Đề tài Vai trò và phương pháp lãnh đạo của Giám đốc doanh nghiệp trong cơ chế thị trường

Tài liệu Đề tài Vai trò và phương pháp lãnh đạo của Giám đốc doanh nghiệp trong cơ chế thị trường: LỜI NểI ĐẦU Đã qua rồi cái thời “ Ai làm giám đốc cũng được “ hoặc “ sống lâu lên lão làng “. Trong cơ chế thị trường, Giám đốc không chỉ đơn thuần là nhà lãnh đạo sản xuất kinh doanh mà còn là một nhà kiến tạo chiến lược, là con người của thực tiễn, của hành động. Với cương vị của mình, Giám đốc có việc phải làm. Không thể tự giam mình trong cái cung cách làm ăn kiểu truyền thống đến mức trở thành cổ điển, nhưng cũng không thể vượt qua ngoài quỹ đạo của sự hiện hữu - quỹ đạo của những cơ chế hiện hành. Tìm cho được chỗ đứng giữa cái ranh giới chật hẹp, mù mờ của sự đúng sai của một bên là bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, một bên là sự linh hoạt, mạnh dạn và sáng tạo, thật khó biết nhường nào. Đòi hỏi Giám đốc không những phải có trang bị kiến thức, phẩm chất, sức khoẻ tốt mà còn cần phải có phương pháp lãnh đạo thể hiện được đúng vai trò cao nhất trong doanh nghiệp, chỉ đạo doanh nghiệp thắng lợi trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường Giám đốc đã...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vai trò và phương pháp lãnh đạo của Giám đốc doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NểI ĐẦU Đã qua rồi cái thời “ Ai làm giám đốc cũng được “ hoặc “ sống lâu lên lão làng “. Trong cơ chế thị trường, Giám đốc không chỉ đơn thuần là nhà lãnh đạo sản xuất kinh doanh mà còn là một nhà kiến tạo chiến lược, là con người của thực tiễn, của hành động. Với cương vị của mình, Giám đốc có việc phải làm. Không thể tự giam mình trong cái cung cách làm ăn kiểu truyền thống đến mức trở thành cổ điển, nhưng cũng không thể vượt qua ngoài quỹ đạo của sự hiện hữu - quỹ đạo của những cơ chế hiện hành. Tìm cho được chỗ đứng giữa cái ranh giới chật hẹp, mù mờ của sự đúng sai của một bên là bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, một bên là sự linh hoạt, mạnh dạn và sáng tạo, thật khó biết nhường nào. Đòi hỏi Giám đốc không những phải có trang bị kiến thức, phẩm chất, sức khoẻ tốt mà còn cần phải có phương pháp lãnh đạo thể hiện được đúng vai trò cao nhất trong doanh nghiệp, chỉ đạo doanh nghiệp thắng lợi trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường Giám đốc đã thực sự là một nghề. Một nghề không chỉ đòi hỏi có trí thức tổng hợp, một tầm nhìn chiến lược, mà còn mang tính nghệ thuật cao. Là sinh viên khoa Quản trị kinh doanh - Quản trị doanh nghiệp, qua thực tiễn của Công ty Vật tư kỹ thuật Khí tượng thuỷ văn HYMETCO, với sự hướng dẫn của TS.Nguyễn Đình Quang, chú Phạm Lê Bình ( Giám đốc Công ty ) và của phòng kinh doanh cũng như phòng kế toán tài vụ Công ty HYMETCO, em xin chọn đề tài “Vai trò và phương pháp lãnh đạo của Giám đốc doanh nghiệp trong cơ chế thị trường” làm chuyờn đề tốt nghiệp. Nội dung chuyờn đề gồm 3 chương: Chương I: Vai trò và phương pháp lãnh đạo của Giám đốc doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương II: Thực trạng về vai trò và phương pháp lãnh đạo của Giám đốc Công ty vật tư kỹ thuật khí tượng thuỷ văn HYMETCO. Chương III: Những kiến nghị và giải pháp phát huy vai trò và phương pháp lãnh đạo của Giám đốc Công ty vật tư kỹ thuật khí tượng thuỷ văn HYMETCO. CHƯƠNGI VAI TRề VÀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO CỦA GIÁM ĐỐC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 1. Khái niệm và đặc điểm lao động của Giám đốc doanh nghiệp 1.1. Khái niệm Giám đốc doanh nghiệp. Hiện nay, còn nhiều khái niệm theo các khía cạnh khác nhau về Giám đốc doanh nghiệp. Có thể theo các khái niệm sau: Thứ nhất: Khái niệm Giám đốc doanh nghiệp theo quan điểm truyền thống ở nước ta: Theo quan điểm truyền thống chỉ có Nhà nước mới có quyền thành lập doanh nghiệp và những doanh nghiệp được thành lập ra đều là doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy, khái niệm Giám đốc doanh nghiệp chỉ được giới hạn trong phạm vi doanh nghiệp nhà nước. Theo khái niệm này thì giám đốc doanh nghiệp nhà nước vừa là người đại diện cho Nhà nước, vừa là đại diện cho tập thể những người lao động quản lý doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, có quyền quyết định việc điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp. Khái niệm này chỉ rõ, trong cơ chế quản lý cũ, Giám đốc doanh nghiệp chịu sự chi phối của hai áp lực: một là, các cơ quan quản lý cấp trên; hai là, tập thể những người lao động mà đại hội công nhân viên chức là đại diện tối cao của tập thể những người lao động. Từ khái niệm trên cho chúng ta nhận xét: - Giám đốc tất cả các doanh nghiệp đều do nhà nước bổ nhiệm và phải làm theo sự chỉ đạo của Nhà nước. - Những người lao động là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Giám đốc là người đại diện cho những người lao động, sẽ là người đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Như vậy, Giám đốc vừa là người quản lý, vừa là người chủ sở hữu. Điều đó dẫn đến tình trạng: Giám đốc doanh nghiệp vừa là người đá bóng, vừa là người thổi còi điều khiển trận đấu. trong nhiều trường hợp dẫn đến làm thất thoát vốn, sử dụng lãng phí các nguồn lực trong doanh nghiệp. Thứ hai: Khái niệm Giám đốc doanh nghiệp trong cơ chế thị trường: Theo khái niệm này thì Giám đốc doanh nghiệp là người quản lý, điều hành một doanh nghiệp sẵn có, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả. Khái niệm chỉ rõ giám đốc chỉ là nhà quản lý có trình độ, kỹ năng, nghiệp vụ quản trị doanh nghiệp. Giám đốc trong một số trường hợp có thể là người chủ sở hữu, nhưng cũng có thể chỉ là người quản lý. Khái niệm này bao gồm cả Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác. với khái niệm này đòi hỏi Giám đốc phải có trình độ chuyên môn cao, phù hợp để hành nghề. Giám đốc có thể được bổ nhiệm, được tập thể bầu cũng có thể được doanh nghiệp thuê. Trên quan điểm này thực chất Giám đốc cũng là người làm thuê cho Nhà nước hoặc cho các tổ chức kinh doanh khác. Thư ba: Khái niệm Giám đốc gắn liền với khái niệm nhà kinh doanh: Theo khái niệm này nhà kinh doanh được chia thành ba loại: Nhà kinh doanh sáng lập: là người có sáng kiến hay chuyên môn đứng ra nghiên cứu thị trường, bỏ vốn hoặc vay vốn để thành lập doanh nghiệp, tự quản lý và phát triển doanh nghiệp. Nhóm nhà kinh doanh: là hai hay nhiều người cộng tác với nhau để tạo lập và phát triển một doanh nghiệp trên cơ sở góp vốn, kỹ thuật, tài năng kinh doanh. Đại lý độc quyền: là nhà kinh doanh mua được đặc quyền cung cấp, tiêu thụ sản phẩm cho 1 doanh nghiệp khác. Từ khái niệm nhà kinh doanh chính, ta thấy rằng: đã là nhà kinh doanh phải là người chủ sở hữu nhưng không nhất thiết phải là Giám đốc doanh nghiệp ( có thể trực tiếp làm Giám đốc, có thể họ thuê Giám đốc ). Đối với doanh nghiệp nhà nước, Giám đốc là người có thẩm quyền cao nhất và có trách nhiệm lớn nhất về kinh tế, kỹ thuật, hành chính theo nhiệm vụ và quyền hạn đã quy định. Giám đốc xí nghiệp là người đại diện cho Nhà nước điều hành mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, Giám đốc là người đại diện đương nhiệm của pháp nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh, làm chủ tài khoản, ký và thực hiện các hợp đồng kinh tế, các cam kết về tài sản. Giám đốc là người trực tiếp nhận vốn do Nhà nước giao, chịu trách nhiệm trực tiếp về việc bảo tồn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp với Nhà nước theo pháp luật. Giám đốc do cấp trên có thẩm quyền bổ nhiệm. Đối với những doanh nghiệp áp dụng hình thức hội đồng quản trị căn cứ kết quả thi tuyển mà bổ nhiệm Giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Giám đốc có những quyền hạn và nghĩa vụ chủ yếu sau: + Tổ chức thực hiện các quyết định của cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp: chấp hành luật pháp, chính sách, chế độc của Nhà nước. + Xây dựng, trình Hội đồng quản trị và trình cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp quyết định theo luật về kế hoạch kinh doanh hàng năm, về các phương án kinh doanh và quản lý; + Thực hiện các chế độ báo cáo ( tình hình kinh doanh, kết quản tài chính....) theo quy định; + Tổ chức quản lý doanh nghiệp, quyết định tổ chức bộ máy quản lý trong đơn vị bảo đảm tinh giảm, có hiệu lực, đề nghị cấp trên bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm Phó giám đốc, Giám đốc trực tiếp bổ nhiệm ( miễn nhiệm ) các chức danh khác trong bộ máy quản lý doanh nghiệp; quyết định ban hành các quy chế về tổ chức, hành chính, các nội quy công tác trong nội bộ theo quy định chung của luật pháp Nhà nước; + Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân lành nghề, tuyển chọn, bố trí và sử dụng cán bộ trong doanh nghiệp; ký hợp đồng lao động và các thoả ước tập thể về lao động, thực hiện việc trả lương, thưởng, phụ cấp theo quy chế tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp về các luật lệ về bảo hộ lao động và bảo hiểm xã hội; + Ra các quyết định, điều hành mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo kế hoạch đã được Hội đồng quản trị và cấp trên thông qua; Giám đốc có thể bị Hội đồng quản trị miễn nhiệm bất cứ khi nào với lý do chính đáng, Trong trường hợp doanh nghiệp bị tổn thất, mất mát nghiêm trọng về tài sản và tiền vốn, hoặc bị thua lỗ dẫn đến giải thể hay phá sản, thì giám đốc phải chịu xử phạt theo pháp luật hiện hành ( nếu có vi phạm ), không được giữ chức vụ tương tự ở bất kỳ một doanh nghiệp nào trong thời hạn nhất định ( từ 5 đến 10 năm) tuỳ từng trường hợp cụ thể, kể từ ngày bị miễn chức. 1.2. Đặc điểm lao động của Giám đốc doanh nghiệp. Chúng ta cần phải nắm được đặc điểm lao động của giám đốc doanh nghiệp để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sử dụng với khả năng cống hiến của họ. Trước khi nghiên cứu đặc điểm lao động của Giám đốc doanh nghiệp cần làm rõ cách nhìn lâu nay đối với Giám đốc doanh nghiệp. Nhiều người cho rằng Giám đốc chỉ đơn thuần là một chức vụ do Nhà nước bổ nhiệm. Quan điểm này xuất phát từ cơ chế quản lý kế hoạch goá tập trung quan liêu bao cấp trước kia. Theo quan niệm này người ta ít chú ý đến khả năng chuyên môn của Giám đốc. Cứ có bao nhiêu doanh nghiệp Nhà nước ra đời thì cần bấy nhiêu chức vụ Giám đốc doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý cấp trên tìm người bổ nhiệm vào chức vụ ấy. Và thực tế, ai được bổ nhiệm cũng làm Giám đốc được, chưa có ai xin từ chức. Nhưng quan niệm Giám đốc chỉ là một chức vụ đã lỗi thời khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và đã là cơ chế thị trường, Giám đốc phải là một nghề. Muốn chỉ huy kinh doanh một công ty phải có kiến thức chuyên môn về quản trị doanh nghiệp và phải có kỹ năng kinh nghiệm nhất định, bảo đảm vận hành bộ máy quản lý đạt hiệu quả cao. Giám đốc là một nghề là quan niệm chính thống trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Nghề giám đốc có những đặc điểm cơ bản sau: + Xét về tính chất lao động của Giám đốc đó là lao động quản lý mang tính chất gián tiếp, công việc quản trị doanh nghiệp đòi hỏi Giám đốc phải có trình độ quản lý cao, đạt tới “ nghệ thuật quản lý “ lao động của Giám đốc là lao động chất xám mang tính sáng tạo. + Xét về đối tượng quản lý của Giám đốc không chỉ có yếu tố tĩnh như lao động văn hoá, vốn, mà yếu tố quan trọng nhất của quản lý lại là tập thể những người lao động dưới quyền. Quản lý đối tượng này cần phải am hiểu cả về tâm lý, tình cảm, cuộc sống đời thường và giới tính của họ..... + Xét về sản phẩm lao động của giám đốc đó là những quyết định. Khác với những sản phẩm thông thường, để tạo ra một sản phẩm của giám đốc, lao động cơ bắp không đáng kê, nhưng hoạt động trí óc, hao tổn thần kinh đóng vai trò quyết định. Người công nhân tạo ra sản phẩm có thể là chính phẩm, thứ phẩm, thậm chí phế phẩm. Nhưng sản phẩm lao động của giám đốc không có thứ phẩm mà chỉ có hoặc là chính phẩm, hoặc là phế phẩm. Sản phẩm phế phẩm của công nhân sẽ gây thiệt hại, nhưng chỉ trong giới hạn vật chất nhỏ hẹp, thậm chí không đáng kể, còn sản phẩm của Giám đốc trong mọi trường hợp đều gây hậu quả nghiêm trọng trong phạm vi lớn. Chính vì lẽ đó, lao động của Giám đốc cần phải được đánh giá cao, thuộc dạng lao động phức tạp, gấp nhiều lần lao động đơn giản. Lao động đó phải được trả công cao. 2. Vai trò, chức năng và quyền hạn của Giám đốc doanh nghiệp: 2.1. Vai trò của Giám đốc doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp là người có ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Theo điều tra của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, thời gian qua cả nước có 4584 doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ thì 2630 nguyên nhân thua lỗ chủ yếu do Giám đốc không có trình độ học vấn gây nên ( chiếm gần 60% tổng doanh nghiệp thua lỗ). Vai trò của Giám đốc doanh nghiệp có thể được nêu lên qua những nét sau đây: + Trong 3 cấp quản trị doanh nghiệp, Giám đốc là quản trị viên hàng đầu, là thủ trưởng cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Giám đốc có quyền ra chỉ thị, mệnh lệnh mà mọi người trong doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh chấp hành. Vì vậy, mỗi quyết định của Giám đốc có ảnh hưởng rất lớn trong phạm vi toàn doanh nghiệp. Với nghĩa này, Giám đốc là người tập hợp được trí tuệ của mọi người lao động trong doanh nghiệp, bảo đảm cho quyết định đúng đắn, đem lại hiệu quả kinh tế cao. + Vai trò quan trọng khác của Giám đốc là tổ chức bộ máy quản lý đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, bố trí hợp lý, cân đối lực lượng quản trị viên bảo đảm quan hệ bền vững trong tổ chức, hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng, hoàn thành tốt mục tiêu đã đề ra. Bố trí không đúng người, đúng việc sẽ gây ra những ách tắc trong hoạt động của bộ máy. Thưởng không đúng mức cũng sẽ gây những bất bình trong bộ máy, làm ảnh hưởng xấu đến bộ máy quản trị doanh nghiệp. Về lao động: Giám đốc quản lý hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng vạn lao động. Ông Iacocca ( người Mỹ ) - Tổng giám đốc công ty xe hơi FORD quản lý tới 432.000 công nhân làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau. Tổng quỹ tiền lương 1 năm lên tới 3,5 tỷ USD. Vai trò của Giám đốc không chỉ ở chỗ chịu trách nhiệm về việc làm, thu nhập, đời sống của số lượng lớn lao động mà còn chịu trách nhiệm về cuộc sống tinh thần, nâng cao trình độ văn hoá chuyên môn cho họ, tạo cho họ những cơ hội để thăng tiến. + Về tài chính: Giám đốc là người quản lý, là chủ tì khoản của hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay Giám đốc phải có trách nhiệm phát triển và bảo toàn vốn. Mọi quyết định sai lầm có thể dẫn đến làm thiệt hại bạc triệu, bạc tỷ cho doanh nghiệp. Nói tóm lại, có thể ví doanh nghiệp như một con tàu mà Giám đốc là người cầm lái. Với vai trò chèo chống của mình, Giám đốc có thể đưa doanh nghiệp đến đích hoặc bị chìm. 2.