Đề tài Tổng quan về lễ hội làng Giang Xá

Tài liệu Đề tài Tổng quan về lễ hội làng Giang Xá: LỜI MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Lễ hội là sự kết tinh từ sản phẩm văn hoá truyền thống của dân tộc. Nó có một vai trò, vị trí khá quan trọng trong đời sống của một cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng làng xã ở nông thôn. Ở vùng nông thôn đồng bằng Sông Hồng, trong suốt một thời gian dài hàng mấy chục năm, do hoàn cảnh khách quan, đặc biệt là do chiến tranh và một số lý do khác nữa mà các lễ hội hoặc không được tổ chức, hoặc nếu có được tổ chức thì quy mô và nhiều nghi thức của nó cũng bị hạn chế. Kết quả là, ở hầu hết các làng xã, loại hình sinh hoạt văn hoá này bị thu hẹp, bị mai một dần. Cho đến giữa những năm 80 của thế kỷ 20, cùng với đường lối đổi mới của Đảng, đời sống của nhân dân có bước chuyển biến rất căn bản. Cùng với sự gia tăng mức sống, quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở nông thôn đã là cơ sở để nhu cầu tâm linh bị dồn nén từ lâu nay được dịp “bung ra”. Sự trở lại với truyền thống thông qua các hoạt động hội lễ là một trong những sự kiện văn hoá nổi bật...

doc128 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1832 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về lễ hội làng Giang Xá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Lễ hội là sự kết tinh từ sản phẩm văn hoá truyền thống của dân tộc. Nó có một vai trò, vị trí khá quan trọng trong đời sống của một cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng làng xã ở nông thôn. Ở vùng nông thôn đồng bằng Sông Hồng, trong suốt một thời gian dài hàng mấy chục năm, do hoàn cảnh khách quan, đặc biệt là do chiến tranh và một số lý do khác nữa mà các lễ hội hoặc không được tổ chức, hoặc nếu có được tổ chức thì quy mô và nhiều nghi thức của nó cũng bị hạn chế. Kết quả là, ở hầu hết các làng xã, loại hình sinh hoạt văn hoá này bị thu hẹp, bị mai một dần. Cho đến giữa những năm 80 của thế kỷ 20, cùng với đường lối đổi mới của Đảng, đời sống của nhân dân có bước chuyển biến rất căn bản. Cùng với sự gia tăng mức sống, quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở nông thôn đã là cơ sở để nhu cầu tâm linh bị dồn nén từ lâu nay được dịp “bung ra”. Sự trở lại với truyền thống thông qua các hoạt động hội lễ là một trong những sự kiện văn hoá nổi bật ở làng quê vùng đồng bằng Sông Hồng thời kỳ đổi mới. Điều này cần được giải thích như thế nào trong bối cảnh văn hoá đương đại. Một mặt, lễ hội có vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá nói chung và đời sống tâm linh nói riêng của người nông dân trong các làng xã đương đại, mặt khác, sự gia tăng sinh hoạt lễ hội trong những năm gần đây cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc và thu hút sự quan tâm của nhiều người. Đó là vì, cùng với những biến đổi mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng nông thôn theo hướng ngày càng hiện đại hoá ngày nay, lễ hội nếu như đã được khẳng định là một bộ phận không thể thiếu của đời sống văn hoá tinh thần, sẽ không thể không biến đổi theo. Sự biến đổi đó đang đặt trước những người quan tâm tới đời sống sinh hoạt văn hoá tinh thần của xã hội một câu hỏi lớn về vai trò của lễ hội trong đời sống xã hội hiện đại cũng như triển vọng của những biến đổi của nó trong tương lai. Trong bối cảnh chung đó, để góp phần vào việc nghiên cứu đời sống văn hoá tinh thần của cộng đồng nông thôn đương đại, tôi đã chọn đề tài “Tổng quan về lễ hội làng Giang Xá” làm nội dung nghiên cứu chính của mình. Thông qua việc nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu về vai trò của lễ hội trong đời sống văn hoá của người dân ở các làng xã, cũng như sự biến đổi của nó trước tác động của quá trình hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở nông thôn đồng bằng Sông Hồng hiện nay. Để hiện thực hoá ý tưởng trên, chúng tôi đã được tham dự lễ hội làng Giang Xá (người dân ở đây thường gọi ngắn gọn là làng Giang) một làng nằm ở vị trí trung tâm của huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây. Trong các thư tịch cổ, lễ hội làng Giang Xá không được ghi chép như một trong các lễ hội lớn và nổi tiếng ở đồng bằng Sông Hồng. Nhưng tầm cỡ của nó cũng cần được ghi nhận bởi đây là một lễ hội tôn vinh Đức Thượng đẳng thần được tôn Thánh, được tổ chức theo qui mô nghi lễ của triều đình. Ngày xưa, phải 5, 10 hay 15 năm lễ hội mới được tổ chức một lần, nay cũng cách nhau 5 năm. Thông qua việc tìm hiểu lễ hội này, khoá luận có thể góp phần ghi nhận những sự kiện văn hoá trong bối cảnh xã hội đương đại với những biến chuyển to lớn. Với việc nghiên cứu đề tài trên, mục đích đặt ra trước hết của khoá luận này là dựng lại một bức tranh sinh động về lễ hội của một làng ở nông thôn, cụ thể là làng Giang Xá thông qua việc mô tả và phân tích các hoạt động cụ thể của nó, từ đây góp phần tìm hiểu những biến đổi của lễ hội so với truyền thống. Và cũng qua nghiên cứu này, chúng tôi muốn khẳng định vai trò của sinh hoạt lễ hội trong đời sống văn hoá tâm linh của những người dân sống trong cộng đồng làng xã nông thôn hiện nay. Đồng thời, từ trường hợp cụ thể của làng Giang Xá, chúng tôi muốn góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết của mình về đời sống của làng Việt, một đề tài lý thú của Bộ môn Lịch sử Văn hoá Việt Nam. Cuối cùng, với nghiên cứu của mình, chúng tôi muốn cung cấp những tư liệu giúp cho các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu văn hoá trong việc bảo tồn, khai thác, kế thừa và phát huy các giá trị của lễ hội truyền thống trong bối cảnh của xã hội hiện đại. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Là một sinh hoạt văn hoá tổng hợp, vừa độc đáo, vừa rất phong phú, đa dạng của dân tộc Việt Nam, lễ hội đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như Văn hoá dân gian, Dân tộc học, Sử học, Xã hội học…Các tác phẩm của các nhà khoa học này với nhiều cách tiếp cận khác nhau đã tạo nên một kho tư liệu khá phong phú về lễ hội của người Việt. Đi ngược lại lịch sử, trong các tác phẩm của các sử gia phong kiến như “Việt sử lược”, “Đại Việt sử ký toàn thư” hay “Đại Nam nhất thống chí”…chúng ta đã gặp các ghi chép về lễ hội trên mọi miền đất nước. Những ghi chép này dù còn sơ lược, tản mạn, nhưng hết sức có giá trị. Nó cho chúng ta thấy được phần nào bộ mặt văn hoá của nước ta khi đó. Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều học giả nước ngoài và trong nước đã đi sâu tìm hiểu, ghi chép lại một số lễ hội nổi tiếng trên đất nước ta. Đó là các công trình của Gustave Dumoutie, Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Văn Huyên, Phan Kế Bính…Các tác phẩm này đã đặt những nền tảng căn bản cho những hiểu biết về lễ hội cổ truyền người Việt. Đầu thập kỷ 80, nhiều tác phẩm nghiên cứu mới về lễ hội đã ra đời, tiêu biểu như tác phẩm: “Lễ hội truyền thống và hiện đại” của Thu Linh và Đặng Văn Lung. Tiếp sau đó, từ năm 1992, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian, đã xuất bản nhiều tác phẩm lý luận, chuyên khảo về lễ hội dân gian, đặc biệt là tác phẩm “Lễ hội cổ truyền” do Lê Trung Vũ chủ biên. Cùng với các tác phẩm trên, nhiều công trình nghiên cứu của Đinh Gia Khánh, Ngô Đức Thịnh, Lê Hồng Lý…đã góp phần quan trọng vào việc nhận diện rõ hơn hội lễ truyền thống cũng như sự vận động của nó trong đời sống hiện đại. Nhìn chung, so với giai đoạn trước, các tác phẩm sau này không chỉ dừng lại ở việc mô tả các lễ hội cụ thể mà đã tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu lễ hội từ phương diện lý luận. Trong đó không ít tác phẩm đã đề cập đến khía cạnh vai trò của lễ hội đối với đời sống của cộng đồng. Cùng với các tác phẩm, các công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo khoa học về lễ hội đã được tổ chức như: “Hội xứ Bắc” bàn về lễ hội dân gian ở Bắc Ninh; hội thảo “ Lễ hội Hà Nội” đề cập đến lễ hội dân gian ở Hà Nội xưa và nay. Nhìn chung, tại các cuộc hội thảo này, các nhà khoa học đã bắt đầu chú ý đến việc nghiên cứu vai trò và sự biến đổi của lễ hội trong bối cảnh của xã hội hiện đại. Đáng chú ý hơn cả là cuộc hội thảo: “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại” do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ chức. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của nhiều học giả Việt Nam và một số học giả đến từ các nước Đông Nam Á. Các nhà khoa học tham gia hội thảo đã bàn về rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu lễ hội như nguồn gốc và bản chất của lễ hội, mối quan hệ giữa tín ngưỡng và lễ hội…Nhưng nội dung đáng chú ý nhất đó là đi sâu vào phân tích nhu cầu về sinh hoạt lễ hội trong xã hội hiện đại cũng như sự biến đổi của các lễ hội để thích nghi với điều kiện hiện tại và tương lai. Tập kỷ yếu của hội thảo đã được sửa chữa, in thành sách và phổ biến rộng rãi trong cả nước. Nó trở thành tài liệu tham khảo có ích đối với các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý về văn hoá trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước hiện nay. Ở một tầm mức thấp hơn, nhiều luận văn tốt nghiệp viết về lễ hội đã được chú ý đúng mức ở Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Văn hoá… Các luận văn này cũng đã góp phần chung vào việc nghiên cứu hội lễ. Rõ ràng là, trong những năm qua việc nghiên cứu về lễ hội ở nước ta đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Những công trình này đã góp phần định vị được giá trị văn hoá truyền thống của con người Việt Nam trên các tài liệu thành văn. Từ đó giúp cho chúng ta có cơ hội nhìn lại mình để có thể phát huy thể mạnh, khắc phục những điểm yếu, kém ; góp phần xây dựng một nền văn hoá thể hiện rõ bản sắc dân tộc. 3. Phạm vi đề tài, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu Trong quá trình khảo sát thực tế để thực hiện đề tài, chúng tôi đã được tham dự lễ hội của làng Giang Xá được tổ chức vào đầu năm 2004, vì vậy, trong bản khoá luận này, những mô tả của chúng tôi sẽ tập trung chủ yếu vào lễ hội cụ thể đó. Ngoài ra, chúng tôi cũng cố gắng có những so sánh với các lễ hội được tổ chức trước đó qua băng ghi hình và qua lời kể của các cụ cao tuổi. Trên thực tế, như phần trên đã trình bày, lễ hội làng Giang Xá hầu như không được ghi chép nhiều trên sách vở. Hơn nữa, đây là một nghiên cứu theo hướng phân tích một hiện tượng văn hoá xảy ra trong hiện tại. Chính vì vậy, để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình, ngoài một số tài liệu thành văn của các tác giả đi trước, nguồn tư liệu mà chúng tôi sử dụng chủ yếu là các tư liệu có được trong quá trình khảo sát thực tế tại địa phương. Để có được các nguồn tư liệu này, trong quá trình thu thập thông tin, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: Phương pháp điền dã; Phương pháp phỏng vấn sâu (khảo sát hồi cố); Phương pháp quan sát tham dự. Ngoài các phương pháp kể trên, trong quá trình viết, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp mô tả; Phương pháp thống kê; Phương pháp phân tích - tổng hợp. 4. Kết cấu của khoá luận Để thể hiện nội dung chính nêu trên, kết cấu của khoá luận ngoài phần Dẫn luận và Kết luận, gồm 3 chương : Chương 1 : Tổng quan về làng Giang Xá Chương 2 : Lễ hội làng Giang Xá Chương 3 : Sự tham gia của người dân vào lễ hội Mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình điền dã, thu thập tư liệu, trong quá trình xử lý thông tin, giải quyết các vấn đề đặt ra, song, đây là một khoá luận tốt nghiệp cử nhân, bản thân người viết còn thiếu kinh nghiệm trong việc nghiên cứu khoa học nên không thể tránh được thiếu sót và hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và các bạn có quan tâm tới chủ đề này. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ LÀNG GIANG XÁ I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ CẢNH QUAN 1.Vị trí địa lý Từ trung tâm thủ đô Hà Nội đi về phía Tây theo quốc lộ số 32 (số 11 cũ), qua Cầu Diễn, Nhổn tới thị trấn Trôi (km số 17), rẽ trái tới cổng Uỷ ban Nhân dân huyện Hoài Đức, rẽ phải chừng 250m, bạn sẽ bắt gặp một cổng tam quan lớn. Đó là làng Giang Xá. Làng Giang Xá trước Cách mạng tháng Tám thuộc tổng Kim Thìa, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông (12,45). Về sau, thôn Giang Xá cùng bốn thôn Cao Xá Hạ, Cao Xá Trung, Lũng Kênh và Lưu Xá nhập thành một xã lấy tên là Đức Giang thuộc huyện Hoài Đức tỉnh Hà Đông. Từ năm 1979, Hoài Đức là một huyện thuộc ngoại thành Hà Nội, mãi tới năm 1991 mới chuyển trả lại cho tỉnh Hà Tây(19,15). Hiện nay, Giang Xá thuộc thị trấn Trạm Trôi, thị trấn huyện lỵ của huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Vị trí hiện nay của làng nằm ở phía Đông của huyện Hoài Đức, phía Tây và phía Nam giáp xã Đức Giang, phía Đông giáp xã Kim Chung (huyện Hoài Đức), phía Đông Bắc giáp xã Tân Lập (huyện Đan Phượng). Với lợi thế về đường giao thông (có quốc lộ 32 và tỉnh lộ 79 chạy qua) lại cách thủ đô Hà Nội không xa, làng Giang Xá có nhiều điều kiện thuận lợi để giao lưu, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. 