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU 25. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA5920.DOC