Đề tài Truyền thống phụ nữ

Tài liệu Đề tài Truyền thống phụ nữ: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ chiếm trên 50% dân số và lao động xã hội, là lực lượng to lớn, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của nước ta. Họ với tư cách là người mẹ sinh thành nuôi dưỡng cho đất nước các thế hệ công dân tiếp nối thực hiện sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Ngoài ra phụ nữ Việt Nam còn tham gia tích cực vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nêu trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII: "Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước cũng như trong cuộc đời thường. Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tính nhân ái, đức hy sinh, trí thông minh. Tám chữ vàng "Anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta trao tặng...

doc97 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Truyền thống phụ nữ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ chiếm trên 50% dân số và lao động xã hội, là lực lượng to lớn, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của nước ta. Họ với tư cách là người mẹ sinh thành nuôi dưỡng cho đất nước các thế hệ công dân tiếp nối thực hiện sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Ngoài ra phụ nữ Việt Nam còn tham gia tích cực vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nêu trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII: "Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước cũng như trong cuộc đời thường. Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tính nhân ái, đức hy sinh, trí thông minh. Tám chữ vàng "Anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta trao tặng phụ nữ nước ta chính là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó" [93, 90-91]. Trong quá trình xây dựng CNXH, nhất là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN hiện nay việc xây dựng đạo đức lành mạnh của xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều đó đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung và của người phụ nữ Việt Nam nói riêng, tạo điều kiện cho việc xây dựng chuẩn mực đạo đức mới phù hợp yêu cầu phát triển của xã hội. Đồng thời đó cũng là một nội dung quan trọng trong việc góp phần "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Trong những năm đổi mới vừa qua vai trò của phụ nữ càng được khẳng định trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song, do tác động của cơ chế thị trường, những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam bị giảm sút, bị xói mòn. Không ít chị em chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, thiếu tính nhân ái, sự thủy chung. Vì vậy, việc làm rõ vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện nay vừa cần thiết vừa cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước và của Kiên Giang nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài về truyền thống phụ nữ đã được đề cập đến dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau như: Một số bài đăng trên các tạp chí: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Khoa học về phụ nữ. Một số tài liệu viết về truyền thống phụ nữ của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam biên soạn và truyền thống phụ nữ của một số tỉnh như: Truyền thống của phụ nữ tỉnh Kiên Giang qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ... Một số sách như: "Phụ nữ miền Nam" của Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ biên soạn; "Mười năm tiến bộ của phụ nữ Việt Nam" (1985-1995) của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ biên soạn (Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1997); "Phát huy tiềm năng kinh doanh của phụ nữ Việt Nam" do GS Lê Thi chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); "Vấn đề phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp" (Luận án PTS của Đặng Thị Linh, 1996). Tuy nhiên, vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay cần có những công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống hơn nữa. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài a) Mục đích của đề tài Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ (qua thực tế Kiên Giang), đề xuất một số giải pháp có tính định hướng nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống ở người phụ nữ Kiên Giang hiện nay. b) Nhiệm vụ của đề tài Để thực hiện mục đích trên luận văn phải thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm rõ các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam và tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu của việc phát huy chúng trong tình hình hiện nay. - Phân tích thực trạng của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống ở phụ nữ Kiên Giang; phân tích những nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó rút ra những vấn đề cần giải quyết để thực hiện kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống ở phụ nữ. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống ở phụ nữ Kiên Giang. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài a) Đối tượng - Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ trong đề tài này muốn đề cập đến mặt tích cực. - Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ trong luận văn này được hiểu là giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nhưng được biểu hiện đặc thù ở phụ nữ, do đó nó trở thành truyền thống của phụ nữ. b) Phạm vi Đề tài này nghiên cứu chủ yếu là thực tế Kiên Giang, đồng thời có nghiên cứu tài liệu của những công trình nghiên cứu khác. 5. Đóng góp của đề tài - Khái quát nêu lên những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam cần được kế thừa và phát huy. - Đề xuất những và giải pháp có tính định hướng để kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong việc xây dựng người phụ nữ mới ở Kiên Giang ngày nay. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, Nhà nước về con người, đạo đức nhất là về những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ cùng việc kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ là cơ sở lý luận trực tiếp của luận văn này. - Luận văn sử dụng những phương pháp: lôgíc và lịch sử, trừu trượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp; trong đó những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về kế thừa, phát huy đạo đức là tư tưởng quán xuyến toàn bộ luận văn này. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp điều tra xã hội học, những số liệu của Đảng và Nhà nước đã được công bố. 7. Ý nghĩa của luận văn - Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cấp ủy đảng, chính quyền địa phương của tỉnh Kiên Giang trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát huy đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ địa phương. - Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập về đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 4 tiết. Chương 1 NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM VÀ YÊU CẦU KẾ THỪA, PHÁT HUY CHÚNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM 1.1.1. Truyền thống đạo đức dân tộc Trong truyền thống của dân tộc có những truyền thống tốt và những truyền thống không tốt. Những truyền thống tốt phù hợp với sự phát triển của lịch sử dân tộc được gọi là những giá trị truyền thống. Trong đó những giá trị đạo đức truyền thống (GTĐĐTT) đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Giá trị có thể được hiểu là: "Những thành tựu của con người góp vào sự phát triển đi lên của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người xã hội. Giá trị vì thế được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm qua thực tiễn" [25, 16]. Giá trị đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cái con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở đánh giá thái độ, hành vi đúng, sai, nên có và không nên có của con người. Giá trị là cơ sở của các chuẩn mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người. Cách thức và hành động xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị - Người ta dựa vào giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp nhất. Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến được coi như phương tiện cơ bản để tạo nên sự liên kết, hợp tác mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng. Bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng được tổ chức trên cơ sở những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định. Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau người ta thường phân loại giá trị theo cách khác nhau. Ở cấp độ chung nhất, người ta phân biệt: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần được chia thành các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức (GTĐĐ), giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị. Trong đó GTĐĐ gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Có thể nói: "Giá trị đạo đức là những thái độ và hành vi được con người lựa chọn, được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương. GTĐĐ vì thế có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội" [25, 51]. Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình do lịch sử để lại. Truyền thống là điều kiện để duy trì và phát triển cuộc sống. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử của mỗi dân tộc. Từng dân tộc khác nhau có truyền thống khác nhau, cùng một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải khác nhau. Nói đến GTĐĐTT của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo tồn cho đến thời điểm hiện đại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. GTĐĐTT là bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các GTĐĐ chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi của nó. Khi bàn về giá trị truyền thống giáo sư Trần Văn Giàu định nghĩa: "Giá trị truyền thống của một dân tộc là những nguyên lý đạo đức lớn (người trích nhấn mạnh) mà con người trong nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái để nhận định nên chăng nhằm xây dựng độc lập, tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Cũng là những nguyên lý đạo đức sâu xa của mỗi người trong nước khiến họ tự nhiên phản ứng đúng với lẽ phải; đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc khi phải đụng chạm đến một sự cố nào đấy" [14, 61]. Và ông cho rằng, GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa [14, 108]. Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng: Trong những truyền thống quý báu của dân tộc, nổi bật nhất là truyền thống đạo đức (Người trích nhấn mạnh) và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [14, 74-86]. Theo Giáo sư Nguyễn Hồng Phong thì tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của GTĐĐTT bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan [62]. Kết quả nghiên cứu của chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước: con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội (KX. 07) cũng đã khẳng định: cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người [58, 32-34]. Những GTĐĐ tinh thần truyền thống dân tộc được nói đến khá nhiều trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về: "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay" ghi rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động" [57, 19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống" [92, 56]. Qua các tư liệu nêu trên có thể rút ra một số nhận xét: - Trong hệ thống giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, GTĐĐ chiếm vị trí ưu trội so với các giá trị truyền thống dân tộc ta nói chung. Dù có những kết luận khác nhau nhưng trong các GTĐĐTT, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là giá trị cốt lõi, giá định hướng các giá trị khác. - Một số phẩm chất đạo đức phổ biến của con người Việt Nam như: đức tính cần cù, thông minh sáng tạo, lòng nhân ái, tinh thần lạc quan, ý thức cộng đồng sâu sắc... đã được đề cập và coi đó là những GTĐĐTT quý báu của dân tộc ta. Dựa vào cách tiếp cận giá trị, GTĐĐ và quan điểm của Đảng ta cũng như các nhà khoa học có thể khẳng định các GTĐĐTT cơ bản của dân tộc ta bao gồm: . Chủ nghĩa yêu nước. . Lòng nhân ái. . Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng sâu sắc. . Cần cù và tiết kiệm. . Tính khiêm tốn, trung thực, giản dị, lạc quan, thủy chung. Trong những giá trị truyền thống ấy, chủ nghĩa yêu nước là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống GTĐĐ của dân tộc ta" [25, 74]. Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xưa đến nay. Truyền thống yêu nước được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc và thể hiện nổi bật trong đấu tranh giữ nước chống giặc ngoại xâm. Chính lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước" [46, 171]. Chủ nghĩa yêu nước là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại". Hình thành sớm, được thử thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, được bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại, chủ nghĩa yêu nước là một trong những giá trị cao quý bền vững nhất của dân tộc ta. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với lòng thương yêu và quý trọng con người, nhất là người lao động. Lòng thương người của ông cha ta có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt công xã, nông thôn, chế độ ruộng công, làng cùng họ từ đời cộng đồng nguyên thủy và được củng cố, phát triển qua quá trình chung lưng khai phá giang sơn, giữ gìn đất nước. Lòng thương người là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta. Nó gắn liền với tinh thần chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm cứu dân, cứu nước, chống lại mọi bất công, chà đạp lên cuộc sống con người. Nó thấm nhuần tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa người và người trong sản xuất, chiến đấu, trong sinh hoạt thường ngày và lòng yêu chuộng hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, lạc quan tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đúng như Đại hội lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, "thương nước - thương nhà, thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta" [89]. Truyền thống thương người của dân tộc Việt Nam được kết tinh cao đẹp trong con người, cuộc đời và đạo đức Hồ Chí Minh. Người là biểu tượng sáng chói về lòng nhân ái cho dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới noi theo. Vì thương nước, thương dân, thương mình mà Bác đi tìm đường cứu nước, trải qua bao gian truân thử thách, vào tù ra tội cũng vì yêu thương con người. Bác nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [44, 161]. Từ ngày có Đảng đến nay, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lòng yêu nước, thương người là cơ sở sâu xa và bền vững của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết là một xu thế chủ đạo hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nhờ đoàn kết cha ông ta tạo nên sức mạnh của cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa là nhân vừa là quả của nhau, kết thành một khối thống nhất bền vững, nó cũng là một trong những chuẩn mực đạo lý của người Việt Nam. Ý thức cộng đồng, tinh thần dân tộc của nhân dân ta là một điểm tựa tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta. Bác Hồ đã khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" [47, 350]. Trước lúc đi xa Người còn khẳng định: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta" và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên"... cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [49, 510]. Cần cù và tiết kiệm là một GTĐĐTT có từ bao đời của nhân dân ta. Nó là một nhân tố cơ bản vừa là điều kiện đảm bảo nhu cầu sống của con người, vừa là sự thể hiện ý thức trách nhiệm của người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của mình, tất cả những thành quả vật chất và tinh thần mà cha ông ta để lại cho đến ngày nay đều gắn liền với truyền thống cần kiệm đó. Ngoài những giá trị đã nêu trên còn những đức tính phổ biến hợp thành hệ thống GTĐĐ dân tộc: khiêm tốn, giản dị, trung thực, lạc quan và chung thủy. Người Việt Nam khiêm tốn nhưng không hạ thấp mình; giản dị nên ghét thói xa hoa, cầu kỳ; trung thực nên ghét người "đâm bị thóc, thọc bị gạo", ăn nói hai lời; lạc quan nên không chùn bước trước mọi khó khăn thử thách của lịch sử; thủy chung nên ghét kẻ "lá mặt, lá trái", "xa mặt cách lòng". Khiêm tốn, giản dị, trung thực, lạc quan và thủy chung là những phẩm chất đạo đức cần phải có, là một trong những GTĐĐ của dân tộc và con người Việt Nam, một trong những định hướng giá trị thuộc về lối sống nếu ai làm trái sẽ bị xã hội lên án và phê phán. Thật vậy, Bác Hồ của chúng ta đã dẫn lời của Dơ pu Puốc vin trong "Đây công lý" của thực dân Pháp ở Đông Dương như sau: "Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, thờ kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, thương yêu giống nòi, tôn trọng lẽ phải, ghét xa hoa, không ham tiền tài, khinh vũ lực, không sợ gian khổ hy sinh... đó là đặc điểm về bản tính của người Việt Nam được hình thành từ bao thế hệ, những thế hệ luôn cố gắng thực hiện đạo đức ấy một cách thành kính. Người Việt Nam bình thường mà ta gặp ở bất kỳ ở đâu cũng đều như vậy cả" [29, 265]. 1.1.2. Những nhân tố quy định đặc điểm đạo đức của người phụ nữ Việt Nam Đạo đức phụ nữ Việt Nam không tách rời những GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam. Nhưng đạo đức truyền thống của dân tộc được biểu hiện đặc thù ở người phụ nữ; điều đó được cắt nghĩa bởi toàn bộ điều kiện sinh hoạt xã hội của họ. * Vai trò của phụ nữ trong sản xuất Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; trong đó phụ nữ đóng vai trò to lớn. Thuở sơ khai ban đầu, người ta cùng lao động chung: cùng sản xuất, hái lượm; nhưng săn bắt với kỹ thuật nguyên thủy không phù hợp với phụ nữ. Sự phân công lao động theo giới tính phát sinh và phát triển dần trong bày người nguyên thủy. Đó là một cơ sở để xuất hiện và tồn tại chế độ mẫu quyền. Kinh tế hái lượm do những người phụ nữ phụ trách, đảm nhiệm một nguồn thức ăn thường xuyên và quan trọng về số lượng cho các tập đoàn người nguyên thủy. Đồng thời họ còn có vai trò quan trọng trong việc phát sinh nghề đánh cá, nghề chăn nuôi, nghề gốm và nghề nông nguyên thủy. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh Việt Nam là một trong những nơi có nghề trồng lúa nước sớm nhất. Khác với hái lượm, nền nông nghiệp nguyên thủy là một nền kinh tế sản xuất, cung cấp nguồn thức ăn thường xuyên và ổn định cho con người. Dưới con mắt và bàn tay chăm sóc, đảm nhiệm của người phụ nữ nguyên thủy nông nghiệp dần dần phát triển. Và trong khi nâng cao toàn bộ nền kinh tế nguyên thủy, văn hóa nguyên thủy, con người nguyên thủy, nó cũng nâng cao vai trò, địa vị của người phụ nữ lên. Ở thời đại đá mới, cùng với sự xuất hiện và phát triển nông nghiệp, chế độ mẫu quyền đi tới giai đoạn phát triển cực thịnh. Trong thời đại phong kiến vai trò của người phụ nữ Việt Nam càng quan trọng hơn trong nền kinh tế nông nghiệp. Trồng lúa nước là một hoạt động sản xuất bao gồm nhiều lao động liên hoàn, phức tạp, đòi hỏi nhiều nhân công, nhân lực, trong đó có những công việc đòi hỏi sự mềm mại, dẻo dai cần cù, tỉ mỉ đặc biệt. Thể chất và thiên tính của người phụ nữ có thể đáp ứng với những khâu lao động nông nghiệp trồng lúa đó. Những hoạt động sản xuất và trồng trọt, từ việc vỡ đất đến việc đặt cây, gieo, tỉa, chăm sóc và thu hoạch cũng có thể thích hợp với những bản năng về mặt lao động của phụ nữ. Thêm vào đó, đất nước luôn luôn bị giặc ngoại xâm, phần lớn đàn ông đi đánh giặc bỏ ruộng đất, cày bừa lại cho phụ nữ. Sức lao động tập trung vào các công trình quốc phòng và dân dụng, hoặc vào các công trình xa xỉ của bọn thống trị liên tục trong bốn nghìn năm cũ, đều khiến cho xã hội nông thôn mất đi một nguồn nhân công nông nghiệp lớn của nam giới. Ngoài ra, cũng phải kể đến hiện tượng, từ thế kỷ XI trở đi, xuất hiện ngày càng đông đảo những học trò, nho sĩ, quan lại nói chung có tư tưởng coi khinh việc chân lấm tay bùn. Trong hoàn cảnh rất đông những người thân thuộc trở nên xa rời sản xuất như thế, tất nhiên, người phụ nữ phải đảm đang gánh vác công việc sản xuất. Như thế là trong điều kiện của lịch sử hàng nghìn năm cũ, ngoài nhu cầu lớn về nhân công mà bản thân việc trồng lúa nước yêu cầu, còn có những nguyên nhân xã hội đòi hỏi người phụ nữ phải tích cực tham gia vào những khâu quan trọng, chủ yếu của nền sản xuất nông nghiệp. Sẵn có truyền thống cần cù, đảm đang sáng tạo trong sản xuất thời nguyên thủy - một truyền thống không đứt đoạn, do đặc điểm kéo dài thời gian quá độ từ chế độ mẫu quyền sang xã hội phụ quyền ở buổi đầu lịch sử có giai cấp - người phụ nữ Việt Nam trong thời đại các xã hội có giai cấp cũ đã kế thừa và phát huy truyền thống của mình, để liên tục đảm đang việc sản xuất nông nghiệp trong những điều kiện và hoàn cảnh mới, trên những nhu cầu và đòi hỏi mới của lịch sử. Sự tham gia tích cực của người phụ nữ vào nền kinh tế nông nghiệp cũng đồng thời biểu lộ và chứng minh những phẩm chất tinh thần của họ. Sẵn sàng gánh vác công việc chung, sẵn sàng vì mọi người mà làm việc, đây là điểm nhận thấy đầu tiên trong đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, vì họ tham gia tích cực vào lao động sản xuất trong các xã hội cũ. Chính vì tinh thần làm chủ và ý thức cộng đồng như thế, mà các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa đã biểu lộ một tinh thần dũng cảm tuyệt vời trong khi đảm nhiệm những công việc lao động sản xuất của mình. Dũng cảm trong ý thức quyết vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp, hoàn cảnh chật hẹp, mà lễ giáo xã hội có giai cấp trước đây đã quy định cho chức phận chủ yếu của họ. Dũng cảm ở chỗ năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác, đương đầu với nắng mưa, sương giá, nóng nực, bùn lầy, biến khó khăn vất vả thành niềm vui. Bên cạnh tinh thần dũng cảm đó là tinh thần cần cù nhẫn nại được hình thành từ trong những điều kiện sản xuất khó nhọc. Chính nhờ tinh thần cần cù nhẫn nại đó mà người phụ nữ có vai trò quan trọng đặc biệt trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Như vậy, qua việc thực hiện vai trò quan trọng của người phụ nữ Việt Nam trong nền sản xuất nông nghiệp theo chiều dài lịch sử, hình thành ở họ những đức tính truyền thống quý báu: Dũng cảm, đảm đang, sáng tạo và cần cù nhẫn nại. * Vai trò của phụ nữ trong việc gánh vác công việc gia đình. Ngoài vai trò quan trọng của phụ nữ trong sản xuất, phụ nữ còn có vai trò thiêng liêng không thể thiếu được đó là vai trò gánh vác công việc gia đình. Bất luận trước khi có sự phân công giữa nam giới và nữ giới về mặt kinh tế, trước khi có sự phân công lao động theo giới tính thì đã có sự phân công giữa nam giới và nữ giới về mặt sinh con đẻ cái, điều mà Mác và Ăngghen đã gọi là "sự phân công đầu tiên". "Sự phân công đầu tiên là sự phân công giữa đàn ông và đàn bà trong việc sinh con đẻ cái" [38, 94]. Chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái là chức năng mà người phụ nữ đã đảm nhiệm trong những điều kiện sinh tồn hết sức gay go, căng thẳng của người nguyên thủy. Họ vẫn phải thường xuyên lao động sản xuất, đảm nhiệm chức năng kinh tế ở những lĩnh vực quan trọng nhất, đồng thời gánh vác cả chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Người phụ nữ nguyên thủy đã làm nhiệm vụ sinh đẻ và nuôi dạy con cái, trong điều kiện của xã hội nguyên thủy, với một tinh thần tận tụy khôn cùng và lòng yêu thương vô hạn, chăm sóc trẻ nhỏ là nhiệm vụ của tập thể phụ nữ trong xã hội nguyên thủy. Cùng với việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái, phụ nữ nguyên thủy cũng cáng đáng luôn cả những công việc trong nhà. Trước hết là sửa sang nơi ăn chốn ở, chế biến, phân chia và dự trữ thức ăn. Công việc trong nhà mà người phụ nữ nguyên thủy phải chăm lo, còn gồm nhiều hình thức lao động sản xuất, gộp lại thành một ngành kinh tế riêng, gọi là kinh tế gia đình. Đó là các nghề đan lát tre mây, chế biến vỏ cây và đồ da, khâu vá may mặc, chế tạo đồ gốm và về sau này kéo sợi, dệt vải... Những nghề sản xuất trong nhà này có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nguyên thủy. Nó cung cấp những nhu cầu vật dụng quan trọng cho xã hội nguyên thủy, và làm cho đời sống con người nguyên thủy thêm phong phú, nền văn minh đầu tiên của loài người dần dần tiến bộ. Chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái cùng những công việc trong nhà của người phụ nữ nguyên thủy rõ ràng là mang tính chất xã hội. Nó là một trong những cơ sở quan trọng để nâng cao vai trò và địa vị của người phụ nữ trong xã hội mẫu quyền. Trong xã hội phong kiến, các gia đình Việt Nam xưa, thời gian từ tấm bé đến khi trưởng thành người phụ nữ phải thực hiện những nghĩa vụ và trách nhiệm của con người. Ở đây có những nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cha mẹ - và họ hàng thân thuộc. Ngay từ thời gian rất sớm, đứa con gái đã được giao phó những công việc theo hướng chức nghiệp chủ yếu của cả một đời người phụ nữ "gái thì giữ việc trong nhà": lên năm, lên bảy - quét nhà, rửa bát; lên bảy lên tám - đun nước, trông em; lên chín lên mười - nấu cơm, thổi cám... Lớn lên chút nữa, các cô gái nhỏ bắt đầu được giao phó những công việc quan trọng hơn. Ngoài việc tập tành quán xuyến tất cả mọi việc trong nhà, còn phải tham gia sản xuất: hoặc làm ruộng, hoặc làm một nghề thủ công, chủ yếu là nghề dệt, hoặc là buôn bán nhỏ. Đây là thời kỳ cô gái dốc sức "làm giàu cho cha" và sửa soạn "làm dâu nhà người". Rời nhà cha mẹ để về ở nhà chồng, thời gian này người phụ nữ phải vừa tiếp tục làm nghĩa vụ và trách nhiệm của người con trong gia đình mới, vừa nhận thêm nghĩa vụ và trách nhiệm của người vợ. Vì vậy, người phụ nữ phải có rất nhiều nghị lực và khả năng mới làm tròn được nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề. Người phụ nữ phải quán xuyến toàn bộ công việc trong nhà của gia đình chồng, vừa tham gia sản xuất vừa phải kín đáo chăm sóc và phục vụ người chồng của mình. Khi đã sinh con đẻ cái ra "ở riêng", người phụ nữ có một gia đình của mình. Từ đây, cho đến lúc về già, nhắm mắt, người phụ nữ chủ yếu làm nghĩa vụ và trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Vai trò của người phụ nữ bấy giờ chính thức là vai trò của một người "nội tướng". Ngoài việc cùng với chồng lao động sản xuất để bảo đảm kinh kế cho gia đình, người phụ nữ còn phải quán xuyến hầu hết công việc trong nhà mình: cơm nước, chợ búa, tiền nong, củi lửa, dầu đèn, quần áo, gà lợn, vườn tược... Là mẹ của một đàn con, việc sinh đẻ, nuôi dạy, gây dựng cho con cái tới khi trưởng thành là việc mà người phụ nữ xưa độc lực đảm nhiệm. Nên dân gian có câu "con hư tại mẹ cháu hư tại bà". Là một người vợ, gắn bó chữ tình với chữ nghĩa, người phụ nữ xưa, ngoài nghĩa vụ đối với bản thân người chồng, còn gánh vác luôn cả phần nghĩa vụ của người chồng đối với gia đình và xã hội. "Lấy gì đóng góp cho chồng Lấy gì giỗ chạp thổ công, ông bà Lấy gì nuôi mẹ nuôi cha Lấy gì thu xếp việc nhà chàng ơi Lấy gì cho ngựa cho voi Lấy gì đóng góp như đôi láng giềng". Đây là nỗi lo toan quán xuyến trong suốt đời làm vợ của người phụ nữ xưa. Nghĩa vụ và trách nhiệm làm con, làm vợ, làm mẹ qua suốt một đời người phụ nữ trong gia đình xưa, thật nặng nề, người phụ nữ giữ một vai trò rõ ràng là trung tâm, là linh hồn chủ đạo của các gia đình. Nguyên nhân đưa đến thực tế đó là do những mầm mống tốt đẹp gây dựng được từ thuở nguyên sơ, khi những người phụ nữ đảm đang quán xuyến những "việc trong nhà" ở xã hội thị tộc, vẫn tiếp nối sang thời đại các xã hội có giai cấp. Mặt khác, ở các xã hội này, như đã thấy, sự vắng nhà của người đàn ông đi chiến đấu, đi làm công việc xã hội v.v... là hiện tượng thường xuyên. Trong hoàn cảnh đặc biệt nhưng lại phổ biến của lịch sử ấy, nếu không muốn quỵ xuống vì yếu đuối, bất lực, thì phải mạnh mẽ vươn lên. Chính vì đã chọn lấy con đường thứ hai mà các thế hệ phụ nữ xưa, sẵn cái nền móng thuận lợi từ thuở ban đầu, đã đứng ra gánh vác lấy gia đình của mình. Trong khi làm nhiệm vụ đó, họ đã kế thừa và làm nảy sinh, phát triển những đức tính truyền thống tốt đẹp. Đức tính quí báu đầu tiên, quán xuyến trong suốt các thế kỷ gánh vác gia đình của người phụ nữ xưa là tinh thần đảm đang tuyệt với của họ. Đảm đang trước hết bởi khối lượng công việc rất lớn và vô cùng phức tạp mà người phụ nữ xưa phải tự lo toan, định liệu. Đảm đang còn bởi cái khối lượng "công việc trong nhà" bề bộn phức tạp đó lại đã được người phụ nữ Việt Nam xưa gánh vác trong hoàn cảnh rất khó khăn. Trong tình hình nghèo khó chung của các xã hội có giai cấp cũ, "cái khó bó cái khôn", người phụ nữ đã phải rất tích cực "giật gấu vá vai" để đảm nhiệm chức năng "nội tướng" của mình. Có nguồn gốc từ một nền kinh tế hái lượm xa xưa, sự "tần tảo" rất nhanh chóng trở thành quen thuộc đối với người phụ nữ Việt Nam. Tần tảo là đức tính đi kèm với tinh thần đảm đang của các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa, chịu thương chịu khó, sớm tối lam làm, suốt đời cần kiệm để gánh vác gia đình. Để có thể đảm đang một khối lượng công việc lớn và phức tạp, người phụ nữ xưa còn rất khéo léo và thông minh, có đầu óc thực tiễn, biết tính toán căn cơ, khéo chân khéo tay. Trong suốt các thế kỷ của các xã hội có giai cấp ngày xưa, các thế hệ phụ nữ Việt Nam còn biểu lộ rất rõ đức tính trung hậu cao quý. Người phụ nữ Việt Nam là những người vốn sẵn có những tình cảm trong sáng và thắm thiết: Đó là lòng trung thành trọn vẹn, thủy chung như nhất. "Yêu anh cốt rũ xương mòn Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh Đặc biệt là tinh thần quên mình vì những người thân yêu. "Có con phải khổ vì con Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng". Trong khi nêu tấm gương sáng về lòng vị tha, tinh thần hy sinh như thế người phụ nữ Việt Nam xưa cũng biểu lộ những đức tính khiêm tốn, giản dị. Người phụ nữ có mặt ở khắp mọi nơi, mọi việc trong gia đình, nhưng về mặt quyền lợi lại dường như vắng mặt, không tồn tại trong gia đình, không bao giờ đòi hỏi cho mình điều gì. Tính khiêm nhường, lòng vị tha, đức hy sinh và lòng yêu thương rộng lớn của người phụ nữ xưa có một vị trí rất đặc biệt giữa chồng con họ. Người chồng gọi vợ là "nội tướng". Người ngoài khẳng định "lệnh ông không bằng cồng bà". Và dân tộc thì trong khi xây dựng hình tượng anh hùng đầu tiên của mình về Thánh Gióng, cũng kèm ngay hình tượng của bà mẹ Gióng; bà mẹ biết bao tháng ngày mang nặng đẻ đau, chịu đựng biết bao khổ nhọc, cho đến lúc tự tay mình mở đường cho con đi cứu nước. Chịu đựng biết bao vất vả, khó nhọc, gian truân, để thực hiện vai trò, nhiệm vụ thiêng liêng của người phụ nữ trong gia đình qua các thời đại, đã hình thành ở người phụ nữ Việt Nam xưa những đức tính truyền thống cao đẹp: Trung hậu, đảm đang, tần tảo, khiêm tốn, giản dị, giàu lòng vị tha, đức hy sinh. * Vai trò đảm nhiệm công việc xã hội: Ngoài vai trò lao động sản xuất, gánh vác công việc gia đình, phụ nữ Việt Nam xưa còn có vai trò đảm nhiệm công việc xã hội. Địa vị xã hội của người phụ nữ ở thời đại chế độ mẫu quyền thể hiện ở địa vị của họ trong các gia tộc và thị tộc mẫu hệ - tế bào cơ bản và tổ chức phổ biến của xã hội mẫu quyền. Một người đàn bà cao tuổi nhất đứng đầu một gia tộc mẫu hệ. Người nữ tộc trưởng này điều khiển mọi việc sản xuất trong gia tộc. Và thường cũng là người giữ ngọn lửa bếp chính và trông nom việc chuẩn bị thức ăn chung cho cả gia tộc, tập trung sản phẩm lao động của mọi người trong gia tộc rồi phân chia cho họ theo nguyên tắc tập thể. Người nữ tộc trưởng còn đứng ra phân xử hoặc hòa giải các vấn đề trong gia tộc, đứng đầu các lễ nghi tôn giáo, tổ chức các hội vui... Truyền thống đảm nhiệm công việc xã hội của phụ nữ ở chế độ mẫu quyền, qua nhiều thời đại vẫn được phát huy, nhất là trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Cho nên, khi đất nước bị nạn ngoại xâm đe dọa, khi đất nước đứng lên chống bọn thống trị giành lấy quyền sống, người phụ nữ xưa đã dứt khoát biểu thị thái độ của mình: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Trong thời gian đô hộ nước ta, giặc Minh cũng đã mổ bụng đàn bà có thai, giết chết cả mẹ lẫn con, cắt tai đem nộp chủ tướng (năm 1409). Tướng giặc Trương Phụ đã bắt phụ nữ Việt Nam đưa về nước (năm 1414). Đấy là những tội ác "trời không dung đất không tha, thần và người đều căm giận" như lời dạy của Nguyễn Trãi đã viết ngày xưa. Trước tai họa trực tiếp đó, nếu không muốn cho giặc tiếp tục hoành hành, người phụ nữ xưa chỉ có con đường quyết liệt đấu tranh. Truyền thống đánh giặc của phụ nữ Việt Nam được khơi dậy từ rất sớm bởi những phụ nữ kiệt xuất hai Bà Trưng, Bà Triệu và sau này vẫn được phụ nữ trong hàng ngũ quý tộc cùng những phụ nữ bình thường từ thế hệ này qua thế hệ khác tiếp tục góp phần kế thừa làm cho truyền thống đánh giặc giữ nước quý báu đó được phát triển mạnh mẽ và liên tục. Trong truyền thống đánh giặc của người phụ nữ xưa, khí phách anh hùng cũng được biểu lộ ở tinh thần dũng cảm và ý chí bất khuất rất kiên cường trong chiến đấu. Những người vẫn bị coi là "chân yếu tay mềm" trang bị bằng những vũ khí tinh thần không gì sánh nổi là lòng yêu nước, chí anh hùng, đã trở nên mạnh mẽ để lập nên những kỳ tích làm rạng rỡ non sông. Qua hàng nghìn năm lịch sử, vai trò của phụ nữ trong sản xuất, trong gia đình và xã hội đã hun đúc nên những đức tính truyền thống cao đẹp: tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trung hậu đảm đang, anh hùng bất khuất kiên cường, tần tảo cần cù thông minh sáng tạo, nhẫn nại, khiêm tốn giản dị, giàu lòng vị tha, đức hy sinh... Những truyền thống quý báu đó là sức mạnh, là điểm tựa tinh thần để phụ nữ hiện đại vươn lên đáp ứng yêu cầu của lịch sử dân tộc. 1.1.3. Những giá trị đạo đức cơ bản của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã tạo nên biết bao truyền thống tốt đẹp, trong đó những GTĐĐ là cơ bản. Trong thư gửi phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày phụ nữ quốc tế, Bác Hồ đã viết: "Phụ nữ Việt Nam sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước" [84, 39]. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (họp phiên họp mở rộng), cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: "Lịch sử dân tộc ta từ xưa với tấm gương chói lọi của Bà Trưng, Bà Triệu, trải qua các chặng đường, luôn luôn sáng ngời hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, người sản xuất, người chiến sĩ, người vợ và người mẹ, biết bao dũng cảm và dịu hiền, biết bao vị tha và tần tảo" [10]. Tại Đại hội đại biểu phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII năm 1997, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: "Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước cũng như trong cuộc sống đời thường. Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tính nhân ái, đức hy sinh, trí thông minh, tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam. Tám chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu và nhân dân trao tặng phụ nữ nước ta chính là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó" [92, 90-91]. Dựa vào cách tiếp cận xác định GTĐĐTT ở phần đầu và cách thể hiện của các nhà lãnh đạo về đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam có thể khẳng định các GTĐĐTT cơ bản của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử lâu dài của dân tộc là: - Yêu nước - Anh hùng, bất khuất - Trung hậu, đảm đang. Trong đó yêu nước là giá trị cao nhất, phổ biến nhất trong các GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Truyền thống yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến đương đại. Truyền thống yêu nước được hình thành rất sớm từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó của phụ nữ Việt Nam càng được phát huy mạnh mẽ trong quá trình cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Yêu nước thiết tha và sẵn sàng hy sinh vì nước, các thế hệ phụ nữ Việt Nam đã đem tinh thần truyền thống ấy phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. "Phụ nữ Việt Nam đã có mặt ngay từ đầu dưới ngọn cờ đấu tranh của Đảng đã sát cánh cùng nam giới chống đế quốc phong kiến, cung cấp cho phong trào nhiều chiến sĩ cách mạng ưu tú, ghi vào lịch sử đấu tranh của nhân dân ta tấm gương chói lọi của biết bao anh hùng liệt sĩ và trải qua bao chặng đường gian khổ, đã góp phần vẻ vang vào thành công của Cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" [9]. Truyền thống nói chung, truyền thống đạo đức nói riêng của phụ nữ Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết bằng tám chữ vàng: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". * "Anh hùng, bất khuất" là những giá trị đạo đức cao cả của phụ nữ Việt Nam. Vì yêu nước nên ngay buổi đầu giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã đứng lên chống giặc ngoại xâm, biểu lộ một tinh thần dũng cảm và ý chí bất khuất rất kiên cường trong chiến đấu, như Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân... Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ cả hai miền Nam, Bắc siết chặt hàng ngũ thành một khối vững chắc, kề vai sát cánh trong nỗi thông cảm sâu sắc của những người ở tiền tuyến lớn và hậu phương lớn cùng chiến trường đánh Mỹ. Ở tiền tuyến lớn, phụ nữ miền Nam đã nêu cao khí phách anh hùng bất khuất của mình qua mọi hình thức đấu tranh. Đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, binh vận... lĩnh vực nào chị em cũng tỏ rõ tinh thần anh dũng, ý chí quật cường của người phụ nữ Việt Nam làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng từ xa xưa của giới mình. Với những thử thách hết sức gay go và nặng nề, tiếp thu truyền thống của phụ nữ nghìn xưa của dân tộc, phụ nữ miền Nam còn rèn đúc thêm cho mình một bản lĩnh cao đẹp trong đấu tranh. Dám hy sinh, không chùn bước ngay trước cả cái chết, trong đấu tranh họ là những người chẳng những rất kiên cường mà còn hết sức bền bỉ dẻo dai. Sự đấu tranh kiên cường đó đã tạo nên nguồn sức mạnh vô song của lực lượng nữ cũng như của cách mạng trong tất cả các hình thái đấu tranh với quân thù. Những người phụ nữ như chị Bảy Trờ Bến Tre là người tham gia đấu tranh trực diện với kẻ thù đến 300 lần. Nhiều lần chị bị kẻ thù đánh đập tàn nhẫn, có lần gần chết. Nhưng chị vẫn khăng khăng cương quyết: "Cứ khiêng tôi đi tố cáo nó. Nếu tôi chết cũng đừng chôn tôi. Bà con có thương tôi thì cứ khiêng xác tôi đi đấu tranh đến cùng, dù rã thây cũng được!". Hay chị Nguyễn Thị Hạnh ở Long An, chỉ trong mấy năm không kể những thời gian vào tù ra tội, ngoài cuộc đấu tranh chính trị và binh vận, chị đã đánh địch đến hơn 400 trận. Tạ Thị Kiều tay không lăn vào đồn giặc vật lộn với chúng, cướp súng và cướp đồn. Kan Lịch khi tấn công thì đi trước, rút lui thì đi sau, chỉ nổ súng khi còn cách giặc 5 mét. Còn biết bao tấm gương anh dũng, bất khuất đã tô đậm thêm cho chí khí anh hùng của phụ nữ miền Nam bằng tinh thần kiên quyết và triệt để cách mạng. Tinh thần ấy xuất phát từ niềm tin vững vàng ở chính nghĩa và sức mạnh của mình, lòng tin ở sự tất thắng. "Nụ cười Võ Thị Thắng", "Đấy chính là Việt Nam đang cười", "là cái nhìn của nữ thần chiến thắng" [23]. Xuất phát từ tinh thần yêu nước, phụ nữ Việt Nam đã chiến đấu anh hùng, bất khuất để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Đấy là những GTĐĐ cao đẹp mà các thế hệ phụ nữ tiếp theo phải kế thừa trong công cuộc xây dựng và bảo đảm đất nước hiện nay. * "Trung hậu, đảm đang" là những phẩm hạnh tuyệt vời trong đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ xưa đảm đang trong sản xuất nông nghiệp, nuôi sống xã hội; đảm đang gánh vác công việc gia đình cho chồng, con đi chiến đấu... Bên cạnh đó các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa còn biểu lộ rất rõ đức tính trung hậu cao quý. Yêu nước, trung kiên với nước: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"; yêu chồng, chung thủy sắt son với chồng: "Chồng em áo rách em thương. Chồng người áo gấm xông hương mặc người". Tinh thần đó của phụ nữ Việt Nam xưa được nâng cao trong phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong công cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất đất nước, phụ nữ hai miền Nam, Bắc thể hiện rất rõ truyền thống nói trên. Phụ nữ miền Bắc đã vượt qua khó khăn gian khổ đảm đang trên mặt trận sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực khác, nhằm phục hồi nền kinh tế và phát triển văn hóa, góp phần hoàn thành thắng lợi việc hàn gắn vết thương chiến tranh, tạo cơ sở để đưa miền Bắc tiến lên CNXH. Ngoài việc đảm đang trong sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, chị em phụ nữ miền Bắc còn đảm đương công việc quản lý xã hội. Nhiều phụ nữ tiên tiến đã đảm nhiệm những cương vị phụ trách các ngành các cấp từ cơ sở đến trung ương, củng cố và tăng cường hiệu quả và tích cực ưu việt của chính quyền và bộ máy quản lý kinh tế của chế độ XHCN. Lúc ấy, phụ nữ miền Nam trong hoàn cảnh khó khăn nhất, vẫn một lòng hướng về cách mạng. Kẻ thù không sao lay chuyển nổi lòng trung thành và niềm tin tưởng vững vàng vào Đảng, vào sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Những người phụ nữ miền Nam đã giữ trọn được bản sắc dân tộc, nền phong hóa, đạo đức cổ truyền của mình và còn phát triển lên một bước rất cao. Có những người vợ trẻ tiễn chồng đi tập kết, đi chiến đấu, rồi gần như cả cuộc đời quên mình, lăn lộn trong sản xuất và chiến đấu, mong ngày chiến thắng gặp lại người yêu... Đấy là những biểu hiện chói ngời của lòng trung hậu tuyệt vời của phụ nữ miền Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chị Út Tịch ở Trà Vinh, vừa đánh giặc vừa nuôi con. Người mẹ đảm đang ấy vừa đánh bốt, phá càn, địch vận, trinh sát, vừa độc lực lo liệu cửa nhà. Từ việc trồng dưa, gói bánh đến mò cua bắt cá, chăm sóc con cái, dạy chúng cách tránh máy bay, đại bác của giặc, giáo dục, chúng thương yêu đùm bọc lấy nhau, và những đứa lớn còn biết cả việc trinh sát, liên lạc cho cách mạng. Quán xuyến gia đình là việc làm của phụ nữ ta, đời này qua đời khác, và đã trở thành truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Nhưng những hành động quán xuyến toàn bộ gia đình trong những hoàn cảnh khó khăn ác liệt như thế của phụ nữ Việt Nam là điều rất đặc biệt. Và còn từ chỗ quán xuyến việc nhà, đến chỗ vươn lên thay thế nam giới gánh vác việc làng, việc nước. "Đội quân tóc dài" là biểu hiện độc đáo vai trò xung kích trong đấu tranh chính trị chống quân thù của phụ nữ miền Nam. Song song với hoạt động đấu tranh chính trị, phụ nữ miền Nam còn đảm nhiệm xuất sắc vai trò quan trọng của mình trong đấu tranh vũ trang giết giặc cứu nước, cứu nhà. Đấy là những biểu hiện tuyệt vời của tinh thần đảm đang đáng quý của người phụ nữ miền Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tinh thần đảm đang của họ trong thời kỳ mới cũng vượt lên với khí thế tấn công liên tục. Khó khăn nhiều khi tưởng như quá sức người, nhưng phụ nữ vẫn là người góp sức san bằng những khó khăn đó. Và nội dung đảm đang của người phụ nữ đã không chỉ đóng khung trong việc quán xuyến việc nhà, việc làng, mà còn mở rộng ra tới những công việc bao quát hơn, phức tạp hơn, đòi hỏi người phụ nữ phải có lòng thương yêu giai cấp, chí căm thù giặc, lòng dũng cảm, tài khéo léo, trí thông minh... Người phụ nữ miền Nam đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu đó. Khi giáp mặt với kẻ thù, trước làn bom mũi đạn, họ đảm nhiệm việc tiếp lương, tải đạn; chuyển tải thương binh về nơi an toàn. Giữa vòng vây của địch, họ lại nhận nuôi chứa, chăm sóc thương binh và mở đường cho thương binh thoát vây về đơn vị an toàn... Ở hậu phương lớn, phụ nữ miền Bắc "đảm đang sản xuất và công tác", "đảm đang gia đình", đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu". Chiến tranh nổ ra, lập tức sức người, sức của phải dồn một phần lớn vào cuộc chiến đấu. Những công việc hậu phương do đó phải đảm bảo thực hiện trong điều kiện hết sức căng thẳng về nhân công, nhân lực. Phụ nữ ở khắp nơi là lực lượng chủ yếu giải quyết tình trạng nhân công, nhân lực căng thẳng đó. Hàng triệu phụ nữ đã đứng ra gánh vác việc sản xuất và công tác, và đã lập nên những kỳ tích với tinh thần đảm đang thay thế nam giới đi chiến đấu. Đây cũng là cách đánh Mỹ, cách biểu hiện tinh thần đánh giặc của họ. Phụ nữ không phải chỉ có đứng ra thay thế nam giới làm tất cả các công việc mà còn tự đảm nhiệm lấy việc quản lý và lãnh đạo của mình. Từ thực tế của phong trào phụ nữ quản lý và lãnh đạo các công việc, chỉ trong vài năm chống Mỹ, cứu nước, đã hình thành một đội ngũ cán bộ phụ nữ rất đông đảo ở các ngành các cấp. Đảm đang công việc gia đình vốn là truyền thống lâu đời của phụ nữ ta. Nhưng trong hoàn cảnh mới người phụ nữ phải chủ động đưa thanh niên trong gia đình ra mặt trận, và vừa đảm nhiệm công việc hậu phương, vừa gánh vác, xây dựng tổ chức gia đình theo yêu cầu mới đó là nét đặc sắc trong việc đảm đang thứ hai: đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con anh em đi chiến đấu. Đã có biết bao người vợ, người yêu tự tay viết đơn xin cho chồng đi nhập ngũ giết giặc. Đảm đang gia đình cho chồng con đi đánh giặc, vừa gánh vác công việc hậu phương, vừa chăm sóc những thành viên nhỏ tuổi trong gia đình, những người phụ nữ đã biểu lộ một tinh thần tự tin, một nghị lực vững vàng, một nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ của mình đối với xã hội. Và từ đó mà tình thương yêu đùm bọc, tinh thần tập thể và đoàn kết, đức tính hy sinh của người phụ nữ được nảy nở mạnh mẽ và phát huy cao độ. Có những người mẹ ở khắp nơi, những người hầu như đã coi toàn bộ cuộc đời mình là cuộc sống của chồng con: "Xưa tiễn chồng đi cứu nước rời rợi tóc xanh Giờ lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc" [37]. Rất nhiều phụ nữ đã bình tĩnh trầm lặng hiến dâng cho tổ quốc những người thân yêu nhất của mình trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Bình tĩnh trầm lặng, họ đã đương đầu với tất cả những khó khăn to lớn nhất, đảm nhận trọn vẹn công việc gia đình, góp phần vào công việc cách mạng của dân tộc. Ở đây những người vợ Việt Nam là những người thủy chung trọn vẹn với chồng. Những người mẹ Việt Nam hy sinh trọn vẹn cho con cái. Những người con gái, con dâu Việt Nam thảo hiền đối với bậc trên và rèn luyện đức tính của người mẹ đối với lớp tuổi dưới, cũng như chờ dịp thể hiện những đức tính của người vợ đối với người yêu, người chồng tương lai của mình... Đấy là những người phụ nữ Việt Nam trung hậu. Ở hậu phương lớn phụ nữ miền Bắc không những đảm đang công việc sản xuất, đảm đang gia đình đưa chồng con đi chiến đấu mà họ còn đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Tham gia vào cuộc chiến đấu bằng vũ khí với quân thù, kế thừa truyền thống sẵn có của giới mình, phụ nữ ở hậu phương lớn có mặt trên mọi mặt trận chiến đấu. Mỗi chiến công của bộ đội, bất cứ về mặt nào cũng đều có công lao đóng góp tích cực của phụ nữ. Họ đã trở thành một đạo quân đông đảo hàng triệu người làm công tác phục vụ chiến đấu. Những người phụ nữ ấy trước hết đã làm nhiệm vụ của những chiến sĩ hậu cần nhân dân, và họ còn là những chiến sĩ phòng không, là những chiến sĩ thông tin liên lạc, là những chiến sĩ giao thông vận tải, là những người động viên cổ động chiến trường và chiến đấu. Phục vụ đắc lực cho công tác phục vụ chiến đấu, chính những người phụ nữ ấy, khi tình huống xảy ra đã trở thành những chiến binh thật sự, những người bằng khẩu súng và lá cờ chỉ huy của mình, tiêu diệt kẻ địch bằng những trận chiến đấu oanh liệt. Đấy cũng còn là những người, bằng đủ tất cả những gì có thể sử dụng làm vũ khí, đã đuổi giặc lái hàng cây số, bắt gọn những đứa "con cưng của không lực và hải lực Huê Kỳ". Đấy chính là tinh thần kiên quyết chiến đấu của những nữ chiến sĩ ở hậu phương lớn. Đã biểu hiện khí phách hiên ngang, sức tiến công dũng mãnh của người phụ nữ ở khắp nơi trên miền Bắc - những người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đã góp phần đập tan những cái gọi là "uy thế" của "không lực và hải lực Huê Kỳ". Tất cả những hành động cách mạng đó nói lên tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể và đồng đội rất cao của những người phụ nữ vốn đã mang truyền thống yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, cùng với lòng thiết tha gắn bó với CNXH. Như thế "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" - những phẩm chất quý báu của phụ nữ Việt Nam đã được phụ nữ hai miền Nam - Bắc kế thừa, phát huy tuyệt vời trong thời kỳ lịch sử mới. Đặc biệt là trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. 