2. Môi trường cảnh quan Giang Xá nằm giữa hai con sông là sông Hồng và sông Đáy, trên một địa hình tương đối cao và bằng phẳng. Theo các nhà địa chất, đất đai của Giang Xá thuộc loại đất phù sa mới trong đê. Thành phần chính của nó gồm có các lớp sét, limôn và cát xen kẽ, trong cát có vảy mica trắng và hạt thạch anh, phân bố theo cấp hạt, theo địa hình rất ắn khớp với quy luật bồi tụ phù sa, nơi cao là cát, cát pha hoặc sét pha cát, nơi trũng là sét pha nặng hoặc sét (19,37). Tuy nhiên từ lâu đời, các con đê đã làm cho phù sa của các con sông không thể bồi đắp thêm cho các vùng xa bờ, đồng thời nó tạo nên các giồng đất cao. Về mặt khí hậu, cũng như bao làng quê khác ở đồng bằng Sông Hồng, khí hậu của Giang Xá mang tính chất nóng, ẩm với đầy đủ những thuận lợi và khó khăn của nó. Nhiệt độ về mùa hạ tương đối cao do ảnh hưởng của gió Đông Nam, trung bình theo ngày là trên 300C, trung bình tháng khoảng 250C. Về mùa đông, gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ giảm xuống đáng kể, nhiệt độ trung bình theo ngày khoảng 150C, nhiệt độ trung bình tháng là 200C. Với vị trí của mình, Giang Xá nằm trong khu vực ít mưa của tỉnh Hà Tây, lượng mưa trung bình khoảng 1400 mm/ năm. Sở dĩ có hiện tượng này là do ảnh hưởng của các dãy núi phía Tây của tỉnh như Ba Vì, Vĩnh Phúc đã làm cho lượng mưa ở khu vực phía Đông giảm đi đáng kể. Ấn tượng đầu tiên của chúng ta về Giang Xá chính là chiếc cổng làng. Cổng làng không chỉ đơn giản là lối để người dân ra vào, mà hơn thế, nó góp phần tạo nên diện mạo, tạo nên hình ảnh ban đầu cho những người ở nơi khác đến về làng quê đó, cổng làng cũng chính là vật đã chứng kiến những thăng trầm, những đổi thay trong lịch sử của quê hương ((1) Trước đây, theo các cụ cao tuổi kể lại, ở Giang Xá có ba chiếc cổng làng, đều được tán bằng rong tre. Có hai cổng phía Đông và cổng Chùa có làm cánh, còn cổng Quán ở phía Tây thông với ba làng Cao Xá Trung, Cao Xá Hạ và Lưu Xá thì không làm cánh nhưng có điếm canh. Cổng phía Đông là cổng chính, thông ra con đường cống mương dẫn đến ngã tư Trạm Trôi trên con đường Hà Nội Sơn Tây. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, hai trong ba chiếc cổng làng xưa không còn nữa, chỉ còn lại cổng chính phía Đông. Theo lời kể của các cụ thì cổng Đông được xây dựng năm Thành Thái tam niên (1891), cổng làng được xây hai tầng, tầng trên gọi là Thượng lâu, tầng dưới gọi là Hạ lâu, cổng có hai cánh cửa làm bằng lim, có bánh xe, phía bên phải mở một cửa ngách. Cứ mùa hạ thì 7 giờ tối, mùa đông thì 5 rưỡi, 6 giờ, phiên tuần đóng cửa cổng Chùa, mọi người đi về đều phải qua cổng phía Đông. Nếu hỏi đúng là người lương thiện thì người gác cửa mở cửa ngách cho qua. Nếu không đúng hoặc khả nghi thì không cho qua. Đến năm 1953, nhân dịp bốt hương dũng ở ngoài phố Trôi bị giải tán, nhân dân dỡ bốt lấy gạch xây lại cổng làng. ). Cổng Đông hiện nay được xây theo kiểu Tam quan với ba cửa vòm, một chính, hai tả- hữu. Trên Thượng lâu của cổng cũ xây năm Thành Thái có ba chữ đại tự “Xuất đông môn”, nay đổi thành “Giang đông môn” (cổng phía Đông làng Giang). Bước qua cổng làng, con đường vành khuyên sẽ đưa chúng ta đến với các ngõ xóm của làng. Đường làng cổ xưa là đường đất, hai bên đường rào duối, rào tre san sát. Sau dân làng làm con đường lát gạch bằng tiền cheo. Con gái làng đi lấy chồng thiên hạ thì nhà trai phải nộp cheo bằng một đoạn đường gạch, tính bằng tiền. Số tiền này được cho vay lãi, khi nào làng làm đường thì sẵn có tiền đó. Con đường lát gạch đằng trên ở làng đi vào bên tay trái (lư tả) có chiều rộng 1,5 m, vỉa gạch nghiêng do làng và rể thiên hạ tạo nên. Con đường từ cổng làng đi về bên tay phải (lư hữu) được lát gạch năm 1910, có chiều ngang 1,2 m, cũng vỉa gạch nghiêng. Từ đó con đường vành khuyên được hoàn thiện. Đến năm 1987, dân làng lại lát gạch nốt hai bên đường vốn dành cho trâu bò đi và làm rãnh thoát nước. Con đường vành khuyên tuy nhỏ hẹp nhưng sạch sẽ, phong quang, thuận lợi cho việc đi lại luôn là niềm tự hào của người dân Giang Xá ((1) Địa thế cao ráo, bằng phẳng của Giang Xá đã trở thành nơi lý tưởng cho sự quần cư của con người, hình thành nên một khu dân cư đông đúc, được phân bố thành một khối tương đối chặt chẽ bao gồm các xóm được đặt cạnh nhau, mỗi xóm đều có một ngõ xóm riêng. Theo các cụ kể lại, trước đây, mỗi ngõ xóm đều có cổng làm bằng rong tre, hiện nay, các cổng của xóm đều không còn nữa. Tất cả các ngõ dẫn vào các xóm đều được nối với con đường vành khuyên, chúng được toả ra phía bên ngoài con đường đó, còn phía bên trong của con đường vành khuyên là những con đường nhỏ nối liền giữa lư tả và lư hữu, được gọi là đường ruột làng. ). Làng Giang Xá trước đây được chia thành tám xóm : xóm Trong, xóm Quán, xóm Chùa, xóm Đình, xóm Thọ Lão, xóm Vồi, xóm Mả Ranh, xóm Bá. Các xóm này nằm liền kề với nhau. Xóm Đình nằm ngay sát cổng làng phía Đông, sở dĩ có tên gọi như vậy là vì xóm này nằm gần Đình. Xóm Chùa nằm tiếp sau xóm Đình, cũng như xóm Đình, tên của xóm Chùa được gọi căn cứ vào di tích có trong xóm đó. Từ xóm Chùa có con đường thông ra khu đồng Xúm, đây là xóm tương đối rộng và thưa dân của làng Giang Xá. Xóm Trong nằm ở địa thế cao ráo, đây là xóm hình thành sớm nhất của làng, trước đây trong xóm có một hòn đá rất to bắc ngang qua rãnh nước đầu xóm, được gọi là “hòn đá đìa”. Sau xóm Trong là đến xóm Quán, nằm gần Quán, từ xóm Quán có lối đi ra đường tỉnh lộ 79, từ đây có thể đi sang làng Lưu Xá thuộc xã Đức Giang và đi sang xã Kim Chung tương đối thuận lợi. Qua ngõ dẫn vào xóm Quán khoảng 100 m là đến nơi có cổng làng phía Tây trước đây, đây cũng là nơi hai con đường lư tả và lư hữu gặp nhau. Từ đây cũng có thể đi sang hai thôn Cao Xá Trung, Cao Xá Hạ (xã Đức Giang) rất dễ dàng. Nằm ở cuối lư tả, gần cổng làng phía Tây là xóm Thọ Lão, tên gọi của xóm bắt nguồn từ đâu cho đến nay cũng không ai ở Giang Xá còn nhớ được. Xóm Mả Ranh nằm tiếp sau xóm Thọ Lão, theo sự giải thích của dân làng, xóm Mả Ranh vốn trước đây là nơi chốn cất của những trẻ em không may qua đời sớm. Xóm Vồi có khả năng là gọi chệch từ xóm Đồi mà thành, bởi theo trí nhớ của các cụ cao tuổi, xóm Vồi trước đây vốn là một khu đất cao. Xóm Bá là tên gọi của xóm nơi có những người làm nghề hàng xáo, bởi vì chữ Bá có nghĩa là sàng xẩy. Ngoài tám xóm chính, còn có một số xóm hình thành sau này do sự phát triển của dân số, các xóm này nằm bên ngoài cổng làng, dọc theo con đường cống mương. Cho đến nay, ở Giang Xá có trên chục xóm, theo quy hoạch hành chính mới, toàn bộ khu dân cư trong làng Giang Xá được chia thành 4 khu. Khu 1 nằm ở khu vực xóm Đình, khu 2 nằm ở khu vực xóm Quán, xóm Thọ Lão và xóm Mả Ranh, khu 3 bao gồm xóm Trong và xóm Chùa, khu 4 nằm ở khu vực xóm Vồi và các xóm ngoài cổng làng. Ngoài khu vực “làng” như người dân thường gọi, hiện nay còn hình thành một khu “phố” nằm dọc theo con đường quốc lộ 32, nối từ Lai Xá đến thị trấn Phùng. Trên thức tế, đoạn phố này đã có từ rất lâu trước đây với tên gọi là phố Trôi, nhưng chỉ khoảng hơn một chục năm trở lại đây, do nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu cư trú, nhiều hộ gia đình trong làng mới chuyển ra đây sinh sống và làm ăn. Phố Trôi hiện nay được chia thành ba khu là các khu 5, 6, 7. Theo chính quyền địa phương ở đây cho biết, đa số những người sống trên đoạn phố này đều có gốc gác, gia đình ở trong làng, họ chỉ chuyển ra phố để làm ăn buôn bán, còn mọi hoạt động khác đều tập trung trong làng, thậm chí có nhiều người ban ngày làm ăn ngoài phố, tối lại về nhà ở trong làng. Dạo quanh Giang Xá, chúng ta sẽ cảm nhận thấy sự thay đổi đang từng ngày diễn ra ở đây. Hệ thống điện đã đem ánh sáng đến cho từng hộ gia đình, góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Những con đường giao thông cũng được chú trọng xây dựng và cải tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu giữa Giang Xá và các làng xung quanh. Sự đổi thay của Giang Xá còn thể hiện trong việc xây dựng nhà cửa của người dân ở đây. Đến Giang Xá ngày nay, bên cạnh những ngôi nhà gỗ mái ngói cổ truyền, ta có thể bắt gặp những ngôi nhà nhiều tầng được xây rất kiên cố theo kiểu dáng hiện đại. Tuy nhiên điều đặc biệt thú vị ở Giang Xá, đó là xu hướng trở về với truyền thống, rất nhiều các gia đình khi có điều kiện xây dựng nhà mới lại chọn xây những ngôi nhà gỗ 5 gian hay 3 gian theo kiến trúc dân gian cổ truyền. Những ngôi nhà gỗ vẫn ngày ngày mọc lên, hài hoà trong khung cảnh của vườn cây, của ngõ xóm, của đường làng. Sự tồn tại đồng thời của nhiều loại hình nhà cửa, cả truyền thống và hiện đại, đã chứng tỏ sự phát triển mới trong đời sống của người dân nơi đây cũng như ý thức kế thừa và bảo lưu các giá trị văn hoá quý giá mà ông cha ta đã để lại. II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH Lịch sử hình thành làng Giang Xá gắn liền với quá trình khai phá vùng đất ven sông của người Việt. Trước khi có đập Đáy, sông Đáy có tên là Hát Giang, một phân lưu bên bờ phải của sông Hồng. Sông Hát chảy dọc theo phía Tây xuống Đông Nam của huyện Hà Tây trên một đoạn dài 28 km (25,19). Ngã ba nơi con sông Hồng phân lưu thành sông Hát được gọi là ngã ba Hát. Ngã ba Hát là tụ điểm thứ hai sau ngã ba Hạc, tương truyền là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng. Trước khi người Pháp cho xây đập Đáy (năm 1930) tại thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng (cách Giang Xá khoảng 5 km), vào mùa lũ, nước sông Hồng và sông Đáy dâng cao, tràn ngập và hoà vào nhau tạo thành một biển nước mênh mông. Chính vì vậy, cả vùng dọc hai bên con sông Hồng và sông Đáy thuộc các huyện Đan Phượng, Hoài Đức rơi vào cảnh ngập lụt, lầy lội. Theo cách giải thích của các cụ thì đây chính là lý do mà nhiều làng ở vùng này có tên Nôm là Trôi như Trôi Canh, Trối Gối, Trôi Sấu Giá, Trôi Phùng, Trôi Đăm… Riêng làng Giang Xá có tên Nôm là Trôi Giang. Làng Giang Xá là tên gọi chính thức được ghi trong sách vở nhưng cho đến nay, theo các cụ trong làng thì việc giải thích nguồn gốc của tên gọi này còn nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, tên gọi Giang Xá xuất phát từ vị trí của làng, Giang là sông, Xá là làng, Giang Xá là làng ven sông. Thật sự là trước đây ở phía Tây của làng, trước mặt ngôi đền có một dòng sông nhỏ mà người dân vẫn quen gọi là “tiểu giang biên”. Theo các cụ kể lại thì đây chính là một nhánh của Hát giang. Trải qua thời gian, dòng sông này bị lấp dần. Tuy nhiên cho đến nay, dấu tích của nó vẫn còn lại ở một dòng nước chảy- nơi có cây cầu đá bắc qua mà sách vở ghi lại là Cầu Thần và một cái giếng vuông trước của đền. Người khác lại cho rằng làng Giang Xá là tên gọi để chỉ nơi cư trú của dòng họ Giang. Trên thực tế, ở Giang Xá có dòng họ Giang, tuy nhiên dòng họ này cư trú ở đây từ khi nào, có phải là những người đầu tiên khai phá, lập nên làng Giang Xá hay không thì cũng chưa có tài liệu nào giúp ta khẳng định được điều đó. Dưới thời Bắc thuộc, người dân Giang Xá rất tự hào khi trở thành quê hương thứ hai của người anh hùng dân tộc Lý Bí, trở thành nơi Người hưng binh khởi nghĩa đánh đuổi giặc Lương xâm lược. Theo Thần phả do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được khắc vào bia năm Tự Đức thứ 5 (1852), Lý Bí vốn quê ở châu Dã Năng, xứ Kinh Bắc. Bố mẹ qua đời sớm, năm lên 13 tuổi, ông theo Pháp tổ Thiền sư về thụ giáo tại chùa Linh Bảo, nay là chùa Bảo Phúc ở làng Giang Xá. Khi đó giặc Lương đang đô hộ nước ta, căm ghét chế độ đô hộ tàn bạo của giặc phương Bắc, Lý Bí đã triêu tập quân sĩ, anh hùng hào kiệt khắp nơi và chuẩn bị khởi nghĩa chống lại quân xâm lược. Năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, được nhân dân khắp nơi hưởng ứng, nghĩa quân đã bao vây và chiếm được thành Long Biên. Ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (tháng 2 năm 544), Lý Bí đăng quang lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Theo các cụ cao tuổi ở Giang Xá kể lại, sau khi lên ngôi, Lý Nam Đế đã phong cho làng là “Thang Mộc ấp” (đất tắm gội), mảnh đất của đế vương được miễn phu phen, sưu thuế. Đến đời Lê, Giang Xá được sáp nhập vào đơn vị hành chính Lưu Xá xã, tổng Kim Thìa, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), trấn Sơn Tây được đổi thành tỉnh Sơn Tây (1,138). Khi đó Giang Xá thuộc xã Lưu Xá, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Đến năm 1888, thực dân Pháp lấy thành phố Hà Nội làm nhượng địa, hậu quả của việc này là đổi hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, gộp làm huyện Hàm Long, cho phủ Hoài Đức thống hạt thêm huyện Đan Phượng của phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, dời tỉnh lý Hà Nội đến xứ Cầu Đơ và đổi tên tỉnh Hà Nội làm tỉnh Hà Đông gồm 4 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hoà và Mỹ Đức (1,166). Như vậy, từ 1888, Giang Xá là một thôn của tổng Kim Thìa, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Trước 1945, Giang Xá tách khỏi xã Lưu Xá, trở thành một xã thuộc tổng Kim Thìa, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông. Về sau, Giang Xá cùng 4 thôn: Cao Xá Hạ, Cao Xá Trung, Lũng Kênh và Lưu Xá nhập thành một xã lấy tên là Đức Giang thuộc huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (21,97). Năm 1976, tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khoá VI, quyết định sáp nhập hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình thành một đơn vị hành chính, lấy tên là tỉnh Hà Sơn Bình (19,15). Năm 1979, huyện Hoài Đức trở thành một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội. Đến năm 1991, tại kỳ họp thứ 9 (khoá VII), Quốc hội đã chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hà Tây và tỉnh Hoà Bình, chuyển trả lại cho tỉnh Hà Tây huyện Hoài Đức (19,15). Như vậy, cho đến năm 1991, Giang Xá là một thôn của xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Ngày 26 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định 52 CP về việc điều chỉnh địa giới huyện và thành lập thị trấn huyện lỵ của huyện Hoài Đức, làng Giang Xá được tách khỏi xã Đức Giang và thành lập nên thị trấn Trạm Trôi (19,16). Làng Giang Xá hiện nay là nơi quần cư của trên ba mươi dòng họ, nhưng trong đó có chín dòng họ chính là những người đầu tiên đến sinh sống trên mảnh đất này. Đó là các họ: Nguyễn, Đỗ, Bùi, Giang, Lê, Hồ, Trần, Trịnh, và họ Cao (riêng họ Trịnh đến nay không còn). Các dòng họ này lại được chia thành nhiều dòng, nhiều chi khác nhau, có chín chi họ Nguyễn, sáu chi họ Đỗ, hai chi họ Bùi, họ Giang, họ Lê, họ Hồ, hai chi họ Trần, họ Trịnh, họ Cao, tất cả có 24 dòng. Các dòng họ này đều độc lập trong sinh hoạt, mỗi họ lại có ruộng giỗ chạp riêng. Sau cải cách ruộng đất, có thêm họ Hoàng và họ Phạm, cùng với quá trình phát triển, ngày càng có nhiều dòng họ từ các nơi khác đến định cư tại Giang Xá. Các dòng họ ở làng Giang được phân bố vào các giáp, trước đây, có tất cả là chín giáp. Đó là các giáp Nhất (thường gọi là giáp Đông), Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy, Tám và giáp Cửu. Cách đây khoảng 80 năm, giáp Cửu ít người quá nên làng cho sáp nhập vào giáp Ba, từ đó làng còn lại tám giáp, thường gọi là “bát giáp”. Giáp Đông gồm có bốn dòng họ Nguyễn. Giáp Hai gồm có họ Nguyễn Đức và họ Trịnh, nhưng đến nay họ Trịnh không còn ai nữa. Giáp Ba có ba dòng họ: họ Nguyễn, họ Trần, họ Đỗ. Giáp Tư gồm có họ Nguyễn Phú (thường gọi là Nguyễn lớn), Nguyễn Hữu (thường gọi là Nguyễn con) và họ Giang. Giáp Năm có ba họ là họ Đỗ Phú, họ Bùi Trung và họ Hồ. Giáp Sáu có hai họ, họ Lê và họ Đỗ. Giáp bảy gồm các họ : họ Trần và hai họ Đỗ. Cuối cùng là giáp Tám, gồm có họ Bùi, họ Nguyễn và họ Cao. Bát giáp ở Giang Xá lại được chia thành hai vách, vách Thượng và vách Hạ. Vách Thượng gồm các giáp: Đông (Nhất), Ba, Năm, Bảy, đứng đầu là giáp Đông, còn gọi là Đông Thượng giáp. Vách Hạ bao gồm các giáp: Hai, Tư, Sáu, Tám, đứng đầu là giáp Tư, gọi là Tây Thượng giáp. Việc phân chia thành hai vách như trên được căn cứ vào vị trí của hướng đình làng. Đình làng Giang Xá nằm theo hướng Đông Bắc, có lẽ ngày xưa các cụ thấy mặt trời mọc ở đầu đình dưới nên lấy bên phải đình làm vách Thượng, bên trái đình làm vách Hạ. Các giáp ở Giang Xá trước đây đều có nhà thờ Tổ giáp riêng, có ruộng giáp để “canh điền biện lễ”. Trong mọi sinh hoạt công cộng của làng, các giáp luôn là lực lượng nòng cốt, đảm nhiệm mọi công việc chính. Từ năm 1956, qua cải cách ruộng đất, các giáp không còn nữa, nhà thờ giáp phần thì bị phá bỏ, phần thì do chính quyền địa phương sử dụng làm văn phòng, các giáp không còn vai trò trong việc thù ứng việc làng nhưng vẫn đóng một vai trò ngầm ẩn trong các hoạt động cộng đồng, nhất là lễ hội. Ngoài giáp, trước cải cách ruộng đất ở Giang Xá còn có nhiều tổ chức phi quan phương khác như phiên, lềnh, hội Tư văn, hội Văn chỉ, hội hàng hiệu.... Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, làng Giang Xá đã trải qua biết bao thăng trầm. Nó cũng giống như nhiều làng quê khác trên quê hương Việt Nam, trải hết bom đạn của cuộc kháng chiến chống Pháp lại đến kháng chiến chống Mỹ. Nhưng vượt qua tất cả những khó khăn đó, người dân Giang Xá luôn dũng cảm vươn lên trong sản xuất, chiến đấu và xây dựng quê hương. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhân dân Giang Xá đã huy động hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, đã động viên hàng nghìn lượt con em của quê hương lên đường cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Từ sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc Đổi mới, nhân dân Giang Xá cùng nhân dân cả nước bước vào một giai đoạn lịch sử mới, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp hơn. III. CƠ CẤU DÂN CƯ Tính đến 31 tháng 12 năm 2003, dân số của Giang Xá là 4221 người, toàn thị trấn có 1049 hộ, trong đó số khẩu nông nghiệp là 3673 khẩu, còn lại là công nhân, viên chức nhà nước, buôn bán, dịch vụ. Như vậy có thể thấy về cơ bản, Giang Xá vẫn là một xã hội nông nghiệp - nông thôn. Làng Giang Xá có 286 người theo Thiên Chúa giáo do Ban hành giáo, ông trùm và các vị chức sắc họ đạo quản lý. Phần lớn những người theo đạo Thiên Chúa sống tập trung tại xóm Trong và xóm Quán. Từ biết bao nhiêu đời nay, hai cộng đồng lương và giáo luôn sống hoà thuận, đoàn kết gắn bó với nhau. Trong những năm gần đây, tỷ lệ phát triển dân số của Giang Xá giảm đáng kể. Năm 2000, tỷ lệ tăng dân số của thị trấn là 1,19 %, đến năm 2002 tăng lên tới 1,2%. Nhờ các biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân, đến năm 2003, tỷ lệ tăng dân số của Giang Xá đã giảm rõ rệt, chỉ còn 1,02 %. Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các luồng vận động dân cư là một xu thế không thể tránh khỏi. Theo thống kê của cán bộ quản lý hộ tịch thị trấn, trong năm 2003, có 76 trường hợp người dân Giang Xá xin đăng ký tạm vắng, trong đó có 37 trường hợp xin tạm vắng với lý do đi làm ăn kinh tế, phần lớn những người này đến Hà Nội (20 trường hợp), thậm chí còn có người vào tận thành phố Hồ Chí Minh (4 trường hợp). Cũng trong năm 2003, có 271 trường hợp xin đăng ký tạm trú, đa số họ đến để thuê nhà ở hoặc để làm thuê cho các cơ sở dịch vụ xay xát đóng trên địa bàn thị trấn. Các luồng dân cư đến và đi ở Giang Xá ngày nay đã phần nào tác động đến đời sống kinh tế - xã hội ở đây, nó tạo ra hình ảnh về một cộng đồng đa dạng về nghề nghiệp và lối sống, có sự giao lưu, mở cửa với thế giới bên ngoài. IV. ĐỜI SỐNG KINH TẾ Nằm ở vùng đồng bằng với những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nên nguồn sống chủ yếu của người dân Giang Xá là nghề trồng lúa nước. Ngoài ra người nông dân ở đây còn phát triển thêm chăn nuôi gia súc, gia cầm để tạo thêm thu nhập cho cuộc sống. Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại, trước đây đất đai của Giang Xá rất rộng, lên tới trên 400 mẫu, trong đó có trên 300 mẫu là đất ruộng lúa. Nhưng sau này, cùng với quá trình phát triển của dân số, nhu cầu cho xây dựng nhà cửa, các công trình công cộng, một phần lớn đất dùng cho nông nghiệp được sử dụng vào mục đích xây dựng các công trình nhà ở, trường học, trụ sở làm việc. Chính vì vậy, cho đến nay, toàn bộ diện tích dành cho nông nghiệp ở Giang Xá chỉ còn lại có 87 ha, trong đó phần lớn là đất trồng lúa, chỉ có khoảng 4 ha trồng màu. Sự thu hẹp của đất nông nghiệp làm cho diện tích bình quân của các hộ nông dân cũng giảm xuống. Hiện nay, trung bình mỗi khẩu nông nghiệp ở Giang Xá được chia 9 thước ruộng. Tuy nhiên, vượt qua những hạn chế về mặt diện tích, những khó khăn, bất lợi về mặt thời tiết, người nông dân Giang Xá đã biết áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật, đưa các loại giống mới vào đồng ruộng để đảm bảo năng xuất và sản lượng lương thực. Bảng: Diện tích, năng xuất, tổng sản lượng lương thực (từ 2000 đến 2003) Năm Diện tích (ha) Năng xuất bình quân (tấn/ ha) Tổng sản lượng (tấn) 2000 176,5 5,5 950 2001 145,3 8,7 741 2002 176,5 5,4 918 2003 176,5 5,25 872,4 (Nguồn : Báo cáo tổng kết hàng năm từ năm 2000 đến 2003 của Uỷ ban Nhân dân thị trấn Trạm Trôi) Để giải quyết những khó khăn trong việc trồng lúa do diện tích đất đai hạn chế, nhiều hộ nông dân ở Giang Xá đã biết chuyển hướng sang nuôi cấy nấm rơm, bước đầu đã cho kết quả tốt. Bên cạnh đó, chăn nuôi theo hướng công nghiệp cũng được chú trọng, hàng năm, số lượng đàn trâu, bò, đặc biệt là đàn lợn không ngừng tăng lên, Ngoài ra còn có các loại gia cầm như gà, vịt… Vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện giao lưu rộng rãi đã tạo điều kiện cho Giang Xá phát triển các ngành dịch vụ và thương nghiệp. Toàn thị trấn hiện nay đã hình thành một khu vực dịch vụ xay xát với 43 cửa hàng nằm dọc theo con đường từ ngã tư Trạm Trôi đến trước cổng làng. Những người hoạt động xay xát ở đây đa số là người làng, một bộ phận là người ở nơi khác đến thuê cửa hàng. Phương thức kinh doanh của họ chủ yếu là xay xát gạo thuê, ngoài ra họ còn kinh doanh gạo bằng cách đi thu mua thóc ở các nơi khác về xay xát, sau đó bán gạo thành phẩm cho các nơi đã đặt hàng trước. Ngoài xay xát, còn có hai ngành dịch vụ đóng góp đáng kể vào nền kinh tế của làng, đó là các nhà hàng dịch vụ ăn uống và các quán cafe, giải khát. Hiện nay có khoảng 10 hộ gia đình kinh doanh ăn uống và 5 hộ kinh doanh dịch vụ giải khát. Các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ trên đã góp phần quan trọng vào việc đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, đồng thời tạo điều kiện cho việc đa dạng hoá các ngành nghề ở nông thôn, khắc phục những khó khăn của tình trạng thuần nông mang lại. Trên thực tế, một vài năm trở lại đây, các ngành dịch vụ luôn có những đóng góp quan trọng vào nền kinh tế của Giang Xá. Bảng : Tổng giá trị nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ năm 2002 – 2003 (Đơn vị: Tỷ đồng) Năm Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ 2002 4 7 4 2003 4 16 5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm, năm 2002 và 2003 của Uỷ ban Nhân dân thị trấn Trạm Trôi) Bên cạnh các cơ sở kinh doanh, dịch vụ đóng cố định trên địa bàn thị trấn, một trong những ngành nghề quan trọng của người dân Giang Xá là buôn bán nhỏ. Các mặt hàng buôn bán chủ yếu của những người này là những sản phẩm do chính họ làm ra, chủ yếu là các loại bánh trái như: bánh dày, bày xu xê, bánh bỏng… Ngoài ra, việc buôn bán các loại hàng khô, các loại rau quả gia vị như chanh, ớt, gừng… cũng khá phổ biến. Theo ước tính, mỗi ngày có khoảng 200 người từ Giang Xá đi đến các chợ quanh vùng như chợ Diễn, chợ Nhổn, hay ra Hà Nội để buôn bán các mặt hàng đó, đa số họ đều là phụ nữ ở độ tuổi từ 18 đến 50. Đến Giang Xá ngày nay ta sẽ thấy những nét khởi sắc mới trong đời sống kinh tế của một làng quê đang từng bước đi lên trên con đường đổi mới nông nghiệp, nông thôn. Từ một làng vốn sống dựa vào nông nghiệp trồng lúa nước, đến nay, Giang Xá đã trở thành một làng đa ngành, đa nghề, người dân nơi đây đã biết khắc phục những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, biết tận dụng những lợi thế về vị trí địa lý của mình để phát triển thêm nhiều ngành nghề mới, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thêm thu nhập cho gia đình và xã hội. V. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA XÃ HỘI Cùng với những bước tiến vững chắc trên lĩnh vực kinh tế của Giang Xá, gương mặt của làng xã, của đời sống tinh thần ở nơi đây ngày càng phát triển. Sự đổi mới trước hết được thể hiện ở sự thay da đổi thịt sâu sắc trong đời sống cộng đồng. Ở Giang Xá bây giờ không còn cảnh nhà tranh vách đất, các hộ nghèo, hộ khó khăn cũng giảm đi đáng kể. Tính đến năm 2003, số hộ nghèo theo tiêu chí mới chỉ còn 33 hộ, chiếm 3,6 %. Rất nhiều gia đình ở Giang Xá hiện nay không còn xa lạ với các phương tiện sinh hoạt hiện đại, hơn 90% số hộ gia đình có ti vi màu, 40% số hộ có đầu VCD, khoảng 30 % số hộ có xe máy, nhiều hộ gia đình có điện thoại, máy giặt…Thu nhập bình quân của người dân cũng ngày càng tăng lên, tính đến năm 2002, bình quân thu nhập đầu người ước đạt 2,7 triệu đồng/ năm. Những thay đổi to lớn đang từng ngày diễn ra trong đời sống của người dân Giang Xá là những bằng chứng sinh động cho quá trình phát triển kinh tế theo xu thế mới ở nơi đây. Khi đời sống ngày càng được nâng cao, hơn bao giờ hết, người dân Giang Xá đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Trên địa bàn thị trấn có một nhà trẻ, một trường tiểu học được xây dựng khang trang. Hàng năm thị trấn luôn giành một phần đáng kể của ngân sách để đầu tư xây dựng, sữa chữa các phòng học, sân trường, nơi vui chơi và dành cho công tác khuyến học. Kết quả của sự đầu tư đó là hàng năm, số lượng trẻ em đến trường mẫu giáo và tiểu học ngày càng tăng lên. Bảng: Số lượng học sinh của trường Mẫu giáo và Tiểu học (từ 2000 đến 2003) Năm Mẫu giáo Tiểu học 2000 294 495 2001 290 529 2002 367 535 2003 393 535 (Nguồn : Báo cáo tổng kết hàng năm từ 2000 đến 2003 của Uỷ ban nhân dân thị trấn Trạm Trôi) Không chỉ tăng về số lượng, chất lượng giáo dục cũng được chú trọng đẩy mạnh. Tính đến năm 2003, trường tiểu học có 28 cán bộ giáo viên, trong đó 72,5 % là giáo viên dạy giỏi, 27,1 % đạt loại khá. Về chất lượng học sinh giỏi, cấp tỉnh có 9 em, cấp huyện có 15 em. Trường tiểu học thị trấn xếp thứ nhất toàn huyện về tỷ lệ học sinh giỏi cấp tỉnh. Ngoài trường mẫu giáo và tiểu học nằm ngay trên địa bàn thị trấn, con em của Giang Xá còn được học tập tại các trường THCS và PTTH của huyện cũng nằm cách làng không xa. Cùng chăm lo cho thế hệ tương lai, việc chăm lo sức khoẻ cho nhân dân cũng được hết sức quan tâm. Về hệ thống y tế, Giang Xá đã có trạm xá với một bác sĩ, một cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Số lượt người được khám chữa bệnh hàng năm tại trạm y tế ngày càng tăng, từ 1903 lượt người năm 2000 đã tăng lên 3525 lượt năm 2002, và 3795 lượt năm 2003. Trang thiết bị của trạm xá cũng thường xuyên được Trung tâm y tế huyện Hoài Đức đầu tư mua mới hoặc nâng cấp. Là một làng cổ với truyền thống văn hoá được lưu giữ nghìn xưa, trong cuộc sống hiện nay, người dân Giang Xá đang từng bước xây dựng cho mình một đời sống văn hoá mới, vừa kế thừa được các giá trị của ông cha, vừa phù hợp với lối sống hiện đại, năng động. Trong bối cảnh đó, các tổ chức đoàn thể như Đảng, Đoàn Thanh niên, Đội thiếu niên … đã có những đóng góp đáng kể vào việc xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú của làng quê. Ngoài các đoàn thể trên, ở Giang Xá còn có các Hội Đồng canh (hay Hội đồng niên), là tập hợp những người cùng lứa tuổi, các Hội Đồng canh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì những phong tục tập quán tốt đẹp, góp phần tạo nên một cuộc sống bình đẳng, đoàn kết, bác ái giữa các thành viên trong xóm làng. VI. DI TÍCH LỊCH SỬ Nằm trên một vùng đất có truyền thống lâu đời, từ xa xưa, trong tâm thức của mình, người dân Giang Xá luôn tự hào là quê hương thứ hai của người anh hùng dân tộc Lý Nam Đế. Hiện nay ở Giang Xá còn lưu giữ được một hệ thống các di tích lịch sử gắn liền với thân thế và sự nghiệp của Người bao gồm đình và đền Giang Xá, chùa Bảo Phúc, cầu Thần. Ngoài ra, ở Giang Xá còn có nhiều di tích khác thể hiện sự phong phú của đời sống văn hoá, tâm linh của người dân nơi đây như nhà thờ Thiên chúa giáo, các gò xóm… Các di tích lịch sử này là sự kết tinh truyền thông văn hoá của cộng đồng dân cư Giang Xá. 1. Đền Giang Xá Đền hay gọi còn là Quán Giang, nằm ở phía Tây của làng, hướng quay về phía Tây Nam. Đền Giang Xá là công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng của dân làng, là nơi tôn thờ, nơi tưởng niệm chính về Lý Nam Đế - vị anh hùng dân tộc, người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Lương ở thế kỷ thứ 6 ((3) Theo truyền thuyết dân gian ở địa phương và căn cứ vào tấm bia đá của đền dựng năm Tự Đức thứ 5 (1852), Quán Giang xưa nằm ở khu đất cao trong vùng, chính là nơi Lý Bí làm lễ mật đảo thiên địa ngày 4 tháng 2 năm 542 để dựng cờ khởi nghĩa, được trời đất ủng hộ, mây ngũ sắc phủ trên chính đàn. Cũng chính nơi đây, ngày 10 tháng 3 năm 542, Lý Bí đã làm cơm chay trong đó có canh bầu xanh để bái tạ Thiền sư, trương kì hưng binh, chính vì vậy, trong vùng nới có câu ca rằng : “ Kẻ Gối có tiệc du qua, kẻ Trôi có tiệc tháng ba canh bầu” (du qua là một tên gọi khác của quả bầu). Được nhân dân và hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, thanh thế của nghĩa quân phát triển rất nhanh chóng. Sau khi đánh chiếm được các địa phương, nghĩa quân tiến về bao vây châu thành Long Biên. Quân Lương đại bại, Thứ sử Giao Châu khi đó là Tiêu Tư sợ hãi bỏ chạy về Quảng Châu. Nghĩa quân của Lý Bí kéo về giải phóng Long Biên. Được tin Long Biên mất, vua Lương vội sai các tướng Trần Hầu, Ninh Cự, Lý Tri, Nguyễn Hán mở cuộc phản công từ hai phía bắc, nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân. Nhưng chúng đã bị nghĩa quân đánh bại hoàn toàn. Bị thua đau vào năm Nhâm Tuất, năm thứ 2 (542) (Lương Đại Đồng năm thứ 8), mùa đông, tháng 12, Lương Võ đế sai Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sang lấn. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố, mười phần chết đến sáu, bảy phần, quân tan rã mà trở về . Vua (Lương Võ Đế) bắt bọn họ đều phải tự tử (5,255). Tháng giêng năm Giáp Tý (544), Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, gọi là Lý Nam Đế, lấy niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở xứ cửa sông Tô Lịch và phong thưởng cho các tướng sĩ. Sau đó, Lý Bí đem quân đi trấn áp, đánh dẹp các lực lượng chưa thuần phục ở các địa phương. Mùa hạ năm 545, vua Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân sang đánh nước ta. Được tin này, Lý Bí kéo 3 vạn quân ra trấn giữ Chu Diên, đánh nhau rất dữ dội với quân của Trần Bá Tiên. Bị thua lớn ở đây, Lý Bí kéo quân về trấn giữ vùng cửa sông Tô Lịch. ở đây Lý Bí lại thua trận, phải chạy về Giang Xá. Quân Lương đuổi theo, Lý Bí chạy về thành Gia Ninh (Bạch Hạc). Đầu năm 546, Lý Bí chạy về thành Tân Xương (Vĩnh Phúc) mộ thêm quân chiến đấu. Mùa thu năm 546, Lý Bí đem 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt (Vĩnh Phú). Quân Lương tiến đánh, vì thiếu cảnh giác, quân Lý Bí tan rã. Biết tình thế khó kéo dài, Lý Bí giao binh quyền cho tướng Triệu Quang Phục rồi chạy lên vùng động Khuất Lão (Tuyên Quang) và qua đời tại đó. ). Đền Giang Xá cùng những di vật hiện nay còn lưu giữ được là một nguồn tư liệu quý báu góp phần không nhỏ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của nhân vật Lý Bí, đồng thời nó cũng là một công trình kiến trúc có giá trị to lớn về mặt nghệ thuật. Di tích thờ Lý Nam Đế có ở rất nhiều nơi vùng châu thổ Sông Hồng. Riêng tại Giang Xá, ngay từ sau khi Lý Bí rút quân về Giang Xá năm 545, nhân dân đã lập ngôi sinh từ để thờ sống Người. Sau khi Người qua đời, tháng 12 cùng năm, anh là Lý Thiên Bảo đăng quang kế vị tức Đào Lang Vương, ban cho Giang Xá nghinh sắc chỉ “Quốc vương Thiên tử Tiền Lý Nam Đế Thánh vị” về thờ. Nhân dân cải tạo ngôi sinh từ thành ngôi đến chữ Tam ( ) gồm ba dãy nhà Thượng, Trung, Hạ, mỗi ngôi ba gian hai dĩ thẳng đốc, có chiều dài, rộng, cao bằng nhau, nền cũng bằng nhau. Đến năm 1944, đền xuống cấp nghiêm trọng, nhân tu sửa lại, xây theo kiểu chữ Đinh ( ). Đền Giang Xá hiện nay là một công trình tôn giáo, nghệ thuật rất có giá trị với nhiều mảng kiến trúc kết hợp với nhau tạo thành một tổng thể hài hoà, bao gồm : Tam quan, sân đền, Tiền tế, Đại bái, Hậu cung. Tam quan của đền gồm 4 cột trụ xây bằng gạch. Hai trụ giữa cao to. Trên mỗi trụ này là bốn con chim phượng chụm đuôi vào nhau, đầu phượng quay ra bốn hướng tạo thành hình quả dành. Hai cột trụ hai bên thấp, nhỏ hơn và cũng được làm đơn giản. Giữa trụ chính và trụ bên là bức tường gạch xây. Qua Tam quan là tới sân đền. Sân đền được lát bằng gạch chỉ. Mép ngoài sân là một bức tường xây gạch. Chính giữa tường là bức bình phong được xây theo kiểu cuốn thư, hai bên có trụ gạch. Liền với sân đền là nhà Tiền tế. Tiền tế là một ngôi nhà cao, thoáng gồm 5 gian. Đó là một ngôi nhà được làm theo kiểu nhà đầu hồi bít đốc. Hai đầu hồi nhà xây tường gạch theo kiểu tay ngai, phía trước có cột trụ biểu. Bên trong, bộ khung nhà Tiền tế được xây khá vững chắc với 4 hàng chân cột ngang và sáu hàng chân cột dọc. Cách nhà Tiền tế một khoảng sân hẹp là nhà Đại bái của đền. Đại bái được dựng trên một nền đất cao, xây gạch bó vỉa. Đại bái là một ngôi nhà ba gian 2 chái được làm theo kiểu nhà đầu hồi bít đốc với 4 lá mái. Phần mái của Đại bái được làm khá đẹp, các góc mái uốn cong, đắp nổi hình đầu rồng đuôi cá (con kìm). Nối liền với gian giữa nhà Đại bái và gồm 3 gian chạy dài về phía sau là phần Hậu cung của đền. Hậu cung và Đại bái nối liền nhau tạo thành kiểu kết cấu hình chữ Đinh (hay còn gọi là chuôi vồ). Tại gian cuối cùng của Hậu cung được ngăn kín tạo thành khám thờ. Hậu cung là phần thờ tự chính của đền, tại đây có các nhang án, sập thờ, các đồ tự khí, long ngai bài vị, đặc biệt trong khám thờ có bức tượng tương truyền là của Lý Nam Đế. Tượng được đúc bằng đồng liền khối, cao 1,8 m (tính cả bệ đá). Tượng được tạo ở tư thế ngồi ung dung ngay ngắn, hai tay tượng đặt ngửa tự nhiên trước bụng. Đầu tượng đội mũ cánh chuồn. Mặt tượng hình trái xoan có trán cao, mắt sáng, mũi nở, tai to chảy dài như tai Phật và râu thành ba chòm dài. Thân tượng mặc áo triều phục, ngực chạm hình rồng cuộn, chân tượng đi hài. Trải qua các thời kỳ thăng trầm, thịnh suy của lịch sử, đến nay, đền Giang Xá còn bảo lưu được một khối lượng di vật đồ sộ, phong phú và đa dạng về loại hình, chất liệu như các bộ long ngai bài vị, 3 bộ kiệu rước đời Lê, nhiều nhang an, nhiều bức cuốn thư, hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, đặc biệt có tấm bia đá ghi lại sự tích về thân thế và sự nghiệp của Lý Nam Đế do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn và được khắc vào năm Tự Đức thứ 5. 2. Đình Giang Xá Đình Giang Xá nằm ngay sau cổng làng phía Đông, trông về hướng Đông Bắc, vừa qua cổng làng đã tiếp cận với khuôn viên đình. Đầu tiên là khoảng sân hẹp với cây si lớn, sau đó là chiếc giếng vuông theo dạng giếng đất được xây thành bao quanh hai góc, trong có hệ thống bậc lên xuống. Xung quanh giếng có đường bao quanh, từ giữa đoạn đường phía sau giếng được xây hai trụ hoa biểu cỡ to làm cổng đình. Từ trụ hoa biểu chạy sang hai bên rồi vòng về đằng sau bao quanh cả Hậu cung là bức tường thấp làm ranh giới nội vi đình. Vừa qua cổng, hai góc sân trước đình là hai nhà tả - hữu mạc, có tường bao quanh, trổ cửa phía trước được dùng như nhà kho hay nhà làm việc. Cuối sân đình là kiến trúc chính bề thế gồm Đại đình gắn với Hậu cung theo kiểu chữ Đinh ( ). Đại đình dàn ngang 5 gian lại thêm 2 dĩ, bộ mái xoè rộng, kéo xuống thấp, toả về bốn phía tạo các hoa đao uốn bay cổ kính mà duyên dáng. Phía trước lắp cửa bức bàn, hai bên và phía sau xây tường. Từ giữa đường hồi có của phụ để ra vào thường ngày. Trừ gian giữa là lòng đình lát gạch đến cột cái trong, phần còn lại là các gian bên có sàn gỗ ba cấp cao dần ra xung quanh. Lòng đình được mở rộng, mỗi vì có 6 hàng cột, lòng đình được xây thấp hơn hai vách hai bên khoảng 50 cm. Từ lòng đình chạy thẳng vào trong là Hậu cung, nơi thờ Long ngai Thánh vị của Lý Nam Đế. Trước cửa Hậu cung có cửa võng, dưới có nhang án sơn son thếp vàng lộng lẫy, bên trái có bức hoành phi 4 chữ: “Vạn Xuân triệu thống” (Đặt nền Vạn Xuân), bên phải có bức hoành phi 4 chữ: “Thiên Đức kiến nguyên” (Mở hiệu Thiên Đức). Hai gian bên của đình bên phải được gọi là vách Thượng, bên trái là vách Hạ, nền của cả hai bên đều được lát bằng gỗ ba bề, ba cấp thấp dần từ trong ra ngoài, dưới sàn có các xà ngang, dọc để đình thêm vững chắc. Trước đây hai bên vách Thượng, Hạ là nơi đặt ban thờ của bát giáp trong các dịp lễ tiết quan trọng của làng. Từ sau cải cách ruộng đất, bát giáp ở Giang Xá không còn, người dân lập ở mỗi bên vách một ban thờ rồi rước bát nhang của các vị tổ họ trong làng về thờ chung, nhân dân vẫn quen gọi là ban thờ giáp. Ở gian bên phải của đình còn đặt bàn thờ Thần Nông (còn gọi là Tiên Ông), vào những ngày lễ tiết quan trọng của làng đặc biệt là vào các dịp “xuống đồng”, “lên đồng”, “xôi mới”, người dân đều có lễ bên ban thờ Thần Nông để cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Ngoài những giá trị về mặt kiến trúc, nghệ thuật, hiện nay đình Giang Xá còn lưu giữ được nhiều di vật rất có giá trị. Đó là 22 đạo sắc phong do các đời vua từ triều Lê cho đến triều Nguyễn phong tặng cho Thành hoàng của làng là Lý Nam Đế. Cùng với các đạo sắc phong trên, trong đình còn nhiều hiện vật khác như các bức hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, các nhang án, đặc biệt có con ngựa gỗ sơn trắng được tạo tác rất công phu, sinh động. 3. Chùa Bảo Phúc Chùa Bảo Phúc còn có tên Nôm là chùa Cả, là hậu thân của chùa Linh Bảo trước kia. Theo truyền thuyết trong nhân dân và theo Thần phả hiện còn lưu giữ tại đền Giang Xá, thì chùa có từ trước thế kỷ thứ 6 với tên gọi là Linh Bảo tự, là nơi Pháp tổ Thiền sư trụ trì. Sau này, Pháp tổ Thiền sư có mang theo một chú tiểu tên là Lý Bí về dạy dỗ. Sau khi trưởng thành, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa chống lại quân Lương xâm lược, lập nên nước Vạn Xuân. Về sau bị quân Lương tấn công, Lý Bí lại lui về Giang Xá để bảo toàn lực lượng. Nhân dân Giang Xá tưởng nhớ công ơn của Lý Bí mới cho dựng ngôi sinh từ ngay trên mảnh đất của chùa, còn chùa Linh Bảo khi đó đã bị hư nát, nhân dân mới chuyển ra đầu làng ở vị trí hiện nay, đổi tên là chùa Bảo Phúc. Nơi dựng chùa Bảo Phúc hiện nay là một doi đất cao, phía trước nhìn qua dòng mương và ao nước ra cánh đồng ruộng. Chùa được xây quay về hướng Bắc, nhưng cửa vào chùa là hướng Đông, bên tả có ao chùa và đồng ruộng, bên hữu là ngõ xóm nhà dân đông vui. Quả chuông to ở chùa đúc năm Minh Mệnh thứ ba (1822) có bài minh cho biết: Chùa Bảo Phúc vốn là một ngôi chùa to liệt hạng, cuối thời Lê loạn lạc triền miên, chùa bị hư hại. Chùa xưa có Tam quan trên treo quả chuông to đã bị mất. Trong Tam bảo thờ Phật, dưới nhà thờ Thiền sư