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của giám đốc doanh nghiệp: Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật doanh nghiệp nhà nước. Luật quy định rõ chức năng và quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của Giám đốc doanh nghiệp trong điều 26 và 27 như sau: Điều 26. Nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc Giám đốc có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: 1. Nhận và sử dụng có hiệu quả vốn do Nhà nước đầu tư và các tài sản, đất đai tài nguyên, các nguồn lực khác do Nhà nước giao, cho vay, cho thuê; 2. Xấy dựng chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn của công ty, dự án đầu tư, liên doanh, đề án tổ chức quản lý của công ty trình quyết định thành lập công ty; 3. Quyết định các dự án đầu tư, các hợp đồng bán tài sản có giá trị đến 30% tổng giá trị tài sản còn lại trên sổ kế toán của công ty hoặc tỷ lệ nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; các hợp đồng vay, cho vay, thuê, cho thuê và hợp đồng kinh tế khác do Điều lệ công ty quy định nhưng không vượt quá mức vốn điều lệ của công ty; 4. Điều hành hoạt động của công ty; tổ chức thực hiện chiến lược phát triển, kế hoặc kinh doanh, các dự án đầu tư, các quyết định của chủ sở hữu quy định tại các điều 64, 65, 66, 67 của Luật này; đại diện công ty ký kết và chỉ đạo thực hiện các hợp đồng kinh tế, dân sự; 5. Ban hành các định mức kinh tế – kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm, đơn giá tiền lương áp dụng trong nội bọ công ty phù hợp với quy định của nhà nước; 6. Trình người quyết định thành lập công ty việc tuyển chọn để bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng, khen thưởng, kỷ luật Phó giám đốc, kế toán trưởng; 7. Báo cáo người quyết định thành lập công ty và cơ quan tài chính về kết quả hoạt động, kinh doanh của công ty; 8. Quyết định tuyển chọn, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng hoặc bổ nhiệm, miễn nhiệm khen thưởng, kỷ luật Trưởng phòng, Phó trưởng phòng và các chức danh tương đương trong công ty, người đại diện phần vốn góp của công ty ở các doanh nghiệp khác; quyết định lương và phụ cấp đối với người lao động trong công ty, kể cả cán bộ thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của mình; 9. Chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 10. Được hưởng chế độ lương theo năm. Mức tiền lương và tiền thưởng tương ứng với hiệu quả hoạt động của công ty, do người quyết định bổ nhiệm bổ nhiệm hoặc theo hợp đồng đã ký. Tiền lương được tạm ứng hàng tháng, quyết toán hàng năm. Tiền thưởng hàng năm được tính dựa vào kết quả kinh doanh năm của công ty, chi trả một phần vào cuối năm, phần còn lại được chi trả sau khi kết thúc nhiệm kỳ; riêng tiền thưởng năm cuối nhiệm kỳ được tính dựa trên kết quả năm đó và kết quả tăng trưởng của nhiệm kỳ. 11. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác quy định tại Điều lệ công ty. Điều 27: Nghĩa vụ, trách nhiệm của Giám đốc 1. Thực hiện trung thực, có trách nhiệm các quyền và nhiệm vụ được giao vì lợi ích của công ty và của Nhà nước; tổ chức thực hiện pháp luật tại công ty; 2. Không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn, sử dụng vốn và tài sản của công ty để thu lợi riêng cho bản thân và người khác; không được tiết lộ bí mật của công ty trong thời gian đang thực hiện trách nhiệm Giám đốc và trong thời hạn ba năm hoặc thời hạn khác do Điều lệ công ty quy định sau khi thôi làm Giám đốc; 3. Trường hợp vi phạm Điều lệ công ty, quyết định vượt thẩm quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, gây thiệt hại cho công ty và Nhà nước thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty; 4. Khi vi phạm một trong những trường hợp sau đây nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Giám đốc sẽ không được thưởng, không được nâng lương và bị sử lý kỷ luật tuỳ theo mức độ vi phạm: a) Để công ty Nhà nước thua lỗ; b) Để mất vốn Nhà nước; c) Quyết định dự án đầu tư không hiệu quả, không thu hồi được vốn đầu tư; d) Không đảm bảo tiền lương và các chế độ khác cho người lao động ở công ty theo quy định của pháp luật về lao động; e) Để xảy ra các sai phạm về quản lý vốn, tài sản, về chế độ kế toán, kiểm toán và các chế độ khác do Nhà nước quy định; 5. Trường hợp để công ty lâm vào tình trạng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 25 của luật này thì tuỳ theo mức độ vi phạm và hậu quả bị hạ lương và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; 6. Khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn phải trả và không thực hiện được các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả, thì: a) Phải báo cáo người quyết định thành lập công ty và đề xuất phương án thanh toán nợ; b) Giám đốc không đương tăng lương và không được trích lợi nhuận trả tiền thưởng cho người lao động và cán bộ quản lý; c) Phải chịu trách nhiệm cá nhân về thiệt hại xảy ra đối với chủ nợ do không thực hiện nghĩa vụ quy định tại điểm a và điểm b của khoản này; d) Kiến nghị biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính của công ty; 7. Công ty lâm vào tình trạng phá sản nhưng Giám đốc không nộp đơn yêu cầu phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; 8. Công ty Nhà nước thuộc diện tổ chức lại, giải thể hoặc chuyển đổi sở hữu mà không tiến hành các thủ tục tổ chức lại, giải thể hoặc chuyển đổi sở hữu thì Giám đốc công ty bị miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn; 9. Giám đốc chỉ được giữ các chức danh quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty có vốn đầu tư nước ngoài khi được công ty, tổ chức Nhà nước có thẩm quyền giới thiệu ứng cử vào các chức danh quản lý hoặc cử làm đại diện của công ty đối với phần vốn góp vào các doanh nghiệp đó; Vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của Giám đốc công ty không được giữ chức danh kế toán trưởng, thủ quỹ tại cùng công ty. Hợp đồng kinh tế, lao động, dân sự của công ty ký kết với Giám đốc công ty, với vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của Giám đốc phải được thông báo cho người bổ nhiệm, người ký hợp đồng thuê Giám đốc biết; trường hợp người bổ nhiệm, người ký hợp đồng thuê Giám đốc phát hiện hợp đồng có mục đích tư lợi mà hợp đồng chưa được ký kết hợp đồng đó; nếu hợp đồng đã được ký kết thì bj coi là vô hiệu, Giám đốc phải bồi thường thiệt hại cho công ty và bị xử lý theo quy định của pháp luật; Qua đó ta có thể cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của giám đốc là: 1. Giám đốc doanh nghiệp vừa đại diện cho nhà nước, vừa đại diện cho công nhân viên chức, quản lý doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng có quyền quyết định việc điều hành của doanh nghiệp theo đúng kế hoạch chính sách, pháp luật của nhà nước và nghị quyết của Đại hội công nhân viên chức; chịu trách nhiệm trước nhà nước và tập thể lao động về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.Giám đốc là đại diện toàn quyền của doanh nghiệp trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp vắng mặt, giám đốc uỷ quyền cho người thay mặt là phó giám đốc. 3. Giám đốc có quyền quyết định tổ chức bộ máy quản lý trong doanh nghiệp , bảo đảm tinh giảm có hiệu lực. 4. Giám đốc tổ chức việc thi tuyển chuyên môn, nghiệp vụ và thực hiện có nề nếp chế độ nhận xét cán bộ trong doanh nghiệp theo định kỳ. 5. Giám đốc có quyền tuyển chọn lao động theo yêu cầu sản xuất và chính sách về lao động của nhà nước, có trách nhiệm xây dựng các nội quy, quy chế nhằm cụ thể hoá những quy định của nhà nước về kỷ luật lao động, bảo hộ lao động, kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp. Trong trường hợp không đảm bảo an toàn lao động, giám đốc có quyền và trách nhiệm phải đình chỉ sản xuất. 6. Giám đốc có quyền khen thưởng những người có thành tích; thi hành kỷ luật đến mức buộc thôi việc đối với những người vi phạm nội quy, quy chế áp dụng trong doanh nghiệp, cho thôi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động đối với những người lao động không đáp ứng yêu cầu sản xuất theo nội quy của doanh nghiệp và theo hợp đồng lao động đã ký kết. 7. Giám đốc xí nghiệp phải tôn trọng sự lãnh đạo của tổ chức Đảng tại doanh nghiệp theo Điều lệ Đảng và quy định của Trung ương Đảng, có trách nhiệm phối hợp với Ban chấp hành Công đoàn, Ban chấp hành Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ở doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định và phát huy quyền làm chủ tập thể lao động, có trách nhiệm báo cáo tình hình sản xuất của doanh nghiệp cho Đảng uỷ, Hội đồng doanh nghiệp, Ban chấp hành công đoàn doanh nghiệp . 8. Giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm tạo các điều kiện cần thiết để hội đồng doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng của mình. 9. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , nếu cần phải thay đổi mục tiêu kế hoạch mà Đại hội công nhân viên chức đã quyết định, giám đốc doanh nghiệp đề nghị Hội đồng doanh nghiệp xem xét quyết định điều chỉnh. 10. Trường hợp giữa Hội đồng doanh nghiệp và Giám đốc doanh nghiệp có sự không thống nhất, nếu là vấn đề thuộc điều hành sản xuất - kinh doanh theo kế hoạch đã được Đại hội công nhân viên chức quyết định thì Giám đốc có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước Đại hội công nhân viên chức và cấp trên doanh nghiệp ; nếu là vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội công nhân viên chức thì Giám đốc doanh nghiệp phải tuân theo quyết định của hội đồng doanh nghiệp . Giám đốc doanh nghiệp không phải chỉ đơn thuần là người lãnh đạo sản xuất kinh doanh, nhiệm vụ của Giám đốc đa dạng và phức tạp. Phạm vi hoạt động của giám đốc là vô cùng rộng. Với tất cả quyền lực của mình Giám đốc là người có ảnh hưởng và uy tín lớn nhất trong doanh nghiệp. Cùng với Đảng uỷ doanh nghiệp, Giám đốc chịu hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra trong doanh nghiệp, chịu trách nhiệm về cuộc sống của tất cả cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài tiêu chuẩn chính trị và đạo đức, giám đốc một cơ sở sản xuất kinh doanh nhất thiết phải có những kiến thức tương xứng với cương vị của mình. Đó là: 1. Sự hiểu biết về kinh doanh: thị trường giá cả, kế toán, thống kê, ngân hàng, giao dịch, hợp đồng kinh tế, liên kết kinh tế...... 2. Sự hiểu biết sâu rộng về ngành nghề doanh nghiệp mình phụ trách, nhất là về kỹ thuật, công nghệ, vật tư...... 3. Khả năng tổ chức và quản lý, biết thu hút và sử dụng nhân tài, biết tạo ra động lực mạnh mẽ cho người lao động. 4. Có tầm nhìn rộng: ý nghĩ táo bạo có luận cứ, đổi mới tính quyết đoán ứng phó linh hoạt, nhanh nhạy với những thay đổi thường xuyên của thị trường. 5. Hiểu biết thấu đáo những vấn đề về pháp luật, nhát là pháp luật kinh tế, các chế độ chính sách, quy định của nhà nước về vấn đề có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do mình phụ trách. 