20 năm bằng biết bao năm trước cộng lại, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được tinh hoa của truyền thống cũ, đồng thời lại nảy nở hình thành những phẩm chất mới, làm nên cái cốt cách bền vững của mình. Trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay những GTĐĐ đó càng cần được kế thừa và phát huy nâng lên tầm cao mới phù hợp với công cuộc đổi mới góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp, văn minh. 1.2. YÊU CẦU KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY 1.2.1. Tính kế thừa trong sự phát triển đạo đức * Quan điểm mácxít về kế thừa Khái niệm kế thừa xuất phát từ quan niệm vận động: vận động là sự biến đổi nói chung, không phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả của nó. Sự phát triển là sự vận động theo một khuynh hướng nhất định, theo con đường đi lên, đó là khuynh hướng tất yếu của vận động. Đặc tính của phát triển là tiến lên trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn bên trong của chỉnh thể, có kế thừa, có lặp lại cái cũ trên cơ sở cao hơn và có sự xuất hiện cái mới. Phát triển là một nội dung cơ bản của vận động mà ý nghĩa của nó nhằm tạo ra sự đổi mới không ngừng. Phát triển là quá trình bộc lộ sự biến đổi về chất, nhưng không phải là sự tiêu diệt giản đơn cái cũ, mà là làm cho cái mới nảy sinh từ bản thân cái cũ. Vì vậy, phát triển tất yếu đặt ra yêu cầu kế thừa. Kế thừa là nhân tố của phát triển, là vòng khâu của sự phát triển. Kế thừa là vòng khâu tất yếu trong phát triển liên tục qua những đứt đoạn. Trên cơ sở của cái đứt đoạn, của cái phủ định, của sự hoàn thiện với tư cách là ý nghĩa, là mục đích của phát triển mà nảy sinh yêu cầu phải kế thừa để thực hiện tính liên tục của sự phát triển. Kế thừa là quá trình đấu tranh cũ - mới nhằm phát huy cái cũ tích cực trong cái mới và ngăn chặn, lọc bỏ cái cũ lạc hậu. Bản chất của kế thừa là thực hiện sự lọc bỏ, chuyển hóa cái cũ tích cực thành nhân tố của cái mới, là mắt khâu cơ bản trong quá trình biến đổi về chất. Kế thừa là quy luật của sự phát triển, của mối liên hệ tất yếu giữa cái cũ và cái mới, của tính liên tục qua những đứt đoạn. Lý luận kế thừa của chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp ta hiểu rõ hơn thực chất của sự phát triển. Mặt khác, nó còn giúp ta hiểu một cách cặn kẽ các đối tượng đặc biệt tồn tại trong giai đoạn chuyển hóa, giai đoạn trung gian, thời kỳ quá độ trong lịch sử phát triển của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thể hiện cốt cách Việt Nam một cách tốt nhất, nhưng cũng là người tiếp thu nền văn hóa nhân loại một cách tốt nhất. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là bộ phận quan trọng trong di sản lý luận của Người để lại cho Đảng và nhân dân ta. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nguyên tắc kế thừa được Người vận dụng một cách nhuần nhuyễn và trở thành nguyên tắc có tính chất chỉ đạo trong việc tiếp thu các GTĐĐTT dân tộc và nhân loại để xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng như Người thường gọi. Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Người, chúng ta rút ra được những chỉ dẫn có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong việc kế thừa và phát huy các GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Hồ Chí Minh đánh giá cao và rất chú trọng khai thác những nhân tố tích cực trong văn hóa truyền thống dân tộc. Người cho rằng văn hóa dân tộc là cơ sở để tiếp thu văn hóa thế giới. Song Người cũng thấy rõ tác hại của những truyền thống lạc hậu: "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài [45, 287]. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ kinh nghiệm cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã xác định thái độ đúng đắn của người cộng sản đối với truyền thống của dân tộc. Người khẳng định: "đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng là mới. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay thì ta phải làm" [45, 94-95]. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm kế thừa biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách xuất sắc trong quá trình kế thừa, phát triển các GTĐĐTT của dân tộc, có phê phán, chọn lọc. * Đặc thù của kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Việc làm rõ tính đặc thù của kế thừa và phát huy trong lĩnh vực đạo đức so với các lĩnh vực khác có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng để chủ động và tích cực vận dụng nguyên lý kế thừa vào sự phát triển của đạo đức xã hội, xây dựng nền đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta. Đạo đức là một hiện tượng xã hội. Vì vậy, kế thừa trong lĩnh vực đạo đức khác với kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên. Nếu kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên thực hiện một cách vô ý thức thì trong lĩnh vực xã hội các quá trình vận động và phát triển của nó luôn chịu sự tác động của con người liên kết với nhau một cách ít nhiều có ý thức để giải quyết những nhiệm vụ nhất định do thực tiễn lịch sử đòi hỏi. Như vậy tính kế thừa trong đời sống xã hội không thể hiểu ngoài hoạt động của con người. Vì vậy, kế thừa và phát huy đạo đức chịu sự chi phối của kinh tế, giai cấp, dân tộc và các hình thái ý thức xã hội khác. Tính kế thừa trong lĩnh vực đạo đức chịu sự quy định của kinh tế. Đạo đức không phải là những gì có sẵn bên ngoài và bên trên áp đặt vào xã hội mà với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức nảy sinh trên cơ sở tồn tại xã hội của con người. Đạo đức không phải là cái gì bất biến mà luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Xu hướng chung chi phối sự biến đổi theo xu hướng tiến bộ và sáng tạo ra những giá trị đạo đức mới. Có thể nói, nội dung, tính chất của kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, là sự phản ánh điều kiện kinh tế của xã hội. Nếu không thấy vai trò của kinh tế đối với kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức sẽ dẫn đến quan điểm duy tâm cho rằng sự phát triển đạo đức chẳng qua là sự tự biến của các khái niệm, ý niệm. Mặt khác, cần phải chống quan điểm duy vật tầm thường, coi sự phát triển đạo đức chỉ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mà không thấy được tính độc lập tương đối trong sự phát triển của đạo đức. Tính kế thừa trong sự phát huy đạo đức còn chịu sự chi phối của tính giai cấp và tính dân tộc khá rõ nét. Trong xã hội có giai cấp đạo đức mang nội dung giai cấp và phục vụ cho lợi ích của giai cấp. Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức còn chịu sự tác động lẫn nhau với các hình thái ý thức xã hội khác như ý thức chính trị, pháp quyền, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học... Trong đời sống xã hội, chính trị và đạo đức thường tồn tại đan xen nhau, có quan hệ chặt chẽ và bổ sung nhau. Nhiều khi các quan hệ đạo đức lẫn vào chính trị, ngược lại có những quan điểm chính trị phản ánh những quan điểm đạo đức. Còn đạo đức và pháp luật đều là tổng hợp những quy tắc, chuẩn mực, hành vi của con người phù hợp với yêu cầu của từng xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Tôn giáo và đạo đức đều hướng con người vươn tới cái thiện, tránh cái ác. Tôn giáo phản ánh khát vọng hướng thiện của quần chúng và khơi dậy lòng từ bi, bác ái của con người. Xét ở góc độ này, tôn giáo có những đóng góp nhất định đối với sự phát triển của đạo đức. Khoa học là hệ thống tri thức đúng đắn và chân thực về hiện thực khách quan, khoa học thống nhất với đạo đức ở mục đích phục vụ sự tiến bộ xã hội, mong muốn đem lại tự do và hạnh phúc cho con người. Lý tưởng của khoa học và lý tưởng của đạo đức là thống nhất. Tri thức khoa học giúp cho con người nhận thức, đánh giá, lựa chọn đúng đắn các giá trị đạo đức. Nếu đạo đức đặt ra cho nghệ thuật một nhiệm vụ quan trọng là góp phần giáo dục hoàn thiện nhân cách con người thì nghệ thuật cũng tác động sâu sắc đến đạo đức. Nghệ thuật chân chính ngợi ca những đức tính tốt đẹp của con người và phê phán cái xấu, giúp cho con người có đạo đức ngày càng hoàn chỉnh hơn. Tuy nhiên, so với các hình thái ý thức xã hội khác như tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, pháp quyền... thì kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức cũng có những nét riêng biệt cơ bản như sau: - Sự truyền bá các quan điểm đạo đức trong đời sống xã hội không đòi hỏi phải có những tổ chức chuyên biệt để thực hiện. Sự hình thành các quy tắc, chuẩn mực đạo đức từ trong cuộc sống thể hiện qua phong tục, tập quán, thói quen được con người tiếp nhận từ nhiều kênh khác nhau thông qua môi trường sống của họ. Vì vậy, trong đạo đức tính kế thừa thể hiện rõ việc lặp lại các mẫu hành vi điển hình dần dần hình thành các thói quen mang tính tự giác của con người, thể hiện yêu cầu chung của cộng đồng về hành vi của cá nhân. - Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức chịu ảnh hưởng của quan điểm giai cấp và mang tính dân tộc song tính dân tộc thường rõ nét hơn. - Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức là một quá trình diễn ra phức tạp và lâu dài. Trong sự phát triển đạo đức, kế thừa thể hiện khá rõ nét trong khi đó sự đổi mới thường khó nhận thấy hơn, đi vào đời sống xã hội chậm hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức pháp quyền. Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức còn gắn liền với quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Vì giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên gắn liền với tiến bộ xã hội. Đó là quy luật trao đổi chất giữa các nền văn hóa với nhau. Một nền văn hóa nếu đóng cửa sẽ dẫn đến suy thoái. Giao lưu văn hóa là động lực phát triển của các nền văn hóa, trong đó có đạo đức. Vì vậy, giao lưu văn hóa là điều không thể thiếu được của quá trình kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của từng dân tộc và góp phần bồi đắp làm phong phú các giá trị đạo đức của nhân loại. Như vậy kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức chịu sự chi phối của cơ sở kinh tế, của nhân tố chủ quan (giai cấp, cá nhân...), quá trình giao lưu của các quốc gia, dân tộc; sự tác động của đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác. 1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi những giá trị đạo đức của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay * Điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập Thị trường là sản phẩm của sự phát triển kinh tế - xã hội trong lịch sử phát triển sản xuất vật chất. Thị trường (theo đúng nghĩa của nó) thực sự phát triển cùng với sự phát triển của CNTB. Từ sản xuất tự cung, tự cấp, vật trao đổi vật, sang sản xuất hàng hóa là một bước tiến của văn minh nhân loại, bước tiến của thị trường. Do mỗi nước khác nhau có trình độ kinh tế, kết cấu xã hội - giai cấp phong tục tập quán khác nhau nên cùng một mô hình kinh tế thị trường có thể có những thể chế khác nhau. Mỗi nước đi vào kinh tế thị trường từ những điểm xuất phát khác nhau trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường. Từ đó thị trường XHCN cơ bản khác với thị trường tư bản về điểm xuất phát đến mục đích của nền sản xuất. Rõ ràng, ở đây, thị trường là nơi diễn ra cuộc "hội ngộ" cũng là cuộc đối đầu gay gắt không tiếng súng giữa hai loại thị trường và tính "hai mặt" của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường có sự tác động hai mặt. Sự chuyển biến từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường sẽ dẫn đến những tác động lớn bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực đạo đức. Đặc biệt nước ta, là nơi có lịch sử lâu đời với truyền thống đạo đức phương Đông. Vì vậy với sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường, đất nước ta sẽ phải trực diện một cách gay gắt hơn, nổi bật hơn với một loạt biến đổi diễn ra trong giá trị đạo đức. Có người cho rằng kinh tế thị trường và đạo đức là bài xích lẫn nhau. Kinh tế thị trường càng phát triển thì đạo đức càng suy thoái. Do đó chấp nhận kinh tế thị trường thì phải trả giá bằng sự trượt dốc về mặt xã hội, sự suy thoái về đạo đức. Ngược lại, cũng có người cho rằng kinh tế thị trường đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, do đó thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, lành mạnh hóa đạo đức, nó tạo ra xu hướng phát triển đạo đức lên một trình độ mới, có tính thiết thực và thực tiễn hơn. Hai cách lý giải này, hoặc là tuyệt đối hóa ảnh hưởng tiêu cực, hoặc là tuyệt đối hóa ảnh hưởng tích cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức. Nhưng thực ra kinh tế thị trường tác động đến đạo đức theo cả hai hướng, cả tích cực, cả tiêu cực. Với tư cách là một phương tiện hữu hiệu phát triển kinh tế, một động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, kinh tế thị trường có tác động tích cực đến sự phát triển tiến bộ đạo đức. Nhưng kinh tế thị trường nó không những không giải quyết được các vấn đề xã hội, mà còn ngược lại làm nảy sinh những nan giải xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến lĩnh vực đạo đức, làm suy thoái đạo đức xã hội. Nói đến ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với đạo đức phải nói đến cả hai mặt đó. Xem xét một cách phiến diện chỉ thấy mặt này không thấy mặt kia sẽ dẫn đến kìm hãm, thậm chí bài xích kinh tế thị trường hoặc để đạo đức xã hội rơi vào tình trạng suy thoái tới tột độ. Qua một thời gian thực hiện kinh tế thị trường, trong lĩnh vực đạo đức xã hội nước ta nói chung, đạo đức phụ nữ Việt Nam nói riêng có sự biến đổi có tính chất đảo lộn tương đối lớn, có nhiều biến đổi tích cực đáng mừng nhưng cũng xuất hiện không ít những hiện tượng suy thoái, xuống