pháp tổ có công dạy vua Tiền Lý….ngày nay dâu bể đã qua, thanh bình trở lại, chùa Bảo Phúc được xây dựng thành cơ sở trường hạ của Hội Phật giáo tỉnh Hà Tây. Khu vực chính của chùa là Tam bảo xây theo kiểu chữ Công ( ). Phía sau là một dãy các nhà Tổ, điện Mẫu, tăng phòng, nhà khách. Ngoài ra còn có nhà kho, bếp, công trình phụ, giếng nước, vườn ruộng…tất cả chiếm diện tích hơn hai mẫu. Trong Tam bảo có đầy đủ những tượng của một ngôi chùa thông thường với các bộ Tam Thế, Di Đà tam tôn gồm A Di Đà ngồi giữa, các tượng Quan Thế Âm ở bên trái, Đại Thế Chí ở bên phải; tượng Đức Phật thế tôn ở giữa, Văn Thù ở bên trái, Phổ Hiền ở bên phải; Di Lặc, Phật Bà Quan Âm với Kim Đồng và Ngọc Nữ; Thích ca sơ sinh trong vòng cửu long; Ngọc Hoàng với Nam Tào và Bắc Đẩu. Hai bên toà Thiêu hương có hệ thống tượng Thập Điện Diêm Vương. Ngoài nhà Tiền đường có các Hộ pháp Khuyến Thiện và Trừng ác, có Đức ông và Thánh Hiền. Cùng với tượng thờ, ở đây còn có nhiều đồ thờ quý như chuông đồng, khánh đồng, bát hương đồng, bát hương đá, bát hương sứ, hoành phi, câu đối khá phong phú. 4. Chùa Hống Chùa Hống hay còn gọi là Bảo Tháp điện, theo truyền thuyết của địa phương, trước đây ở khu vực ven con đường Hà Nội- Sơn Tây cũ có một làng nhỏ tên gọi là làng Hống. Khi Đạo giáo được truyền vào Việt Nam, nhiều quán, điện được dựng lên ở khắp nơi, khi đó nhân dân xứ Đoài có câu rằng: “ Sơn Tây tứ quán nhất điện”. Theo truyền thuyết, tứ quán gồm có: Linh Tiên quán, Diềm Xá quán ở Đan Phượng hiện nay, Lã Quân quán ở Đức Giang, Lão Quân quán không rõ ở đâu, còn nhất điện chính là Bảo Tháp điện, những nơi này đều thờ Phật, thờ Tiên, lâu ngày dân quen gọi là chùa tất. Chùa Hống nằm trên cái gò cao, nằm theo hướng Đông Bắc, cách không xa trước mặt chùa, ở khu đồng Khơi có cái gò vuông, gọi là gò Khay, cách gò Khay khoảng 100 m là gò Hình Nhân, có hai cánh tay là con đường Đồng Dạ và con đường Trị Mãng nối vào gò Khay, gọi là Hình nhân bái tướng, nên thế đất chùa Hống trở nên quý hiếm. Làng Hống khi đó không hiểu sao cứ hễ làng Lai đánh trống thì trong làng lại xảy ra cháy nhà, liên tục bị hoả tai, dân phải lưu tán vào ba làng Giang, Lưu, Lũng, nên chùa Hống thành chùa “ nhất tự tam thôn”. Sau cải cách ruộng đất, không còn ruộng, chùa bị hoang phế, trong chiến tranh chống Mỹ, chùa là nơi phục vụ trận địa pháo phòng không, giao thông hào ngang dọc trong chùa. Đến năm 1993, nhân dân Giang Xá quyên góp công đức mới cho tu sửa lại chùa Hống. Chùa Hống hiện nay là một ngôi nhà năm gian, lợp mái ngói, trong chùa có một số bức tượng cổ trước đây và một quả chuông mới được đúc nhân dịp trùng tu chùa vào năm 1993. 5. Trung đồ Chính gọi là Trung độ, sau nhân dân gọi chệch là Trung đồ, lâu ngày thành quen. Trung đồ nằm vào khoảng giữa con đường từ đình ra đền. Trung đồ là nơi thờ Tiền hiền, Hậu hiền của Tư văn (học sinh), hàng năm có lễ vào ngày 16 tháng 8. Trung đồ là một ngôi nhà được xây theo kiểu tám mái gọng vó, trông về hướng Nam, nằm trên khuôn viên 150 m. Từ sau cải cách ruộng đất, do những khó khăn về cơ sở vật chất, chính quyền địa phương phải tạm thời sử dụng Trung đồ làm trường học cơ sở cho trường mầm non Hoa Sen. 6. Cầu Thần Cầu nằm ngay phía bên phải trước cửa đền, bắc qua dòng nước nhỏ, theo các cụ kể lại đó vốn một nhánh của Hát giang. Căn cứ vào tấm bia “Thần Kiều bi ký” hiện được gắn trước cửa đền thì có thể biết được cây cầu này được gọi là cầu Thần. Theo truyền thuyết kể lại rằng, khi Pháp tổ Thiền sư cùng Lý Bí về thụ giáo tại chùa Linh Bảo (khi đó chùa Linh Bảo còn ở vị trí của đền hiện nay), để cho Người tiện việc đi lại, giao du với anh hùng hào kiệt trong vùng, nhân dân cho bắc một chiếc cầu qua con sông đó. Ban đầu cầu được làm bằng gỗ, sau dến đời Lê, nhân dân cho tu tạo lại mà người chủ hưng công khi đó là cụ Hồ Tiến Nhâm và vợ là Nguyễn Thị Tăng, con trai là Hồ Tiến Cần, cháu đích tôn là Hồ Văn Chiều. Cây cầu mới được làm bằng đá hiện còn đến ngày nay. Cầu dài 4,27m, rộng 2,40 m; mặt cầu hơi cong lát 13 phiến đá to ghép xoi mộng, có 12 cột và bốn xà đỡ được đục chạm bốn đầu rồng với kiểu cách thanh thoát, khoẻ khoắn. 7. Miếu Chợ Miếu Chợ hay còn gọi là miếu Phủ, nằm ngay trước cổng làng phía Đông, là nơi thờ các cô hồn không nơi nương náu. Theo truyền thuyết kể lại, vào cuối thời Lê mạt, trong nước loạn lạc, giặc giã nổi lên ở nhiều nơi. Khi đó ở khu vực ven sông Hát (Yên Sở), có đám giặc do Cử Phú đứng đầu hay ra quấy phá. Cùng lúc đó ở Tây Tựu (Đăm Trung), có ông quan võ chức Bang tá cho nhà Lê, dân quen gọi là Bang Đăm, đã nhiều lần ông lấy lệnh của triều đình phủ dụ nhưng Cử Phú kháng chỉ, ông ra lệnh cho dân làng, chức sắc hễ thấy giặc ra thì vào Đăm báo ngay cho ông, hễ ai chém được đầu giặc thì được lĩnh thưởng. Một lần, giặc ra, đóng tại khu đất ruộng đầu làng, dân cho người chạy theo đường tắt báo kịp thời cho Bang Đăm. Ông đem quân ra đánh dẹp, giết được tướng giặc là Cử Phú. Giặc tan tán, những tên chạy xuống đồng, lúc đó đang vào vụ tháng 6, dân cày cấy đông, đều bị trai đinh giết chết để lĩnh thưởng. Ông Bang Đăm ra lệnh cho lấp xuống bãi đất ngay đầu làng và chính ông tổ chức cho họp chợ và cưới chợ vào ngày 1, ngày 6 hàng tháng ngay trên mảnh đất ấy, chính là chợ Trôi Giang hiện nay. Khi đó trong làng Giang, có gia đình hiếm hoi, mới lập cái miếu nhỏ bằng tranh nứa để cúng âm hồn chúng sinh để cầu tự. Miếu nằm ngay đầu chợ nên khách thập phương mua bán sẵn lòng hằng tâm cầu tài cầu lộc. Lâu ngày dầm mưa dãi nắng, miếu bị hư hỏng, dân làng mới lấy tiền thu vé chợ để xây lại ngôi miếu như hiện nay. Miếu Chợ hiện là một ngôi nhà nhỏ hình chữ nhật, dài 3m, rộng 2m, tường gạch lợp mái ngói, mở một cửa giữa, hai đầu hồi gắn hoa gạch nung, phía trên cửa chính có đề ba chữ “ Cô hồn miếu”. 8. Gò xóm Ở Giang Xá, xóm nào cũng có ít nhất một cái gò. Gò theo các gọi của người dân nơi đây là một cây hương nhỏ được xây ngoài trời, nơi giữa xóm. Không biết từ khi nào, ở Giang Xá hình thành nên tục lễ gò, có xóm cũng đồng thời có gò. Ban đầu gò chỉ được làm bằng tranh nứa, sau này, nhân dân cùng nhau góp tiền xây các cây hương bằng gạch, cũng có mái che, cửa trước treo tấm mành đỏ. Trước đây, tất cả các gò, kể cả gò nhỏ nhất cũng đều có ruộng gò, ruộng này được xóm giao cho một gia đình cày cấy để lấy sản phẩm tu lễ cả năm. Hàng năm, cứ đến ngày mùng 4 Tết, dân các xóm lại cùng nhau đi lễ gò, cả xóm tập trung tại nhà canh điền, ăn trầu, uống nước rồi đệ lễ ra gò, sau làm vệ sinh xung quanh gò, khai thông cống rãnh, làm sạch cỏ hai bên vệ đường trong các xóm. Cho đến ngày nay, lễ gò vẫn là một tục lệ đẹp được người dân Giang Xá duy trì. 9. Nhà thờ Thiên chúa giáo Nhà thờ xứ Giang Xá nằm ở vị trí giữa làng, gần với Trung đồ, đây là nơi sinh hoạt tôn giáo của một bộ phận dân làng Giang theo đạo Thiên Chúa. Theo lời kể của ông chánh xứ, từ năm 1766, ở Giang Xá bắt đầu có người đi theo Công giáo, lúc bấy giờ có một người ở làng lấy vợ là người Công giáo ở Lại Yên. Sau đó, cùng với quá trình truyền đạo, ở Giang Xá đã có ba họ đạo là họ Đỗ, họ Bùi và họ Nguyễn, sau này có thêm hai cửa họ nữa là họ Hoàng và họ Phạm. Hiện nay ở Giang Xá có gần 300 người theo Thiên chúa giáo. Nhà thờ Giang Xá được xây dựng vào năm 1930, với kiến trúc chính là một toà nhà được xây với hai tầng mái. Tầng dưới là khu giáo đường với mái trần được làm khum theo kiểu gọng vó. Tầng trên hẹp hơn, cao hơn, trên cùng là gác chuông. Từ khi được khởi công vào năm 1930, phải qua một thời gian dài, kiến trúc của nhà thờ mới hoàn chỉnh như hiện nay. Vào bên trong nhà thờ, chúng ta sẽ được cảm nhận một không gian thoáng đãng bởi các hàng cột chạy thẳng suốt chiều dài của toà nhà, các bức tường nối thẳng từ tầng mái dưới với tầng mái trên tạo thành các gian ngách hai bên, mỗi gian ngách có chiều rộng (từ cột đến tường) là 3m, chiều dài (từ cột nọ đến cột kia) cũng là 3 m. Giữa các gian ngách là lòng nhà thờ, rộng 9m. Đặc biệt, kiểu kiến trúc với trần vòm kiểu gọng vó càng tạo ra cho khu giáo đường một không gian thoáng đáng, rộng rãi. Ngoài khu kiến trúc chính, trong khuôn viên của nhà thờ còn có nhiều công trình phụ khác như nhà kho, sân, vườn cây, khu nhà ở của các tu sĩ trước đây… Nhà thờ Giang Xá hiện nay do Ban hành giáo, ông trùm và các vị chức sắc họ đạo trông nom, là nơi thực hiện các nghi lễ tôn giáo của cộng đồng đồng bào Công giáo ở đây. Hàng ngày, tiếng chuông của nhà thờ luôn nhắc nhở các Giáo dân tâm niệm về những điều răn dạy của Chúa để sống “tốt đời đẹp đạo”, tiếng chuông nhà thờ điểm từng tiếng thong thả không chỉ có ý nghĩa đối với những người theo đạo mà nó đã trở thành một âm thanh quen thuộc trong cuộc sống bình yên của mỗi người dân Giang Xá như một bằng chứng cho tinh thần đoàn kết lương - giáo ở nơi đây. Nằm trên vùng đất xứ Đoài giàu truyền thống, người dân Giang Xá từ bao đời nay đã lưu giữ và kế thừa những giá trị đó để tạo dựng cho mình một cuộc sống tốt đẹp ngày hôm nay. Một Giang Xá đang từng bước đổi mới nhưng vẫn luôn giữ lại cho mình những nét đẹp văn hoá truyền thống của cha ông. Đó chính là làng Giang Xá, không gian chính của lễ hội mà chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở các chương sau. CHƯƠNG II LỄ HỘI LÀNG GIANG XÁ Kể từ năm 1955, trải suốt một thời gian dài làng Giang Xá không mở đại đám dài ngày mà chỉ có đám lệ một ngày. Mãi đến năm 1989, nhân dịp cụm di tích đình và đền của làng được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, lễ hội truyền thống của làng mới được phục hồi. Từ đó đến nay, như đã thành thông lệ, cứ 5 năm một lần, làng Giang Xá lại nô nức vào đám. Cũng từ đó, lễ hội đã trở thành một nét sinh hoạt văn hoá không thể thiếu của người dân nơi đây. Mỗi người dân Giang Xá đều mong mỏi đến năm làng mở đại đám để được chứng kiến cái không khí tưng bừng tràn ngập trên khắp mảnh đất quê hương mình. Hội làng Giang Xá ngày nay được tổ chức từ ngày 11 đến 14 tháng Giêng. Trong đó ngày 11 là chính hội, có tổ chức rước nghinh Thánh giá từ đền về đình. Hội làng Giang Xá ngày nay là sự kết hợp của hội làng và hội lệ ngày xưa. Trước đây, theo trí nhớ của dân làng, sau khi tách khỏi xã Lưu Xá (khoảng vào đời Thành Thái), làng Giang và làng Lưu cùng thờ chung một Thánh. Vì vậy, “gián niên nhất lệ”, năm chẵn làng Lưu mở hội, năm lẻ mới đến làng Giang. Nhưng đó cũng chỉ là hội lệ, chỉ kéo dài một ngày. Còn đại đám thì rất hiếm khi làng tổ chức, khoảng 5 năm, 10 năm hay 15 năm, chỉ khi nào trong làng có nhiều việc vui, mùa màng bội thu thì dân làng mới mở đám và tổ chức rước nghinh vào ngày 12 tháng Giêng. Nhưng đã mở hội thì thường kéo dài từ 10 đến 16 ngày, thậm chí có năm phải sang tháng Hai (âm lịch) mới tế xuất tịch, giã đám. Trung tâm của lễ hội làng Giang chính là vị anh hùng dân tộc Lý Nam Đế, người đã được dân làng tôn làm Thành hoàng. Tất cả những truyền thuyết về Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân đã lắng đọng trong tâm thức của người dân, nó trải cùng thời gian và trở nên sống động hơn bao giờ hết trong lễ hội nơi đây. Mọi sự kiện quan trọng trong cuộc đời của người anh hùng này đều được người dân Giang Xá ghi nhớ và trân trọng. Năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 1500 ngày sinh của Người (theo truyền thuyết ở địa phương thì Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quí Mùi (503)), dân làng có nguyện vọng mở hội để tưởng nhớ sự kiện này nhưng vì điều kiện không cho phép nên các cụ cao tuổi trong làng mới quyết định năm Giáp Thân sẽ mở hội vào tháng Giêng, cũng là dịp để kỷ niệm 1460 năm ngày Lý Bí lên ngôi Hoàng đế và thành lập nên nhà nước Vạn Xuân. Chính vì vậy, tuy không đúng vào năm mở hội theo thông lệ (nếu đúng theo lệ 5 năm một lần thì đến năm 2005 mới là năm làng mở hội) nhưng người dân Giang Xá vẫn nô nức chuẩn bị và chờ đón ngày vào đám. I. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ 1. Các cuộc họp Hội làng chính thức được mở vào ngày 11 tháng Giêng và chỉ kéo dài trong vòng 4 ngày nhưng để tạo nên một lễ hội thành công, thể hiện được toàn bộ những giá trị văn hoá tốt đẹp của cộng đồng thì đòi hỏi trước đó phải có quá trình chuẩn bị lâu dài và kỹ lưỡng. Trong quá trình chuẩn bị cho lễ hội, các cuộc họp bàn luôn đóng vị trí quan trọng, tại các cuộc họp này, mọi ý kiến đều được đưa ra bàn bạc công khai, dân chủ bởi ai cũng muốn hội làng mình được tổ chức suôn sẻ, chu đáo. Đã thành lệ, cứ đến ngày 2 tháng Chạp âm lịch hàng năm, nhân dịp lễ Kỳ phúc của làng, các cụ cao tuổi, Ban Khánh tiết, Ban Bộ lễ, chính quyền địa phương… lại tổ chức họp tại đình để bàn về việc tổ chức lễ hội năm sau cho dù năm đó làng mở hội lệ hay đại đám. Trước cuộc họp, bao giờ cũng vậy, Ban Khánh tiết luôn là những người ra đình sớm nhất để chuẩn bị lễ vật cho lễ Kỳ phúc, lễ vật thường rất đơn giản, chỉ có oản, chè kho, trầu, rượu, gọi là lễ phù tửu. Tiếp sau đó, các cụ cao tuổi lần lượt ra đình. Theo lệ của làng, hễ cứ ra đến đền, đến đình đều phải chuẩn bị trang phục cho chu đáo, quần áo ăn mặc ra sao đều có quy định rõ ràng theo tuổi tác. Các cụ từ 70 tuổi trở lên thì mặc áo thụng đỏ, riêng các cụ từ 80 tuổi trở lên được đội mũ ni (là một loại mũ có hình trụ tròn, phía sau có may một dải dài phủ xuống gáy, hai bên là hai miếng vải nhỏ che kín vành tai); các cụ từ 60 tuổi đến 69 tuổi mặc áo thụng xanh; từ 50 đến 59 tuổi thì mặc áo thụng đen. Riêng Ban Khánh tiết có thêm thắt lưng đỏ ngang hông, trên cổ có khăn bao khẩu đỏ. Khi dâng lễ lên Thượng cung thì kéo lên che miệng để tránh nói chuyện làm mất vẻ trang nghiêm. Một điều khá đặc biệt ở Giang Xá trong các sinh hoạt cộng đồng, đó là việc sử dụng các danh từ chỉ tuổi tác như một đại từ nhân xưng khi thưa gửi với người cao tuổi. Ví dụ, các cụ 90 tuổi được gọi là “cụ cửu”, 80 tuổi được gọi là “cụ bát”…và trong khi bàn bạc, trao đổi ý kiến với các cụ, những người tham dự luôn phải bắt đầu bằng câu: “ Thưa các cụ cửu, bát, thất, lục, ngũ, đồng dân…”. Trong cuộc họp ngày mùng 2 tháng Chạp, toàn bộ công việc lễ tiết của năm được Ban Khánh tiết tổng kết, cả những việc đã làm được và những việc chưa làm được đều được thông báo trước toàn thể nhân dân. Sau đó, mọi người chuyển sang bàn về việc mở hội của năm sau, thông thường nếu năm sau làng chỉ có hội lệ thì không cần có sự tham gia của chính quyền, các cụ đại diện cho dân làng sẽ tự quyết định toàn bộ chương trình. Những năm làng mở đám đại trà thì cần thành lập Ban Tổ chức với sự tham gia của đại diện UBND và MTTQ.… Sau khi thành lập, Ban Tổ chức sẽ tiến hành chia thành các tiểu ban và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các tiểu ban đó. Ví dụ như Tiểu ban thư ký có nhiệm vụ thường trực để tiếp nhận các khoản đóng góp công đức của nhân dân và cho niêm yết danh sách công khai cho dân làng biết, đồng thời chịu trách nhiệm toàn bộ về việc thu, chi của lễ hội; Tiểu ban lễ tân gồm các bà trong Hội Phụ nữ, có nhiệm vụ tiếp đón các đoàn khách giao hiếu, mời khách thụ lộc; Tiểu ban cờ có chức năng tuyển chọn quân cờ và tổ chức sân chơi cờ người… Sau cuộc họp ngày mùng 2, đến ngày 15 tháng Chạp, nhân tuần vọng cuối cùng của năm, những gia đình có người thân lên tuổi tròn (50, 60, 70, 80, 90, 100) đều đệ lễ ra đền và có lời với dân để dân xếp lễ, cho phép ra Giêng dự lễ Khánh thọ của làng. Cũng nhân dịp này, làng tổ chức bàn giao giữa Ban Khánh tiết cũ và Ban Khánh tiết mới. Ở Giang Xá, Ban Khánh tiết bao gồm toàn bộ nam giới trong Hội Đồng canh của lứa tuổi 50, họ có nhiệm vụ chủ trì toàn bộ công việc lễ nghi của làng trong vòng một năm, tất cả các tuần tiết của năm, kể cả các ngày sóc, vọng, Ban Khánh tiết phải thay mặt cho toàn thể dân làng chuẩn bị lễ phù tửu để mang ra đình, ra đền, ra chùa. Trong Ban Khánh tiết sẽ bầu ra một người làm Trưởng ban để chịu trách nhiệm bao quát chung. Ông Trưởng ban phải đáp ứng một số tiêu chuẩn như gia đình phải song toàn, vợ chồng, con cái thuận hoà, bản thân ông ta cũng phải là người có đủ tư cách đạo đức, không có điều tiếng gì xấu trong làng. Trưởng Ban Khánh tiết cũng thường là Trưởng Hội Đồng canh. Trong trường hợp đặc biệt như gia đình vướng bụi (tức là có tang) thì trưởng Ban Khánh tiết phải nghỉ. Trong ban sẽ cử người khác lên thay. Các thành viên khác của Ban Khánh tiết cũng vậy. Nếu người nào mà gia đình, họ hàng có người qua đời thì người đó chỉ được tham gia vào việc chuẩn bị lễ vật chứ không được tham gia các công việc ngoài đình, đền. Trong lễ bàn giao, cả ban mới và ban cũ đều phải sửa cơi trầu để làm lễ Thánh. Lễ của ban cũ gọi là lễ tạ, còn lễ của ban mới gọi là lễ trình. Sau lễ bàn giao, Ban Khánh tiết mới sẽ đảm nhận toàn bộ công việc lễ tiết và chuẩn bị cho lễ hội của năm mới. Cùng trong ngày 15, làng sẽ cử ra cụ Đăng cai mới cho năm sau. Cụ Đăng cai thông thường là Trưởng Hội Đồng canh tuổi 70, có gia đình song toàn, thông thạo công việc của làng và không có tang trở. Cụ Đăng cai là người đại diện cho các cụ cao tuổi trong làng (từ 70 trở lên) để sắp xếp cùng với Ban Khánh tiết, Ban Bộ lễ về công việc hội hè, lễ tiết của làng trong vòng một năm. Thông qua cụ Đăng cai, Ban Tổ chức sẽ tham khảo ý kiến của các cụ cao tuổi để đề ra chương trình cụ thể của lễ hội sao cho đúng với phong tục, tập quán của làng. Trong lễ bàn giao, cụ Đăng cai mới cũng phải sửa cơi trầu làm lễ trình trước Thánh. Sau buổi lễ bàn giao của Ban Khánh tiết và cụ Đăng cai, dân làng lại tiếp tục bàn về công việc chuẩn bị cho lễ hội năm sau. Lần họp này, Ban tổ chức đã đưa ra chương trình lễ hội dự kiến để tham khảo ý kiến của các cụ cửu, bát, thất và nhân dân. Sau các cuộc họp toàn dân tại đình, đền với sự tham gia của các cụ trong làng, để chuẩn bị cho lễ hội, cứ định kỳ một tuần hay mười ngày, ban tổ chức lại tiến hành các cuộc họp riêng để phân công công việc cụ thể theo như chương trình đã định. Các cuộc họp của Ban Tổ chức thường được tiến hành tại nhà cụ Đăng cai. Mặc dù không có sự tham gia của các cụ cửu, bát, thất nhưng thông qua cụ Đăng cai, các cụ luôn nắm được công việc cụ thể của Ban Tổ chức và có những ý kiến đóng góp kịp thời. Cũng trong các buổi họp này, Ban Tổ chức đã thành lập nên một ban trù bị gồm 6 người để chịu trách nhiệm soạn và kiểm kê lại toàn bộ số trang phục dành cho hàng đô, chức việc, cũng như các tàn, quạt, cán cờ, khung lọng... Đồng thời, các thành viên của các tiểu ban cũng căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của ban mình để tiến hành lên danh sách và chọn lựa các Hội Đồng canh phù hợp để phân công công việc. Tất cả các công việc chuẩn bị cho lễ hội đều được cụ thể hóa từng chi tiết cho từng nhóm, từng ngày trong suốt thời gian từ đó cho đến khi diễn ra lễ hội. Ví dụ: Ban Khánh tiết có trách nhiệm tu lễ trong thời gian lễ hội, lễ vật gồm những gì, số lượng là bao nhiêu đều do ban tổ chức căn cứ theo yêu cầu của từng ngày để quy định và phân công cụ thể. Trong các cuộc họp này, các bộ phận được phân công nhiệm vụ phải báo cáo chi tiết công việc và chương trình hoạt động của mình trong lễ hội. Đồng thời, về mặt nghi lễ, ông trưởng thôn với tư cách là Phó trưởng ban tổ chức cũng phải luôn bám sát những thông tin do cụ Đăng cai, ông Trưởng Ban Bộ lễ, Trưởng Ban Khánh tiết, những người đại diện cho dân làng, thông báo để tham khảo ý kiến của các cụ cao tuổi, nếu có khó khăn gì, cần bổ sung gì thì xin các cụ góp ý. Việc bàn bạc cho tổ chức lễ hội diễn ra rất tỷ mỉ, tất cả các bộ phận được giao nhiệm vụ đều hồ hởi và cố gắng hoàn thành công việc một cách tốt nhất, bởi ai cũng nghĩ đó là một vinh dự và trách nhiệm khi được góp sức mình để làm việc “nhà Thánh”, để phục vụ việc làng. Buổi họp cuối cùng diễn ra tại đình vào chiều ngày mùng 10 tháng Giêng, ở cuộc họp này, toàn bộ chương trình của lễ hội được rà duyệt lần cuối. Đặc biệt tại đây, các cụ và ban tổ chức sẽ sắp xếp lần cuối cùng cho đoàn rước ngày hôm sau, thứ gì đi trước, thứ gì đi sau đều được quyết định cụ thể và thông báo công khai cho mọi người cùng biết. Nếu có gì sơ suất thì các cụ sẽ góp ý ngay để kịp thời khắc phục. 2. Lựa chọn hàng đô, chức việc và quá trình luyện tập Hội làng chính là dịp để người dân tưởng nhớ đến công lao của Thành hoàng làng mình thông qua các hoạt động như tế lễ, rước xách… chính vì vậy những người trực tiếp tham gia vào các hoạt động này đều phải được lựa chọn kỹ lưỡng và trải qua quá trình luyện tập công phu từ nhiều tháng trước khi vào hội. Trong bất cứ lễ hội nào, đoàn rước luôn có vị trí quan trọng nhất, là hoạt động trung tâm thu hút sự chú ý của những người tham dự hội. Những người được tham gia vào việc phục vụ đoàn rước luôn cảm thấy rất vinh dự và tự hào, bởi lẽ có nhiều người trong cả cuộc đời mình họ chỉ có được một lần đảm nhận công việc quan trọng này. Ở Giang Xá, những người tham gia khiêng kiệu trong đoàn rước được gọi chung là hàng đô. Hàng đô phần lớn là nam giới được lựa chọn từ các Hội Đồng canh. Mỗi Hội Đồng canh sẽ được giao đảm nhận một công việc cụ thể căn cứ vào số lượng người cũng như độ tuổi của hội đó. Ví dụ, việc khiêng nhang án cần tám người thì ban tổ chức sẽ tìm một hội có khoảng 10 đến 16 người (kể cả người để thay thế), ở độ tuổi trên dưới 30 để giao nhiệm vụ, hay như việc khiêng kiệu cỗ cần bốn người thì cũng phải chọn một hội thích hợp. Sau khi đã lên danh sách các Hội Đồng canh và các công việc dự kiến của hội đó, Ban Tổ chức sẽ cho mời các ông Trưởng Hội ra để bàn giao cụ thể công việc. Các Trưởng Hội Đồng canh sẽ về và tổ chức anh em trong hội mình luyện tập sao cho hoàn thành tốt nhất công việc được giao. Tuy vậy, không phải tất cả hàng đô đều được chọn lựa từ các Hội Đồng canh. Theo lệ của làng từ xưa, riêng hàng đô phù giá - những người lãnh trách nhiệm khiêng kiệu Thánh - phải là những “trai thanh” với độ tuổi từ 18 đến 20, chưa lập gia đình, có ông bà, bố mẹ song toàn, bản thân người đó phải khoẻ mạnh, có đạo đức và không có tang chế. Chính vì vậy việc lựa chọn hàng đô phù giá luôn là một công việc tốn nhiều công sức và thời gian. Ban Tổ chức phải rà soát toàn bộ các gia đình trong làng để tìm ra các thanh niên đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Sau đó, đại diện của ban phải đến từng nhà để có lời với gia đình và mời người đó tham gia phục vụ việc làng. Nếu như trước đây tế tự, hội hè là việc dành riêng cho nam giới thì đến nay điều này không còn đúng nữa. Từ nhiều năm trở lại đây, phụ nữ ở Giang Xá được khuyến khích tham gia các công việc của làng. Chính vì vậy, trong lễ hội của làng ngày nay, ta thấy có sự tham gia của các hàng đô nữ. Cũng như hàng đô phù giá, số lượng hàng đô nữ tuy không nhiều nhưng được chọn lựa rất kỹ càng. Họ phải là những “gái lịch”, chưa có chồng, ông bà bố mẹ còn đầy đủ, không mắc ưu, mắc bụi. Sau khi đã chọn đủ số hàng đô theo yêu cầu, công việc luyện tập được bắt đầu. Việc luyện tập của hàng đô do các Cán biện phụ trách, Cán biện nam phụ trách hàng đô nam, Cán biện nữ phụ trách hàng đô nữ. Trước đây ở Giang Xá, tất cả các hàng đô tham gia lễ hội là do các phiên cử ra. Phiên là tổ chức dựa trên cơ sở liên gia, toàn bộ số trai đinh của làng được chia đều thành tám phiên, mỗi phiên bao gồm các gia đình nằm liền nhau trong cùng một khu vực, vì thế có thể cùng họ, cùng giáp nhưng không cùng phiên. Trong khi đó, các Cán biện là do hội Tư văn cử ra. Hội Tư văn là tổ chức của những người có học, hiểu biết lễ nghĩa và là phải là con nhà khá giả, điều này cho thấy tầm quan trọng của chức Cán biện đối với việc tổ chức lễ hội. Ngày nay, hội Tư văn không còn nữa, nhưng việc lựa chọn Cán biện vẫn phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn khá khắt khe. Cán biện phải là những người có độ tuổi từ 50 đến 69, có sức khoẻ, thông thạo việc làng, có phong độ nghiêm trang. Có sáu Cán biện đảm nhận toàn bộ công việc phân bổ hàng đô kiệu cũng như bố trí thời gian để tập luyện tại sân đình. Trước khi bắt đầu tập, Cán biện cho toàn bộ hàng đô tập trung một buổi chiều để nói rõ về tầm quan trọng của lễ hội. Sau đó bắt đầu “nghiêm quân” sao cho thật thạo, đi, đứng, lùi, quay, lên cao xuống thấp, xoay ra xoay vào đều phải khớp với nhịp trống. Khi đổi vai, Cán biện gụ vào thành trống để làm dự lệnh cho hàng đô chuẩn bị, sau đó gõ vào mặt trống ba tiếng; tiếng thứ nhất, hàng đô nhất loạt lui chân phải về đằng sau khoảng một bàn chân tạo thế chân chèo; tiếng thứ hai, bá hai tay vào đòn kiệu, ép sát khuỷu tay vào ngực ở thế giữ thăng bằng; tiếng thứ ba, ngửa ra đằng sau, đồng thời luồn mặt qua đòn kiệu, đặt đòn kiệu đưa chân lên ở tư thế đứng nghiêm. Khi đi, trống điểm ba tiếng khoan hoà “tông, tông - tông” (giữa tiếng thứ hai và tiếng thứ ba có khoảng cách dài hơn hai tiếng đầu). Khi nghe tiếng trống, hàng đô thống nhất bước chân trái lên hai bước ngắn để tránh rung kiệu, đặc biệt phải lưu ý, mỗi bước chỉ bằng một bàn chân. Trong khi tập, Cán biện phải nhắc nhở mọi người những điều cần tránh khi khiêng kiệu như không được bước bước một, không được bước chân nọ kê chân kia. Cùng với hàng đô, việc chọn quân cờ cũng được tiến hành. Cờ người vốn là một trò chơi phổ biến của nhiều địa phương mỗi dịp xuân về. Sau nhiều năm gián đoạn không tổ chức được, đến năm 2000, làng Giang Xá mới có điều kiện khôi phục hội cờ truyền thống. Muốn chơi cờ người, trước hết phải lựa chọn những người phụ trách sân cờ, gọi là cụ Tổng cờ và các bà Cai cờ. Từ xưa đến nay, Tổng cờ và Cai cờ ở Giang Xá đều do các bà đảm nhận. Tổng cờ là người bao quát chung toàn bộ quá trình từ lựa chọn quân cờ, luyện tập cho đến khi ra dàn quân trên sân. Cụ Tổng cờ phải là người đã có tuổi (từ 70 trở lên), hiểu biết, có phong thái, dáng vẻ ưa nhìn, gia đình cũng phải thuộc loại khá giả, có của ăn của để. Giúp việc cho cụ Tổng cờ là hai bà Cai cờ, có độ tuổi từ 40 đến 50, cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung như các chức việc khác của làng. Các bà Cai cờ sẽ trực tiếp lựa chọn và huấn luyện quân cờ. Công việc chọn lựa bắt đầu bằng việc lên danh sách quân cờ. Đội cờ gồm 32 quân, chia làm hai bên, một bên nam và một bên nữ. Toàn bộ quân cờ phải là các nam thanh, nữ tú (trai chưa vợ, gái chưa chồng), đang ở độ tuổi trăng tròn, hoặc18, đôi mươi, gia đình phải còn đủ cả ông bà, cha mẹ và không “vướng bụi” trong thời gian tham gia đóng vai. Để chọn đủ 32 quân cờ, các bà Cai cờ phải đi từng nhà có con trai, con gái đáp ứng đủ tiêu chuẩn và có lời với gia đình cho các cháu ra đình để dân làng chọn tuyển. Công việc tuyển quân cờ mới thực sự cuốn hút và hồi hộp làm sao. Thoạt đầu, phải tiến hành so vai để chọn những người có chiều cao bằng nhau, những người có thân hình cân đối, khuôn mặt có nét, có sắc. Số quân cờ có 32 quân nhưng phải chọn thêm một số người dự bị. Sau khi chọn đủ quân cờ, công việc luyện tập bắt đầu. Cũng giống như hàng đô, quân cờ cũng phải tập sao cho mọi hành động, khi đứng khi ngồi, khi ra khi vào, khi tiến khi thoái, khi sắp hàng khi vào lễ, đều có phép tắc, có thứ tự, chỉ nghe tiếng trống của bà Cai cờ làm hiệu mà thực hiện. Trong quá trình luyện tập, cụ Tổng cờ và các bà Cai cờ phải chú ý quan sát cử chỉ, dáng điệu, nét mặt của từng người để chọn sắm các vai phù hợp. Bao giờ cũng vậy, các vai tướng kể cả tướng nam và tướng nữ phải là những người có dung mạo trội nhất, nét mặt phải sắc sảo, dáng người cũng phải cân đối, có phong độ. Tiếp sau đó phải chọn các vai sĩ, tượng, xe, pháo…Tất cả việc chọn lựa này, phải được giữ bí mật hoàn toàn trong suốt quá trình tập, cho đến mùng 5 tháng Giêng, cụ Tổng cờ mới cho công bố chính thức người nào vào vai nào, ghế nào. Toàn bộ công việc luyện tập chỉ kết thúc trước khi lễ hội diễn ra vài ngày. Khi mọi công việc chuẩn bị cho quân cờ đã hoàn tất, cụ Tổng cờ phải làm lễ trình Thánh và khao quân cờ. Khao quân cờ ngày xưa là phải làm cỗ mặn, làm thật linh đình và mời tất cả quân cờ đến nhà để ăn uống. Ngày nay, việc khao quân được đơn giản hoá rất nhiều, chỉ tổ chức tiệc trà, bánh kẹo. Sau cụ Tổng cờ, tướng ông, tướng bà cũng phải làm lễ trình và chọn ngày khao quân. Cùng với hàng đô, quân cờ, các bộ phận khác cũng bắt tay vào công việc chuẩn bị cho lễ hội. Phường trống, Phường kèn, Hội Sênh tiền, múa lụa, cờ reo, cờ hiệu…ngày ngày tập trung các thành viên tại sân đình để luyện tập. Mọi người ai cũng cố gắng tập thật chăm chỉ để đến ngày vào hội không xảy ra sơ suất gì kẻo làng chê trách. Trong lễ hội, ngoài đoàn rước, các hoạt động tế, lễ cũng là một nội dung rất quan trọng. Chính vì vậy, để đảm bảo cho các cuộc tế, lễ diễn ra trang trọng, từ nhiều ngày trước khi vào hội, Ban Bộ lễ phải tổ chức cho các quan viên tế luyện tập thật chu đáo. Ở Giang Xá, Ban Bộ lễ do dân cử ra, gồm có bốn người, độ tuổi từ 60 trở lên, gia đình phải toàn vẹn ông bà, bố mẹ, đồng thời người được cử vào Ban Bộ lễ phải có đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao. Khi một người trong Ban Bộ lễ vướng bụi thì phải xin nghỉ và ba người còn lại sẽ làm thay phần việc của ông ta. Trong trường hợp Ban Bộ lễ chỉ còn lại hai người thì làng sẽ cử thêm người vào Ban Bộ lễ để đảm bảo công việc. Ban Bộ lễ có trách nhiệm quán xuyến toàn bộ công việc lễ tiết của làng, chịu trách nhiệm tổ chức việc tế, lễ, kiểm tra lễ vật do Ban Khánh tiết chuẩn bị, nếu chưa đúng yêu cầu thì nhắc Ban Khánh tiết làm lại. Dưới Ban Bộ lễ là Ban Chấp sự, chịu trách nhiệm trực tiếp về tế, lễ. Ban này gồm 22 người, độ tuổi từ 45 trở lên, cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung về gia đình và cá nhân như các chức việc khác. Trong suốt thời gian dài trước đây, khi làng còn bát giáp, những người trong Ban Chấp sự là do các giáp cử ra. Họ phải trải qua một quá trình luyện tập rất công phu. Theo truyền thống của làng, các nam thanh niên đến tuổi 16, 17 tuổi đã bắt đầu được học tế, học lễ. Cứ vào những đêm tháng Tám sáng trăng, trai làng trong các giáp lại tập trung tại các nhà có sân rộng để học tế, lễ do một cụ cao tuổi, thông hiểu việc làng hướng dẫn. Cùng với thời gian, làng trải qua nhiều thay đổi, nhưng việc lễ nghĩa vẫn luôn được bảo lưu. Ban Chấp sự dưới sự chỉ huy của ông Chủ tế vẫn duy trì toàn bộ các nghi thức trong việc tế tự của làng. Là người giữ trọng trách quan trọng, thay mặt cho dân làng thực hiện các nghi lễ với thần thánh, ông chủ tế phải được lựa chọn rất kỹ lưỡng, phải là người trên 60 tuổi, còn khoẻ mạnh, ngoại hình cân đối, dung mạo nghiêm trang, sáng sủa, không có khuyết tật, gia đình của Chủ tế cũng phải là người sống lâu đời ở làng, bản thân ông ta cũng phải song toàn, đông con nhiều cháu và có đủ cả con trai, con gái. Dưới sự hướng dẫn của Chủ tế và Ban Bộ lễ, trước lễ hội nhiều ngày, quan viên tế ở làng cũng luyện tập như các bộ phận khác. Ở Giang Xá, việc tế lễ ở đình, đền phải tuân thủ theo những quy tắc rất chặt chẽ, vì thế khi học, ông Chủ tế phải hướng dẫn tỷ mỉ cho Ban Chấp sự từ cách làm lễ Thập bái, cách đi đứng sao cho trông thật khoan thai mà vẫn trang nghiêm, cách để tay khi dâng rượu, dâng hương, cách quỳ ở chiếu…tất đều phải thực hiện sao cho đều, cho đẹp, cho thật nhịp nhàng với tiếng nhạc của phường bát âm, của chiêng, trống điểm trên sân tế. Toàn bộ quá trình chuẩn bị được diễn ra thật khẩn trương, sôi nổi. Các bộ phận đều cố gắng tập trung làm tốt công việc của mình. Ngày mùng10 tháng Giêng, sau khi đã luyện tập đâu ra đấy, tất cả hàng đô, chức việc tập trung tại đình để duyệt lại lần cuối để ngày hôm sau vào đám đảm bảo không xảy ra sơ suất gì. Trong buổi tập này, dùng đủ các đồ trần thiết như đi rước thật, hàng đô, chức việc cũng mũ áo chỉnh tề, quan viên tế vào sân đình tập tế, tất cả mọi việc chuẩn bị thật chu đáo mới yên tâm về nghỉ để ngày hôm sau vào việc thực sự. 3. Các công việc sửa sang, trang trí Từ giữa tháng Chạp, không khí chuẩn bị cho lễ hội đã tràn ngập trên mọi nẻo đường, ngõ xóm của làng. Khu vực đình, đền là trung tâm chính của lễ hội được chú ý sửa sang cho thật phong quang, đẹp đẽ. Thông thường, đình, đền do cụ Từ trông nom. Theo lệ làng từ xưa đến nay, cụ Từ phải là người nguyên quán ở làng, có độ tuổi từ 60 trở lên, không có khuyết tật, gia đình song toàn, và phải có con trai để giúp việc. Cụ Từ có trách nhiệm trông nom đèn nhang, lễ bái quanh năm, bảo quản tài sản, đồ thờ ở đình, đền. Trước ngày lễ hội, cụ từ phải kiểm tra lại toàn bộ khu vực xung quanh đình, đền, chỗ nào hư hỏng thì phải báo ngay cho Ban Khánh tiết để lên kế hoạch tu sửa. Càng đến gần ngày hội, công việc sửa sang càng khẩn trương, Ban Khánh tiết cho người quét vôi lại toàn bộ các bức tường ở đình, ở đền sao cho thật mới, thật đẹp. Các câu đối trên cột trụ hoa biểu, trên bình phong đều được sơn lại. Trong khi đó, cụ Từ cùng gia nhân mang cho mang toàn bộ đồ tế khí ra, dùng nước gừng để lau chùi cho sạch sẽ. Đến ngày mùng 9 tháng Giêng, các công việc sửa sang lại đình, đền đã hoàn tất, mọi người bắt tay vào việc trang trí. Ngoài sân đình, Ban Khánh tiết cho dựng 3 phong du, một ở chính giữa sân để làm nơi trải chiếu tế, còn hai bên tả, hữu làm chỗ cho các cụ Thượng và các vãi bà ngồi dự lễ. Cách đó không xa, ở cuối sân, một vài người làm công việc lồng các tàn, tán, lọng vào khung. Lọng được may bàng vải vàng (dùng cho Thượng đẳng thần), đường kính khoảng 1,2 m. Dưới lọng vàng được treo những gù bông nhiều màu sắc. Những chiếc lọng nhỏ hơn nhưng được quây bằng vải đỏ và vàng (một lớp vàng lại đến một lớp đỏ, may so le nhau), kết thành hình trụ cao xấp xỉ 1m, thường gọi là tàn. Cũng dạng như tàn nhưng ngắn hơn được gọi là tán. Ở trong đình, các ông Trưởng Hội Đồng canh đến nhận trang phục hàng đô, chức việc cho hội mình để chuẩn bị cho buổi tập cuối cùng ngày mai. Kiệu Giá văn, kiệu Thánh, nhang án, choé nước cũng được trang trí thật đẹp mắt và đặt trong lòng giữa của đình. Ngày mùng 10, khi hai lá cờ đại được dựng lên ở giữa sân đình, không khí trong xóm làng càng trở lên nhộn nhịp hơn và linh thiêng hơn. Trước cửa đình, đền, cụ Từ và gia nhân cho treo tấm màn sen (tấm vải vàng có thêu hoa sen) lên. Dưới chân màn sen, ở sân đình, bày một chiếc bàn nhỏ, hai bên bàn bày hai giá gươm cẩn. Phía sau giá gươm, ngựa và voi đã được trang trí yếm thêu, đeo quả nhạc, cả hai đều được đặt trên bệ gỗ có bánh xe để kéo. Toàn bộ đồ trần thiết đã sẵn sàng, chỉ chờ sau buổi duyệt là chuyển về đền cho đoàn rước sáng hôm sau. Không chỉ có ở đình, đền, không khí nô nức chuẩn bị cho lễ hội còn xuất hiện trong từng gia đình, từng ngõ xóm. Theo lệ làng, trước ngày vào đám, tất cả các ngõ xóm đều phải tổ chức quét dọn, khơi thông cống rãnh, tu bổ đường xá cho thật phong quang, sạch sẽ. Các gia đình cũng quét dọn lại nhà cửa. Xóm làng như đẹp hơn khi chuẩn bị vào hội. Tại bốn ngõ xóm chính nằm trên con đường mà đoàn rước sẽ đi qua, dân trong xóm cho dựng những chiếc cổng bái vọng. Cổng được dựng bằng tre, phía trên và hai bên cột đều treo các câu đối bằng chữ Hán do người trong xóm viết. Chính giữa cổng, bên dưới bày một nhang án trên có đặt lư hương, nến, bình hoa, mâm ngũ quả. Hai bên cổng bái vọng có thể trang trí thêm bằng hai cành lá dừa được tết khá đẹp mắt, hay bày thêm những cành đào, cây quất cho thêm vẻ trang trọng. Từ khi được dựng lên, lúc nào tại cổng bái vọng cũng phải có một vài cụ Thượng là người trong xóm đứng túc trực tại ban thờ để lo việc đèn nhang, hương khói. Cổng bái vọng là nơi các cụ cao tuổi vì điều kiện sức khoẻ không thể tham gia đoàn rước, hay các gia đình có tang không được ra chốn đình trung làm lễ vọng để tỏ lòng thành kính với Đức Thánh. Từ các ngõ xóm cho tới từng gia đình, không khí nhộn nhịp của lễ hội đã len lỏi vào khắp nơi, cảnh quan làng xóm trở nên đẹp hơn, rực rỡ hơn, cũng như lòng người đang náo nức chờ đón lễ hội. 4. Lễ phong y Trước đám rước, lễ phong y là một nghi thức không thể thiếu được. Đây không đơn giản chỉ là việc thay đổi bộ y phục thường ngày bằng bộ áo Đại trào ngày hội mà nó còn mang ý nghĩa thiêng liêng, thể hiện khát vọng về một cuộc sống no đủ của dân làng. Lễ phong y được tiến hành vào sáng ngày mùng 10 tháng Giêng, cũng chính là ngày Kính nhật (ngày giỗ) của Đức Thánh Mẫu. Cũng như mọi tuần tiết khác, từ 6 giờ sáng, Ban Khánh tiết tu lễ ra đền. Các cụ cửu, bát, thất cùng toàn dân theo lời mời của cụ Đăng cai cũng ra dự lễ và bàn về việc phong y cho Đức Thánh. Như thường lệ, làng cử ra năm người vào làm lễ phong y, đó đều là các chức việc quan trọng trong làng như cụ Từ, Chủ tế, Trưởng Ban Bộ lễ, Trưởng Ban Khánh tiết và cụ Đăng cai. Lễ phong y là một nghi thức rất quan trọng mỗi khi làng vào đám, vì vậy tất cả những người được giao trọng trách này đều cảm thấy vinh dự và may mắn khi được hầu hạ “nhà Thánh”. Trước khi vào Thượng cung, nơi đặt Long ngai Thánh vị, tất cả các chức việc đều phải kéo khăn bao khẩu lên để che kín miệng, toàn bộ công việc được tiến hành trong im lặng, tránh để trần khí xông tới Thánh cung, mang tội bất kính. Phong y để rước là một công việc rất cầu kỳ. Theo quan niệm của nhân dân, nếu phong y cho Đức Thánh mà để bụng lép thì năm đó làng sẽ bị đói, chính vì vậy, tất cả các chức việc đều chú ý phong Người sao cho thật phương phi, oai vệ. Để làm được điều này, trước đây người ta thường sử dụng các thỏi vàng thếp có hình chữ nhật như viên gạch, xếp dật cấp từ dưới mặt ngai cho đến tận lưng và hai tay. Ngày nay, loại vàng thếp này không còn nữa, người ta phải thay thế bằng các chiếc gối nhỏ hình chữ nhật. Sau khi xếp toàn bộ số gối vào bụng, kèm cả vào vai và lưng, tạo nên hình dáng cơ bản như người thật, người ta dùng một dải vải đỏ dài khoảng 10 mét, gập đôi lại rồi quấn xung quanh. Tiếp đến, dùng một chiếc áo bông nhỏ màu vàng mặc ra bên ngoài. Cuối cùng, khoác lên long ngai chiếc áo Đại trào được may bằng gầm thất thể có hình rồng chầu mặt nguyệt. Tất cả những người tham gia lễ phong y đều phải rất chú ý, cẩn thận đến từng chi tiết, bởi đây là công việc liên quan trực tiếp đến Đức Thánh, nếu phong áo cho Người không thận trọng để lúc rước bị xộc xệch thì không những bị làng chê trách mà còn mang tội bất kính với Thánh thần. 5. Chuẩn bị lễ vật Hội làng muốn long trọng phải có lễ vật thờ. Toàn bộ việc chuẩn bị lễ vật cho hội làng là do Ban Khánh tiết đảm nhận. Theo lệ làng, hàng năm những người lên tuổi tròn 50, 60, cho đến 100 phải nộp một khoản tiền gọi là tiền chiết can. Trước đây, tất cả những người lên tuổi tròn như vậy đến ngày mùng 4 Tết, lễ Khánh thọ của làng, đều phải sửa lễ ra đền. Lễ vật gồm có 50 khẩu trầu, một chai rượu, một bánh pháo. Ngày nay dân làng thấy làm như vậy có phần lãng phí nên cho tổ chức mừng thọ chung, mỗi độ tuổi chỉ sửa một cơi trầu để làm lễ trình Thánh, còn lại chuyển thành tiền, gọi là chiết can. Tiền chiết can theo quy định của làng là 20.000 đồng một người. Số tiền chiết can thu được, cùng với các khoản công đức mà nhân dân đóng góp tại đình, đền làng giao cho Ban Khánh tiết để lo tu lễ cả năm, chuẩn bị lễ vật cho tất cả các tuần tiết của làng. Theo đúng phong tục của làng, mọi việc biện lễ phải do Ban Khánh tiết đảm nhiệm toàn bộ, nhưng do quy mô lễ hội lớn với số lượng lễ vật lại nhiều, một mình Ban Khánh tiết không thể kham nổi. Chính vì vậy, từ trước lễ hội một tháng, Ban Khánh tiết phải tìm một số gia đình trong làng thông thạo việc làm các