3. Phương pháp lãnh đạo của giám đốc doanh nghiệp: Cơ chế quản lý khác nhau tạo ra phương pháp quản lý và tác phong lãnh đạo khác nhau của người Giám đốc. Cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp lấy hoàn thành nhiệm vụ làm kế hoạch, lấy phục tùng ý chí cấp trên làm mục tiêu đã tạo ra phương pháp quản lý và tác phong lãnh đạo của Giám đốc mang nặng tính bao cấp, thụ động, chông chờ. Trong điều kiện đổi mới, hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp hướng vào mục tiêu kế hoạch hoá kinh tế quốc dân và hiệu quả kinh tế - xã hội, vai trò tự chịu trách nhiệm tăng lên đã quyết định phương pháp quản lý và tác phong lãnh đạo của người Giám đốc, đòi hỏi phải có sự thay đổi cho phù hợp. Trong thực tế, người ta cần vận dụng nhiều phương pháp quản trị doanh nghiệp khác nhau, nhưng tựu chung lại có 5 phương pháp cơ bản là: + Phương pháp nhân quyền + Phương pháp hành chính + Phương pháp kinh tế + Phương pháp tổ chức – giáo dục + Phương pháp tâm lý xã hội Sau đây sẽ xem xét từng phương pháp: 3.1. Phương pháp nhân quyền Như chúng ta đã biết người lãnh đạo là người có thông tin và có quyền định đoạt. Nhưng người lãnh đạo không thể không ôm tất cả mọi công việc, tự quyết định hết mọi vấn đề. Không thể nhất nhất cái gì cũng phải Giám đốc giải quyết. Giám đốc cần phải tập trung vào những vấn đề lớn, quan trọng, có tầm chiến lược hoặc vấn đề có tầm ảnh hưởng quyết định đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phân quyền là phương pháp lãnh đạo tốt nhất để Giám đốc duy trì và phát triển một tổ chức. Phân quyền thực chất là sự uỷ quyền định đoạt của Giám đốc cho cấp dưới. Có 4 phương pháp nhân quyền chính, đó là: + Phân quyền dọc: quyền định đoạt chia cho các cấp dưới theo phương pháp quản lý trực tiếp. + Phân quyền ngang: quyền định đoạt được chia theo các cấp chức năng phù hợp với các phòng ban khác nhau. + Phân quyền chọn lọc: một số công việc thật quan trọng do Giám đốc quyết định, còn một số công việc khác giao các bộ phận khác đảm nhận. Theo cách này, thông thường giám đốc phải nắm cấn đề tài chính, vấn đề chất lượng sản phẩm, vấn đề xuất nhập vốn là những vấn đề then chốt của doanh nghiệp. + Phân quyền toàn bộ: cho phép một cấp quản trị nào đó có quyền quyết định toàn bộ công việc trong giới hạn nhất định. Phân quyền là phương pháp quản lý khoa học của Giám đốc để giải phóng giám đốc khỏi những việc mà người dưới quyền có thể làm được. 3.2. Phương pháp hành chính: Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý dựa vào việc sử dụng những chỉ thị, mệnh lệnh mang tính chất bắt buộc, cưỡng bức, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như quy định về an toàn lao động, bảo hộ lao động, nội quy sử dụng thời gian làm việc, nội quy ra vào doanh nghiệp...... Quản lý hành chính là cần thiết, tất yếu. Lê-nin khẳng định: ”chỉ có điều rồ mới từ bỏ cưỡng bức”. Phương pháp quản lý hành chính không mâu thuẫn với quan điểm của Đảng và nhà nước ta về cơ chế quản lý hành chính. 3.3. Phương pháp kinh tế: Phương pháp kinh tế là sử dụng các đòn bẩy kinh tế, kích thích người lao động thực hiện mục tiêu quản lý mà không cần sử dụng mệnh lệnh hành chính từ cấp trên đưa xuống. Sử dụng phương pháp kinh tế không chỉ chú ý đến thưởng mà còn phải chú ý đến cả phạt. Đồng thời, phải tính toán được hiệu quả của phương pháp kinh tế mang lại. Mặt khác phải đảm bảo kết hợp hài hoà 3 lợi ích, nhưng cần lấy lợi ích cá nhân của người lao động làm trọng tâm. Trên cơ sở kích thích lợi ích cá nhân mà thúc đẩy lợi ích tập thể và xã hội. Đây chính là vận dụng quan điểm - lấy lợi ích cá nhân làm động lực trực tiếp - trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế hiện nay của Đảng ta. Về phương pháp kinh tế, Giám đốc có thể sử dụng những công cụ động viên vật chất như sau; Công cụ động viên vật chất doanh nghiệp: - Từ quỹ tiền lương; + Lương cơ bản + Các loại phụ cấp lương - Từ quỹ khen thưởng; + Thưởng từ lợi nhuận cuối năm + Thưởng sáng kiến tiết kiệm + Thưởng sáng kiến kỹ thuật + Thưởng lao động tiên tiến, tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa. - Từ quỹ phúc lợi; + Tổ chức đi học và tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ + Trợ cấp nhà ở + Tiền trích phục vụ những hoạt động văn hoá, văn nghệ - Từ những nguồn khác nhau liên quan đến phúc lợi: + Trợ cấp nhà ăn tập thể + Phục vụ nhà trẻ + Trợ cấp văn hoá xã hội, thể dục thể thao, điều dưỡng, nghỉ mát, tham quan, du lịch. + Cho vay tiền sửa chữa nhà, mua xe.....không lấy lãi. - Từ những nguồn khác liên quan đến sản xuất: + Trợ cấp nhà ở tại xí nghiệp ( độc thân ) + Trợ cấp phương tiện đi lại + Quần áo bảo hộ lao động + Ăn ca + Nước uống + Quà sinh nhật, thăm hỏi lúc ốm đau, gia đình hoạn nạn. + Thay đổi, nâng cao điều kiện phương tiện làm việc 3.4. Phương pháp tổ chức - giáo dục: Phương pháp tổ chức - giáo dục là sử dụng hình thức liên kết những cá nhân và tập thể theo những tiêu chuẩn và mục tiêu ra trên cơ sở phân tích và động viên tính tự giác, khả năng hợp tác của từng cá nhân. Thất bại trong quản lý kinh tế có nhiều nguyên nhân nhưng trong nhiều trường hợp lại chính là chưa làm tốt phương pháp tổ chức - giáo dục. Tổ chức ở đây thể hiện trên nhiều lĩnh vực: Tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức lao động, tổ chức liên kết giữa các cá thể của quản lý, tổ chức thông tin trong quản lý. Giám đốc không nên khoán trắng vai trò tổ chức cho một bộ phận nào mà cần thường xuyên kiểm tra, theo dõi, phát hiện ra những ách tắc trong khâu tổ chức. Điều quan trọng là đừng để một cá nhân nào đứng ngoài tổ chức. Một quyết định của giám đốc không được thực hiện ở khâu nào, một tổ chức sản xuất hoặc một cá nhân nào đó, thông thường là biểu hiện của trục trặc do phương pháp tổ chức yếu kém gây ra. Giáo dục không phải là phương pháp cơ bản nhưng không được xem nhẹ. Có nhiều hình thức động viên người lao động, nhưng suy nghĩ cho cùng có hai hình thức động viên chính là động viên vật chất và động viên tinh thần. Động viên tinh thần là các hình thức thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, tổ đội lao động XHCN, đề bạt, cử đi học,....trong cả hai hình thức động viên, phương pháp giáo dục phải luôn được coi trọng. Giám đốc sử dụng phương pháp giáo dục không nên hiểu đơn thuần chỉ là giáo dục chính trị tư tưởng chung chung, mà phải hiểu một cách toàn diện bao gồm cả giáo dục quan niệm nghề nghiệp, phong cách lao động, đặc biệt là quan điểm đổi mới; đổi mới cả cách nghĩ và cách làm, làm ăn ở doanh nghiệp theo phương pháp sản xuất kinh doanh mới, sản xuất gắn liền với thị trường, chấp nhận cạnh tranh lành mạnh, tạo nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp. Giáo dục gắn sự ham muốn làm giàu chính đáng cho cá nhân và làm giàu chính đáng cho doanh nghiệp và xã hội. 3.5. Phương pháp tâm lý - xã hội: Phương pháp tâm lý - xã hội là hướng những quyết định đến những mục tiêu phù hợp với trình độ nhận thức, tâm lý, tình cảm con người. Phương pháp tâm lý - xã hội ngày càng được áp dụng rộng rãi trong quản lý doanh nghiệp công nghiệp, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi mục tiêu của xí nghiệp ngày càng phù hợp với mục tiêu cá nhân người lao động. Sử dung phương pháp này đòi hỏi người Giám đốc phải đi sâu tìm hiểu để nắm được tâm tư nguyện vọng sở trường của những người lao động. Trên cơ sở đó sắp xếp, bố trí, sử dụng họ bảo đảm phát huy hết tài năng, sức sáng tạo của họ. Trong nhiều trường hợp, người lao động làm việc hăng say hơn cả động viên về kinh tế. Con người vốn không thích chê, nhưng nếu chê đúng việc, đúng lúc, đúng chỗ, họ sẽ cảm nhận được sai lầm, khuyết điểm của bản thân và càng khâm phục người lãnh đạo. Một giám đốc chỉ sử dụng hình thức khen, không chê; chỉ thưởng, không phạt chắc chắn sẽ không đem lại kết quả như mong muốn. Tất nhiên, như trên đã nêu về mặt tâm lý, người ta thích khen hơn. Vậy nên khen như thế nào? Ví dụ, tại một doanh nghiệp, Giám đốc phát động phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Mọi người lao vào suy nghĩ, nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo. Cuối cùng 15 người có sáng kiến trình lên Giám đốc. Sau khi nghiên cứu tất cả các sáng kiến ấy, Giám đốc quyết định thưởng cho cả 15 người mỗi người một phong bì. Mọi người đều vui mừng. Khi giở phong bì lấy tiền thưởng họ đều hiểu rằng: tiền phong bì nhiều hay ít là do giá trị sáng kiến của họ quyết định. Nếu tiền ít có nghĩa là sáng kiến của họ ít giá trị, họ phải cố gắng tìm tòi hơn nữa. Cách sử dụng tiền thưởng như vậy vừa là một phương pháp kinh tế, vừa là một phương pháp tâm lý - xã hội thúc đẩy sáng kiến ở doanh nghiệp ngày càng nhiều và sẽ ngày càng có giá trị, vì từng người hiểu rằng: Giám đốc đã biết đến họ và đánh giá họ đúng mức. Người Nhật đặc biệt coi trọng phương pháp này. Họ đã tạo cho người làm việc bầu không khí thoải mái, người làm thuê đặt quyền lợi của doanh nghiệp như quyền lợi của chính mình và gắn bó suốt đời vào doanh nghiệp. Mỗi phương thức được áp dụng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Có người cho rằng, trong điều kiện đổi mới giám đốc không nên sử dụng phương pháp hành chính. ý kiến này không có căn cứ. Thực tế đã khẳng định phương pháp hành chính rất quan trọng không thể không sử dụng trong bất cứ trường hợp nào. Có thể nói 5 phương pháp trên trên đều phải được nhấn mạnh và đều được áp dụng. Tuy nhiên, phương pháp kinh tế phải được chú ý sử dụng một cách linh hoạt và rộng rãi trong quản lý nội bộ và đối ngoại có nghĩa là giám đốc phải hiểu biết ở mức độ thông thạo tình hình giá cả, thị trường để trên cơ sở đó có thể nhanh chóng đưa ra các quyết định kinh doanh. 4. Tác phong lãnh đạo của giám đốc doanh nghiệp: Năm phương pháp trên, được áp dụng cho tất cả các giám đốc ở mọi doanh nghiệp. Nhưng sử dụng các phương pháp này thế nào cho có hiệu quả lại phụ thuộc phần lớn vào tác phong lãnh đạo của từng người. Có 3 tác phong lãnh đạo cơ bản, đó là tác phong mệnh lệnh, tác phong dễ dãi và tác phong dân chủ, quyết định. 4.1. Tác phong mệnh lệnh. Đặc trưng cơ bản của tác phong này là; trong quá trình hình thành và ra quyết định, Giám đốc không cần thăm dò ý kiến của người giúp việc và những người dưới quyền, không do dự trước quyết định của mình. Tổ chức thực hiện quyết định, giám đốc luôn sử dụng những chỉ thị mệnh lệnh. Theo dõi nghiêm túc, sâu sát người thực hiện quyết định và do đó có những đánh giá đúng đắn, khen chê chính xác. Người có tác phong này thường am hiểu sâu sắc công việc của mình, dám quyết định, dám chịu trách nhiệm, nhưng ở một số trường hợp dễ sa vào độc đoán. 4.2. Tác phong dễ dãi. Tác phong này có đặc trưng cơ bản là: trong quá trình hình thành và ra quyết định, Giám đốc luôn theo đa số, dễ do dự trước quyết định của mình. Khi cần đánh giá người giúp việc, đánh giá cấp dưới Giám đốc thường vin vào ý kiến của tổ chức cấp trên, ý kiến của quần chúng. Không theo dõi chỉ đạo sát sao việc thực hiện các quyết định, thường phó mặc cho cấp dưới. Người có tác phong này không có tính chất quyết đoán, xuề xoa, đại khái. 4.3.Tác phong dân chủ - quyết định. Tác phong này khắc phục được nhược điểm của hai tác phong trên ở một chừng mực nhất định tận dụng được ưu điểm của hai tác phong trên. Người Giám đốc có tác phong này trong quá trình hình thành quyết định thường thăm dò ý kiến của nhiều người, đặc biệt của những người có liên quan đến thực hiện quyết định. Khi ra quyết định rất kiên quyết, không dao động trước quyết định của mình. Giám đốc quyết đoán các vấn đề nhưng không độc đoán, luôn theo dõi, uốn nắn, động viên, tổ chức cho cấp dưới thực hiện quyết định của mình; vì vậy, đánh giá khen , chê đúng mức. Trong 3 tác phong trên người giám đốc không nên áp dụng tác phong thứ ha, tức là tác phong dễ dãi,. Bởi vì sự dễ dãi trong quản lý kinh tế thường dẫn đến sai lầm trong quản lý, qua thăm dò ở một số doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh thì 20% số người được hỏi ý kiến ủng hộ tác phong mệnh lệnh, 70% ủng hộ tác phong dân chủ - quyết định, chỉ có 10% muốn người Giám đốc của mình có tác phong dễ dãi. 5. Tiêu chuẩn của Giám đốc doanh nghiệp. Phụ thuộc vào từng doanh nghiệp khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng ngành mà tiêu chuẩn cụ thể của Giám đốc doanh nghiệp có thể khác nhau. Tuy nhiên, cần phải khẳng định những tiêu chuẩn cơ bản mang tính chất thống nhất làm cớ cho việc tuyển chọn, bổ nhiệm, và phấn đấu của giám đốc trong thời gian tới. Giám đốc doanh nghiệp có 5 tiêu chuẩn cơ bản sau: + Trình độ văn hoá chuyên môn ( trình độ trí tuệ ) + Trình độ và năng lực tổ chức quản lý. + Phẩm chất chính trị. + Tư cách đạo đức. + Sức khoẻ. Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ hơn những tiêu chuẩn này. 5.1. Trình độ văn hoá chuyên môn. Giám đốc doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này phải có những kiến thức sau đây: Một là, kiến thức phổ thông: phải tốt nghiệp phổ thông trung học. Hai là, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ thể hiện ở chỗ: phải hiểu sâu sắc những kiến thức lí luận, thực tiễn về lĩnh vực chuyên môn của mình. Phải hiểu sâu rộng những kiến thức kinh tế kỹ thuật, chính trị,xã hội, tâm sinh lý người lao động. Điều này phù hợp với công việc được giao của người Giám đốc là quản lý toàn diện mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp. Không thể nói có chuyên môn nghiệp vụ mà không gắn liền với bằng cấp. Tiêu chuẩn này yêu cầu các giám đốc phải tốt nghiệp ở một trường chuyên môn đào tạo Giám đốc. ở Việt Nam, hiện nay chưa có trường riêng đào tạo Giám đốc như nhiều nước trên thế giới. Vậy tiêu chuẩn này cần gắn với việc Giám đốc phải tốt nghiệp một trường đại học nào đó, tốt nhất là đại học kinh tế. Trường hợp đặc biệt, Giám đốc cũng phải có trình độ nhất định về quản lý kinh tế. Ngay từ năm 1986, ở Trung Quốc đã quyết định: giám đốc doanh nghiệp lớn phải có bằng đại học, còn doanh nghiệp nhỏ và trung bình phải có bằng cao đẳng. Vì vậy, hiện nay phần lớn Giám đốc ở Trung Quốc đều có bằng đại học. Ba là, trình độ kiến thức của Giám đốc còn đòi hỏi Giám đốc phải có bằng cấp về ngoại ngữ. Các ngoại ngữ phổ thông được nhà nước quy định là: Nga, Anh, Pháp, Đức, Trung. Hiện nay, nước ta đang sử dụng rộng rãi tiếng Anh. Vì vậy, giám đốc cần phải có bằng cấp về tiếng Anh, tối thiểu cũng phải có bằng C về tiếng Anh hoặc ngoại ngữ nào đó. Bằng cấp về ngoại ngữ sẽ giúp Giám đốc đọc được tài liệu tham khảo của nước ngoài, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay phải giao dịch trực tiếp với nước ngoài. Bốn là, trình độ giao tiếp xã hội: những giao tiếp thông thường trong nước và nước ngoài gồm sự hiểu biết về tâm lý xã hội của những người lao động ở doanh nghiệp mình phụ trách. Yếu tố tâm lý quản lý ngày nay có vai trò quan trọng trong quản trị kinh doanh. 5.2. Trình độ, năng lực lãnh đạo và tổ chức quản lý: Biểu hiện của tiêu chuẩn này: + Biết tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với cơ chế mới. Biết sử dụng phát hiện cán bộ có trình độ, có năng lực quản lý. Biết cất nhắc đề bạt cán bộ dưới quyền. Biết sa thải, kỷ luật những người không hoàn thành nhiệm vụ. Biết khen thưởng, động viên những người lao động làm việc có hiệu quả, năng suất cao. + Biết phát hiện những khâu trọng tâm lãnh đạo trong từng thời kỳ trên cơ sở nắm bắt toàn diện các khâu quản lý doanh nghiệp. + Biết giải quyết công việc có hiệu quả, nhanh, nhạy bén. 5.3. Phẩm chất chính trị: Tiêu chuẩn này được biểu hiện ở hai điểm mấu chốt: + Phải nắm và vận dụng được những quan điểm đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước trong từng thời kỳ. + Tuân thủ luật pháp và các quy chế hiện hành của nhà nước. 5.4. Tư cách đạo đức: Giám đốc ở bất kỳ nước nào, bất kỳ ở đâu, bất kỳ ở thành phần kinh tế nào cũng phải đạt được tiêu chuẩn này, thể hiện ở: + Giám đốc doanh nghiệp phải làm gương cho mọi người trong doanh nghiệp noi theo về quan điểm đúng; hăng say, nhiệt tình, tận tuỵ với công việc kinh doanh..... + Có đạo đức kinh doanh, giữ được chữ tín với khách hàng, hoàn thành mọi nhiệm vụ đóng góp với Nhà nước và cộng đồng xã hội. 5.5.Sức khoẻ, tuổi tác: Tất nhiên, khó có thể ấn định một lứa tuổi cụ thể, loại sức khoẻ A, B, C cụ thể làm tiêu chuẩn để chọn giám đốc. Tuy nhiên, không thể phát triển được doanh nghiệp với một Giám đốc già nua, ốm yếu. Trên thế giới người ta đã tổng kết: tuổi bắt đầu làm Giám đốc tốt nhất là từ 35 - 45 tuổi. Ở đây chúng tôi xin nêu tiêu chuẩn có tính chất định tính là; có đủ sức khoẻ hoàn thành nhiệm vụ được giao và tuổi đời khi bổ nhiệm nên ưu tiên tuổi trẻ có trình độ học vấn và năng lực cao. CHƯƠNGII THỰC TRẠNG VỀ VAI TRề VÀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO CỦA GIÁM ĐỐC CễNG TY HYMETCO 1. Giới thiệu về công ty 1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty HYMETCO: Công ty vật tư kỹ thuật khí tượng thuỷ văn với tên giao dịch của công ty là HYMETCO (Hydromete orological Technical Materials Company). Trụ sở chính tại Số 1 - Nguyễn Chí Thanh - Phường Láng Thượng - Đống Đa - Hà Nội. HYMETCO là một DNNN được thành lập theo quyết định số 120 KTTV/QĐ ngày 29/4/1993 của tổng cục Khí tượng thuỷ văn, phù hợp với qui chế về thành lập và giải thể DNNN ban hành kèm theo nghị định 156/HĐBT ngày 7/5/1992 của Hội đồng bộ trưởng. Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài khoản bằng VND và USD mở tại ngân hàng công thương Đống Đa và VIETCOMBANK. Thời kỳ đầu, tiền thân của công ty là một đơn vị trực thuộc Tổng cục khí tượng thuỷ văn, được thành lập vào năm 1977 với chức năng nhiệm vụ thực chất chỉ như một tổng kho cho toàn ngành. Hoạt động của công ty trong giai đoạn 1977 -1989 hết sức trì trệ, không có hiệu quả do cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung lỗi thời chi phối. Ngay cả khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, giai đoạn 1989 -1993, công ty vẫn hoạt động không hiệu quả do vẫn phải chịu sự quản lý quan liêu bao cấp của Tổng cục khí tượng thuỷ văn. Đến 29/4/1993, công ty được thành lập lại trở thành một DNNN hoạch toán độc lập, tự chủ về tài chính nhưng công ty vẫn phải trải qua hai năm hoạch toán thử. Do vẫn còn ít nhiều bao cấp nên công ty không đạt được các chỉ tiêu kinh tế đã đặt ra, hoạt động kinh doanh bấp bênh. Sau khi dứt hẳn khỏi sự bao cấp, bằng sự nỗ lực không ngừng và sự đồng tâm hiệp lực của Giám đốc cùng toàn bộ cán bộ - công nhân viên trong công ty, công ty đã có những thành tựu đáng kể. Từ chỗ hoạt động kinh doanh thua lỗ, không có lãi, cơ sở vật chất nghèo nàn, vốn kinh doanh hạn chế, thị trường bị bó hẹp, thì tới nay tình hình đã khác hẳn: công ty làm ăn có lãi trong vài năm liên tục và đang trên đà tăng trưởng, thị trường được mở rộng cả trong và ngoài nước ( Lào,Campuchia.....), cơ sở vật chất kỹ thuật và đời sống cán bộ - công nhân viên không ngừng được cải thiện. Không những thế công ty vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ nhiệm vụ chính trị của ngành. Do có tính chất đặc thù là một Công ty kinh doanh thiết bị chuyên ngành nên thị trường tiêu thụ chủ yếu là khách hàng trong ngành chiếm tới 85 - 87%, rất ít bán ra ngoài. Vì vậy, hoạt động của Công ty mang tính chất là một đơn vị hành chính sự nghiệp hơn là một đơn vị sản xuất kinh doanh. 1.2.Đôi nét về hoạt động kinh doanh của công ty HYMETCO. 1.2.1.Lĩnh vực hoạt động kinh doanh: Kinh doanh xuất nhập khẩu máy, thiết bị vật tư kỹ thuật phục vụ đo đạc khảo sát các chuyên ngành khí tượng thuỷ văn, hải văn, môi trường, khoa học kỹ thuật và các mặt hàng kim khí, điện máy.... Sản xuất gia công, lắp đặt, sửa chữa các thiết bị chuyên ngành. Thiết kế xây dựng và lắp đặt các công trình khí tượng thuỷ văn. Sản xuất đồ mộc chuyên ngành và dân dụng. Tư vấn chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học kỹ thuật chuyên ngành 1.2.2.Các mặt hàng kinh doanh chính. Công ty HYMETCO thực hiện kinh doanh ba nhóm mặt hàng chính. Nhóm mặt hàng khí tượng bao gồm: Các loại máy đo áp suất không khí;các loại máy đo độ ẩm không khí, độ ẩm đất, độ ẩm các sản phẩm công nông nghiệp; các máy đo nhiệt độ không khí, nhiệt độ đất, nhiệt độ nước; các trạm khí tượng tự động, rada thời tiết; thiết bị vô tuyến thám không..... Nhóm mặt hàng thuỷ văn-hải văn: Các loại máy đo tốc độ, hướng dòng chảy và mực nước biển, sông, hồ, mương máng; các loại máy đo sâu, đo mức nước triều, đo các yếu tố của sóng; thiết bị đo tốc độ và hướng dòng chảy nhiều tầng; các loại máy trắc địa, thuỷ chuẩn kinh vĩ, la bàn đo xa, toàn,...,định vị....; máy quyết địa địa hình đáy sông, hồ, biển,.... Nhóm mặt hàng môi trường: Các loại máy đo các yếu tố đặc trưng của nước; nhiệt độ, độ mặn, độ dầu, độ PH, oxy hoà tan, chất rắn hoà tan, độ đục....trong hồ, sông và biển; các máy đo nồng độ bụi, phân tích các thành phần khí, khí độc, khí cháy.....,thiết bị đo và phân tích xăng dầu. Ngoài ra, công ty còn kinh doanh các mặt hàng thiết bị khoa học kỹ thuật trong các phòng thí nghiệm và các mặt hàng kim khí điện máy. 1. 3.Cơ cấu tổ chức quản lí hành chính của công ty HYMETCO. Để đảm bảo cho mọi hoạt động tổ chức quản lí, đưa hoạt động kinh doanh đi vào nề nếp ổn định, thống nhất chỉ đạo và tổ chức thực hiện để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế. Công ty đã tổ chức bộ máy hoạt động của mình theo kiểu trực tuyến theo sơ đồ sau: Ban Giám đốc Xưởng máy Phòng hành chính Phòng kinh doanh Phòng kế toán tài vụ Kho hàng Ban giám đốc: Bao gồm một Giám đốc và một Phó giám đốc. Giám đốc là người đứng đầu công ty, có quyền ra quyết định tổ chức chỉ đạo, điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty; chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của công ty trước pháp luật cũng như trước Tổng cục khí tượng thuỷ văn. Giám đốc được sự hỗ trợ của Phó giám đốc. Phó giám đốc ngoài nhiệm vụ cụ thể của mình trong từng lĩnh vực phải góp ý kiến tham mưu cho Giám đốc và là người đại diện khi Giám đốc vắng mặt. Phòng hành chính tổ chức: có các nhiệm vụ sau: Thứ nhất: Sắp xếp và tổ chức lao động nhằm sử dụng hợp lí và có hiệu quả lực lượng lao động của công ty. Nghiên cứu các biện pháp và tổ chức thực hiện việc giảm lao động gián tiếp của công ty. Thứ hai: Nghiên cứu các phương án nhằm hoàn thiện việc trả lương và phân phối hợp lí tiền thưởng để trình Giám đốc. Đồng thời thực hiện chế độ kỷ luật với cán bộ - công nhân viên vi phạm điều lệ của công ty. Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ khai thác nguồn hàng, trực tiếp tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu, cung ứng tiêu thụ hàng hoá trong nước, thực hiện kinh doanh theo phương thức khoán đối với từng nhân viên trong phòng. Ngoài ra phòng còn phải lập kế hoạch phát triển kinh doanh của công ty.Trưởng phòng là người chịu trách nhiệm trước Giám đốc, đồng thời thực hiện chế độ kỷ luật đối với cán bộ - công nhân viên vi phạm điều lệ của công ty. Phòng kế toán-tài vụ: Có chức năng tham mưu hỗ trợ giám đốc quản lí, sử dụng có hiệu quả tài sản, tiền vốn của công ty theo quy định của pháp luật, chế độ thể lệ kinh tế tài chính. Kế toán trưởng kiêm kế toán của phòng là người chịu trách nhiệm trước Giám đốc. Xưởng máy: sửa chữa, lắp ráp máy khí tượng thuỷ văn, khắc các loại ống đong,cắt đục giấy,...lắp đặt sâu vườn khí tượng thuỷ văn...Xác định được hư hỏng và lập phương án sửa chữa, thay thế các loại máy chuyên dùng trong các ngành. Xây dựng định mức kỹ thuật cho các sản phẩm sản xuất gia công. Chỉ đạo và kiểm tra thực hiện các quy trình công nghệ trong sản xuất, cải tiến mẫu mã và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Giám sát kiểm tra chất lượng sản phẩm. Kho hàng: Trực thuộc phòng kế toán tài vụ, có nhiệm vụ đảm bảo việc xuất nhập hàng, theo đúng nguyên tắc, chế độ kế toán; bảo quản quản lý, đảm bảo về an ninh số lượng, chất lượng hàng... 2.Những đặc điểm về kinh tế, kỹ thuật của công ty cú ảnh hưởng đến phương phỏp lónh đạo của Giỏm đốc cụng ty. 2.1. Những đặc điểm về kỹ thuật. Công ty Vật tư kỹ thuật Khí tượng Thuỷ văn ( HYMETCO ) là một công ty kinh doanh vật tư chuyên ngành với hơn mười năm kinh doanh, trong đó là hai năm bước vào giai đoạn hạch toán thử, kinh nghiệm còn rất hạn chế, thị trường tuy đang được mở rộng nhưng vẫn còn rất hạn chế, vốn liếng cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, hầu như vẫn phụ thuộc rất lớn vào Tổng cục khí tượng thuỷ văn. Tất cả những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt dộng kinh doanh của công ty , nhưng với tất cả nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên, công ty luôn cố gắng phấn đấu để vươn lên thích ứng với cơ chế thị trường đầy biến động và sôi nổi như hiện nay. Hàng hoá của công ty đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường trong và ngoài ngành, đã đảm bảo được yêu cầu về chất lượng, chủng loại mà ngành quy định, đây là một cố gắng rất lớn trong hoạt động kinh doanh của cồn ty và đó cũng là sự khẳng định về vị trí và sự phát triển đi lên của công ty trong cơ chế thị trường. HYMETCO được phép xuất khẩu trực tiếp, cung cấp các loại thiết bị, máy móc đo đạc khảo sát và vật tư kỹ thuật và thực hiện tư vấn chuyển giao công nghệ và các dịch vụ khoa học kỹ thuật về các chuyên ngành: khí tượng mặt đất, khí tượng nông nghiệp, thuỷ văn, hải văn và môi trường. Công ty nhận sửa chữa, bảo dưỡng và kiểm định các loại máy móc đo đạc khảo sát khí tượng, thuỷ văn, hải văn và môi trường, ngoài ra công ty được phép nhận sửa chữa các phương tiện vận tải, máy xây dựng và máy khai tài nguyên. Bên cạnh đó công ty được phép sản xuất và kinh doanh các sản phẩm gỗ chuyên dùng, văn phòng và dân dụng, các mặt hàng kim khí điện máy và vật liệu xây dựng. Các mặt hàng chính của công ty HYMETCO: + Các loại máy đo áp suất không khí + Các loại máy đo độ ẩm không khí, độ ẩm các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp. + Các loại máy đo nhiệt độ không khí, nhiệt độ đất, nhiệt độ nước và nhiệt độ các sản phẩm công nông nghiệp. + Các loại máy đo tốc độ và hướng gió. + Các loại máy đo lượng mưa. + Các dụng cụ đo lượng bốc hơi nước. + Các loại máy đo thời gian nắng, cường độ ánh sáng, cường độ bức xạ. + Các loại máy đo tốc độ, hướng dòng chảy và mực nước trong mương, máng, sông hồ và biển. + Các loại máy đo sâu hồi thanh. + Các loại dụng cụ lấy mẫu nước, phù sa, cát bùn. + Các loại máy đo các yếu tố đặc trưng của nước: nhiệt độ, độ mặn. độ dẫn, độ chua, ôxy hoà tan, chất rắn hoà tan.... + Các loại máy trắc địa: thuỷ chuẩn kinh vĩ, la bàn...... + Các