cấp về đạo đức đáng lo ngại. Dĩ nhiên những biến đổi phức tạp đó không phải hoàn toàn do kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường cũng có ảnh hưởng rất lớn. Kinh tế thị trường ảnh hưởng tích cực đối với truyền thống đạo đức của dân tộc ta nói chung, đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam nói riêng. Thực tiễn những năm đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường đang đặt ra yêu cầu phải khẳng định một hệ GTĐĐ của con người Việt Nam, trong đó có phụ nữ Việt Nam hiện nay. Trân trọng và giữ gìn những GTĐĐ của phụ nữ Việt Nam được hình thành qua lịch sử lâu dài của dân tộc và trong những năm xây dựng CNXH: Yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, đã được bổ sung những giá trị mới đó là: tính tự chủ cá nhân, vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội. Xưa có câu "nước nổi lo chi bèo chẳng nổi". Nhưng gia đình là tế bào của xã hội, muốn "nước nổi" (nước giàu) trước hết mỗi gia đình phải giàu, dân giàu nước mới mạnh. Vốn có truyền thống đảm đang gánh vác công việc gia đình và xã hội từ nghìn xưa, ngày nay trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, kế tục truyền thống của mình phụ nữ Việt Nam phát huy tính tự chủ cá nhân, vươn lên làm giàu cho gia đình và xã hội. Cơ chế thị trường là cơ chế "mở". Tính đa dạng và đa phương hóa, tính xã hội hóa và quốc tế hóa cao của nó đã tác động đẩy lùi sự níu kéo, tính trí tuệ với bản chất bảo thủ của cơ chế tập trung quan liêu. Đây là những tác động không phải như "cá biệt" từ bên ngoài mà là những "nội lực" làm chuyển biến nền kinh tế sống động, kéo theo sự năng động tư duy của các chủ thể lao động. Phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ là cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế nói riêng, nhờ đó tư duy được mài sắc, tính chủ động, nhạy bén và năng lực sáng tạo được phát huy. Kinh tế thị trường là điều kiện kích thích tăng năng suất lao động không ngừng. Sự tìm tòi sáng tạo của cá nhân trong sản xuất luôn được khuyến khích, lợi ích cá nhân được kích thích, được đảm bảo. Do vậy, trong cơ chế thị trường người phụ nữ vươn lên tìm tòi sáng tạo trong lao động sản xuất để sản phẩm ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng. Cơ chế thị trường tạo điều kiện cần thiết cho công nghiệp vươn lên, đòi hỏi người phụ nữ phải học tập, rèn luyện bản thân, rèn luyện tay nghề để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường làm giàu cho gia đình và xã hội. Ngược lại, kinh tế thị trường cũng rất nghiêm khắc đào thải những sự trì trệ, bảo thủ, sự lạc hậu, lỗi thời của con người và những sản phẩm kinh tế yếu kém mang tính chất cổ hủ về nội dung cũng như hình thức. Vì vậy, phụ nữ Việt Nam phải phát huy tính tự chủ cá nhân cao độ mới có thể đứng vững được trước dòng thác của kinh tế thị trường. Như vậy, đứng về phương diện đạo đức xã hội, sự ảnh hưởng tích cực của nền kinh tế thị trường là từng bước hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong người phụ nữ Việt Nam, rèn luyện họ ý thức lao động và sáng tạo trong việc làm giàu cho gia đình và xã hội. Đó là những phẩm chất đạo đức cao đẹp về nghĩa vụ, ý chí, lòng dũng cảm, tính nguyên tắc... ở mỗi người phụ nữ trong đời sống xã hội hiện nay. Đứng về góc độ đạo đức xã hội, nền kinh tế thị trường tuy có định hướng XHCN nhưng vẫn có những mặt tiêu cực không thể tránh khỏi. Khi đất nước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN, đã kéo theo những biến đổi tương ứng của ý thức xã hội, trong đó có ý thức đạo đức. Nhiều quan điểm đạo đức khác nhau với những quy phạm đạo đức XHCN. Trong thời gian ngắn của sự chuyển đổi kinh tế - xã hội đó, đạo đức XHCN - có thể nói - có lúc đã không giữ được vị trí chỉ đạo trong xã hội. Khi nói đến mặt trái của kinh tế thị trường, Các Mác đã chỉ ra rằng: đó "là một thứ tự do mậu dịch không có lương tâm", nó làm cho quan hệ giữa con người "chìm ngập trong băng giá của sự tính toán lợi kỷ" bởi vì "ngoài quan hệ lợi hại trần truồng, ngoài sự "giao dịch tiền mặt" lạnh lùng vô tình, sẽ chẳng còn có mối liên hệ nào khác". Dĩ nhiên kinh tế thị trường ở nước ta có những điều khác với kinh tế thị trường trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, cũng khác với kinh tế thị trường thời hiện đại. Sự chuyển biến sang kinh tế thị trường ở nước ta được tiến hành một cách tự giác... Đó là một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và định hướng XHCN. Tuy vậy, vẫn là kinh tế thị trường nên nó có những mặt mâu thuẫn với bản chất tốt đẹp của XHCN. Do đó, không thể không nói đến những hiện tượng tiêu cực của nó đối với sự biến động của đạo đức xã hội nói chung và đạo đức của người phụ nữ nói riêng. Nền kinh tế thị trường lấy lợi ích (nhấn mạnh lợi ích kinh tế, coi trọng lợi ích cá nhân) làm động lực của sự phát triển. Nhân tố này tự bộc lộ hai mặt: mặt tích cực như đã trình bày ở phần trên. Kinh tế thị trường kích thích hoạt động tích cực của cá nhân bằng sự thúc đẩy sự quan tâm tới lợi ích riêng của mình. Nhưng nếu không chú ý nó sẽ đề cao quá mức tự do cá nhân, lợi ích cá nhân, do đó rất dễ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lợi kỷ cực đoan. Chủ nghĩa cá nhân với triết lý "sống chết mặc bay" ăn mòn đạo lý sống được xây dựng trên nền tảng của cái thiện, trái ngược với "đạo đức đích thực" của con người. Đặc biệt kích thích các hoạt động giao tiếp với các hành vi ứng xử nhằm đạt được lợi ích cá nhân. Các hành động thực tế của chủ quan cá nhân này được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người như kinh tế, văn hóa, chính trị, nghệ thuật, giáo dục, y tế... Những người bằng ý chí chủ quan đã biến mọi quan hệ đạo đức của mình đối với xã hội mang tính chất vụ lợi. Vì vậy, chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức sẵn sàng chà đạp lên mọi quan hệ đích thực trong xã hội. Như vậy, kinh tế thị trường cùng với những tác động tích cực còn có tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách, cá tính con người nói chung, phụ nữ nói riêng. Nó sẽ tạo ra sự phát triển cá nhân con người một cách phiến diện khi hoạt động của con người bị định hướng vào mục tiêu làm giàu bất chính. Tính thực dụng sẽ cản trở thậm chí loại trừ những giá trị văn hóa, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, của phụ nữ Việt Nam nói riêng. Tất cả những điều này sẽ dần dần làm cho nhiều giá trị văn hóa nói chung, giá trị đạo đức của dân tộc trong đó có phụ nữ nói riêng bị phai nhạt, bị hủy hoại. Nền kinh tế thị trường mở cửa ở nước ta đã làm cho kinh tế sống động, giải phóng sức sản xuất, phát triển rất mạnh mẽ, tiếp cận được với công nghệ sản xuất tiên tiến của nhiều nước trên thế giới... Nhưng cùng với những điều đó là ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa phương Tây, của lối sống thực dụng tư sản. Bằng nhiều con đường, ngõ ngách thông qua mở cửa văn hóa, ấn phẩm tuyên truyền cho sức mạnh của đồng tiền, cho lối sống thực dụng đã "ồ ạt" vào nước ta. Chúng trực tiếp hay gián tiếp "gặm nhấm, ăn mòn" những nguyên tắc đạo đức XHCN, những GTĐĐTT của dân tộc nói chung của phụ nữ nước ta nói riêng. Ở nước ta trong dân gian thời gian qua đã lưu hành câu vè mà không ít người nghe tỏ ra đồng tình và thích thú một cách bệnh hoạn: "Đồng tiền là tiên, là phật, là sức bật của tuổi trẻ. Sức khỏe của tuổi già. Cái đà danh vọng. Cái lọng che thân. Cái cân công lý. Đồng tiền hết ý. Hoan hô đồng tiền". Giới nữ thì: "Một yêu anh có vi la. Hai yêu anh có đô la đều đều..." Thực tế, kinh tế thị trường có khuynh hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị trường ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng; có khuynh hướng làm cho người ta coi đồng tiền là giá trị chân thực duy nhất dùng để đo giá trị của bản thân và của người khác. Từ đó làm không ít chị em phụ nữ nước ta đánh mất nhân phẩm của mình, chạy theo đồng tiền bất chấp luân thường, đạo lý. Họ định giá trị của con người bằng của cải của người đó, sử dụng con người và quan hệ với con người dựa trên chủ nghĩa thực dụng: "người đó đem lại lợi ích gì cho mình, cho cá nhân mình", từ đó dìm các quan hệ tình bạn, quan hệ ấm áp tình người trong băng giá của sự tính toán lợi kỷ. Như vậy, đối với sự biến đổi của đạo đức xã hội nói chung và đạo đức của người phụ nữ nói riêng, kinh tế thị trường có tác động hai mặt: tích cực và tiêu cực. Ảnh hưởng tiêu cực của nó tuy khó tránh khỏi, nhưng không phải là tất yếu phải cam chịu như một định mệnh. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường lành mạnh (thị trường theo định hướng XHCN) chúng ta kế thừa và phát huy những GTĐĐTT, khắc phục, hạn chế và từng bước đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường. * Yêu cầu xây dựng con người mới trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa Quá trình phát triển kinh tế thị trường mở cửa hội nhập, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong thời đại mới đang đặt ra những yêu cầu mới đối với con người Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm cho toàn Đảng, toàn dân là: "Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước tiến lên CNXH" [91]. Sự nghiệp lớn lao đó đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhân loại đang chuẩn bị bước sang thế kỷ XXI. Đó là thế kỷ đầy biến động với những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, của văn minh hậu công nghiệp, lao động trí óc sẽ thay thế lao động chân tay, giản đơn trên rất nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội. Đó cũng là thế kỷ mà người ta dự đoán rằng phụ nữ sẽ nắm nhiều khâu công việc và có vai trò rất quan trọng. Đảng và Nhà nước ta có chiến lược hành động đúng, chúng ta có những điều kiện khách quan thuận lợi, nhưng yếu tố quyết định vẫn là cần có con người đủ tầm cỡ đáp ứng được nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay. Sự nghiệp đó đòi hỏi con người không chỉ là những yêu cầu về mặt năng lực, trình độ học vấn, phẩm chất người lao động mà cả mặt sức khỏe, tình cảm, tư tưởng, tâm trạng thích hợp. Đây không phải là một mẫu người duy nhất, toàn vẹn, rập khuôn giống nhau, đào tạo đồng loạt mà những con người đa dạng, cụ thể, có cá tính và chuyên môn, tài năng khác nhau đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trên các mặt, trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đặt nhiệm vụ văn hóa hàng đầu là nhiệm vụ xây dựng con người. Nghị quyết cũng nêu rõ: "Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính sau: - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. - Đề cao tinh thần tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. - Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường tinh thần. - Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. - Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực" [75, 50-51]. Yêu cầu nêu trên đặt ra cho tất cả mọi người lao động nam nữ, với mức độ khác nhau tùy công việc, ngành nghề, vị trí xã hội. Nhưng giới phụ nữ có đặc điểm riêng, do chức năng mang thai, sinh nở, nuôi con nhỏ và trách nhiệm nặng nề của họ trong việc giáo dục con cái, chăm sóc gia đình. Người phụ nữ trên vai gánh nặng hai trách nhiệm sản xuất, tham gia quản lý xã hội và sinh đẻ nuôi con nhỏ, chăm sóc gia đình. Điều kiện làm việc, học tập, sinh sống của họ rõ ràng có nhiều khó khăn hơn nam giới. Để trở thành chủ thể của quá trình đổi mới đất nước hiện nay, người phụ nữ phải có trách nhiệm quyền hạn và quyền lợi trong việc thực hiện sự nghiệp đó, hành động tự giác, chủ động, tích cực, tự quyết định công việc của mình. Do đó người phụ nữ không chỉ có ý thức trách nhiệm trong mọi quyết định của mình, mà còn phải có năng lực để quyết định đúng đắn, có điều kiện và cơ hội cần thiết để thực hiện quyết định, cũng như mọi hoạt động tự giác chủ động của mình. Muốn làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ cuộc sống bản thân trong hoạt động xã hội và sinh hoạt gia đình, quả thật là khó khăn, không dễ dàng, nhanh chóng đạt tới. Để trở thành chủ thể xã hội mới cần phải có những yếu tố khách quan mà hiện nay phụ nữ còn bị thiệt thòi. - Đó là trình độ học vấn cao, hay được đào tạo ngành nghề đến nơi đến chốn. Học vấn ở đây không phải là trình độ văn hóa, mà kiến thức vừa đa dạng, vừa chuyên sâu và có trình độ ngoại ngữ. - Có điều kiện học tập và thuận lợi, được chú ý bồi dưỡng, cất nhắc giao việc đúng khả năng trình độ. - Được giảm nhẹ công việc gia đình để làm việc, học tập. - Gia