loại bánh trái và đặt họ làm giúp. Sau khi Ban Khánh tiết đã có lời, gia đình bắt tay vào việc chuẩn bị các nguyên vật liệu cần thiết, toàn bộ công việc này ngày nay diễn ra rất nhanh chóng, chỉ khoảng vài ngày. Sau khi có đủ nguyên liệu, chiều ngày mùng 10, công việc làm bánh được bắt đầu. Ngày nay, lễ vật thờ ở Giang Xá đã được đơn giản hoá đi rất nhiều, cỗ của làng chỉ là cỗ chay với bốn loại vật phẩm chính là bánh bác, bánh cốm, bánh dày và chè kho. Bánh bác là loại bánh chỉ có duy nhất ở làng Giang Xá. Bánh bác ra đời từ khi nào cho đến nay cũng không ai còn nhớ chính xác nữa. Tương truyền, trước khi hưng binh khởi nghĩa đánh đuổi giặc Lương, Lý Bí cho quân sĩ đi khắp nơi thu nhận các loại bánh để làm “lương khô”, khi đó nhân dân Giang Xá đã làm ra bánh bác, loại bánh làm từ bột nếp, có thể để được lâu ngày mà không hỏng. Bánh bác hình tròn với ba lớp màu, vỏ bánh có hai màu đỏ, trắng đan xen, nhân bánh màu vàng, trông vừa đẹp lại lạ mắt. Nguyên liệu để làm bánh bác là gạo nếp cái hoa vàng, đậu xanh, mật đường, gấc, lá chuối và dây để giàng buộc. Muốn làm bánh bác, trước hết phải chọn loại nếp thật ngon, nhặt hết các hạt tẻ, hạt kẹ, sau đó đem ngâm rồi xay thành bột nước. Bột trước khi làm phải được lọc kỹ qua túi vải cho hết nước, rồi chia làm hai phần. Một phần để trắng, một phần trộn với gấc chín để tạo thành màu đỏ. Sau khi chia xong, bột phải được nhào thật kỹ cho thấu, đặc biệt là phần bột trộn gấc phải thật đều, thật dẻo, tránh để màu sắc chỗ đậm chỗ nhạt. Toàn bộ quá trình làm chín bột bằng lửa được gọi là “bác” bánh. Trước khi bác trên chảo, bột được chia thành các quả tròn, mỗi quả khoảng 750 g. Kỹ thuật làm bánh bác khó nhất là bác bánh trên chảo gang. Khi bác bánh, người làm phải biết điều chỉnh ngọn lửa để giữa nhiệt độ, không được để lửa quá to dễ làm cháy bánh, lượng mỡ cho vào cũng chỉ vừa đủ láng mặt chảo, không được cho quá nhiều hay quá ít. Trong quá trình bác bánh, phải thường xuyên lật mặt bánh để cho bánh chín đều và không bị “lên da”. Tên gọi của bánh có thể cũng bắt nguồn từ kỹ thuật làm bánh này chăng ? Sau khi thấy bánh đã chín, đặc biệt phần bánh có trộn gấc đã lên màu đỏ tươi thì nhấc bánh ra khỏi chảo, cho vào lá chuối tươi để ủ cho “lại bánh”, nếu trời rét ủ khoảng hai tiếng, trời nóng thì ủ 4 đến 5 giờ. Nhân bánh bác được làm từ đậu xanh và đường hay mật. Để làm nhân bánh, trước hết phải ngâm đậu xanh và đãi cho sạch vỏ rồi đem thổi chín. Sau đó cho đường hay mật vào đánh cho thật kỹ và đặt lên bếp đun nhỏ lửa (như làm chè kho), đổ ra mâm để thật nguội (nếu gói bánh lúc nhân còn nóng sẽ bị chua) rồi xe tròn để làm nhân. Khi bánh ủ đã dẻo, lấy ra dàn đều trên khay (trên khay đã rắc một lớp vừng rang để trang trí cho đẹp mắt), lớp màu đỏ để ngoài cùng, tiếp đến là lớp trắng, cuối cùng là nhân đậu. Các lớp phải dàn thật đều, tránh chỗ dày, chỗ mỏng. Sau đó cuộn thật nhẹ nhàng, vừa cuộn vừa sửa để tày bánh được tròn đều, đến mép ngoài của các lớp bột thì phải khéo léo mím chúng vào với nhau sao cho không thấy đường nối. Tày bánh hoàn thiện có chiều dài khoảng 25 cm, đường kính khoảng 6 cm. Khâu cuối cùng là dùng lá chuối tươi và giấy gói cuộn bên ngoài, lấy dây giàng buộc cho bánh tròn đều là hoàn tất. Loại bánh thứ hai là bánh cốm. Bánh cốm ở Giang Xá không làm bằng cốm tươi hay cốm khô như ở các nơi khác, bánh được làm bằng gạo nếp đã được nhuộm màu. Để làm bánh cốm, trước hết cũng phải chọn gạo nếp ngon như làm bánh bác. Gạo đãi sạch mới đem ra trộn màu. Để tạo ra màu xanh và mùi thơm của cốm, phải dùng lá thơm (còn gọi là lá nếp). Lá thơm được rửa thật sạch, giã nhuyễn và lọc lấy nước. Sau khi gạo ráo nước, đổ nước lá thơm vào và trộn thật đều. Gạo đã được nhuộm màu, chuyển sang màu xanh như hạt cốm, tiếp theo cho gạo vào đồ thành xôi. Khi xôi chín, phải để thật nguội mới bắt đầu trộn đường. Theo kinh nghiệm của người dân nơi đây, để có được một tày bánh cốm ngon, ngọt vừa phải thì 1,5 kg gạo nếp phải trộn với 1 kg đường. Sau khi trộn đều đường với xôi, đặt lên bếp đun. Đây là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình làm bánh, người làm bánh phải đun thật nhỏ lửa và liên tục quấy đều để tránh làm cháy bánh. Đun đến khi nào đường tan hết và trở nên cô đặc thì bắc xuống và để nguội. Nhân bánh cốm cũng được làm như nhân bánh bác. Khi gói bánh, trải lá lên khay, dàn đều vỏ bánh lên trên rồi vét một rãnh giữa rồi cho nhân vào, sau đó cũng cuốn như khi gói bánh bác. Bánh cốm sau khi hoàn thành có màu xanh và mùi thơm của lá nếp gần giống như mùi cốm non, có hình dáng tròn đều rất đẹp mắt. Bánh dày là loại bánh phổ biến ở nhiều nơi, nhưng ở Giang Xá bánh dày được làm rất công phu, đặc biệt là khi nó được làm ra để dâng lên Đức Thánh. Nguyên liệu chính để làm bánh dày cũng là gạo nếp loại ngon, được chọn kỹ càng. Gạo được đồ thành xôi. Xôi vừa đồ xong, phải giã ngay khi còn nóng. Giã bánh dày ở Giang Xá không dùng cối mà giã trên một chiếc “buồm” cói. Chiếc buồm là một hình tròn có đường kính khoảng một mét, bề mặt của buồm được quét một lớp lòng đỏ trứng để tránh bị dính khi giã. Chày để giã bánh dày được làm bằng gỗ, dài khoảng 1 mét, đầu chày được bịt bằng mo cau. Tuy nhiên, không để nguyên cả miếng mo cau mà phải tước nhỏ thành từng sợi rồi đan thành tấm, sau đó mới bịt vào đầu chày và dùng dây buộc lại ở bên trên. Giã bánh phải giã thật đều tay, một người giã còn một người lật. Khi xôi đã được giã thành bột thật mịn, thật dẻo mới bắt đầu “bắt” thành bánh. Bánh dày khi hoàn thành phải có hình tròn đều, đường kính khoảng 8 đến 10 cm, cứ hai chiếc bánh dày kẹp thành một đôi, hai mặt ngoài lót bằng miếng lá chuối cắt thành hình tròn hay trang trí thêm chữ “Thọ” bằng giấy màu đỏ cho đẹp mắt. Loại lễ vật cuối cùng là chè kho. Nguyên liệu để làm chè kho rất đơn giản, chỉ gồm đậu xanh và đường. Nhưng để có được đĩa chè vừa ngon vừa đẹp mắt lại đòi hỏi một kỹ thuật khá phức tạp. Trước hết phải chọn loại đậu xanh mới thu hoạch, các hạt đậu phải đều, vỏ hạt căng, bóng. Sau khi chọn được đậu, đem xay rồi đãi sạch vỏ và đem đồ. Đậu đồ vừa chín tới, nghiền cho thật mịn rồi mới trộn đường. Sau đó đặt lên bếp đun nhỏ lửa. Nấu chè kho cũng giống như làm nhân bánh bác hay nhân bánh cốm nhưng không đun kỹ lửa bằng, chỉ đun đến khi bột sánh lại là được. Khi múc chè ra đĩa, lắc nhẹ đĩa để mặt chè được mịn và bóng. Cuối cùng, trang trí vừng rang hay chữ “Thọ” bằng giấy điều lên trên. So với trước đây, toàn bộ quá trình chuẩn bị lễ vật cho hội làng ngày nay đã được đơn giản hoá đi rất nhiều. Theo lời các cụ kể lại, trước cải cách ruộng đất, khi làng còn bát giáp, mọi việc hành lễ đều do các giáp đảm nhiệm. Trong làng có tám giáp, mỗi giáp đều có khoảng trên 4 mẫu ruộng được chia đều cho các gia đình để canh điền biện lễ. Đến năm làng mở hội, các giáp đều phải đóng góp lễ vật, nếu làng mở đám dài ngày thì mỗi giáp chuẩn bị lễ một ngày, nếu mở đám ngắn ngày thì có thể hai giáp cùng làm một ngày. Tuy nhiên không phải tất cả các gia đình trong giáp đều có vinh dự được đóng cỗ thờ, mỗi giáp chỉ có một nhà được tu lễ mà thôi. Nhà tu lễ của giáp là nhà năm đó sinh được con trai, sau khi sức cơi trầu xin vào giáp thì được giáp giao cho một sào ruộng để cày cấy lấy sản phẩm tu lễ và được vinh dự nâng cỗ thờ. Theo lệ làng ngày xưa, lễ vật thờ phải bao gồm cả cỗ mặn và cỗ chay, chính vì vậy cũng có năm một giáp có tới hai nhà tu lễ, một nhà sửa cỗ mặn và một nhà sửa cỗ chay. Sau khi đã được giáp giao cho vinh dự chuẩn bị cỗ thờ, từ cuối tháng Chạp, gia đình đó phải lo chuẩn bị toàn bộ vật liệu cần thiết dành cho việc làm cỗ như gạo nếp, đậu xanh, mật…Đến gần ngày vào đám cũng là lúc gia đình chuẩn bị xong. Trước hôm dâng lễ một ngày, nhà tu lễ phải dựng một cái rạp ở sân, xung quanh quây màn đỏ, chỉ có nam giới mới được vào trong rạp đó, còn phụ nữ và trẻ em tuyệt đối không được tham dự vào việc chuẩn bị lễ vật. Đến ngày làm cỗ, gia đình phải mời những người trong giáp tới làm giúp, những người này cũng phải là nam giới, có tay nghề chuyên môn, biết việc, tất cả những người đến làm giúp đều mặc áo the khăn gỗ và phải hoàn toàn chay tịnh. Số lượng lễ vật ngày xưa cũng lớn hơn và cầu kỳ hơn rất nhiều. Riêng cỗ chay phải gồm từ 12 đến 14 loại bánh, ngoài bánh bác, bánh cốm, bánh dày và chè kho còn nhiều loại bánh đặc sản khác với kỹ thuật chế biến rất cầu kỳ như : bánh mật, bánh bỏng, bánh ngũ sắc, bánh xu xê, bánh chưng tày, bánh gai, bánh bột lọc… Trong đó bánh mật là loại bánh đặc biệt, đòi hỏi rất khắt khe về nguyên liệu cũng như quy trình chế biến. Nguyên liệu để làm bánh mật là bột gạo tẻ thơm và mật giọt (phải là mật mía de mới quý). Gạo tẻ sau khi xay thành bột phải lọc kỹ và để lắng. Sau đó cho bột và mật giọt vào nồi, một cân bột lọc thì cho bốn cân mật. Để quấy được một nồi bánh mật quả là kỳ công. Ngoài làm bánh phải vừa đun vừa quấy thật đều tay. Chiếc nồi để nấu bánh mật là một nồi đồng to, thường được các gia đình gìn giữ từ hai, ba đời nên đáy nồi trở nên rất mỏng, trong khi làm nếu không cẩn thận thì rất dễ làm thủng. Chính vì vậy khi quấy bánh, người làm phải tỳ nhẹ tay xuống cái đũa cả để cho nó vừa sát cái trôn nồi và đưa thật nhẹ nhàng. Bình thường để quấy được một nồi bánh mật phải mất 2/3 ngày. Bánh mật khi làm xong, phải thật dẻo mịn và trong như thạch. Bánh mật cũng gói tày ống tròn như bánh bác, kích thước cũng bằng nhau. Khi cắt bánh để bày cỗ, bánh trong suốt, màu đỏ hồng, nhìn đã thấy mát tận đáy lòng. Ngoài bánh mật, nhiều loại bánh đặc sản khác của địa phương đã từng là niềm tự hào từ bao đời nay của người dân Giang Xá. Chỉ tiếc rằng đến ngày nay, các loại bánh này không còn hiện diện trên kiệu cỗ của làng mỗi dịp hội hè nữa. Cùng với cỗ chay, trước đây, hội làng không thể thiếu cỗ mặn. Việc chuẩn bị cỗ mặn còn công phu hơn rất nhiều. Cỗ mặn theo quy định của làng là 1 cân lợn (theo cân của làng, bằng khoảng 30 cân móc hàm) và 30 cân gạo xôi. Để chuẩn bị cỗ thờ, sau khi được giáp giao nhiệm vụ, nhà tu lễ phải mua một con lợn đực thuộc loại lợn ỉ, mõm ngắn, mông lồng bàn, lông đen tuyền về nuôi. Từ khi mua lợn về, cả nhà phải gọi là “ông ỉn”, chuồng nuôi cũng phải quét dọn cho sạch sẽ, cắm cữ ở cửa không cho ai vào xem. Nếu thấy “ông ỉn” bỏ ăn, gia đình phải thắp hương ở cửa chuồng để cầu cho “ông ỉn” ăn ngon ngủ yên, chóng lớn. Đến ngày được nâng lễ, nhà tu lễ phải mời họ hàng nội ngoại đến làm giúp, cũng phải dựng rạp ở sân như làm cỗ chay, trước cửa rạp để chậu nước gừng để những người làm giúp tẩy uế. Vào 3, 4 giờ sáng ngày rước cỗ, phải tắm rửa cho “ông ỉn” thật sạch sẽ, mời “ông” lên một cái giá đỡ như cái chõng để ông nằm sấp, bốn chân chìa ra bốn góc, dùng trạc đỏ để buộc lại, trên lưng phủ vải đỏ, chỉ để hở cái đầu. Sau đó cho bốn người mặc áo the, khăn gỗ, thắt lưng bó que khiêng ra đứng bên ngoài giọt gianh đình để làm lễ. Làm lễ xong, cụ Từ lấy chén rượu trước cửa ngai Thánh đưa cho ông Giáp trưởng của giáp có lễ, ông này mang xuống dội vào mồm, vào lưng “ông ỉn”, gọi là làm lễ Tỉnh sinh. Sau đó lại khiêng về nhà tu lễ để làm thịt, khi thịt lấy một ít tiết và một ít lông gáy để sau làm lễ “phế mao huyết”. Từ ngày bát giáp mất đi, Ban Khánh tiết thay cho các nhà tu lễ làm công việc đóng cỗ. Cùng với việc giảm thiểu về mặt số lượng, quy trình đóng cỗ ngày nay cũng trở nên đơn giản hơn trước rất nhiều. Toàn bộ việc làm bánh giờ đây được giao cho các gia đình chuyên nghề trong làng làm giúp, sau khi hoàn thành đủ số lượng bánh cần thiết, chiều mùng 10 tháng Giêng, Ban Khánh tiết mới chuyển về nhà đóng cỗ để làm nốt phần việc của mình. Nhà đóng cỗ được chọn lựa khá kỹ, chủ nhà phải là thành viên của Ban Khánh tiết (không nhất thiết phải là Trưởng ban), có đạo đức, vợ chồng song toàn, bên cạnh đó, nhà đóng cỗ phải có sân rộng, ngõ rộng để thuận tiện cho việc rước cỗ sau này. Sau khi các loại bánh được chuyển về, Ban Khánh tiết bắt tay vào việc đo và cắt bánh. Trước đây, khi đóng cỗ, mỗi giáp đều có một que đo làm bằng gỗ, được son thếp vàng để đo cắt bánh. Các khoanh bánh, kể cả bánh cốm và bánh bác, khi cắt ra phải thật đều, mỗi khoanh dài khoảng 12 cm, không khoanh nào được dài hơn, cũng không khoanh nào được ngắn hơn. Bánh cắt xong, cứ ba khoanh bày vào một đĩa, xen lẫn cả bánh bác và bánh cốm cho đẹp mắt. Bánh dày cũng được chồng lên nhau thành từng khối cao 12cm rồi dùng que cố định lại. Mọi công việc chuẩn bị đã xong, kiệu cỗ được mang ra đặt trang trọng trên chiếc sập giữa nhà. Kiệu cỗ hay còn gọi là mâm xe, được làm theo kiểu mâm bồng hình khối tròn, nhưng không có chân, kiệu cao 1m2 (không kể phần quai), phần đáy cao khoảng 60 cm, phía trên đặt ba khay tròn, mỗi khay có thành cao 15 cm, tạo thành ba tầng. Bên thành của mỗi tầng kiệu đều trổ bốn ô cửa to, dài khoảng 18 cm và bốn ô cửa nhỏ dài khoảng10cm. Hai bên kiệu có hai quai tròn để lồng đòn khiêng. Toàn bộ kiệu được sơn màu nâu thẫm. Riêng hai đòn khiêng được chạm trổ đầu rồng khá tinh xảo. Trướ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 155.doc
Tài liệu liên quan