loại bóng bay đo gió, bóng thám không, máy thám không, soud và fero để điều chế hơi. + Lều khí tượng, bàn ghế văn phòng, tủ đựng tài liệu, bàn để máy tính + Các mặt hàng kim khí điện máy, vật liệu xây dựng... 2.2. Những đặc điểm về kinh tế: Trông công ty bộ phận kế toán thực sự là một trong những công cụ quan trọng của hệ thống quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp. Ngày nay, khi cơ chế quản lý đổi mới chuyển từ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, hệ thống kế toán của công ty được tổ chức tương đối hoàn chỉnh, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, khả năng điều hành và hoà nhập với các bộ phân khác trong hoạt động sản xuất kinh doanh khá vững vàng. Phương thức bán hàng của công ty chủ yếu là bán hàng qua kho và bán trực tiếp cho khách hàng, do đó giúp cho công ty tiêu thụ được khối lượng hàng hoá lớn, tránh được hiện tượng thất thoát hàng, có điều kiện thương lượng trực tiếp với khách hàng về cơ chế giá, tạo điều kiện cho khác hàng được thoả thuận giá nhằm thu hồi vốn nhanh và từ đó tăng vòng quy của vốn nhất là đối tượng khách hàng ngoài ngành. trong ngành khách hàng của công ty là các đơn vị hành chính sự nghiệp, do đó tình hình thu hồi vốn hàng hoá vật tư là rất khó khăn, phụ thuộc vào ngân sách cấp của ngành với cơ chế giá linh hoạt cùng với chất lượng và yêu cầu của ngành được đảm bảo. Chính vì vậy, công ty đã thu hút được phần lớn khách hàng trong ngành. Hàng hoá công ty bán ra chủ yếu là máy móc, vật tư chuyên ngành, đảm bảo tiêu chuẩn kiểm định quốc gia, có thời hạn bảo hành trong quá trình sử dụng. Qua thực tế tại công ty cho thấy việc tổ chức tiêu thụ hàng hoá nói riêng và công tác kế toán nói chung đã đáp ứng được nhu cầu của công ty đề ra: đảm bảo tính thống nhất về mặt phạm vi, phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế giữa kế toán và các bộ phận liên quan, cũng như nội dung của công tác kế toán, đồng thời đảm bảo cho số liệu kế toán phản ánh một cách trung thực, hợp lý, rõ ràng, dễ hiểu trong quá trình hạch toán đã hạn chế được rất nhiều sai sót trong quá trình ghi chép, cập nhật chứng từ, hạn chế những trùng lắp mà vẫn đảm bảo tính thống nhất nguồn số liệu ban đầu. Do đó, việc tổ chức kế toán ở công ty để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh bước đầu đã phù hợp với điều kiện của một đơn vị kinh doanh thương mại với tính chất kinh doanh vạt tư, hàng hoá chuyên ngành. Công ty luôn chấp hành các chính sách, chế độ kế toán tài chính của nhà nước, các chính sách giá, thuế, tổ chức mở các sổ sách kế toán phù hợp để phản ánh với giám đốc tình hình tiêu thụ hàng hoá, đồng thời chấp hành ghi chép đầy đủ kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nhờ đó, kế hoạch tiêu thụ hàng hoá của công ty được thực hiện, góp phần đảm bảo cho lĩnh vực lưu thông đạt hiệu quản cao. Trong công tác kế toán đã đảm bảo tiết kiệm thời gian lao động của nhân viên kế toán, giảm bớt thời gian lao động cho công tác hạch toán chi tiết, hạch toán tổng hợp, qua đó mà lãnh đạo công ty biết chính xác tình hình tiêu thụ của công ty. Do vậy, để khắc phục được những nguyên nhân trên nhằm giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ sản phẩm, đòi hỏi công ty phải quan tâm và giải quyết tốt các vấn đề sau: + Mạng lưới tiêu thụ phải đa dạng, phong phú nhất là hệ thống các trung gian tạo thành cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. + áp dụng linh hoạt các phương thức thanh toán kết hợp với việc sử dụng hệ thống giá linh hoạt nhằm mục đích tối đa hoá sự tiện lợi cho khách hàng mua bán nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng và tạo điều kiện khai thác triệt để các nhu cầu tiềm năng, tăng nhanh quá trình tiêu thụ là tăng vòng quay của vốn lưu động và tiết liệm vốn, do đó không chỉ là phải tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ mà không ngừng thay đổi chủng loại, chất lượng, mẫu mã kỹ thuật phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Đó là lý do tại sao cần phải mở rộng các phương thức tiêu thụ, phải hoàn thiện các phương thức bán hàng, trong mọi trường hợp bán hàng đều không phải là có các công thức. Tuy nhiên, công ty có thể nghiên cứu các kế hoạch triển vọng quyết định việc lựa chọn và hoàn thiện hệ thống bán hàng theo các phương thức. Trong phương thức thanh toán hay định giá bán hàng hết sức linh hoạt, việc tăng giảm giá bán, nói cách khác việc định giá như thế nào là vấn đề cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu thụ hàng hoá, đến lợi nhuận và sự tồn tại, phát triển sản xuất nói chung và công ty nói riêng, do đó để tiêu thụ hàng hoá một cách hiệu quả nhất công ty không thể định giá một cách chủ quan, tuỳ tiện và càng không thể xuất phát từ lòng mong muốn. Với lợi thế là một công ty kinh doanh chuyên ngành nên đối thủ cạnh tranh với công ty không nhiều, sông không phải vì thế mà công ty tuỳ tiện nâng giá hàng sẽ tạo sự cạnh tranh không cần thiết.Chính vì vậy, khi định giá bán hàng công ty phải thăm dò kỹ lưỡng mức giá tiêu thụ thị trường, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước về tài chính tiền tệ, trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật trong từng thời kỳ...... Do đó, khi định giá hàng hoá công ty phải tuỳ thuộc vào mục tiêu, tính chất, tính năng kỹ thuật, sự khan hiếm hoặc quá nhiều của thị trường để định giá. + Đối với loại hàng hoá mới khai thác khi đã đảm bảo những yêu cầu trên của công ty nên áp dụng chính sách giá cao, tuy nhiên chỉ nên áp dụng trong một giai đoạn nhất định, khi hàng hoá tương đối thoả mãn cần thực hiện chính sách giá cả thị trường của đối thủ cạnh tranh thì chuyển sang định giá thấp để thúc đẩy tăng cường khối lượng sản phẩm hàng hoá bán ra. + Đối với loại hàng hoá truyền thống trong ngành ( hàng hoá mà tiêu chuẩn, mẫu mã đã được thống nhất về tính năng kỹ thuật, chất lượng bán ra ). Vì vậy, với loại sản phẩm này công ty phải thực hiện bán theo giá thị trường, nếu công ty có khả năng giảm chi phí, chấp nhận mức lãi ít thì nên có chính sách thưởng cho khách hàng, có như vậy mới thu hút được khách hàng mua hàng của mình. Về vấn đề này, công ty đã chuyển biến rất tốt trong phương thức: chẳng hạn trong năm 1999 tình hình nợ đọng: vốn bằng tiền bình quân gần 500 triệu đồng của khách hàng trong các thời kỳ quyết toán thường trung bình khoảng 200 triệu với chính sách cứng nhắc cơ chế một giá, bước sang năm 2000 tình hình khách hàng chậm thanh toán giảm xuống rất nhiều chỉ chiếm 10 - 15% so với năm 1999. Công ty đã thực hiện chính sách hai giá: giá thanh toán nhanh: tiền mặt, ngân phiếu, séc, thanh toán chậm tính lãi từng thời gian nợ có tính tích luỹ tiến, do đó thúc đẩy tăng nhanh vòng quy vốn lưu động. Hiện tại công ty đang phát huy và làm tốt phương thức này. 3. Vai trò và phương pháp lãnh đạo của giám đốc công ty HYMETCO. Hệ thống sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là một hệ thống các quá trình phức tạp, để đảm bảo cho các bộ phận các quá trình sản xuất chạy đều và ăn khớp với nhau như một guồng máy lớn, đòi hỏi sự quản trị trong công ty phải thực hiện chặt chẽ và có hiệu quả. Quản trị doanh nghiệp xét theo quá trình gồm các bước cơ bản: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát. Xem xét cụ thể vào thực tế của công ty HYMETCO, chuyên đề xin đề cập vai trò và phương pháp lãnh đạo của giám đốc công ty qua các bước: 3.1. Hoạch định chiến lược của công ty. Ngày nay, không một giám đốc doanh nghiệp nào khi bước vào hoạt động kinh doanh lại không tự răn mình gắn kinh doanh của mình với thị trường mới hy vọng tồn tại và phát triển được. Răn mình thì rễ, nhưng hành động như vậy quả thật là khó. Bởi vì không doanh nghiệp nào lại không muốn lớn lên trong hoạt đông thương trường. Không răn mình như vậy thì quả thật lãnh đạo doanh nghiệp đang tự mình thắt dây thòng lọng vào cổ mình. Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, một cơ thể sống. Cơ thể đó đang cần có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài, với thị trường. Quá trình trao đổi chất càng diễn ra thường xuyên liên tục với quy mô càng lớn thì cơ thể đó càng khoẻ mạnh. Ngược lại, sự trao đổi diễn ra yếu ớt thì cơ thể đó có thể quặt quẹo và chết yểu. Một doanh nghiệp muốn tồn tại thì dứt khoát phải thực hiện tốt các hoạt động chức năng như sản xuất, tài chính, thương mại, tổ chức và nhân sự, chất lượng sản phẩm....Nhưng trong nền kinh tế thị trường chức năng quản lý sản xuất, chức năng quản lý nhân lực chưa đủ đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và càng không có gì đảm bảo chắc chắn cho sự thành đạt của doanh nghiệp. Nếu tách rời nó khỏi chức năng khác, chức năng liên kết mọi hoạt động của doanh nghiệp với thị trường. Chức năng này thuộc một lĩnh vực quản lý khác: quản lý marketing. Thực vậy, từ thực tế thị trường và hoạt động của công ty HYMETCO giám đốc công ty đã hướng các hoạt động của công ty mình lấy hạt nhân là marketing trong các vùng thị trường hiện tại và phát triển thị trường hiện tại và trong tương lai. 3.2. Tổ chức quản trị công ty. Mọi hoạt động kinh tế cho dù có những tính chất khác nhau đều là sự phối hợp giữa lao động và tiền vốn. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động của công ty gắn liền với hoạt động của thị trường trong nước, cùng với sự vận động thống nhất của các hình thái thị trường sản phẩm là tư liệu sản xuất, thị trường vốn, thị trường lao động và tổ chức nội bộ công ty. Trong mối quan hệ với các thị trường đó, xét về nội dung và tính chất vận động của vốn, quá trình tái sản xuất mở rộng trong công ty thì hoạt động kinh tế bao quát các lĩnh vực chủ yếu sản xuất, kinh doanh, khoa học công nghệ và các hoạt động về tài chính tín dụng. 3.2.1. Tổ chức quản trị trong sản xuất kinh doanh: Hàng năm dựa vào kế hoạch thực hiện của năm trước, Giám đốc xem xét các yếu tố cụ thể ở các mặt và lĩnh vực sau: + Các yếu tố kinh tế như mức tăng trưởng của tổng sản phẩm xã hội, khả năng cung ứng tiền tệ. + Tình hình phát triển hay giảm sút của các dự án đầu tư trong và ngoài nước, cụ thể trên địa bàn Hà Nội và các vùng lân cận. + Các yếu tố chính trị và pháp luật như: luật đầu tư trong và ngoài nước, các chính sách cụ thể của nhà nước với các doanh nghịêp nhà nước về đầu tư, công nghệ và quản lý.... + Sự biến động của thị trường, khách hàng, chu kỳ vận động của thị trường, sự trung thành của khách hàng, sức tiêu thụ..... + Sự chỉ đạo của các cấp chủ quản, thành phố trong mức tăng trưởng của các công ty trong địa bàn. Từ các yếu tố kể trên, Giám đốc công ty bàn bạc trong ban Giám đốc, cấp uỷ Đảng, Công đoàn và các phòng ban nghiệp vụ xem xét và xây dựng kế hoạch sản xuất cho năm tới, đưa và thông qua đại hội công nhân viên chức, tổ chức bàn bạc và đề ra các biện pháp, phương án thực hiện, đảm bảo thu nhập người lao động luôn tăng trưởng cùng với sự tăng trưởng của công ty. Cụ thể để xây dựng kế hoạch sản xuất năm 2003, giám đốc công ty đã dựa vào các yếu tố cụ thể sau: - Kế hoạch thực hiện năm 2002: doanh thu đạt 10,5 tỷ đồng, nộp ngân sách 430 triệu, mức thu nhập bình quân đạt 1.350.000đ/người. - Tình hình thị trường: + Các dự án đầu tư trong nước về xây dựng và cải tạo hạ tầng phát triển ở mức dự báo 20% so với năm 2002. + Các dự án đầu tư nước ngoài, khu đô thị mới và công nghiệp giữ ở mức bằng năm 2002. + Nhà nước sẽ có những chính sách tháo gỡ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước: cấp vốn, giảm lãi suất vay, hỗ trợ bằng các nguồn tài chính khác. + Năng lực chưa phát huy hết công suất thiết kế, nói chung mới chỉ đạt ở mức 70% trong năm 2002. Từ các yếu tố nói trên, giám đốc công ty đã đưa ra kế hoạch năm 2003 cụ thể ở các mức sau: Doanh thu: 11,718 tỷ đồng Nộp ngân sách: 470 triệu đồng Thu nhập bình quân; 1.650.000đ/người Như chúng ta đã biết, giá cả là yếu tố của thị trường, giá cả không chỉ biểu hiện bằng tiền, giá trị hàng hoá còn biểu hiện tổng hợp các hoạt động kinh tế của công ty và nhiều mối quan hệ kinh tế trong xã hội. Giữa giá cả và cung cầu hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau. Do đó, đối với công ty giá không chỉ có vai trò hạch toán mà còn gắn liền với quá trình cạnh tranh trong kinh doanh. Các sản phẩm hàng hoá của công ty không thuộc những sản phẩm do nhà nước thống nhất quản lý mà hoàn toàn do công ty chủ động xác lập phương án giá và xây dựng giá bán. Việc quyết định mức giá bán do phòng tài vụ và phòng kinh doanh nêu ra và được Giám đốc công ty quyết định. Việc lập giá tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của công ty thích hợp tính chất sản xuất, kinh doanh cụ thể của từng công ty, nói chung tuân thủ những hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, bảo đảm tính đúng, đủ chi phí sản xuất hợp lý, hợp lệ, có xét đến giá trị sử dụng của sản phẩm, tình hình cung cầu trên thị trường và chính sách giá của Nhà nước. Trong phương án giá, Giám đốc công ty chỉ đạo trực tiếp các phòng nghiệp vụ tính các chi phí hợp lý, hợp lệ trong đó lưu ý một số điểm cơ bản sau: + Tài sản cố định sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải trích khấu hao vào chi phí sản xuất kinh doanh trong đó phải đánh giá đúng nguyên giá theo thời giá và tỷ lệ trích theo quy định. + Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng tính theo định mức tiêu hao hợp lý và giá xuất kho thực tế hợp lý. + Tiền lương, các khoản mang tính chất tiền lương phải trả áp dụng đối với ngành nghề dựa theo định mức hao phí lao động và chính sách, chế độ tiền lương hiện hành. + Các chi phí quản lý, chi phí chung cũng theo những hạn mức chi phs cho từng khoản chi. + Không được tính vào chi phí hợp lý hợp lệ các khoản sau theo quy định của nghị định 59/CP ban hành ngày 3/10/1996 về quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước là: - Các khoản thiệt hại được chính phủ trợ cấp. - Chi phí sự nghiệp. - Chi phí cho các hoạt động các tổ chức Đảng, Đoàn thể. - Chi phí về ăn trưa - Các khoản chi mang tính chất thưởng - ủng hộ các đoàn thể - Đầu tư xây dựng ơ bản, mua sắm TSCĐ - Nghiên cứu, thí nghiệm do nguồn vốn khác - Đào tạo không trong kế hoạch - Chi từ thiện, các khoản phạt Xuất phát từ các yếu tố trên, giám đốc công ty là người trực tiếp quản lý và xem xét, quyết định về giá bán các sản phẩm đảm bảo hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Mọi vấn đề về các hợp đồng kinh tế, giá bán quy định và điều chỉnh giá bán đều do Giám đốc công ty dựa vào đề nghị của các phòng chức năng, vào tình hình thị trường, các chi phí cố định và chi phí biến đổi của công ty để quyết định cụ thể và nhanh chóng nhằm kinh doanh có hiệu quả và giữ được khách hàng. Sự biến đổi này đòi hỏi Giám đốc công ty thường xuyên phải nắm chắc các chi phí, sự biến động về giá bán của cùng loại sản phẩm trên thị trường để xử lý linh hoạt. Trong hoạt động quản trị chi phí, kết quả tại công ty, Giám đốc công ty đòi hỏi phòng tài vụ công ty thường xuyên sử dụng phương thức mới, sử dụng chìa khoá mức lãi thô để có những thông tin cần thiết cho Giám đốc công ty xử lý kịp thời các hoạt động tài chính của công ty. 3.2.2. Tổ chức quản trị nhân sự: Từ nhiều năm nay cơ chế tổng hợp “ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ “ đã được vận dụng trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Những nguyên tắc chủ yếu định hướng trong công tác tổ chức quản lý doanh nghiệp là: + Công ty hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự thống nhất quản lý của nhà nước, thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh trong phạm vi pháp luật quy định. + Công ty quản lý theo chế độ một thủ trưởng trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ tập thể của người lao động. + Công ty hạch toán theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích lao động, trong đó lợi ích của người lao động là lao động trực tiếp. Phù hợp với cơ chế kinh doanh, chế độ quản lý doanh nghiệp bảo đảm sự lãnh đạo của đảng bộ cơ sở, giám đốc công ty quản lý công ty theo chế độ một thủ trưởng, công nhân viên chức có quyền là chủ tập thể trong quản lý và sản xuất kinh doanh. Cơ chế đó đã được vận dụng tại công ty và đã đạt được những kết quả đáng kể trong những năm qua. Giám đốc công ty là người được gia quản tri doanh nghiệp, là người chỉ huy cao nhất trong doanh nghiệp, có nhiệm vụ quản lý toàn diện, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất, kỹ thuật kinh doanh và đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. Để có thể tập trung hoàn thành tốt công tác, Giám đốc công ty giao quyền chỉ huy sản xuất và kỹ thuật cho Phó giám đốc công ty đảm nhiệm. Trong phương pháp lãnh đạo quản lý công ty, Giám đốc công ty thực hiện công tác phân quyền theo hình thức phân quyền danh nghĩa là quyền định đoạt quyết định được chia ra theo các cấp chức năng phù hợp với các phòng ban khác nhau. Cụ thể: + Phòng hành chính, tổ chức: tham mưu giúp việc và chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về mặt tổ chức bộ máy sản xuất và quản lý lao động tiền lương và bảo vệ nội bộ. + Phòng tài vụ: tham mưu và chịu trách nhiệm với Giám đốc công ty về công tác kinh tế – tài chính, hạch toán kinh doanh trong toàn công ty. + Phòng kinh doanh: tham mưu và chịu trách nhiệm với Giám đốc công ty về chỉ đạo tổ chức cung ứng vật tư, tổ chức sản xuất và tổ chức tiêu thụ hàng hoá của công ty. + Xưởng máy: sửa chữa, lắp ráp máy khí tượng thuỷ văn, khắc các loại ống đong,cắt đục giấy,...lắp đặt sâu vườn khí tượng thuỷ văn...Xác định được hư hỏng và lập phương án sửa chữa, thay thế các loại máy chuyên dùng trong các ngành. Xây dựng định mức kỹ thuật cho các sản phẩm sản xuất gia công. Chỉ đạo và kiểm tra thực hiện các quy trình công nghệ trong sản xuất, cải tiến mẫu mã và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Giám sát kiểm tra chất lượng sản phẩm. + Kho hàng: Chịu trách nhiệm trước các phòng ban trong công ty, chịu sự quản lý trực tiếp từ phòng kế toán – tài vụ. Người quản lý kho hàng phải chịu trách nhiệm trước vấn đề chất lượng sản phẩm được bảo quản như thế nào sau khi nhập hàng về hoặc được sản xuất ra trong công ty, đặc biệt là phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật trong các trường hợp mất mát sản phẩm. Ngoài sử dụng phương pháp nhân quyền, Giám đốc công ty đã thực hiện kết hợp với phương pháp hành chính và kinh tế. Trong điều hành sản xuất đưa ra các chỉ thị, mệnh lệnh mang tính chất bắt buộc cưỡng bức, biểu hiện dưới các quy chế an toàn lao dộng, quy chế về các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực công ty đồng thời kết hợp chặt chẽ với việc sử dụng tiền lương, tiền thưởng và các công cụ động viên vật chất khác làm đòn bẩy kinh tế. Trong điều hành và quản lý, giám đốc công ty thực hiện tác phong dân chủ - quyết định được thực hiện và hình thành. Qua thăm dò và lấy ý kiến qua các hội nghị giao ban rồi tiến hành quyết định, mặt khác trong nhiều trường hợp đặc biệt đòi hỏi Giám đốc phải thực hiện tác phong mệnh lệnh để đáp ứng kịp thời nhiệm vụ xảy ra. Lao động là nguồn sáng tạo ra mọi của cải vật chất, văn hoá của xã hội. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh của mỗi doanh nghiệp lao động là yếu tố năng động nhất. Lao động cùng với vốn và khoa học - công nghệ sử dụng hợp lý quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lao động gắn liền với việc làm - thu nhập - sản xuất là hoạt động trực tiếp liên quan tới con người, bảo đảm quyền của người lao động trong sản xuất. Nó thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền tập thể của người lao động đối với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với Công ty Vật tư Kỹ thuật Khí tượng thuỷ văn, nhiệm vụ đặt ra cho giám đốc công ty là sử dụng hợp lý sức lao động, bảo đảm các điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động, phát huy cao nhất năng lực sở trường của người lao động và cùng nhau tạo lập công ty đạt hiệu quả kinh tế cao. Tập thể lao động, trước hết là giám đốc công ty, người đứng đầu công ty vừa có trách nhiệm, vừa có quyền quyết định các hình thức, phương pháp, biện pháp thích hợp để tổ chức và quản lý tốt lực lượng lao động trong công ty. Từ việc tuyển dụng, sắp xếp, bố trí lao động phù hợp ngành nghề, trình độ, sức khoẻ, tâm sinh lý đến đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, trả lương, quyết định khen thưởng hoặc thi hành kỷ luật đối với công nhân viên chức theo đúng chế độ và luật pháp về lao động. Hiện số lượng cán bộ công nhân viên chức của công ty là 41 người. Hàng năm, Giám đốc công ty tổ chức huấn luyện, nâng cao và thi nâng bậc cho cán bộ công nhân viên, cử cán bộ đi học đại học chuyên ngành hoặc nâng cao. Căn cứ vào tiêu chuẩn và yêu cầu sản xuất kinh doanh, công ty trực tiếp tuyển dụng số lao động cần thiết hoặc giải quyết thôi việc và chấm dứt hợp đồng lao động. Để tiếp nhận số công nhân cần thiết đảm bảo đáp ứng các yêu cầu của công ty. Giám đốc công ty đề ra các tiêu chuẩn cụ thể trong việc tuyển chọn như trình độ tay nghề, nhân thân, tuổi đời và giới tính....Hiện tại công ty có khoảng 34 cán bộ công nhân viên có biên chế, còn lại là các lao động hợp đồng. Công ty đang tiếp tục thực hiện chuyển chế độ tuyển dụng vào biên chế sang chế độ hợp đồng lao động theo các điều khoản quy định trong bộ luật lao động đã có. Tuỳ theo tính chất sản xuất, kinh doanh, Giám đốc công ty và người lao động thoả thuận ký kết các hình thức hợp đồng sau đây: + Hợp đồng lao động không thời hạn: áp dụng với những cán bộ công nhân viên có biên chế từ trước ( 34 người ), cán bộ kỹ thuật chủ chốt trong công ty. + Hợp đồng lao động có thời hạn: áp dụng với những lao động bắt đầu mới tuyển dụng với thời hạn 6 tháng đến 36 tháng. Giám đốc công ty xây dựng các nội quy, quy chế nhằm cụ thể hoá những quy định của Nhà nước về kỷ luật lao động, bảo hộ lao động, kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp, tổ chức giáo dục và tạo điều kiện cho mọi người trong công ty nắm vững và thực hiện đúng các nội quy và quy chế đó. Trong trường hợp không đảm bảo an toàn lao động, Giám đốc công ty có thể đình chỉ sản xuất. Giám đốc công ty có quyền cho người lao động trong biên chế cũ thôi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động đối với những người làm việc vi phạm nội quy lao động tuân theo thoả ước lao động tập thể được ký kết giữa Giám đốc công ty và đại diện người lao động ( Chủ tịch công đoàn ). Hiện nay, việc trả lương cho cán bộ công nhân viên dược gắn liền với hiệu quả công việc của người lao động, Giám đốc công ty đã xây dựng các đơn giá tiền lương trên cơ sở thang bậc lương bình quân, theo các quy định của nhà nước, của Bộ thương binh Xã hội. Đảm bảo tính kích thích và thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế trong sản xuất và kinh doanh. Việc trả lương được khoán thẳng cho các doanh nghiệp chủ động và trả lương cho người lao động theo quy chế của công ty quy định. Nguồn tiền thưởng là lợi nhuận còn lại sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, trích lập các quy theo quy định của nghị định 59/CP. Các chế độ tiền thưởng như; tiết kiệm vật tư, chất lượng, sáng kiến, công ty thực hiện theo các quy định của Nhà nước. 3.2.3. Các lĩnh vực khác: Khoa học - công nghệ là yếu tố then chốt trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, quản lý sản xuất trước hết là quản lý hoạt động khoa học - công nghệ. Mọi quá trình sản xuất đều phải tuân theo những yêu cầu kỹ thuật và chịu sự tác động trực tiếp của khoa học và công nghệ. Chính vì thế, Giám đốc cụng ty trực tiếp chỉ đạo và theo dõi khoa học - công nghệ thông qua phòng kỹ thuật - công nghệ. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện các vấn đề về khoa học công nghệ bằng nhiều hình thức khác nhau trong công ty để tiến hành các hoạt động khoa học - công nghệ. + Công tác tổ chức làm nghiên cứu, phương án đổi mới công nghệ sản xuất ở các khâu, mở ra đề tài nghiên cứu, đổi mới công nghệ mà trực tiếp giám đốc công ty làm chủ đề tài. Quản lý chất lượng hàng hoá là việc quy định bảo đảm và giữ gìn mức độ cần thiết của chất lượng hàng hoá trong mọi giai đoạn của chu trình chế tạo, lưu thông hàng hoá, công ty có trách nhiệm cụ thể với chất lượng hàng hoá của mình. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quản lý tài chính của công ty là công cụ quan trọng để tăng cường hiệu quả quản lý thống nhất của nhà nước. Đồng thời phát huy quyền tự chủ của chính công ty, thúc đẩy công ty thực sự chuyển sang kinh doanh theo nguyên tắc tự trang trải và tự phát triển và làm nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước theo luật định. Trách nhiệm và vai trò của Giám đốc công ty rất lớn và là chủ đạo chịu trách nhiệm trực tiếp với Nhà nước về bảo toàn và phát triển vốn sản xuất ( vốn cố định, vốn lưu động ) phân phối lợi nhuận và sử dụng hợp lý các quỹ doanh nghiệp, thực hiện tốt hợp đồng tín dụng và thanh toán công nợ, chấp hành tốt luật thuế và chế độ quản lý tiền tệ. Để làm, Giám đốc công ty đã gắn các hoạt động đó là công tác hạch toán và kiểm toán, một công cụ quản lý có hiệu lực trong công ty, tổ chức hạch toán, kế toán thống kê thường xuyên và theo đúng điều lệ kế toán thống kê Nhà nước và hạch toán theo đúng nghị định 59/CP của chính phủ. 3.3. Lãnh đạo trong công ty: + Thực hiện nguyên tắc thủ trưởng: cấp dưới phải phục tùng nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp trên trước hết là cấp trên trực tiếp. + Thủ trưởng từng bộ phận có toàn quyền quyết định những vấn đề thuộc phạm vi đơn vị mình và chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về các mặt hoạt động ở đơn vị do mình phụ trách. + Thủ trưởng mỗi cấp có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế hoạt động ở từng cấp được quy định về: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác. + Tất cả các cấp phó đều là người giúp việc cho cấp trưởng ở từng cấp phòng ban, xí nghiệp, tổ đội và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cấp trên trực tiếp của mình. + Mỗi người trong từng bộ phận là những người thừa hành của thủ trưởng cấp trên, trước hết là thủ trưởng cấp tương đương và phải phục tùng nghiêm chỉnh mệnh lệnh của thủ trưởng. + Giám đốc công ty là thủ trưởng cấp trên và là thủ trưởng cao nhất trong công ty chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi mặt hoạt động kinh doanh, kinh tế, chính trị, xã hội trong công ty, trước tập thể những người lao động và trước cơ quan quản lý nhà nước. Mọi người phải phục tùng mệnh lệnh của Giám đốc công ty. 3.4. Kiểm soát trong công ty: Kiểm soát là dựa vào các định mức, các chuẩn mực, các kế hoạch đã định để đánh giá hiệu quả công tác quản trị của cấp dưới và đề ra các biện pháp quản trị thích hợp nhằm đạt được những mục đích của công ty. Các chuẩn mực để đánh giá hiệu quả công tác quản trị phải được xác định một cách toàn diện trong các lĩnh vực sau: thực hiện chính sách quản trị vĩ mô, các quan hệ nhân sự, các hoạt động sản xuất, thực hiện quản trị kỹ thuật, công nghệ, các nghiệp vụ về tài chính, quản trị vốn và phân phối trong công ty. Mục đích cơ bản của công tác kiểm soát trong công ty là: + Xác định rõ mục tiêu, kết quả đạt được theo kế hoạch đã định. + Xác định và dự đoán những biến động trong lĩnh vực cung ứng đầu vào, các yếu tố chi phí sản xuất như thị trường đầu ra. + Phát hiện chính xác, kịp thời những sai sót xảy ra và trách nhiệm của các bộ phận có liên quan trong quá trình thực hiện chính sách, mệnh lệnh, chỉ thị và công tác của từng người và các phòng ban trong công ty. + Tạo điều kiện một cách thuận lợi các chức năng: uỷ quyền chỉ huy và thực hiện chế độ trách nhiệm cá nhân. + Hình thành hệ thống thống kê, báo cáo với những biểu mẫu có nội dung chính xác, thích hợp. + Đúc rút và phổ biến kinh nghiệm cải tiến công tác quản trị nhằm đạt được các mục tiêu đã định trên cơ sở nâng cao hiệu suất công tác của từng bộ phận, từng cấp, từng cá nhân trong bộ máy quản trị công ty, thường xuyên họp các phòng ban trong công ty để đúc rút kinh nghiệm và đề ra kế hoạch mục tiêu. Nội dung của công tác kiểm soát trong doanh nghiệp phải được thực hiện ở trong các lĩnh vực quản trị chủ yếu như lỗ, lãi, doanh số chi phí, lợi nhuận, tình trạng thị trường, năng suất, tình hình sản phẩm, chỉ số chất lượng hàng hoá, dịch vụ, phát triển lực lượng quản trị viên, sự kết hợp mục tiêu ngắn hạn với dài hạn. Trong giới hạn của chuyên đề, tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động của Giám đốc công ty HYMETCO trong công tác kiểm soát công ty ở các lĩnh vực chính: sản xuất kinh doanh. Tại công ty việc kiểm soát được thực hiện dưới hình thức kiểm soát định kỳ thông qua phương pháp cổ truyền, thông qua các số liệu thống kê, bảng biểu và các số liệu sử dụng phản ánh các kết quả đạt được, các bản báo cáo, phân tích định kỳ một tháng một lần báo cáo với Giám đốc công ty và các đơn vị kiểm soát Nhà nước. Thông qua đó, Giám đốc công ty sẽ xem xét, nắm bắt và kiểm soát được các hoạt động thực tiễn của công ty trên các lĩnh vực, từ đó có hướng điều chỉnh cho phù hợp và có hiệu quả cao hơn của từng bộp phận, từng cấp, từng ca nhân trong bộ máy quản lý công ty và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Phân tích lỗ, lãi, doanh số chi phí, lợi nhuận là những lĩnh vực đầu tiên cần được xem xét giải quyết tại công ty. Các số liệu để phân tích định kỳ ( 1 tháng ) của công ty được phòng kinh doanh tập hợp bao gồm các yếu tố đầu vào, các yếu tố trong quá trình kinh doanh và các yếu tố đầu ra ( lượng, loại hàng tồn kho hiện tại ) thông qua các chứng từ, hoá đơn số liệu và lập biểu báo cáo số 01/CNCS ( ban hành theo QĐ số 147 - TCKT/QQĐ ). Trên cơ sở đó giám đốc công ty có các biện pháp điều chỉnh và thúc đẩy tiêu thụ. + Điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất năm 2003 đảm bảo số lượng hàng vừa đủ cho tồn kho. + Kiểm tra và tổ chức lại bộ phận tiếp thị, kiểm tra khả năng tiêu thụ thị trường trong các tháng của năm 2003. Phòng tài vụ thực hiện chức năng tổng hợp toàn bộ các chi phí cấu thành giá thành sản phẩm trong tháng và doanh thu, lập biểu phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh trong tháng và thuyết minh báo cáo tài chính ( biểu mẫu số B09 - DN ban hành theo QĐ số 1141 - TC/CĐKT của bộ tài chính ) để gửi báo cáo cấp quản lý cấp trên theo định kỳ từng quý. Trên cơ sở đó, Giám đốc công ty sẽ xem xét và kiểm soát các hoạt động của các phòng nghiệp vụ, khả năng tiêu thụ và có phương pháp điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, điều chỉnh chi phí và các yếu tố khác, đánh giá hoạt động trong kỳ. Thông qua đánh giá, phân tích các số liệu thực hiện của công ty thường kỳ, Giám đốc công ty tổ chức họp giao ban với thành phần gồm toàn bộ cán bộ quản trị các mặt qua hội nghị thông báo và nhận định, từ đó điều chỉnh và kịp thời động viên thông qua các hình thức khen thưởng kỷ luật theo quy chế của công ty đã đề ra. 3.5. Đánh giá chung về vai trò và phương pháp lãnh đạo của giám đốc công ty HYMETCO. Giám đốc công ty với vai trò người hướng đạo công ty đến thành đạt hay thất bại trong cuộc cạnh tranh với các đặc thù riêng biệt của ngành, của công ty được thể hiện và đánh giá qua kết quả của công ty trong 5 năm gần đây: Bảng1: Tình hình chung của công ty qua các năm 1999 – 2003 Đv tính: VNĐ Năm 1999 2000 2001 2002 2003 Doanh thu 8,01tỷ 8,9 tỷ 9,3tỷ 10,5 tỷ 10,718tỷ Nộp ngân sách 324 tr 376 tr 378 tr 430 tr 470 tr Số lượng nhân viên 36 người 38 người 38 người 40 người 41 người Thu nhập bình quân 0,86 tr 0,93 tr 1,12 tr 1,35 tr 1.65 tr Nguồn: phòng kế kế toán – tài vụ - Năm 1999 doanh thu của công ty đạt ở mức 8,01tỷ VNĐ hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đặt ra đối với công ty trong năm 1999. trong năm 1998 định mức doanh thu mà công ty đặt ra là 7 tỷ VNĐ, như vậy công ty đã có mức doanh thu vượt hơn so với năm 1998 là1,01tỷ VNĐ chiếm gần 20%. Từ mức doanh thu này công ty đã nộp ngân sách 324 triệu đồng với số nhân viên là 36 người, nâng mức thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên công ty từ mức 750 nghìn đồng năm 1998 lên 860 nghìn đồng. - Năm 2000 công ty đề ra mức doanh thu là 9 tỷ VNĐ nhưng do gặp những khó khăn trong công việc kinh doanh công ty chỉ đạt được 8,9 tỷ. Tuy nhiên với mức doanh thu này công ty cũng đã đạt được 98% kế hoạch đối với năm tài khoá 2000, với 376 triệu đồng nộp ngân sách và mức lương bình quân của lao động công ty đã tăng lên đáng kể ( 930 nghìn đồng ). Đồng thời năm 2000 công ty đã tăng khối lượng cán bộ công nhân viên lên 38, việc nhận thêm cán bộ kỹ thuật từ trên Tổng công ty khí tượng thuỷ văn ( 2 người ) làm giảm áp lực công việc cho công ty tạo điều kiện cho công ty trong công việc. - Năm 2001 công ty đề ra mức doanh thu là 9,3 tỷ VNĐ và với doanh thu năm 2001 là 9,3 tỷ VNĐ công ty đã vượt mức chỉ tiêu đề ra là 1,3%. Với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên cùng ban Giám đốc công ty, công ty đã nâng được mức lương của cán bộ công nhân viên lên 1120 nghìn đồng, nộp ngân sách 378 triệu đồng. - Năm 2002 công ty đạt được 100% kế hoạch đề ra là 10,5 tỷ VNĐ, nộp ngân sách 430 triệu đồng. Trong năm này công ty cũng nhận thêm 2 cán bộ kinh doanh nâng số cán bộ công nhân viên trong công ty lên con số 40, đồng thời công ty cũng nâng mức lương bình quân của mỗi cán bộ công nhân viên công ty lên 1350 nghìn đồng. - Kế hoạch trong năm tài khoá 2003 công ty đề ra là 11 tỷ VNĐ, với doanh thu là 10,718 tỷ VNĐ công ty đã không hoàn thành được định mức mà công ty đã đề ra trong năm này tuy nhiên công ty cũng đã nâng được mức lương bình quân của toàn thể cán bộ công nhân viên công ty lên 1650 nghìn đồng. Công ty cũng đã nộp ngân sách 410 triệu đồng, trong năm này công ty cũng nhận thêm 1 cán bộ phòng tổ chức. Trong 5 năm qua Giám đốc công ty đã bằng năng lực lãnh đạo của mình cùng với sự nỗ lực không ngừng của cán bộ công nhân viên chức toàn công ty đã đưa công ty không ngừng tiến lên theo kịp sự chuyển đổi không ngừng của cơ chế thị trường đầy biến động. Từ số liệu bảng trên thấy được sự phát triển của công ty liên tục trong những năm qua về các mặt . Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Giám đốc công ty trong công tác lãnh đạo, điều hành công ty thể hiện ở các mặt cơ bản sau: 3.5.1. Vai trò của Giám đốc công ty: Trong hoạt động quản trị công ty ở các cấp, Giám đốc công ty đã thể hiện được đúng vai trò là thủ trưởng cao nhất của công ty. Với các chỉ thị, mệnh lênh được chấp hành nghiêm túc trong bộ máy; đưa ra các quyết định đúng đắn dựa trên cơ sở tập hợp trí tuệ và tôn trọng ý kiến của cán bộ công nhân viên trong công ty. Giám đốc công ty là một người năng động, hoạt bát, dám nghĩ, dám làm và biết đánh giá đúng các điều kiện riêng biệt của công ty về: công nghệ, con người, vốn,....để tổ chức bộ máy quản lý phù hợp, hoạt động có hiệu quả, ăn khớp, hoàn thành tốt mục tiêu đã đề ra. Bố trí và quyết định công tác cán bộ đúng với khả năng của từng vị trí quản trị trong công ty. Đối với cán bộ công nhân viên trong công ty, vai trò của giám đốc thể hiện không chỉ chịu trách nhiệm về việc làm, thu nhập, đời sống vật chất mà còn biết chăm lo đời sống tinh thần. Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn và văn hoá. Thực hiện tốt vai trò Giám đốc công ty với nhà nước trong lĩnh vực bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh cùng với các chính sách xã hội. 3.5.2. Phương pháp lãnh đạo. Trong điều kiện hoạt động của công ty với quy mô là công ty xếp hạng loại II. Việc sử dụng phương pháp lãnh đạo phân quyền thông qua hệ thống các quy chế, quy định đã đề ra được những kết quả tốt trong quá trình quản trị công ty. Tạo điều kiện cho Giám đốc công ty mở rộng hoạt động của mình với các công ty trong và ngoài nước. Mặt khác, đã có sự kết hợp với sử dụng phương pháp kinh tế cùng với tác phong dân chủ - quyết định trong điều hành lãnh đạo công ty, có tác dụng tập hợp và tạo mối đoàn kết tốt trong hoạt động của công ty, phát huy được năng lực của từng quản trị viên trong công ty. 3.5.3. Những vấn đề phát sinh cần giải quyết để phát huy vai trò và phương pháp làm việc của Giám đốc công ty. Một vấn đề bức xúc cần đặt ra hiện nay là chưa có sự bình đẳng giữa công ty TNHH và doanh nghiệp nhà nước. Theo pháp lệnh thống kê, kế toán của nhà nước, bố ( mẹ ) là thủ trưởng, thì người nhà không được làm kế toán hoặc thủ quỹ. Các doanh nghiệp nhà nước luôn chấp hành các chính sách, chế độ tài chính của Nhà nước các chính sách về giá và nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước. Trong khi đó, giám đốc công ty TNHH lại thường tuyển người nhà, hoặc người quen làm kế toán, do đó dẫn đến tình trạng thông đồng, làm chứng từ sổ sách giả để trốn thuế với nhà nước, hoặc chỉ nộp thuế doanh thu “tượng trưng “, gây thất thoát tiền của Nhà nước. Nếu Nhà nước có những chính sách thích hợp và cụ thể đối với công ty TNHH và có những bộ phận chức năng thường xuyên giám sát, kiểm tra hệ thống sổ sách thì sẽ hạn chế được các hiện tượng tiêu cực và đem lại sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp Nhà nước và công ty TNHH khi tham gia đấu thầu các hợp đồng. Trong các doanh nghiệp Nhà nước thường xảy ra tình trạng cấp vốn không hợp lý đầu năm kinh phí nhà nước cấp rất ít gây ra khó khăn trong các hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị, nhưng lại cấp tiền dồn dập vào những tháng cuối năm. Giám đốc luôn phải điều chỉnh kế hoạch chi tiêu, cố gắng sử dụng số tiền được cấp trong một khoảng thời gian ngắn, do vậy đôi khi đầu tư không có hiệu quả. 4. Phân tích tình hình tiêu thụ các mặt hàng khí tượng từ năm 1999 đến nay. Đi lên từ một doanh nghiệp Nhà nước nhỏ, năm 1993 chuyển sang hình thái công ty, HYMETCO đã không ngừng nỗ lực phấn đấu để từ chỗ kinh doanh thua lỗ đứng trước nguy cơ giải thể, đến nay công ty đã đủ vững mạnh khẳng định uy tín của mình trên thị trường. Năm 1993, các mặt hàng khí tượng của công ty HYMETCO ít về chủng loại, các mặt hàng chủ yếu được nhập từ Liên Xô, Thuỵ Điển....,tình hình tiêu thụ ở tình trạng trì trệ. Sau khi đổi mới tới năm 1999, tình hình có khởi sắc. Các mặt hàng chuyên doanh của công ty đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu mã hơn. Đặc biệt các mặt hàng khí tượng được nhập về các nước phát triển đáp ứng được nhu cầu thị trường..... Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh các mặt hàng khí tượng năm 1999-2003 Đv: triệu đồng Mặt hàng khí tượng Năm 1999 Năm 2003 So sánh 99/03 Doanh thu % Doanh thu % Tuyệt đối Tương đối Máy đo áp suất 1560 19.48 1250 11.46 -310 80.13 Máy đo độ ẩm 1400 17.48 2573 24.03 1173 183.79 Máy đo nhiệt độ 893 11.15 1010 9.42 117 113.10 Trạm khí tượng tự động 977 8.45 802 7.48 125 118.46 Rada thời tiết 1125 14.04 1532 14.29 407 136.17 Các mặt hàng khác 2355 29.4 3551 33.13 1196 150.79 Tổng doanh thu 8010 100 10718 100 2708 133.81 Nguồn: phòng kế toán – tài vụ. Năm 1999: Tỉ trọng các loại máy đo áp suất có doanh thu cao nhất chiếm 29,48% ( ứng với 1560 triệu đồng ), tiếp theo là các loại máy đo độ ẩm; bên cạnh đó doanh thu của các máy thiết bị thám không và rada thời tiết cũng chiếm một tỉ trọng khá cao 14,04% ( ứng với 1125 triệu đồng ). Tuy nhiên sau 5năm cơ cấu mặt hàng đã có sự thay đổi kha lớn, từ vị trí thứ hai các mặt hàng máy đo độ ẩm đã có được doanh thu lớn nhất chiếm 24,02% ( ứng với 2573 triệu đồng ). Các mặt hàng rada dự báo thời tiết và thiết bị thám không vẫn giữ ở mức ổn định là 14.29% ( 1532 triệu đồng ). Điều đáng lưu ý hơn cả là sự sụt giảm doanh số của các loại máy đo áp suất 19,87% ( 310 triệu ), là mặt hàng đứng thứ ba trong các mặt hàng khí tượng chuyên doanh. Qua 5 năm ( 1999 - 2003 ), có thể thấy rằng khả năng tiêu thụ các thiết bị rada và thiết bị thám không, các trạm tự động có sự gia tăng nhanh chóng. Mặt khác, các loại máy đo áp suất bị sụt giảm 310 triệu đồng ( 19,87% ). Doanh số từ các mặt hàng tổng hợp ngày càng gia tăng mạnh chứng tỏ khuynh hướng đa dạng hóa các mặt hàng tiêu thụ sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao. Nhìn chung tốc độ tăng doanh thu năm 2003 so với năm 1999 khá cao 33,81% ( tương ứng với 2708 triệu đồng ) cho thấy dấu hiệu khả quan trong hoạt động kinh doanh mặt hàng khí tượng. Sở dĩ có sự thay đổi chủ yếu trong cơ cấu, mức độ tiêu thụ của các mặt hàng khí tượng là do một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất: Năm 1999 do yêu cầu đổi mới của các trạm cũng như những diễn biến phức tạp của điều kiện tự nhiên, đặc biệt là thời tiết khiến cho cầu mặt hàng đo áp suất và độ ẩm được tiêu thụ ở mức độ cao. Thứ hai: Công ty tìm ra được khu vực thị trường mới có khả năng tiêu thụ mặt hàng khí tượng như cá doanh nghiệp, các viện nghiên cứu. Thứ ba: Nhu cầu về các thiết bị rada và thiết bị thám không trên thị trường ngày càng tăng bởi vì đây là mặt hàng mới hiện đại có khả năng ứng dụng cao trong ứng dụng thực tiễn cho các dự án. Thứ tư: Sự sụt giảm doanh thu của các mặt hàng đo áp suất do khu vực thị trường hành chính sự nghiệp đã bắt đầu bão hoà, các mặt hàng xuất đi vẫn đang trong giai đoạn sử dụng tốt chưa cần thay thế. 5. Đánh giá chung về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty : Trong giai đoạn mới chuyển sang hình thái công ty ( 1993 -1995 ), công ty đã gặp nhiều khó khăn như thiếu vốn, thiếu nhân công. Song sau gần mười năm đổi mới, công ty đã gặt hái được một số thành quả nhất định. 5.1. Những thành tựu đạt được: Trong hoạt động nhập khẩu chủ trương của công ty là chọn lọc các mặt hàng có nhu cầu ưu tiên nhập khẩu, với chủ trương này công ty đã không ngừng mở rộng hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, công ty còn thực hiện đa dạng hoá các mặt hàng cho nên thu hút được nhiều đối tượng khách hàng. Công ty đã xây dựng được các mặt hàng chủ lực để tạo đà phát triển, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của mình công ty HYMETCO đã từng bước hoàn thiện quy chế quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và hoạch toán nội bộ công ty. Qua đó phát huy tính tích cực, chủ động của nhân viên trên nguyên tắc phân phối thu nhập theo kết quả lao động với phương trâm quán triệt: “Thà ít nhân viên trả lương cao còn hơn nhiều nhân viên mà trả lương thấp“.Nhờ vậy, công ty đã tận dụng được hiệu quả nguồn nhân lực. Trong hoạt động thị trường công ty từ chỗ chỉ khai thác nguồn thị trường tại các trạm tại Hà Nội, Hải Phòng nay công ty đã mở rộng hoạt động kinh doanh ra nhiều thị trường khác: Tp Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Nha Trang....Phòng kinh doanh đã xây dựng được các quan hệ tiêu thụ khá ổn định, bên cạnh đó luôn có đọi ngũ nhân viên đi tìm hiểu theo sát nhu cầu thị trường. Nhờ vậy thương hiệu HYMETCO ngày càng được củng cố. Cơ cấu hoạt động kinh doanh gọn nhẹ, quản lí thống nhất từ trên xuống tạo được sự phối hợp giữa các cấp quản lí. Hoạt động quản trị của lãnh đạo công ty luôn tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích công nhân viên phấn đấu vượt qua mọi trở ngại để đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh. 5.2. Những tồn tại: Trong hoạt động kinh doanh phòng kinh doanh phải được đảm nhận chức năng do vậy gặp khó khăn trong việc quảng bá thương hiệu, quan hệ công chúng. Trong khi tham gia hoạt động thị trường công ty tập trung nhiều vào các thị trường truyền thống ( thị trường hành chính sự nghiệp ), do vậy khả năng mở rộng thị trường còn gặp nhiều khó khăn. Do hoạt động Marketing còn mang tính riêng lẻ, ở quy mô nhỏ do vậy sự kiểm soát đôi khi còn lỏng lẻo chưa tạo được những bước đột phá. Hoạt động tài chính còn phải đối mặt với một số thách thức như bị chiếm dụng vốn vì khách hàng của công ty phần nhiều là các đơn vị hành chính sự nghiệp thường trả trậm một thời gian sau khi nhận hàng. Hoạt động tổ chức nhân lực còn thiếu sự chủ động do cơ cấu tuyển dụng, chỉ tiêu nhân viên chịu sự điều hành phân bố từ tổng cục khí tượng thuỷ văn. Tuy nhiên những tồn tại này đang từng bước được công ty dần khắc phục để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong thời gian tới. Phương hướng kinh doanh của công ty là: Duy trì ổn định và từng bước phát triển, phấn đấu giữ mức độ tăng trưởng cao đạt ở mức ổn định 10%, với doanh thu dự kiến năm 2003 là trên 11,5tỷ VNĐ. Khai thác vốn tự có và vốn vay tổ chức, sử dụng hiệu quả vốn tạm thời nhàn rỗi của công ty. Đồng thời hoạch toán chính xác, quyết toán kịp thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của các đơn vị kinh doanh. Các phòng ban phối hợp chặt chẽ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của phòng mình tạo cơ sở để hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của công ty đề ra. Mặt khác tổ chức luân chuyển đào tạo đội ngũ cán bộ - công nhân viên theo định kỳ nhằm phát huy yếu tố con người trong hoạt động kinh doanh. Kiện toàn hệ thống phân phối để trở thành nhà phân phối chính thức của công ty AADERAA - một công ty chuyên hoá xuất thiết bị khí tượng thuỷ văn nổi tiếng của Thuỵ Điển. Khi hoạt động phân phối này được triển khai công ty HYMETCO sẽ tạo ra một thế độc quyền nhất định đối với một số mặt hàng mà HYMETCO cung cấp. Tổ chức triển khai phát triển thị trường ở các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nhằm khai thác thị trường tiềm năng này. Từng bước thực hiện công tác quảng bá sâu rộng thương hiệu HYMETCO trên toàn đất nước. Tuân thủ các quy định pháp luật của Nhà nước đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao từ tổng cục khí tượng thuỷ văn. 6. Định hướng phát triển của công ty vật tư kỹ thuật khí tượng thuỷ văn HYMETCO từ nay đến năm 2006. HYMETCO là một công ty nhỏ chuyên cung cấp vật tư thiết bị kỹ thuật chuyên dụng thuộc Tổng cục khí tượng thuỷ văn, vì vậy mục tiêu phát triển của HYMETCO không thể tách dời ra khỏi sự chi phối và quản lí của Tổng cục khí tượng thuỷ văn, nhưng từ khi tách ra hoạt động kinh doanh - hoạch toán độc lập tuy vẫn phải tuân thủ theo các chính sách của Tổng cục Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Từng bước hoàn thiện mình trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, thực hiện đầy đủ những yêu cầu chính trị chung của toàn ngành. Công ty đã khẳng định được vị thế của mình trước tiên là trong ngành khí tượng thuỷ văn, các đơn vị trong 64 tỉnh thành trong cả nước và đặc biệt là công ty đã có những khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các khu chế xuất. Trong 3 năm tới công ty đã đề ra các mục tiêu như: - Không ngừng mở rộng thị trường. -Tạo vị trí ổn định trong khối đơn vị hành chính sự nghiệp, không ngừng mở rộng thị trường sang khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như các cá nhân quan tâm đến sản phẩm của công ty. -Tạo niềm tin về chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ của HYMETCO. -Thông qua các chương trình quảng bá sản phẩm đến các đối tượng khách hàng tiềm năng là những đối tượng khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của công ty. Đây là đối tượng khách hàng tiềm năng mà công ty sẽ đặt vào vị trí phát triển chiến lược của công ty. -Từng bước học hỏi công nghệ bằng việc cử cán bộ nghiên cứu đi nghiên cứu về đối tượng sản phẩm mà công ty có triển vọng phát triển sản xuất nội hoá như các thiết bị đo thời tiết, độ ẩm là những thiết bị mà thị trường Việt Nam có nhu cầu khá cao mà chúng ta vẫn luôn phải nhập khẩu. Đây cũng là mục tiêu lớn nhất của công ty cần phấn đấu trong kế hoạch cho sự nghiệp phát triển và mở rộng của công ty. Giám đốc là người có thể tạo ra một sức mạnh cạnh tranh trên thị trường và đưa công ty không ngừng phát triển, đồng thời Giám đốc công ty cũng có thể đưa công ty đến bờ vực của sự phá sản. Tất cả điều đó phụ thuộc vào trình độ của Giám đốc, chính vì thế mà Giám đốc công ty phải có những nỗ lực để tự cải thiện mình, luôn có một tinh thần trách nhiệm cao đối với sự sống còn của công ty. Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, các cán bộ công nhân viên trong toàn công ty đã không ngừng nỗ lực phấn đấu để tự hoàn thiện mình, góp phần cho sự nghiệp phát triển chung của toàn công ty, đặc biệt là sự nỗ lực của Giám đốc công ty HYMETCO trong quá trình đi lên cuả doanh nghiệp. CHƯƠNGIII KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRề VÀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO CỦA GIÁM ĐỐC CễNG TY HYMETCO 1. Kiến nghị với Giám đốc công ty HYMETCO. 1.1. Không ngừng đổi mới phương pháp lãnh đạo và chỉ huy mọi lúc, mọi nơi thể hiện rõ vai trò chỉ huy cao nhất ở công ty. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Giám đốc công ty thực chất chỉ là người thay mặt Nhà nước điều hành sản xuất trên cơ sở mệnh lệnh và chỉ tiêu định sẵn đã tạo ra một sức ỳ lớn ở ngay bản thân người Giám đốc trong các lĩnh vực. Ngày nay, chuyển sang cơ chế thị trường, Giám đốc công ty thực sự phải đối đầu trực tiếp với các tác động bên trong công ty, tác động bên ngoài và các moi trường khác, chịu sự chi phối trực tiếp của thị trường trong lĩnh vực kinh doanh. Chính vì vậy, Giám đốc công ty ngoài trình độ, năng lực phải có sự linh hoạt, táo bạo trong mọi lĩnh vực quản trị công ty, phải có phương pháp lãnh đạo, làm việc khoa học luôn luôn phù hợp với các điều kiện cụ thể của công ty trong từng giai đoạn để vận hành doanh nghiệp đi theo đúng sự vận động của thị trường xã hội, đồng thời thể hiện rõ vai trò của Giám đốc công ty. Trong điều kiện hoạt động quản trị của Công ty HYMETCO, Giám đốc công ty chủ yếu áp dụng phương pháp phân quyền trong chỉ huy điều hành. Điều này đã đem lại được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, với điều kiện riêng biệt của Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cùng với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước đang tiến hành ra các bộ luật: doanh nghiệp, đầu tư....các quy chế quản lý trong các lĩnh vực tài chính, lao động, tiền lương. Về thực chất chỉ là những bước đi ban đầu trong lĩnh vực quản lý vĩ mô đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Nó có tác động không nhỏ đến các hoạt động quản trị của công ty, thể hiện rõ hơn vai trò và quyền hạn của Giám đốc công ty. Đặc biệt, Nhà nước đang có hướng chuyển đổi dần các doanh nghiệp nhà nước trở thành các công ty cổ phần, điều này có nghĩa là đã làm cho vị trí của Giám đốc doanh nghiệp sẽ thay đổi từ vị trí thay mặt Nhà nước, vừa đại diện cho công nhân viên chức, quản lý doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng sẽ chuyển sang vai trò của một Giám đốc điều hành, thay mặt cổ đông và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Mặt khác, hoạt động của giám đốc không chỉ đơn thuần là lãnh đạo sản xuất kinh doanh mà là một nghệ thuật quản lý. Chính vì vậy, dù cho có các điều kiện riêng biệt của công ty HYMETCO, cũng đòi hỏi Giám đốc công ty phải không ngừng đổi mới phương pháp lãnh đạo và chỉ huy, tạo cho mình phương pháp lãnh đạo và chỉ huy, tạo cho mình phương pháp lãnh đạo linh hoạt phù hợp với vị trí, vai trò và mục tiêu của Giám đốc và công ty trong từng giai đoạn nhất định. Thực sự biến phương pháp lãnh đạo trở thành nghệ thuật của riêng mình và là vũ khí sắc bén trong quản trị công ty. 1.2. Củng cố và hoàn thiện bộ máy quản trị cấp Công ty. Sự thành đạt của doanh nghiệp công nghiệp sản xuất kinh doanh có liên quan đến vấn đề lợi ích, nghệ thuật quản lý, sự nghiệp đào tạo, lao động sáng tạo. Năng lực tiềm tàng trong mỗi con người là vô hạn. Nhiệm vụ và tài năng của người lãnh đạo, quản lý là làm thế nào để khai thác và phát huy được tiềm năng con người để họ phát huy hết tiềm năng trong lao động sản xuất và kinh doanh, mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Việc cải tiến công tác quản lý của doanh nghiệp công nghiệp cần tiến hành song song với đổi mới, củng cố và hoàn thiện bộ máy quản trị các xí nghiệp trực thuộc công ty. Có như vậy mới đồng bộ và giải quyết được các mâu thuẫn trong quá trình thực hiện mọi hoạt động của công ty, đảm bảo sự quản lý theo nguyên tắc tập trung thống nhất được triệt để từ trên xuống. Với mô hình này, khi kế hoạch sản xuất được công ty giao xuống, Giám đốc doanh nghiệp giao kế hoạch cho từng tổ sản xuất và kiểm tra giám sát qua hệ thống cán bộ kỹ thuật. Với nhiệm vụ được giao của doanh nghiệp là đảm bảo sản xuất đúng tiến độ theo kế hoạch đã đề r

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24517.DOC