đình ổn định, chồng con thông cảm, bố mẹ giúp đỡ tạo điều kiện việc làm. - Tiềm lực kinh tế của gia đình và bản thân, thu nhập của vợ chồng ổn định, họ hàng, bố mẹ có điều kiện giúp đỡ về tài chính v.v... Tuy nhiên, sự phấn đấu, nỗ lực chủ quan hết sức quan trọng và là yếu tố quyết định. Nhiều chị em trong điều kiện không thuận lợi có trường hợp đặc biệt khó khăn, đã vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác. Đồng thời họ là những người vợ, người mẹ xây dựng, vun đắp cho hạnh phúc gia đình mình. Trong xã hội ta hiện nay không thiếu những nữ chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, những nữ chủ doanh nghiệp quản lý tốt những xí nghiệp, công ty lớn; những chị em giữ chức vụ lãnh đạo ở các cấp chính quyền, Đảng, ngành chuyên môn được mọi người kính nể, yêu mến; những nữ nghệ sĩ tài năng được hâm mộ của quần chúng... Bên cạnh đó rất nhiều phụ nữ lao động bình thường cũng làm chủ trong sản xuất và quản lý gia đình tốt. Nhìn chung họ chẳng có được ưu ái nhiều. Thành công của họ do sự nỗ lực phấn đấu của bản thân là chính. Họ phải đổ mồ hôi công sức, đầu tư trí tuệ, khắc phục những nhược điểm của bản thân, khai thác những điều kiện khách quan hiện có để vươn lên làm chủ công việc của mình và đóng góp tích cực cho xã hội. Họ cũng đã gặp những thất bại trong quá trình mày mò trên con đường đi lên do chưa có kinh nghiệm, nhưng không nản chí mà tiếp tục công việc với quyết tâm cao hơn. Để vượt qua những khó khăn trở ngại làm chủ bản thân trở thành chủ thể của quá trình đổi mới đất nước ngày nay, chị em phải có những đức tính như: Có tinh thần học tập, kiên trì khắc phục trở ngại để nâng cao trình độ học vấn, trình độ kiến thức đa dạng của mình; biết tính toán công việc, cuộc sống của mình một cách khoa học, có nền nếp là điều giúp người phụ nữ khắc phục được những khó khăn khách quan; suy nghĩ độc lập sáng tạo không chỉ nghĩ theo, làm theo người khác mà có chủ kiến của mình; làm việc cần cù chịu khó, nhẫn nại đây là ưu điểm nổi trội ở người phụ nữ. Điều quan trọng nhất bao trùm là lòng tự tin của người phụ nữ vào năng lực của bản thân, đánh giá đúng khả năng của mình có thể tự quyết định công việc một cách chủ động và dám chịu trách nhiệm về quyết định của mình; có một tác phong làm việc nhanh nhẹn tháo vát phù hợp với xã hội công nghiệp và thời đại đầy những biến động nhanh chóng, liên tục; điều rất quan trọng nữa là làm chủ được gia đình mình. Xây dựng được gia đình ổn định, vợ chồng thương yêu, đối xử bình đẳng, thông cảm giúp đỡ lẫn nhau, con cái ngoan ngoãn, học tập tốt, biết quý trọng cha mẹ, họ hàng, anh em hòa thuận, đó là một yếu tố cơ bản, chỗ dựa tinh thần, tình cảm để người phụ nữ có thêm sức mạnh, quyết tâm, lòng tin để luôn thành công việc xã hội giao phó. Như vậy, đáp ứng yêu cầu xây dựng con người mới trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước hiện nay, ngoài việc phát huy những GTĐĐTT sẵn có của phụ nữ Việt Nam, còn đòi hỏi và đã hình thành ở họ những phẩm chất đạo đức mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước. Đó là: tinh thần học tập, ý thức tính toán thực hành công việc một cách khoa học, suy nghĩ độc lập sáng tạo, có lòng tin vào năng lực của bản thân, tác phong làm việc nhanh nhẹn tháo vát, làm chủ được gia đình mình trong xã hội mới. 1.2.3. Nội dung, yêu cầu kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ * Yêu cầu Để xác định đúng nội dung, phương hướng kế thừa và phát huy các GTĐĐTT của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng CNXH ngày nay cần phải quán triệt các yêu cầu cơ bản sau: Một là, phải nhận rõ những mặt tích cực và hạn chế mang tính lịch sử của các GTĐĐTT của phụ nữ, tức phải làm rõ những cái cần thiết cho CNXH và những hạn chế, thiếu hụt cần được bổ sung trong những GTĐĐTT của phụ nữ Việt Nam hiện nay. Các GTĐĐTT của phụ nữ là quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Đó là những giá trị cao quý, phổ biến và vững bền của phụ nữ Việt Nam. Chúng giữ vị trí cốt lõi trong hệ thống các giá trị tinh thần truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Các giá trị tinh thần truyền thống là động lực mạnh mẽ, là cội nguồn sức sống của phụ nữ Việt Nam. Lòng yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang... đã và đang là nguồn sức mạnh to lớn của phụ nữ ta từ trước đến nay và từ nay về sau. Được hình thành trên cơ sở xã hội nông nghiệp, và luôn phải tiến hành đấu tranh chống xâm lược nên ngoài mặt tích cực, đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam cũng còn bộc lộ những hạn chế. Người phụ nữ Việt Nam rất cần cù và tiết kiệm trong sản xuất và đời sống; đó là truyền thống quý báu của phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Song trong tâm lý của số đông, cần cù trong lao động chân tay được đánh giá cao hơn cần cù trong lao động trí óc. Cần cù trong sản xuất được coi trọng hơn nhiều so với cần cù trong hoạt động thương mại. Tâm lý khinh rẻ nghề buôn bán thể hiện rõ trong quan niệm dân gian "thật thà cũng thể lái buôn". Tính chất cần cù được đánh giá cao hơn tính chất sáng tạo trong lao động: "cần cù bù thông minh" hoặc nhấn mạnh: "năng nhặt chặt bị" chứ không chú ý rằng: "biết nhặt mới nhanh chặt bị". Mặt khác, truyền thống là sản phẩm của quá trình lịch sử dân tộc trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thế hệ và nhiều giai cấp nên ngoài mặt tích cực nó còn chứa đựng những hạn chế mang tính lịch sử, tính giai cấp của từng thời đại. Thời đại phong kiến, đức tính trung hậu của người phụ nữ Việt Nam đã bị giai cấp phong kiến lợi dụng để phục vụ cho giai cấp thống trị đương thời. Ở địa vị phụ thuộc, "tứ đức" - "công, dung, ngôn, hạnh" (công việc, hình dung, nói năng, tính nết) và "tam tòng" của người phụ nữ là những khuôn phép phong kiến mà người phụ nữ cần phải theo để trở thành những công cụ dễ bảo và có khả năng phục vụ tốt những lợi ích của bọn thống trị. Hai là, quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta trong việc kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của phụ nữ Việt Nam. Việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương pháp luận để nhận thức mặt tích cực và mặt hạn chế, tiêu cực của truyền thống đạo đức, xác định phương hướng kế thừa và phát huy các GTĐĐTT của phụ nữ, xây dựng đời sống đạo đức - tinh thần lành mạnh của xã hội. Vận dụng nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xem xét đạo đức để thấy rõ những mặt tích cực cần phát huy và những mặt tiêu cực cần phải loại trừ dần khỏi đời sống xã hội, kết hợp kế thừa những giá trị đạo đức văn hóa dân tộc với tiếp thu những thành quả của văn hóa, văn minh nhân loại. Có như vậy mới kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của dân tộc nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng một cách biện chứng, đáp ứng được yêu cầu phát triển đời sống vật chất và tinh thần của xã hội trong công cuộc đổi mới hôm nay. Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Người, chúng ta rút ra được những chỉ dẫn có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc kế thừa và phát huy những GTĐĐTT phù hợp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Vấn đề này tác giả đã có dịp trình bày ở phần trên. Ba là, kế thừa và phát huy các GTĐĐTT của phụ nữ Việt Nam phải quán triệt nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và các giá trị nhân văn của thời đại. Xây dựng hình thái kinh tế - xã hội mới phải nói đến văn hóa vì văn hóa là nền tảng, động lực, mục tiêu, hệ điều tiết của sự phát triển xã hội. Trong những lĩnh vực chủ yếu của định hướng phát triển đất nước theo con đường XHCN hiện nay là "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" không chỉ ở hình thức mà là cả nội dung. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa được xây dựng trên hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại - hệ tư tưởng Mác - Lênin. Đây là hệ tư tưởng duy nhất lấy việc giải phóng con người toàn diện và triệt để làm mục tiêu cao cả của mình. Tính tiên tiến của nền văn hóa bao hàm cả tính chất hiện đại, tiến bộ và nhân văn. Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa vừa tiếp thu toàn bộ di sản văn hóa của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và phát triển lên một trình độ mới vì sự giải phóng con người và tiến bộ xã hội. Như vậy, tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được nuôi dưỡng và phát triển gắn với bề dày và chiều sâu của văn hóa dân tộc. Để xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức, thẩm mỹ, các di sản văn hóa nghệ thuật của dân tộc, trong đó các GTĐĐTT chiếm vị trí quan trọng. Nó là nhân tố định hướng việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện đại, hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ với tư cách là giá trị tổng quát của nhân loại. Con người là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội và là chủ thể năng động của sự phát triển đó. Hồ Chủ tịch khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những con người có đạo đức xã hội chủ nghĩa" [48, 679]. Con người Việt Nam hiện đại nói chung, người phụ nữ Việt Nam hiện đại nói riêng, phải là con người kết hợp nhuần nhuyễn trong nhân cách của mình phẩm chất đạo đức, tinh thần của con người của chế độ mới với tinh hoa truyền thống dân tộc. Con người vừa mang tính thời đại theo nghĩa "thời đại nào, con người ấy", đồng thời con người cũng mang tính lịch sử, mang trong mình dấu ấn của quá khứ. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tính thời đại và tính lịch sử, hiện đại và truyền thống là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc tiếp cận vấn đề con người và xác định nội dung xây dựng con người phù hợp với yêu cầu lịch sử của từng giai đoạn cách mạng. Không thể có con người Việt Nam hiện đại nói chung, người phụ nữ hiện đại nói riêng nếu họ không được nuôi dưỡng bằng những truyền thống tốt đẹp được kết tinh trong lịch sử lâu dài và vinh quang của dân tộc. Kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của dân tộc nói chung, của phụ nữ Việt Nam nói riêng sẽ tạo ra khả năng to lớn cho sự hoàn thiện từng bước con người cũng như cho sự phát triển vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta. Sức sống của nền văn hóa nói chung, của các giá trị đạo đức nói riêng không chỉ ở bề dày lịch sử và chiều sâu tư tưởng của nó mà còn ở khả năng biết hấp thụ và làm phong phú các giá trị đạo đức - nhân văn mà loài người đạt được và đang vươn tới. Cuộc cách mạng mới trong khoa học - công nghệ với những thành quả kỳ diệu của nó đã mang lại những biến đổi cực kỳ to lớn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới và đang hình thành những xu thế phát triển mới của thế giới: Sự xuất hiện của xã hội thông tin; phát triển công nghệ cao trở thành yếu tố then chốt của hiện đại hóa; xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế; sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc [53, 5-24]. Cách mạng khoa học - công nghệ, cơ chế thị trường và mở cửa đang tạo đà cho sự phát triển nhanh chóng của thế giới hiện đại song nó cũng đã và đang bộc lộ nhiều hệ quả tiêu cực làm day dứt lương tri của loài người tiến bộ. Vì vậy, kế thừa và phát huy các GTĐĐTT dân tộc nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng đòi hỏi phải tiếp cận và tiếp nhận có chọn lọc các giá trị nhân văn mà loài người tiến bộ đang hướng tới. Đó là thái độ sống tích cực coi con người là giá trị cao nhất, phát triển người bền vững là "mệnh lệnh cao nhất của thế kỷ XXI", yêu hòa bình và chống chiến tranh xâm lược, thấm nhuần tư tưởng khoan dung, chống kỳ thị dân tộc, xác lập và tăng cường quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi giữa các quốc gia dân tộc. Quán triệt các yêu cầu trên là điều kiện cần thiết để tự giác hóa quá trình kế thừa và phát huy các GTĐĐTT của dân tộc nói chung, của phụ nữ Việt Nam nói riêng trong giai đoạn hiện nay. * Nội dung Chủ nghĩa yêu nước như đã khẳng định là giá trị hàng đầu, giá trị định hướng các GTĐĐTT Việt Nam nói chung, GTĐĐ của phụ nữ Việt Nam nói riêng. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hình thành rất sớm cùng với sự phát triển của dân tộc và luôn được bổ sung để hình thành một hệ thống với những nội dung xác định. Đó là giá trị bền vững nhất của dân tộc Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Song cũng như những giá trị khác, sự bền vững đó không có nghĩa là cố định, mà nó có sự biến đổi, phát triển, bổ sung những nội dung phù hợp với yêu cầu phát triển của lịch sử dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử. Yêu nước ngày nay không chỉ bó hẹp trong quan niệm yêu quê hương theo kiểu khép kín "một tấc không đi, một ly không rời" mà phải đặt tình yêu và trách nhiệm đối với quê hương trong tương quan với lợi ích thuộc toàn cục, cả nước. Ngày nay "yêu nước phải gắn với ý chí tự lực, tự cường, sáng tạo trong lao động, học tập và nghiên cứu, khai thác mọi tiềm năng đất nước, bảo vệ độc lập và quyền bình đẳng dân tộc; chiến thắng nghèo đói lạc hậu và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo đảm cho mọi người đều được ấm no, hạnh phúc, vươn lên ngang tầm thời đại mới..." [73, 28]. Quan điểm độc lập dân tộc gắn với tự do hạnh phúc của nhân dân là cơ sở của tư tưởng về mối liên hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH. Đó cũng chính là nội dung chủ yếu của chủ nghĩa yêu nước hiện nay - yêu nước là đem hết tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng của từng người, từng tập thể và cả cộng đồng dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh theo định hướng XHCN. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng được phát huy cao độ trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trước yêu cầu mới của đất nước hiện nay, một mặt phải thường xuyên chăm lo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, mặt khác phải dồn sức cho nhiệm vụ xây dựng đất nước với ý thức coi nghèo nàn lạc hậu là nỗi nhục không kém gì nỗi nhục mất nước như đồng chí Cố vấn Đỗ Mười đã nói: Các thế hệ trước đây đã "rửa được nỗi nhục nô lệ cho dân tộc", thế hệ ngày nay "phải tiếp nối sự nghiệp của lớp người đi trước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, CNH, HĐH nước nhà để rửa cái nhục nghèo khổ, mở ra chương sử mới rạng rỡ cho non sông Việt Nam vinh quang sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới" [52, 193]. Lòng yêu nước biểu hiện ở tình yêu với văn hóa của dân tộc, với những truyền thống lành mạnh của nhân dân, đóng góp tích cực vào việc củng cố và phát triển những truyền thống ấy phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay. Một nhiệm vụ quan trọng của bảo vệ độc lập dân tộc trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, CNH, HĐH đất nước là phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đảng ta khẳng định rằng: "Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, CNH, HĐH đất nước, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được tự đánh mất mình, trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác" [91, 30]. Chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã và đang tạo môi trường kinh tế - xã hội rộng lớn cho mọi người phát huy hết tiềm năng sáng tạo của mình để làm giàu cho mình và cho đất nước. Ý thức vươn lên mạnh mẽ để làm giàu cho mình và cho xã hội là một nội dung quan trọng của chủ nghĩa yêu nước ngày nay. Trong điều kiện hiện nay, việc đánh giá phẩm chất đạo đức của con người càng phải quá triệt quan điểm thống nhất lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp kích thích tính tích cực hoạt động của con người. Tư tưởng cào bằng cá nhân, không muốn ai giàu hơn mình hoặc ngại mình giàu hơn người khác là chướng ngại vật của sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường và sớm muộn cũng sẽ bị loại bỏ chính ngay yêu cầu của sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ý nghĩa đạo đức của việc làm giàu là ở chỗ phương thức và mục đích của nó. Nếu làm giàu bằng những thủ đoạn bất chính, trái pháp luật và vô đạo đức thì đời sống tinh thần của con người dần dần bị thoái hóa và gây tác hại cho xã hội. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, phụ nữ Việt Nam phát huy truyền thống từ nghìn xưa của mình, chị em đã anh hùng, dũng cảm trong lao động sản xuất, kinh doanh... Họ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm với hành động của mình để làm giàu cho mình và cho xã hội, quyết tâm đưa đất nước Việt Nam thoát khỏi cái nhục đói nghèo, nâng cao đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Đấy là những nữ anh hùng lao động thời nay. Chị Ba Thi là một tấm gương như vậy. "Một người phụ nữ không hề lùi bước" hay "chị Ba Thi một người khai phá"; các tác giả đã ưu ái đặt tên cho bài viết của mình như thế để nói lên khí phách anh hùng, lòng dũng cảm của chị trong sản xuất kinh doanh. Kế thừa truyền thống phụ nữ từ nghìn xưa với tinh thần dũng cảm đảm đang, thông minh, sáng tạo của người nữ giao liên, phụ vận thời đánh Mỹ, chị Ba Thi không lùi bước trong sản xuất, kinh doanh góp phần phát triển kinh tế, phát triển đất nước. Trong những năm 80 trước tình hình khó khăn của đất nước, chị đã không ngại gian khổ, quyết tâm đưa năng suất nhà máy dệt Thành Công từ 4,2 triệu mét (1983) lên 20 triệu mét (1991), mở rộng thị trường thế giới thu hút ngoại tệ ngày càng nhiều cho đất nước. Đặc biệt là hành động dũng cảm, anh hùng của chị trong "vượt rào" tháo gỡ cơ chế chỉ để bảo đảm ổn định lương thực cho hơn 3 triệu nhân dân thành phố đã đem lại thành công rực rỡ trong kinh doanh, đem lại lòng tin của nhân dân thành phố đối với Đảng và Nhà nước. Với tinh thần đảm đang thông minh sáng tạo, kiên quyết trong sản xuất và kinh doanh của chị đã đem lại một kết quả đáng kể và đã tạo một bước ngoặt, nền tảng cho cơ chế mới ra đời làm ăn kinh tế có hiệu quả hơn. Với thành tích đã đạt chị được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lao động. Chị rất xứng đáng với truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam trong thời đại ngày nay. Trung hậu, đảm đang là những phẩm hạnh tuyệt vời của phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Bước vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều khía cạnh mới cần được bổ sung để xây dựng chuẩn mực của người phụ nữ mới. Trong nội dung đạo đức truyền thống ngày nay trung hậu vẫn là nền tảng nhân cách của người phụ nữ Việt Nam. Trung hậu là đạo lý làm người, nên dù trong mối quan hệ kinh doanh, sản xuất, dịch vụ xã hội, dù trong những hoạt động nhằm bảo vệ và xây dựng đất nước, hay trong các mối quan hệ gia tộc, bạn bè, xóm làng, quê hương, người phụ nữ vẫn cần phải trung hậu. Xuất phát từ chuẩn mực trung hậu ngày nay mà người phụ nữ đã sáng tạo, phát triển và tham gia tích cực vào các hoạt động từ thiện, chống các tệ nạn xã hội, hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường. Để thực hiện được truyền thống trung hậu đảm đang thời nay, người phụ nữ phải giỏi giang, khéo léo, kết hợp hài hòa giữa công việc gia đình và công việc xã hội. Chính vì vậy hơn lúc nào hết người phụ nữ Việt Nam hiện nay phải tháo vát, biết tổ chức công việc gia đình một cách hợp lý, biết quy tụ và khích lệ mọi thành viên để gia đình thật sự là tổ ấm, là nơi mọi người muốn về sau những giờ làm việc, học tập,... mệt nhọc. Một chuẩn mực nữa mà bất cứ người phụ nữ Việt Nam nào hiện nay cũng cần đạt được. Đó là chuẩn mực thanh lịch, đó là sự thanh tao và lịch lãm ở người phụ nữ. Nó được thể hiện ra ngoài, nhưng thực chất lại là sự phản chiếu một cái nền của văn hóa đã được chắt lọc và truyền nối. Từ lối sống, nếp ăn ở hàng ngày, từ trong gia đình đến nơi họ làm việc hoặc ở nơi công cộng phụ nữ có một lối riêng. Họ dịu dàng mà mạnh dạn; giản dị nhưng không xô bồ cục mịch; xông xáo, táo bạo nhưng vẫn nhẹ nhàng tế nhị. Lời nói đẹp, cử chỉ tao nhã, lối ứng xử chân thật hợp với lòng người, với hoàn cảnh, mà không giả dối... Để đáp ứng những vấn đề trên người phụ nữ thời nay phải ý thức để vươn tới những chuẩn mực mới. Phải biết chăm sóc sức khỏe, nâng cao học vấn và trau dồi kiến thức, chăm sóc sự nghỉ ngơi, giải trí để bồi đắp những nhu cầu chính đáng về tinh thần của người phụ nữ với ý thức chăm sóc cái đẹp tinh thần và thể chất của bản thân phụ nữ, cũng chính là vì cái đẹp của gia đình và xã hội. Người phụ nữ được nâng cao về trí tuệ, tâm hồn và nhân cách, về sức khỏe và lối sống để đạt chuẩn mực trung hậu ngày nay xét cho cùng lại là vì mục tiêu rất chiến lược đối với đất nước. Họ sẽ tạo dựng những thế hệ tiếp nối cao đẹp cho đất nước. Ví như chữ hạnh ngày nay không dừng ở sự thủy chung, trinh tiết mà còn ở lòng nhân ái, đức hy sinh, tính vị tha và sự bình đẳng giữa nam và nữ... Như vậy, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của phụ nữ Việt Nam ngày nay là cái nền vô giá của chuẩn mực đạo đức của phụ nữ Việt Nam, mà các thế hệ sau phải kế thừa và phát huy, để xây dựng một xã hội Việt Nam hiện đại trên cơ sở những giá trị nhân văn cao quý, mang sắc thái văn hóa truyền thống Việt Nam. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Các GTĐĐTT chủ yếu của dân tộc bao gồm: yêu nước, lòng thương người, tinh thần đoàn kết cộng đồng, đức tính cần kiệm... Trong đó yêu nước là giá trị cốt lõi trong hệ thống GTĐĐTT của dân tộc. Riêng phụ nữ Việt Nam có những GTĐĐTT không tách rời những GTĐĐTT của dân tộc, đó là: yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Trong đó yêu nước cũng là giá trị cốt lõi, tạo lập nên các giá trị khác. Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, cùng với yêu cầu xây dựng con người mới ở nước ta trong thời gian qua đã tác động sâu sắc đến đời sống đạo đức của xã hội nói chung và các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam nói riêng cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong điều kiện kinh tế thị trường các GTĐĐTT của phụ nữ Việt Nam được đánh giá lại và được bổ sung thêm những nội dung mới. Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường cũng đã gây tác động tiêu cực đến việc giữ gìn và phát huy những GTĐĐTT của phụ nữ Việt Nam. Yêu cầu kế thừa và phát huy những GTĐĐ của phụ nữ Việt Nam để tạo dựng nền đạo đức mới của xã hội, xây dựng những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người phụ nữ trong công cuộc đổi mới hiện nay, đòi hỏi phải kế thừa và phát huy những GTĐĐTT trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, yêu cầu của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc góp phần xây dựng nhân cách người phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chương 2 KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG PHỤ NỮ Ở KIÊN GIANG: VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP 2.1. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Tỉnh Kiên Giang nằm ở phía Tây đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 6.222 km2 với hơn 200 km bờ biển và 56 km đất liền biên giới giáp Campuchia; có đồng bằng, rừng, núi, hải đảo, có nhiều danh lam thắng cảnh; có thế mạnh về: công, nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ du lịch; có dân số năm 1999 là 1.487.553 người, nữ chiếm trên 51% gồm ba dân tộc chủ yếu: Kinh 84,41%, Khmer 12,3%, Hoa 29,7%. Họ sống chủ yếu ở nông thôn 79,5%, thành thị 20,5%. 2.1.1. Những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Kiên Giang GTĐĐTT của phụ nữ Kiên Giang không nằm ngoài những GTĐĐTT của phụ nữ Việt Nam. Yêu nước truyền thống của phụ nữ Việt Nam đã được gây dựng theo chiều dài lịch sử. Ở phụ nữ Kiên Giang tinh thần yêu nước đó được khắc sâu từ những ngày mở đất. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, truyền thống yêu nước đó được kế thừa và phát huy sáng tạo trong mọi lĩnh vực. Trong đấu tranh, chiến đấu vũ trang, lao động sản xuất, gánh vác công việc gia đình v.v... Trong những năm chiến tranh ác liệt các chị đã dũng cảm, thông minh sáng tạo áp dụng nhiều hình thức đấu tranh để lấn địch từng phần, đấu tranh chính trị, binh vận... lĩnh vực nào chị em cũng giành được thắng lợi. Đầu năm 1955, những người mẹ, người vợ ở Kiên Giang xúc động nghẹn ngào, tiễn con, đưa chồng và người thân xuống tàu tập kết ra miền Bắc. Người đi, người ở đều lưu luyến dặn dò, hứa hẹn cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ và thủy chung chờ đợi. "Con ra thưa với Bác Hồ Đất này chỉ một lá cờ vàng sao...". Các mẹ, các chị đều hiểu rằng nhất định sẽ có ngày thắng lợi, Nam - Bắc đoàn tụ thống nhất, gia đình sum họp vui vầy. Ở lại miền Nam, chiến tranh ngày càng ác liệt, tội ác của đế quốc Mỹ chất chồng "trời không dung, đất không tha". Nhân dân, các mẹ, các chị lớp lớp xuống đường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh liên tục, đòi chúng thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi dâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgtri dao duc truyen thong cua phu nu.doc
Tài liệu liên quan