Đề tài Tổng quan về công ty chứng khoán và hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán

Tài liệu Đề tài Tổng quan về công ty chứng khoán và hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán: CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Cùng với sự vận động và phát triển kinh tế, nhu cầu đầu tư và tích luỹ trong xã hội không ngừng tăng và ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Từ đó trong nền kinh tế cũng hình thành nên một cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư. Lúc đầu sẽ xuất hiện những khoản vay trực tiếp, dựa trên quan hệ quen biết cá nhân để giải quyết nhu cầu vốn của mình. Tuy nhiên, khi cung cầu vốn tăng lên thì hình thức này không đáp ứng được nữa. Thực tế đòi hỏi phải xuất hiện các trung gian tài chính, mặt khác do nhu cầu về các khoản vốn lớn nên phải có các cách khác nhau để vay vốn. Các nhà đầu tư phát hành ra chứng khoán để vay vốn. Thị trường tài chính xuất hiện. Thị trường chứng khoán nằm trong thị trường tài chính dài hạn thông qua cơ chế tài trợ...

doc92 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 921 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về công ty chứng khoán và hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Cùng với sự vận động và phát triển kinh tế, nhu cầu đầu tư và tích luỹ trong xã hội không ngừng tăng và ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Từ đó trong nền kinh tế cũng hình thành nên một cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư. Lúc đầu sẽ xuất hiện những khoản vay trực tiếp, dựa trên quan hệ quen biết cá nhân để giải quyết nhu cầu vốn của mình. Tuy nhiên, khi cung cầu vốn tăng lên thì hình thức này không đáp ứng được nữa. Thực tế đòi hỏi phải xuất hiện các trung gian tài chính, mặt khác do nhu cầu về các khoản vốn lớn nên phải có các cách khác nhau để vay vốn. Các nhà đầu tư phát hành ra chứng khoán để vay vốn. Thị trường tài chính xuất hiện. Thị trường chứng khoán nằm trong thị trường tài chính dài hạn thông qua cơ chế tài trợ trực tiếp, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán dài hạn. Cho tới nay, thị trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. 1.Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị trường phát triển.Thị trường chứng khoán là chiếc cầu nối vô hình giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Một thị trường chứng khoán lành mạnh và hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, tạo sự lành mạnh trong việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất. Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát hành và luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua đi bán lại chứng khoán trên thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu tư từ ngành này sang ngành khác, từ đó góp phần điều hoà vốn giữa các ngành kinh tế, phá vỡ ‘‘tính ỳ’’ của đầu tư trong sản xuất, tạo ra những động năng cho sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài chính, là chất xúc tác quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đàu tư nước ngoài có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, thị trường chứng khoán thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lành mạnh và có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp muốn huy động được vốn và duy trì vốn thông qua thị trường chứng khoán phải tính toán, làm ăn đàng hoàng, lành mạnh và có hiệu quả ngày càng cao. Nếu không thì doanh nghiệp và ban lãnh đạo sẽ được quyết định bởi thị trường. Thị trường chứng khoán là phương tiện giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế, tài chính. Bên cạnh việc tăng thu ngân sách từ thuế, Nhà nước thường sử dụng biện pháp phát hành trái phiếu Nhà nước-một hình thức tín dụng Nhà nước, trong đó Nhà nước vay tiền của công chúng. Thị trường chứng khoán còn là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia. Các thị giá chứng khoán được thể hiện thường xuyên trên thị trường đã phản ánh giá trị phần tài sản Có của doanh nghiệp, mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn lành mạnh, có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt đẹp thì giá trị thị trường của chứng khoán công ty mới cao và ngược lại. Ngoài ra, thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Rõ ràng, với cách thức hoạt động mềm dẻo linh hoạt của thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán đã phát huy vai trò tích cực và có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. 2. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán thường nhìn vào 3 mục tiêu lớn: hoạt động có hiệu quả, điều hành công bằng, phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, thị trường chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc sau : Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này đòi hỏi việc mua bán chứng khoán phải thực hiện thông qua môi giới trung gian. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện cácgiao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. Nguyên tắc trung gian đảm bảo cho thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Có tác dụng đảm bảo an toàn về chứng khoán, tránh chứng khoán giả mạo, trộm cắp chứng khoán, khắc phục những hạn chế về không gian của sàn giao dịch. Điều này thể hiện rõ hơn trên thị trường chứng khoán tập trung – tức là Sở giao dịch chứng khoán. Nguyên tắc đấu giá: Mục tiêu của thị trường chứng khoán là cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán, mà giá cả chỉ có thể xác định căn cứ vào sự tác động qua lại của cung và cầu chứng khoán theo nguyên tắc đấu giá. Giá cả của chứng khoán được định ra trên nguyên tắc thị trường. Vì vậy thị trường chứng khoán được coi là thị trường mang tính tự do nhất trong các loại thị trường. Nguyên tắc công khai thông tin : Để đảm bảo công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán, đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian lận trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải được công khai, như các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao dịch.Việc công khai thông tin về thị trường chứng khoán đòi hỏi thoả mãn các yêu cầu về tính chính xác, tính kịp thời và tính dễ dàng. Tất cả những nguyên tắc này đều được thể hiện bằng các văn bản pháp quy, các đạo lụât, các quy chế, điều lệ của từng thị trường chứng khoán, nhằm bảo vệ cho các nhà đầu tư và ràng buộc các thành viên của thị trường chứng khoán, tạo điều kiện ổn định và phát triển thị trường chứng khoán. 3. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán, hàng hoá của thị trường bao gồm nhiều loại. Nhưng xét về mặt lich sử và theo cách gọi có tính thống nhất, các loại hàng hoá này đều có tên là chứng khoán. Có thể hiểu khái quát chứng khoán là những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc điện tử (bút toán ghi sổ) xác nhận quyền sở hưũ hợp pháp của chủ chứng khoán và có thể được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán Thông thường chứng khoán gồm 3 loại cơ bản là: Chứng khoán vốn: Cổ phiếu (Equity securities); Chứng khoán nợ: Trái phiếu (Debt securities); Chứng khoán phái sinh: Các chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán (Derivatives). Cổ phiếu: Là một chứng thư xác nhận quyền sở hữu đối với tài sản và vốn của công ty cổ phần, do đó nó được coi là một tài sản thực sự. Người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông. Các cổ đông được hưởng quyền lợi hợp pháp tại công ty cổ phần tuỳ theo tỉ lệ vốn tham gia vào công ty cổ phần đó. Trái phiếu: Là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối vớ người sở hữu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Các chứng khoán phái sinh: Trên thị trường chứng khoán, bên cạnh các giao dịch mua bán các chứng khoán vốn, chứng khoán nợ, còn có các giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như chứng quyền, chứng khế, quyền lựa chọn…Các chứng từ tài chính nay được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán. Do đó, người ta gọi chúng là các chứng từ có nguồn gốc tài chính hoặc các chứng khoán phái sinh. 4. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể tham gia hoạt động theo nhiều mục đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể trung gian chứng khoán, chủ thể quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán và các tổ chức có liên quan. Chủ thể phát hành: Đây là những người cần tiền và huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán và bán cho những người đầu tư hoặc những người kinh doanh chứng khoán. Chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác theo qui định của pháp luật. Chủ thể đầu tư: Người đầu tư là người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư và thị trường chứng khoán bằng cách thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Có 2 loại chủ thể đầu tư là nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức đầu tư. Chủ thể trung gian chứng khoán: Nhà trung gian chứng khoán có thể hoạt động với tư cách là nhà trung gian cá nhân, tổ chức trung gian ( pháp nhân ). Vai trò chủ yếu của nhà trung gian chứng khoán là kinh doanh, môi giới và bảo lãnh chứng khoán, ngoài ra còn thực hiện các nghiệp vụ khác như tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, giao dịch mua bán chịu chứng khoán ... Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán: Thực hiện việc quản lý và giám sát ngành công nghiệp chứng khoán là một cơ quan chuyên trách theo dõi, hỗ trợ, kiểm soát, chỉnh lý, điều hoà hoạt động các thị trường chứng khoán trong cả nước. Các tổ chức liên quan: Ngoài các tổ chức trên, trên thị trường chứng khoán còn có các tổ chức quan trọng khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán như Sở giao dịch chứng khoán; tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán; tổ chức dịch vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán; Hiệp hội đầu tư chứng khoán; Hiệp hội kinh doanh chứng khoán; công ty tín thác đầu tư; các tổ chức dịch vụ vi tính về chứng khoán; trung tâm đào tạo và hành nghề chứng khoán. II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 1. Mô hình tổ chức công ty chứng khoán. Trong hoạt động của thị trường chứng khoán, tuỳ theo luật định ở mỗi nước mà các Ngân hàng, tổ chức tín dụng hay công ty chứng khoán có vai trò nhất định trên thị trường. Ở các nước kinh tế thị trường, trong hệ thống ngân hàng hoạt động theo mô hình ngân hàng chuyên doanh hay ngân hàng đa năng một phần, các công ty chứng khoán là các chủ thể quan trọng và đông đảo của thị trường chứng khoán, thực hiện nhiều nghiệp vụ cơ bản trong lĩnh vực này. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phổ biến về công ty chứng khoán sau: Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán: Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán, được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada… Mô hình này có ưu điểm là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, khả năng san bằng rủi ro trong kinh doanh bị hạn chế. Trong thời gian gần đây, các nước áp dụng mô hình này có xu hướng giảm dần sự hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ chứng khoán. Mô hình công ty đa năng: Có hai loại công ty đa năng, đó là công ty đă năng một phần và công ty đa năng hoàn toàn. Công ty đa năng một phần: Ở đây các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con độc lập. Công ty đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh tổng hợp. Mô hình này có ưu điểm là kết hợp đa năng rất cao, do đó mà giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu như thị trường có biến động mạnh thì hoạt động kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng nếu không tách bạch rõ ràng các nghiệp vụ kinh doanh. Thường thường, các nước châu Âu, châu Úc thường áp dụng mô hình công ty đa năng. 2. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Cơ cấu tổ chức một công ty chứng khoán có thể được xây dựng từ đơn giản đến phức tạp tuỳ theo qui mô của thị trường, phương thức kinh doanh của chủ sở hữu, khách hàng…, mặt khác, tuỳ thuộc vào tính chất sở hữu của công ty. Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị bổ nhiệm ban Giám đốc và Giám đốc điều hành công ty. Giúp việc cho Hội đồng quản trị có Ban kiểm soát, có nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát tất cả các giao dịch chứng khoán. Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán gồm các phòng chủ yếu sau: Hình 1: Sơ đồ tổ chức chung của công ty chứng khoán : Hội đồng quản trị Giám đốc Phó giám đốc Phòng giao dịch Phòng kế toán-tài chính Phòng marketing Phòng quản trị – hành chính Phòng lưu ký, đăng ký lưu trữ Phòng giao dịch: Thực hiện các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán và OTC. Thông thường, phòng giao dịch bao gồm ba bộ phận: Bộ phận môi giới cho khách hàng, bộ phận tự doanh, bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán. Chức năng chính của phòng giao dịch là nhận và thực hiện giao dịch tại Sở đối với các lệnh giao dịch. Các thông báo về việc giao dịch đã được thực hiện xong chuyển đến cho người đặt lệnh và cuối cùng chuyển các tờ lệnh cho phòng tài chính – kế toán để soạn các văn bản hợp đồng tương ứng và đưa dữ liệu sang bộ phận lưu trữ. Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán cung cấp cho các bộ phận của công ty, khách hàng các báo cáo về kinh tế và tình hình hoạt động của các công ty được niêm yết, tình hình thị trường và động thái giá chứng khoán, các nhà môi giới ra các quyết định mua bán chứng khoán có lợi nhất cho công ty và cho khách hàng của công ty. Phòng kế toán- tài chính: Phòng này có hai bộ phận chủ yếu là bộ phận kế toán và bộ phận tài chính. Bộ phận kế toán xử lý các hợp đồng và tài liệu giao dịch, soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận tài liệu từ khách hàng, lưu trữ các hợp đồng, chứng từ, lệnh…Bộ phận tài chính quản lý tài chính của Công ty thông qua tài khoản chứng khoán và tiền quản lý việc cho khách hàng vay tiền để đầu tư chứng khoán, thoả thuận với khách hàng trong các giao dịch nhận thế chấp chứng khoán, bảo đảm việc tuân thủ tỷ lệ vốn cho vay trên tổng giá trị chứng khoán thế chấp. Bộ phận này thường thoả thuận với các ngân hàng để vay tiền từ ngân hàng, cho khách hàng vay và ký kết các văn bản thoả thuận thế chấp có liên quan. Phòng Marketing: Với chức năng chủ yếu là quan hệ với khách hàng của công ty, nhận lệnh từ khách hàng sau đó chuyển sang phòng giao dịch để thực hiện, nghiên cứu phát triển thị trường. Phòng quản trị – hành chính tổng hợp: Phòng này có nhiệm vụ chủ yếu là duy trì cơ sở kinh doanh, văn phòng làm việc, trang thiết bị đồ dùng văn phòng nói chung, duy trì điện nước, nhà ăn…; tổ chức gặp gỡ, làm việc với các cơ quan hữu quan, các tổ chức quốc tế, tổ chức kinh doanh khác; ký kết và quản lý các hợp đồng tuyển dụng lao động, quản lý nhân sự… Phòng lưu ký, đăng ký và lưu trữ thông tin: Thực hiện các việc liên quan đến lưu ký, đăng ký chứng khoán và lưu giữ thông tin về giao dịch chứng khoán, về tài khoản của khách hàng… Trong trường hợp công ty chứng khoán được cấp quản lý tài sản khách hàng, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán có thể thành lập phòng quản lý tài sản. Các phòng này đem lại cho công ty những thu nhập to lớn bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó. Trên thực tế, nhiều công ty chứng khoán chào bán rất nhiều chủng loại chứng khoán và loại hình khác nhau. Vì vậy, mỗi công ty chứng khoán là một thực thể riêng biệt và rất phức tạp, có cơ cấu hoạt động riêng và cơ cấu này luôn thay đổi theo thời gian. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng và phản ánh của nhiều nhân tố, về quản lý, về thị trường, về con người. Trình độ chuyên môn hoá cao độ dẫn đến phân cấp quản lý, nhiều khi các bộ phận trong tổ chức không phụ thuộc lẫn nhau. Bên cạnh đó, thị trường tài chính có ảnh hưởng lớn đến các Công ty chứng khoán, đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận của công ty. Mọi hoạt động quản lý và chuyên môn trong công ty chứng khoán đều diễn ra trong bối cảnh của thị trường chứng khoán. Mặt khác trong công ty chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng số một. Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Khách hàng tin tưởng vào người môi giới về mua bán chứng khoán, giá, thời điểm…Vì vậy nhân viên môi giới phải thực hiện nguyên tắc ‘‘biết khách hàng của mình’’, nắm khả năng tài chính của khách hàng, tư vấn cho khách hàng, giữ gìn đạo đức kinh doanh và tôn trọng khách hàng, luôn đặt quyền lợi của khách hàng lên trên hết. 3. Các loại công ty chứng khoán Các công ty chứng khoán thường được phân loại theo hình thức kinh doanh mà công ty tiến hành. Công ty môi giới (The member firm): Loại công ty này còn được gọi là công ty thành viên vì nó là một thành viên của Sở giao dich chứng khoán. Công việc kinh doanh chủ yếu của công ty môi giới là mua và bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao dịch chứng khoán mà công ty đó là thành viên. Công ty đầu tư ngân hàng (The Investment Banking Firm): Loại công ty này phân phối những chứng khoán mới được phát hành cho công chúng qua việc mua chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại các chứng khoán này cho công chúng theo giá tính gộp cả lợi nhuận của công ty. Vì vậy công ty này còn gọi là nhà bảo lãnh phát hành. Công ty giao dịch phi tập trung (The over counter firm): Công ty này mua bán chứng khoán tại thị trường OTC. Hiện nay nhiều công ty chứng khoán có vốn lớn được phép hoạt động cả ba lĩnh vực trên. Công ty dịch vụ đa năng (Multiservices Firm): Những công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp chứng khoán. Ngoài ba dịch vụ trên, họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán, uỷ nhiệm các giao dịch buôn bán cho khách hàng trên thị trường OTC. Sự kết hợp giữa sản phẩm và kinh nghiệm của công ty sẽ quyết định cơ sở cho những dịch vụ mà họ có thể cung cấp cho khách hàng. Công ty buôn bán chứng khoán: Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí do công ty tự chịu. Công ty phải cố gắng bán chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Vì vậy loại công ty này hoạt động với tư cách là người uỷ thác chứ không phải là đại lý nhận uỷ thác. Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng: Loại công ty này nhận chênh lệch giá qua việc buôn bán chứng khoán, do đó họ còn được gọi là nhà tạo thị trường, nhất là trên thị trường giao dịch OTC. Các công ty chứng khoán là đối tượng quản lý của các nguyên tắc, qui chế do Uỷ ban chứng khoán ban hành. Các quy chế này chi phối hoạt động của các công ty này, kiểm soát họ trong quan hệ giữa các công ty chứng khoán với nhau và giữa công ty chứng khoán với khách hàng của họ. 4. Vai trò của công ty chứng khoán Khi thực hiện các hoạt động của mình, các công ty chứng khoán cũng tạo ra sản phẩm vì họ là đại lý hay uỷ thác trong quá trình mua bán chứng khoán, dịch vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân đầu tư, công ty và cả Chính phủ nữa. Vai trò huy động vốn: Các công ty chứng khoán là các trung gian tài chính có vai trò huy động vốn, tức là họ là các kênh chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Các công ty chứng khoán thường đảm nhận vai trò này qua các hoạt động về nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán. Vai trò xác định giá cả chứng khoán: Thông qua Sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC, các công ty chứng khoán cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. Vai trò thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán: Các công ty chứng khoán thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất. Vai trò thúc đẩy vòng quay của chứng khoán: Các công ty chứng khoán cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó, họ góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Dịch vụ tư vấn tài chính: Các công ty chứng khoán với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư. Công ty có thể tư vấn về: thu thập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội đầu tư, triển vọng ngắn và dài hạn của thị trường chứng khoán và các công ty trong thời gian hiện tại và tương lai, tư vấn đầu tư chứng khoán … Các sản phẩm đầu tư: Các sản phẩm hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính, sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán có các dịch vụ yểm trợ rất to lớn đối với thị trường, vì mỗi sản phẩm tài chính có những quy trình riêng biệt và nhu cầu của khách hàng là đa dạng khác nhau. 5. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán. Xuất phát từ nhu cầu khách quan và chủ quan trong những hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và người đầu tư nói riêng đòi hỏi công ty chứng khoán cung cấp rất nhiều các dịch vụ trung gian. Tuy nhiên, với phạm vi hoạt động khác nhau mà các công ty chứng khoán có thể cung cấp theo hướng chuyên môn hoá các nghiệp vụ sau: 5.1. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán. Giao dịch chứng khoán theo uỷ thác (môi giới) (in commission): Công ty chứng khoán hoạt động nghiệp vụ môi giới với tư cách là một đại lý thay mặt khách hàng để giúp người bán và người mua gặp nhau thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường chứng khoán. Lượng hoa hồng từ nghiệp vụ này được hưởng theo một tỉ lệ nhất định trên tổng doanh số chứng khoán giao dịch hộ khách hàng và chính khách hàng phải chịu hậu quả kinh tế của giao dịch đó. Đây chính là hoạt động mua bán chứng khoán và là nghiệp vụ chủ yếu của các công ty chứng khoán. Sơ đồ quy trình giao dịch: Khách hàng Công ty chứng khoán Sở giao dịch (2) (1) (4) (5) (3) (1): Mở tài khoản. Một khách hàng có thể mở một hoặc nhiều tài khoản ở một công ty chứng khoán, gồm có: tài khoản tiền mặt, tài khoản ký quỹ, tài khoản uỷ thác. (2): Đặt lệnh: Khi khách hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải đưa lệnh cho người đại diện có giấy phép đang giữ tài khoản của mình qua điện thoại, gặp trực tiếp hoặc bằng thư từ. Khi đó công ty chứng khoán sẽ kiểm tra số khách hàng cần bán hoặc số tiền trên tài khoản đủ thanh toán cho số lượng chứng khoán cần mua cả về giá trị chứng khoán và các loại phí giao dịch hay không và luôn yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một phần chứng khoán cần bán hoặc một số tiền nhất định trên tài khoản khách hàng ở công ty heo một tỉ lệ nhất định. (3): Công ty chứng khoán chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện: Các lệnh mua bán chứng khoán niêm yết chuyển trực tiếp đến sàn giao dịch Sở giao dịch chứng khoán. Còn đối với các lệnh mua hoặc bán những chứng khoán không được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán của khách hàng vẫn được chuyển tới phòng thực hiện lệnh. (4): Xác nhận lệnh cho khách hàng: Sau khi lệnh được chuyển tới thị trường thích hợp để thực hiện, một báo cáo về việc thực hiện lệnh này được lập ra để thông báo lệnh đó có được thực hịên hay không, trong đó có hai liên, một liên giao cho khách hàng, một liên giao cho phòng kế toán làm căn cứ để thanh toán. (5): Thanh toán và giao hàng: Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền thông qua ngân hàng chỉ định thanh toán và người bán sẽ giao chứng khoán thông qua hình thức chuyển khoản tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Sau khi đã hoàn tất các thủ tục, công ty sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng mở tại công ty chứng khoán. Trong trường hợp lệnh sai, sàn giao dịch vẫn thực hiện bình thường còn những sai sót sẽ do công ty điều chỉnh. Như vậy, với nghiệp vụ này, công ty chứng khoán là một trung gian mua bán chứng khoán hộ cho khách hàng nên được hưởng hoa hồng môi giới. Đó là khoản phí mà nhà môi giới quy định khách hàng phải trả về các dịch vụ mua bán chứng khoán. Tiền hoa hồng được tính theo phần trăm trên tổng giá trị một giao dịch, tuỳ theo quy định của từng công ty chứng khoán. Đồng thời với khoản thu nhập nhận được từ hoạt động môi giới thì công ty chứng khoán cũng phải chi một khoản cho việc nộp thuế, thuế sẽ được tính trên cơ sở tổng mức hoa hồng hay chiết khấu mà công ty nhận được. Trong quá trình thực hiện các bước của lệnh theo yêu cầu của khách hàng, công ty chứng khoán phải tuân thủ những quy định trong quy chế của công ty và pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để đảm bảo lợi ích và thuận tiện cho cả khách hàng và công ty chứng khoán. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán: Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn vốn kinh doanh của công ty chứng khoán nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi của chính mình. Đây là nghiệp vụ kinh doanh rất phức tạp và khó khăn, nó có thể mang lại lợi nhuận cho công ty nhưng cũng có thể gây ra không ít rủi ro. Để thực hiện tốt nghiệp vụ này, các công ty chứng khoán phải có đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với những biến động của thị trường để đưa ra được quyết định đầu tư chính xác, hợp lý. Các khoản thu của nghiệp vụ này gồm hai phần chủ yếu là cổ tức và lãi vốn (số chênh lệch giữa giá mua và giá bán) nhưng phần thu lãi vốn sẽ là phần chủ yếu. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán: Với đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am hiểu thị trường, có tiềm lực tài chính, các công ty chứng khoán hoạt động rất mạnh mẽ về nghiệp vụ nay. Đây là hoạt động hỗ trợ cho công ty phát hành hay chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả thuận mua chứng khoán để bán lại. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: Thực chất nghiệp vụ này là nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này, khách hàng sẽ uỷ thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc mà đã được khách hàng thoả thuận. Thực hiện nghiệp vụ này cho khách hàng, công ty chứng khoán vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán nên công ty chứng khoán nhận được khoản phí quản lý bằng tỉ lệ phần trăm trên tổng số lợi nhuận thu về cho khách hàng. Đối với các nhà đầu tư thì việc uỷ thác đầu tư này đem lại cho họ rất nhiều lợi ích như giảm rủi ro, đảm bảo ổn định lợi nhuận, giảm chi phí giao dịch và nghiên cứu, hiệu quả đầu tư được đảm bảo hơn so với tự đầu tư, đặc biệt là đối với người đầu tư ít có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: Đây là nghiệp vụ uỷ thác của khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán. Thực hiện nghiệp vụ này khách hàng sẽ đưa số chứng khoán họ cần thu gỡ hộ đến công ty và ký hợp đồng với công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có trách nhiệm bảo quản, lưu giữ anh toàn cho các chứng khoán này. Công ty chứng khoán thu được khoản phí nghiệp vụ gần như không bị rủi ro, có điều kiện mở rộng các nghiệp vụ khác để thu hoa hồng, tăng thêm nguồn lợi, bảo quản chứng khoán như vật thế chấp cho một khoản vay của khách hàng. Nghiệp vụ thu lợi tức hộ khách hàng: Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng. Khi thực hiện lưu ký, công ty chứng khoán phải phối hợp với trung tâm lưu ký chứng khoán, công ty phát hành chứng khoán và một ngân hàng chỉ định thanh toán để tổ chức theo dõi kỳ hạn thu lợi tức, tỉ lệ lợi tức, số lượng các loại chứng khoán, thu đủ và gửi báo cáo, trả lợi tức cho khách hàng. Nghiệp vụ tư vấn và đầu tư chứng khoán: Là họat động phân tích và đưa ra những vấn đề liên quan đến chứng khoán. Trong đó khách hàng được tư vấn về lựa chon công cụ đầu tư cho phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải tuân thủ theo các nguyên tắc tư vấn là khách quan, đầy đủ, chi tiết các thông tin liên quan đến công việc cần tư vấn, tôn trọng nguyện vọng của khách hàng, thông báo cho khách hàng biết về sự thay đổi của pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư của khách hàng. Làm sao cho khách hàng luôn hài lòng về quyết định đầu tư của họ chính là thành công của hoạt động tư vấn. 5.2. Các nghiệp vụ phụ trợ của công ty chứng khoán Hoạt động tín dụng: Khi khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng không có đủ tiền thanh toán, công ty chứng khoán sẽ mua bán chứng khoán qua thị trường giao dịch mua bán chịu. Thị trường này mang tính chất một giao dịch thị trường bằng tiền mặt, mặc dù đứng trên quan điểm của khách hàng thì đây là một giao dịch kỳ hạn. Giao dịch mua bán chịu là biện pháp ngăn chặn việc lên giá chứng khoán có thể xảy ra trong tương lai và giúp cho việc lưu hành chứng khoán được trôi chảy hơn thông qua việc hỗ trợ giao dịch thị trường tiền mặt. Giao dịch mua bán chịu bao gồm việc cấp tín dụng dưới dạng tiền mặt cho khách hàng khi khách hàng mua chịu, còn khi khách hàng bán chịu, công ty chứng khoán sẽ cấp tín dụng dưới dạng cổ phiếu. Khách hàng muốn được giao dịch mua bán chịu phải có đủ tiền đảm bảo trong tài khoản tiền gửi ngân hàng. Tỉ lệ mua bán chịu sẽ xác định số tiền đảm bảo cần thiết. Quỹ quản lý trái phiếu: Sản phẩm của quỹ quản lý trái phiếu là trái phiếu công ty có bảo đảm, trái phiếu giao dịch… Có nhiều loại quản lý: Khách hàng có thể ký gửi tuỳ chọn, ký gửi cố định hoặc ký gửi từng phần. Giao dịch trái phiếu theo hợp đồng chuộc lại trái phiếu: Hợp đồng chuộc lại trái phiếu từ vòng đầu tư tại một thời điểm trong tương lai sẽ được hai bên ký kết tại thời điểm giao dịch hiện tại. Có nhiều loại chuộc lại: Chuộc lại chung qui định rõ khối lượng giao dịch, đơn vị mua bán, lãi suất cố định; Chuộc lại theo qui mô lớn qui định khối lượng giao dịch lớn, đơn vị giao dịch . Ký gửi đầu tư trái phiếu số lượng nhỏ để tiết kiệm thuế: Loại ký gửi này có ưu điểm lớn về thuế, điều kiện mở tài khoản đơn giản. Ở đây, người đầu tư phải giữ trái phiếu trong một thời gian từ một năm đến hết hạn, thường là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương. Ngoài ra, công ty chứng khoán còn có nhiều hoạt động khác mang tính chất đặc biệt như huy động vốn ngắn hạn… Hiện nay, luật chứng khoán ở nhiều nước cho phép các công ty chứng khoán có thể thực hiện một, hai hay tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Số vốn điều lệ tối thiểu của công ty phải bằng số vốn điều lệ tương ứng với mỗi nghiệp vụ chứng khoán mà công ty được phép kinh doanh. 5.3. Nguyên tắc hoạt động và đạo đức nghề nghiệp. Các công ty chứng khoán đã được cấp giấy phép kinh doanh hoạt động theo các nguyên tắc bắt buộc: Giao dịch trung thực và công bằng,vì lợi ích của khách hàng; kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ,có tinh thần trách nhiệm. Phải có hợp đồng với khách hàng trước khi thực hiện dịch vụ, không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu sai về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động gây thiệt hại cho khách hàng. Bảo vệ tài sản của khách hàng bằng cách tách biệt tài sản của khách hàng với tài sản của mình. Đảm bảo nguồn vốn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng. Tổ chức và thực hiện công tác kiểm soát nội bộ, tổ chức và thực hiện hạch toán và quản lý tài chính theo qui định của pháp luật. Đảm bảo có đủ nhân viên kinh doanh chứng khoán có kỹ năng đã qua đào tạo và được giám sát kỹ lưỡng, không được bán chứng khoán mình không sỡ hữu hoặc không có lệnh bán của khách hàng, trừ trưòng hợp cơ quan có thẩm quyền cho phép, không được nhận lệnh mua bán của khách hàng ngoài trụ sở công ty, không được tham gia hoạt động kinh doanh ngoài phạm vi giấy phép hoạt động được cấp. Bên cạnh đó, cán bộ nhân viên công ty chứng khoán đều phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cơ bản trong giao dịch kinh doanh chứng khoán. Các nguyên tắc đó là: Trung thực và công bằng: Khi nhân viên tư vấn cho khách hàng hoặc hoạt động thay mặt cho khách hàng, họ phải đảm bảo tính độc lập, công khai và không thiên vị. Họ không được đòi hỏi, nhận, mời hay cho, tặng bất kỳ một món quà biếu hay hối lộ nào từ phía khách hàng hoặc dành cho khách hàng, nhất là khách hàng tiềm năng nhằm mưu cầu một sự cư xử ưu đãi và thiên vị so với các đối tượng khác. Ngoài ra, khi tính các loại phí, nhân viên không được tính vượt mức cho phép trong từng trường hợp cụ thể. Năng lực: Nhân viên phải nắm vững và tuân thủ các luật lệ, qui chế, qui định hiện hành liên quan đến giao dịch kinh doanh chứng khoán, cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư và các hoạt động khác có chức năng phụ trợ cho việc kinh doanh chứng khoán và cung cấp các dịch vụ đầu tư. Trong quá trình giao dịch với khách hàng, họ phải thể hiện là nhân viên có đủ năng lực cần thiết bao gồm cả việc đào tạo hoặc có kinh nghiệm chuyên môn phù hợp để có thể làm tốt ở cương vị được giao phó. Thông tin về khách hàng: Nhân viên phải tiến hành tất cả các bước hợp lý để nhận biết một cách đầy đủ từng khách hàng, tình trạng tài chính, kinh nghiệm và mục đích đầu tư của từng khách hàng, để bảo vệ chính mình, bảo vệ đồng nghiệp và bảo vệ thị trường, nhân viên phải từ chối việc hành động thay mặt cho khách hàng hiện thời hay khách hàng tiềm năng nếu họ không có một hồ sơ rõ ràng. Trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền đưa ra yêu cầu, nhân viên phải cung cấp được đầy đủ các thông tin như: tên tuổi, địa chỉ, tình hình tài chính, danh mục đầu tư của khách hàng. Thông tin cho khách hàng: Nhân viên phải cung cấp cho khách hàng những thông tin đày đủ về công ty mình, các điều kiện thuận lợi hay hạn chế liên quan tới việc kinh doanh của khách hàng. Tất cả các thoả thuận về việc cung cấp dịch vụ giữa nhân viên với khách hàng, giữa công ty với khách hàng đều phải được viết bằng văn bản và phải được quy định đầy đủ, chi tiết. Sau khi thực hiện giao dịch cho khách hàng, nhân viên phải nhanh chóng xác nhận các đặc điểm chính của giao dịch như: ngày giờ giao dịch, loại chứng khoán giao dịch, giá cả và số lượng chứng khoán giao dịch. Bên cạnh đó, các thông tin liên quan tới công ty niêm yết đều phải công khai, rõ ràng minh bạch. Ưu tiên khách hàng: Nhân viên phải được xử lý các lệnh của khách hàng một cách công bằng và theo thứ tự thời gian nhận được chúng, đảm bảo rằng trong mọi trường hợp các lệnh của khách hàng phải được ưu tiên hơn so với lệnh của chính công ty mình. Xung đột về lợi ích: Trường hợp nhân viên có một lợi ích trong một giao dịch với khách hàng hoặc có mối quan hệ sẽ làm nảy sinh xung đột về lợi ích, họ phải tự giác không làm tư vấn cho khách hàng hoặc thực hiện các giao dịch đó trừ khi đã công khai hoá cho khách hàng biết được lợi ích đó và được khách hàng chấp nhận trước khi tiến hành vụ giao dịch và nhân viên cũng đảm bảo rằng họ đã làm mọi việc để khách hàng được đối xử công bằng. Tuân thủ các qui định: Nhân viên phải chấp hành pháp lụât, thực hiện và duy trì các biện pháp thích hợp để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, các nguyên tắc của cơ quan có thẩm quyền. Quy định về đạo đức nghề nghiệp mang tính định tính cao và đòi hỏi các cá nhân phải có ý thức tự giác thực hiện cùng với các quy tắc về hoạt động đảm bảo lợi ích của công chúng đầu tư và thị trường hoạt động lành mạnh. III. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán Tất cả các doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều phải đặt ra những mục tiêu cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó trước hết doanh nghiệp phải xác định cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với sự biến động của thị trường. Đồng thời phải tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vậy hiệu quả kinh doanh là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả khi doanh nghiệp đó đạt được hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường dựa trên các chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính. 1.1. Chỉ tiêu định lượng Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động trong quá trình kinh doanh, thể hiện ở hệ số sinh lời của vốn kinh doanh: Tổng lợi tức các hoạt động Hệ số sinh lời của VKD = Tổng vốn bình quân của các hoạt động Chỉ tiêu trên cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn kinh doanh bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó có tác động khuyến khích và quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm đồng vốn trong các khâu của quá trình kinh doanh. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh : Doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần HQSD chi phí KD = Tổng chi phí kinh doanh Vớí chỉ tiêu này sẽ phản ánh doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí kinh doanh thì sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần. Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần Sức sinh lời của CPKD = Tổng chi phí kinh doanh Ý nghĩa của chỉ tiêu này: Cứ một đồng chi phí kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản: Hiệu quả sử dụng của tài sản lưu động: Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần Khả năng sinh lời của TSLĐ = Tổng giá trị tài sản lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản lưu động bình quân vào sản xuất kinh doanh thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định : Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định được đánh giá bằng nhiều chỉ tiêu nhưng chủ yếu sử dụng những chỉ tiêu sau: Tổng doanh thu Sức sản xuất của TSCĐ = Tổng giá trị tài sản cố định bình quân. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Tổng lợi nhuận Mức sinh lời của TSCĐ = Tổng giá trị tài sản cố định bình quân. Chỉ tiêu này cho biết để đạt được một đồng lợi nhuận thì phải sử dụng bao nhiêu đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu: Tổng lợi tức các hoạt động Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = Tổng vốn chủ sở hữu bình quân Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được đánh giá bằng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại. 1.2. Chỉ tiêu định tính. Chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh là những chỉ tiêu không thể lượng hoá được bằng con số. Chỉ tiêu này thường được đánh giá bởi thị trường, các nhà phân tích, đặc biệt là khách hàng. Ở công ty chứng khoán chỉ tiêu định tính được nói đến là vị thế và uy tín của công ty trên thị trường. Điều này thể hiện ở định hướng hoạt động của công ty có phù hợp với tình hình thị trường, điều kiện thực tế của chính doanh nghiệp cũng như yêu cầu của khách hàng hay không, chất lượng nhân sự trong công ty, vị trí địa lý của trụ sở công ty có thuận lợi về giao thông, có ở trung tâm hay không, đặc biệt là có chiến lược marketing phù hợp, từ đó công ty tạo ra được cách thức để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng ... Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt thì các chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các công ty càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khi một công ty đạt được những tiêu chuẩn định tính cũng đồng nghĩa với việc tình hình kinh doanh của công ty rất có hiệu quả, có vị thế cạnh tranh cao trên thị trường và đạt được các tiêu chuẩn định lượng. Chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ tiêu định lượng là tiền đề, là cơ sở để đạt được chỉ tiêu định tính, ngược lại chỉ tiêu định tính tác động trở lại để hoạt động kinh doanh của công ty thêm hiệu quả. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chứng khoán. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của một công ty. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một công ty nào cũng luôn quan tâm đến hiệu quả kinh doanh vì nó quyết định sự sống còn của công ty. Hoạt động kinh doanh của công ty lại chịu chi phối bởi rất nhiều các yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài công ty và chính vì thế hiệu quả kinh doanh của công ty cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố này. Là một mắt xích quan trọng của thị trường, những biến đổi của thị trường đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Nó có thể tạo cho công ty những nguy cơ hoặc cơ hội kinh doanh. Thị trường chịu sự tác động của các chính sách kinh tế chính trị xã hội của một quốc gia và tình hình kinh tế của toàn cầu. Những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội ổn định, vững mạnh sẽ tạo được lòng tin đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế cùng với hoạt động tài chính tiền tệ. Vấn đề thu nhập quốc dân của một quốc gia và thu nhập bình quân đầu người chính là những yếu tố tác động đến nhu cầu về số lượng hàng hoá, dịch vụ, về chủng loại, chất lượng, về thị hiếu... Trên cơ sở đó, hoạt động kinh doanh của các công ty nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng sẽ gặp nhiều thuận lợi. Các nhà đầu tư sẵn sàng hơn trong việc tham gia vào thị trường, các công ty cũng sẵn sàng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ làm tăng qui mô của thị trường nên những công ty biết đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sẽ là những công ty làm ăn có hiệu quả. Trong môi trường này, sự tăng trưởng, các chính sách kinh tế, lạm phát, biến động tài chính tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Ngược lại những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội bấp bênh, kém ổn định, xung đột xảy ra liên miên gây ra những cơn sốt, cú sốc, sức ép thị trường... thì các công ty chứng khoán cũng khó có thể hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các công ty tiến hành thuận lợi các hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo hướng không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh doanh của riêng bản thân công ty mà còn phải quan tâm đến hiệu quả của toàn xã hội. Cùng với điều này, thì nội dung của các chính sách quản lý kinh tế, chính sách quản lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mọi hoạt động kinh doanh chứng khoán đều phải nằm trong khuôn khổ của các quy định này. Chính vì thế, một chính sách quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán, dẫn đến sự phát triển của thị trường chứng khoán và toàn bộ nền kinh tế, trái lại, một chính sách cứng nhắc, thiếu hợp lý sẽ gây nhiều trở ngại cho sự phát triển của toàn bộ thị trường nói chung và đến sự phát triển của một công ty nói riêng. Là một chủ thể quan trọng của thị trường chứng khoán, thì sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Một khi thị trường chứng khoán phát triển, có nghĩa là hàng hoá trên thị trường đa dạng và phong phú, nó sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư và các công ty có điều kiện để đầu tư, để có sự lựa chọn phù hợp nhất. Tuy nhiên, với một hệ thống bao gồm nhiều loại hàng hoá sẽ phát sinh những khó khăn đối với các nhà đầu tư khi tự quyết định sự lựa chọn của mình. Vì vậy, nhất thiết nhà đầu tư sẽ cần đến công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, khi thị trường chứng khoán phat triển sẽ xuất hiện nhiều loại rủi ro khó lường trước, do đó công chúng cũng như công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, khi thị trường chứng khoán phát triển, công ty chứng khoán muốn tồn tại, phát triển và cạnh tranh được với các công ty chứng khoán khác thì công ty không những buộc phải có những thay đổi cho phù hợp với thị trường mà còn phải tiếp tục hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ phía khách hàng và từ phía bản thân công ty. Những nhà kinh doanh của các công ty chứng khoán là những người có trình độ hiểu biết nhất định về thị trường chứng khoán, có thể làm những công việc khác nhau nhưng không phải bất cứ độ tuổi nào cũng tham gia được. Họ tham gia vào lĩnh vực này với những mục đích khác nhau và nắm trong tay những thông tin trái ngược nhau. Chính vì thế môi trường văn hoá xã hội sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của công ty cả theo chiều hướng tiêu cực và tích cực. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật công nghệ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Sản phẩm của công ty chứng khoán là các dịch vụ cho kinh doanh nên yếu tố cạnh tranh sẽ thể hiện ở mức độ thực hiện dịch vụ nhanh chóng, thoả mãn nhu cầu khách hàng. Muốn vậy, công ty phải áp dụng kỹ thuật công nghệ phù hợp, từ đó nâng cao được năng suất, chất lượng và giảm được chi phí trên một đơn vị sản phẩm. Nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng vòng quay vốn lưu động, tăng lợi nhuận. Không phải ngẫu nhiên mà trong cùng một môi trường kinh doanh, cùng chịu một chế độ quản lý mà kết quả kinh doanh của các công ty lại khác nhau. Mà chính bởi có sự khác nhau về các nhân tố nội tại giữa các công ty. Nhân tố nội tại chính là cơ sở vật chất, mục tiêu phát triển, uy tín của công ty, mạng lưới khách hàng, khả năng của ban lãnh đạo, trình độ của cán bộ công nhân viên..., tất cả các yếu tố này đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Vì vậy, để có thể đẩy mạnh và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty phải biết tận dụng những thế mạnh cũng như hạn chế những điểm yếu của công ty mình. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh đều phải có vốn. Đối với công ty chứng khoán vốn phụ thuộc vào tài sản cần tài trợ, mà loại tài sản này được qui định bởi loại hình nghiệp vụ nó được thực hiện. Vốn phản ánh quy mô doanh nghiệp, tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nguồn vốn lớn thường là những doanh nghiệp có qui mô lớn, phạm vi hoạt động rộng. Và cũng chính vì thế, hiệu quả kinh doanh phụ thuộc rất nhiều về vốn. Bên cạnh đó, trong công ty con người luôn đóng vai trò trung tâm. Mức độ hiệu quả công việc của từng người sẽ ảnh hưởng tới hệ thống bởi vì tổng hợp hiệu quả của các cá nhân sẽ được hiệu quả chung của công ty. Một công ty hoạt động có hiệu quả khi các cá nhân trong công ty có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tính tự giác, kỷ luật cao, đồng thời các thành viên trong công ty phải có mối quan hệ bình đẳng, hoà hợp, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu chung toàn công ty. Thực tế cho thấy, những công ty mạnh trên thị trường đều là những công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ, tác phong khoa học và tính kỷ luật cao. Cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên thì vấn đề về các nhà quản trị trong công ty cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhà quản trị luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo ra những phương án mới cho chiến lược phát triển kinh doanh đông thời phải biết quan tâm đến đời sống của nhân viên trong toàn công ty, tạo ra không khí làm việc vui vẻ, phấn khởi. Từ đó, hiệu quả của công ty sẽ tăng lên. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM. I. HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. Với những nỗ lực vượt bậc và sau hơn bốn năm tích cực chuẩn bị các khuôn khổ pháp lý, hạ tầng cơ sở, hàng hoá và các điều kiện phụ trợ khác, ngày 20-7-2000 trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương đi vào hoạt động. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, mở ra kênh huy động vốn trung và dài hạn bên cạnh hệ thống ngân hàng, khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước thực hiện đường lối: ‘‘ Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ’’. Tuy qui mô thị trường còn nhỏ bé, vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn nhưng đây là bước thí điểm, tập dượt quan trọng để các cơ quan quản lý điều hành, các tổ chức tham gia thị trường và công chúng đầu tư làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau hơn hai năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước được phát triển và xã hội Việt Nam đã phần nào làm quen được với sự tồn tại và hoạt động của thị trường chứng khoán. Cho đến nay, đã có 21 công ty niêm yết với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết trên thị trường là 999,633 tỉ đồng. Các công ty niêm yết đều là những doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, và hoạt động kinh doanh của các công ty có chiều hướng tốt, đều có lãi. Thêm vào đó, các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán được hưởng ưu đãi về thuế nên mức trả cổ tức rất cao đã rất hấp dẫn người đầu tư. Thời gian đầu khi thị trường mới đi vào hoạt động, các công ty niêm yết đều đã cố gắng để đáp ứng các quy định do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đề ra. Tuy nhiên, do chưa có thói quen trong môi trường hoạt động của thị trường chứng khoán, nên đa số các công ty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin; hầu hết các công ty chỉ chú trọng vào thông tin định kỳ và thông tin phải cung cấp theo yêu cầu, chưa chủ động cung cấp kịp thời thông tin liên quan tới hoạt động của công ty. Về thị trường trái phiếu, đã thực hiện thành công các đợt đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ. Đã có 41 loại trái phiếu niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán, trong đó có 39 loại trái phiếu chính phủ và 2 trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường đạt 4.276,338 tỉ đồng. Đến nay đã có 10 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường, trong đó có 4 công ty cổ phần và 6 công ty TNHH. Tính đến 31/12/2002 số tài khoản giao dịch của khách hàng được mở tại các công ty chứng khoán là trên 13.000, trong đó có tài khoản của 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty chứng khoán đang triển khai mở rộng phạm vi hoạt động, mở chi nhánh và đại lý nhận lệnh tại 7 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Nhìn chung, kết quả kinh doanh của các công ty chứng khoán đều có chiều hướng tốt, các chỉ tiêu báo cáo tài chính cho thấy các công ty chứng khoán có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đảm bảo. Hiện nay, cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như trong thời gian đầu, doanh thu từ vốn kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn trong doanh thu của các công ty chứng khoán, và tiếp đến là các nghiệp vụ như tự doanh, môi giới..., thì đến hết năm 2002 doanh thu từ hoạt động môi giới và tự doanh đã chiếm tỷ lệ đáng kể. Với 21 loại cổ phiếu và 41 loại trái phiếu niêm yết giao dịch thì bình quân giá trị giao dịch chứng khoán trong một phiên đạt 4.578 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 88,5%. Thị trường cổ phiếu hoạt động sôi động thu hút được đông đảo nhà đầu tư quan tâm. Thời gian đầu thị trường tăng giá liên tục do sự mất cân đối lớn về cung cầu và tâm lý đầu tư. Chỉ số VN-Index lên đỉnh cao là 571 điểm, nhưng đến năm 2002, thị trường ít biến động, có xu hướng giảm liên tục. Chỉ số VN-Index đã tụt xuống mức 139,64 điểm vào phiên ngày 1/4/2003. Sự suy giảm của thị trường có dấu hiệu xuất hiện từ tháng 10/2001. Sang những tháng đầu năm 2002, sự suy giảm thực sự bộc lộ nhưng ở mức nhẹ và có hồi phục vào hai tháng 6 và 7, nhưng về những tháng cuối năm sự sụt giảm tăng tốc. Sau nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán, đến nay dao động giá các cổ phiếu đã đi vào ổn định xoay quanh giá trị nội tại của các công ty. Việc lựa chọn các mức giá của người đầu tư đã căn cứ vào những phân tích đánh giá về công ty niêm yết mà không chạy theo phong trào như trước. Biên độ giao động giá chứng khoán là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm ổn định thị trường và bảo vệ các nhà đầu tư trong thời kỳ hoạt động ban đầu của thị trường chứng khoán, và điều đó được thể hiện qua việc điều chỉnh biên độ theo tình hình thực tế của thị trường. Nếu thời gian đầu áp dụng biên độ dao động giá = 2%, sau đó tăng lên = 7% và 3%, đến nay vẫn áp dụng biên độ giao động giá là 3%. Trong thời gian đầu, trung tâm giao dịch TP HCM chỉ giao dịch 3 phiên/ một tuần; từ 1/3/2002 nâng lên 5 phiên/ một tuần, đồng thời nghiên cứu cải tiến quy trình thanh toán, giảm thời gian thanh toán từ 4 xuống còn 3 ngày theo thông lệ quốc tế. Cùng với việc thực hiện tăng phiên giao dịch, hình thức giao dịch thoả thuận cũng được chính thức thực hiện đối với cổ phiếu từ ngày 1/3/2002. Hoạt động giao dịch thoả thuận được thực hiện thông qua công ty chứng khoán và cũng tuân thủ biên độ giao động giá 3% như giao dịch khớp lệnh. Văn bản pháp lý cao nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ được soạn thảo và ban hành trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam chưa đi vào hoạt động, do vậy, sau khi đưa thị trường vào vận hành, một số nội dung trong Nghị định tỏ ra không còn phù hợp với hoạt động của thị trường cũng như với nội dung mới của Luật Doanh nghiệp. Xét một cách tổng quát, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại có qui mô và phạm vi còn nhỏ, thể hiện ở các mặt như hàng hoá ít về số lượng và chủng loại; mạng lưới dịch vụ kinh doanh chứng khoán chỉ tập trung ở một số thành phố lớn, chưa hoàn thiện về chất lượng; chưa có thị trường cho nhiều loại hình doanh nghiệp; các hệ thống giao dịch, lưu ký, thanh toán, giám sát, công bố thông tin của trung tâm giao dịch chứng khoán còn nhiều hạn chế về khả năng cung ứng dịch vụ; đồng thời có thể thấy rằng mức độ sử dụng kỹ thuật thông tin hiện đại còn hạn chế, thể hiện ở trình độ bán thủ công của hệ thống giao dịch trong trung tâm giao dịch chứng khoán và hệ thống dịch vụ của các công ty chứng khoán. II. CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM. 1. Giới thiệu về công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam. Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và thông tư 04/1999/TT-NHNN5 ngày 01/11/1999 về việc cho phép các tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán là tiền đề cho việc thành lập công ty chứng khoán của Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam. Theo các văn bản này, các ngân hàng thương mại chỉ được phép thành lập công ty chứng khoán độc lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Xét về điều kiện, Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam đã hội tụ đầy đủ các điều kiện thành lập công ty chứng khoán của một ngân hàng thương mại. Vì vậy, ngày 16/12/1999, Tổng Giám đốc NHNO&PTNT Việt Nam đã ký quyết định số 969/QĐ-NHNO về việc thành lập Ban trù bị thành lập công ty chứng khoán để chuẩn bị các thủ tục pháp lý và các điều kiện về nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của công ty chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam. Sau một thời gian hoạt động, Ban trù bị thành lập công ty chứng khoán đã hoàn thành Đề án thành lập và dự thảo điều lệ công ty chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt, chấp thuận cho NHNO&PTNT Việt Nam thành lập công ty chứng khoán; đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân sự chuẩn bị cho hoạt động kinh doanh chứng khoán; hoàn thành hồ sơ xin Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán. Với công tác chuẩn bị tích cực, ngày 20/12/2000, Hội đồng quản trị NHNO&PTNT Việt Nam có Quyết định số 269/QĐ-HĐQT V/v thành lập Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam là công ty trực thuộc, hạch toán độc lập của Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam; thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Việt Nam; có tên tiếng Anh đầy đủ là Agribank Securities Company Ltd., viết tắt là AGRISECO: Giấy phép hoạt động số 08/GPHĐKD do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp ngày 04/05/2001. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0104000024 do Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cấp ngày 04/5/2001. Trụ sở chính: Điện thoại: (48)5743470; Fax: (48)57443571; Email: ckno_ho@vnn.vn Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh: Số 2 Phó Đức Chính, Quận I, TPHCM Vốn điều lệ: 60 tỷ VND Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam được tổ chức theo mô hình chủ tịch Công ty và Giám đốc được qui định tại luật Doanh nghiệp, là công ty TNHH một thành viên. Bộ máy lãnh đạo công ty gồm chủ tịch công ty và các phó giám đốc, trong đó có một phó giám đốc trực tiếp phụ trách hoạt động của chi nhánh TPHCM. Công ty có trụ sở chính tại Hà Nội và Chi nhánh tại TPHCM. Tại hai địa điểm này Công ty đều có phòng kinh doanh, phòng Kế toán lưu ký và phòng Hành chính- tổng hợp. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty TNHH Chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam: Giám đốc Phó giám đốc chi nhánh TPHCM Phó giám đốc Hà Nội Phòng kinh doanh Phòng kế toán lưu ký Phòng hành chính TH Phòng kinh doanh Phòng kế toán lưu ký Phòng hành chính TH Chủ tịch Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam tuân thủ hai nguyên tắc chủ đạo, đó là: Công ty một mặt hoạt động như một công ty hạch toán độc lập, tức là mang tính ‘‘tự lực’’, song phải tuân thủ các quy định đối với một đơn vị thành viên của NHNO&PTNT Việt Nam, tức là mang tính ‘‘gắn bó’’ với Ngân hàng mẹ. Cụ thể: - Nguyên tắc “ tự lực, tự chủ trong hạch toán kinh doanh”: Công ty có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển vốn, tự chịu trách nhiệm trên kết quả kinh doanh trước pháp luật và NHNO&PTNT Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc kinh doanh phải có hiệu quả, lợi nhuận là thước đo trình độ và năng lực. Tiết kiệm chi phí phải trở thành phương châm hoạt động. Và trên hết, hợp pháp phải là tinh thần chỉ đạo trong mọi nghiệp vụ của công ty.Với tư cách pháp nhân độc lập và các quyền hạn được ban hành tại Điều lệ của Công ty, công ty tương đối độc lập trong việc hoạch định chiến lựơc và kế hoạch kinh doanh cũng như tổ chức thực hiện chiến lược và kế hoạch đó. Nguyên tắc “gắn bó, liên kết trong hoạt động kinh doanh”: Hoạt động kinh doanh của công ty phải gắn liền với mục tiêu, kế hoạch và chiến lược của NHNO&PTNT Việt Nam. Cụ thể là trong chính sách đa dạng hoá sản phẩm nhằm thu hút vốn trung và dài hạn cho phát triển nông thôn, nông nghiệp, từng bước tạo điều kiện để người nông dân trở thành người chủ thực sự các doanh nghiệp ở nông thôn, nông nghiệp – sứ mạng chính trị của NHNO&PTNT Việt Nam. Sự “gắn bó, liên kết” cũng đồng nghĩa với ưu thế của công ty do NHNO&PTNT Việt Nam đem lại, cụ thể cho phép công ty được san sẻ rủi ro, khai thác thế mạnh của NHNO&PTNT Việt Nam về mặt vốn, mạng lưới khách hàng cũng như uy tín trên thương trường. Với số vốn điều lệ 60 tỷ VND, AGRISECO được cấp giấy phép hoạt động cả 5 nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường chứng khoán, đó là môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán. - Nghiệp vụ môi giới: Công ty làm trung gian giúp khách hàng mở và theo dõi tài khoản chứng khoán, tiến hành mua hoặc bán chứng khoán theo yêu cầu của khách hàng. Trước mắt, AGRISECO sẽ đại diện cho khách hàng tiến hành các giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung. Khi thị trường OTC được phép hoạt động, công ty cũng thực hiện nghiệp vụ môi giới cho việc giao dịch các chứng khoán đó. Để thực hiện nghiệp vụ này, công ty có đội ngũ các nhân viên môi giới chứng khoán trên sàn của công ty (trụ sở chính và chi nhánh) và đại diện giao dịch của công ty tại trung tâm giao dịch chứng khoán cùng các trang bị về cơ sở vật chất kỹ thuật (hệ thống máy tính, mạng thông tin, bảng điện tử…) Hoạt động với tư cách đại diện trung gian nên công ty được hưởng hoa hồng môi giới. Tiền hoa hồng thường được tính phần trăm (%) trên tổng gía trị mỗi giao dịch. Hiện nay, theo quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, phí giao dịch khách hàng phải trả cho công ty chứng khoán tối đa là 0,5% giá trị giao dịch đối với giao dịch cổ phiếu, 0,15% đối với giao dịch trái phiếu. Tuy nhiên trong chính sách khách hàng của công ty hiện nay đang thực hiện chế độ ưu đãi về hoa hồng môi giới cho các khách hàng có doanh số giao dịch lớn trong tháng (từ 100 triệu đồng trở lên). - Nghiệp vụ tự doanh : Nghiệp vụ tự doanh của công ty là nghiệp vụ mua bán chứng khoán với nguồn vốn của công ty nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ mua bán và sở hữu chứng khoán. Với nghiệp vụ này, công ty có thể tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung, trên thị trường phi tập trung (mua bán các loại chứng khoán chưa niêm yết), góp vốn vào các doanh nghiệp đang trong quá trình cổ phần hoá… ngoài ra công ty còn có thể thực hiện mua bán các giấy tờ có giá như: thương phiếu (hối phiếu, lệnh phiếu), tín phiếu kho bạc… - Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty là giúp các tổ chức phát hành chuẩn bị các điều kiện cần thiết (tư vấn về cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, trung gian tín dụng), thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán (lập hồ sơ xin phép niêm yết, thăm dò thị trường…); thực hiện việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành cho công chúng đầu tư. Theo quy định hiện nay việc bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt Nam chỉ áp dụng phương thức “cam kết chắc chắn”, nghĩa là công ty cam kết sẽ phân phối toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có thực hiện phân phối được hết ra công chúng hay không. Để thực hiện nghiệp vụ này, xu hướng của công ty là sẽ kết hợp với các công ty chứng khoán và các tổ chức tín dụng khác hình thành tổ hợp bảo lãnh để chia sẻ trách nhiệm và hạn chế rủi ro. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành sẽ đem lại cho công ty phí bảo lãnh phát hành (hiện nay, phí bảo lãnh phát hành tối đa theo quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là 3% tổng giá trị bảo lãnh phát hành) và lợi thế là thu hút các cổ đông của tổ chức phát hành lưu ký cổ phiếu tại công ty. - Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: Là nghiệp vụ giúp khách hàng quản lý vốn thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo tiêu chí vì quyền lợi của khách hàng với phương châm phân tán rủi ro, đảm bảo nguồn doanh lợi. Để thực hiện nghiệp vụ này, giữa công ty và khách hàng sẽ ký hợp đồng trong đó khách hàng uỷ thác cho công ty một số vốn và công ty sẽ thực hiện quản lý số vốn đó với các điều khoản cụ thể theo yêu cầu của khách hàng (ví dụ về danh mục chứng khoán khách hàng lựa chọn hay đơn thuần khách hàng chỉ yêu cầu về tỉ suất lợi nhuận mà danh mục đầu tư đem lại cho khoản vốn mà khách hàng bỏ ra…). Nghiệp vụ này sẽ đem lại khoản phí quản lý danh mục đầu tư cho công ty (hiện nay theo quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước phí quản lý danh mục đầu tư là 2%/năm/trị giá vốn uỷ thác bình quân). - Nghiệp vụ tư vấn đầu tư: Nghiệp vụ tư vấn chứng khoán của công ty bao gồm các lĩnh vực : Tư vấn cho tổ chức phát hành: Hoạt động tư vấn cho tổ chức phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tài chính đến đánh giá giá trị doanh nghiệp, tư vấn về các loại chứng khoán phát hành hay giúp tổ chức phát hành cơ cấu lại tài chính, hỗ trợ các công ty trong quá trình cổ phần hoá chuyển đổi sở hữu và phát hành cổ phiếu ra công chúng. Tư vấn cho khách hàng: Là hoạt động tư vấn cho khách hàng có nhu cầu tham gia thị trường chứng khoán trong việc đưa ra quyết định liên quan tới mua, bán chứng khoán. Ngoài ra, nghiệp vụ tư vấn còn boa gồm việc đưa ra các thông tin phân tích, nhận định (dưới dạng các ấn phẩm sách, báo, bản tin…) của công ty về diễn biến thị trường và từng loại chứng khoán. Công ty đã tuyển dụng và đào tạo những chuyên gia phân tích tài chính, phân tích thị trường, đồng thời kết hợp với các chuyên gia tín dụng của ngân hàng mẹ trong việc đánh giá tài chính doanh nghiệp. Mức phí cho hoạt động tư vấn sẽ được thoả thuận giữa khách hàng với công ty. Hiện tại, để thực hiện chính sách tiếp thị, công ty không thu phí đối với hoạt động tư vấn. - Nghiệp vụ lưu ký và đăng ký chứng khoán: Để thực hiện nghiệp vụ này, công ty đăng ký là thành viên của trung tâm lưu ký và có cán bộ thực hiện công tác lưu ký chứng khoán. Việc lưu ký có thể do khách hàng mang chứng khoán đến công ty hoặc cán bộ lưu ký nhận chứng khoán tại địa điểm khách hàng yêu cầu. Sau khi nhận lưu ký của khách hàng, công ty thực hiện tái lưu ký các chứng khoán tại trung tâm lưu ký để đảm bảo điều kiện giao dịch cho chứng khoán. Phí lưu ký chứng khoán mà công ty thu của khách hàng được tính trên cơ sở mức phí do Trung tâm lưu ký quy định đối với thành viên lưu ký (công ty) và cộng thêm một tỷ lệ thoả thuận giữa khách hàng và công ty. Bộ tài chính đã ban hành các mức biểu phí cho hoạt động lưu ký của trung tâm giao dịch chứng khoán nhưng do thời gian đầu của thị trường chứng khoán nên các mức phí này đang được thực hiện miễn giảm 100%. Do đó, cũng như các tổ chức lưu ký khác, công ty không thu phí lưu ký đối với khách hàng. Từ nhu cầu của khách hàng trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của công ty, AGRISECO có thể phối hợp với NHNO&PTNT Việt Nam và các đơn vị của NHNO&PTNT Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ tiện ích như cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, cho người lao động vay tiền mua cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá, cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, thực hịên việc cầm cố chứng khoán, lập đại ký nhận lệnh các chi nhánh, chứng khoán hoá các khoản nợ, quản lý danh mục đầu tư cho NHNO&PTNT Việt Nam. - Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: Theo quy định về thanh toán bừ trừ của trung tâm giao dịch chứng khoán, nếu khách hàng bán chứng khoán vào ngày T+0 thì đến tận ngày T+3 họ mới nhận được tiền thông qua công ty chứng khoán. Nếu thời điểm bán chứng khoán rơi vào giữa hoặc cuối tuần thì họ nhận được tiền sau 5 ngày (do nghỉ 2 ngày cuối tuần). Do nhu cầu tiền mặt hoặc nhu cầu đầu tư vào chứng khoán khác nên khách hàng rất muốn nhận được tiền ngay sau khi bán được chứng khoán. Vì vậy, AGRISECO có thể phối hợp với chi nhánh của NHNO&PTNT Việt Nam cho khách hàng vay ứng trước tiền bán chứng khoán. Sau khi tiền bán chứng khoán của khách hàng chỉ định thanh toán chuyển vào tài khoản của AGRISECO, AGRISECO sẽ đứng ra thu hộ tiền vay (cả gốc và lãi) cho NHNO&PTNT Việt Nam. Hình thức cho vay này hầu như không có rủi ro vì nếu khách hàng đã bán được chứng khoán (có xác nhận của trung tâm giao dịch chứng khoán) thì họ sẽ chắc chắn nhận được tiền. AGRISECO đóng vai trò trung gian trong quá trình cho vay và thu nợ (thẩm định món vay và thu nợ hộ chi nhánh), chi nhánh NHNO&PTNT Việt Nam phê duyệt hồ sơ cho vay và giải ngân. - Cho người lao động vay tiền mua cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá: Trong quá trình thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của chính phủ đã nảy sinh nhu cầu vay vốn để mua cổ phần lần đầu của cán bộ công nhân viên các DNNN cổ phần hoá và hộ nông dân sản xuất, cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp này. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng trên, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành công văn số 891/NHNN-CSTT ngày 18/7/2001 cho phép các tổ chức tín dụng xem xét vay vốn đối với các đối tượng trên. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thực hiện chỉ thị của NHNN, AGRISECO đề xuất phối hợp với NHNO&PTNT Việt Nam cung cấp dịch vụ cho người lao động vay tiền mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá. AGRISECO đóng vai trò đảm bảo tiền vay thông qua lưu ký cổ phiếu của người lao động, coi đó như một phương tiện đảm bảo tiền vay và thực hiện việc cập nhật giá trị của khoản bảo đảm trên. - Cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, thực hiện việc cầm cố chứng khoán: Trong quá trình tham gia thị trường chứng khoán xuất hiện nhu cầu mua chứng khoán của khách hàng nhưng họ còn thiếu tiền hay khách hàng nắm giữ chứng khoán có nhu cầu cần tiền nhưng đồng thời họ vẫn muốn lưu giữ những chứng khoán đó để được hưởng những quyền lợi do chứng khoán mang lại (cổ tức, quyền mua chứng khoán mới, quyền bầu cử…). Do vậy khi phối hợp AGRISECO, NHNO&PTNT Việt Nam (các chi nhánh) có thể cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán hoặc cầm cố chứng khoán của khách hàng. Đây là hoạt động sinh lời, vừa an toàn, vừa giúp cho công ty thu hút được khách hàng vì theo quy định của pháp luật công ty chứng khoán không được trực tiếp thực hiện các hoạt động tín dụng. - Lập Đại lý nhận lệnh tại các chi nhánh: Đại lý nhận lệnh là các pháp nhân kết hợp với công ty chứng khoán trong việc nhận lệnh giao dịch của khách hàng kinh doanh chứng khoán. Tính đến nay, NHNO&PTNT Việt Nam có hơn 1400 chi nhánh trải rộng trên địa bàn cả nước. Chính vì vậy, việc xây dựng mạng lưới Phòng giao dịch và Đại lý nhận lệnh của công ty có thể tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật và mạng lưới của NGNO&PTNT Việt Nam và mang lại cho AGRISECO và các chi nhánh một khả năng cung cấp dịch vụ có lời và không rủi ro. Đồng thời, việc xây dựng mạng lưới các đại lý nhận lệnh của AGRISECO có thêm khả năng cung cấp dịch vụ miễn phí (hiện tại là 5%), đã giúp các chi nhánh và khách hàng của NHNO&PTNT Việt Nam tiếp cận thị trường chứng khoán, góp phần thực hiện sứ mệnh chiến lược của NHNO&PTNT Việt Nam là phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân, mặt khác phối hợp với các chi nhánh NHNO&PTNT Việt Nam thực hiện chu trình khép kín các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. - Chứng khoán hóa các khoản nợ: Đối với các doanh nghiệp nợ NHNO&PTNT Việt Nam và không có khả năng chi trả, AGRISECO sẽ phối hợp với NHNO&PTNT Việt Nam xúc tiến cổ phần hoá doanh nghiệp, chuyển khoản nợ đọng thành tỷ lệ cổ phần hoá trong doanh nghiệp, niêm yết và phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán nhằm thu hồi được khoản nợ có nguy cơ mất hẳn nói trên. - Quản lý các danh mục đầu tư của NHNO&PTNT Việt Nam: Là ngân hàng thương mại, NHNO&PTNT Việt Nam với khoản vốn dư thừa mang tính “thời vụ” hoàn toàn có thể tận dụng thông qua việc trực tiếp kinh doanh chứng khoán. Công ty sẽ đảm nhận vai trò công ty quản lý quỹ đầu tư, kinh doanh trên thị trường chứng khoán nhằm giúp NHNO&PTNT Việt Nam thu lợi nhuận hoặc mở rộngkhả năng góp vốn, giữ cổ phần trong doanh nghiệp. AGRISECO và NHNO&PTNT Việt Nam còn có thể phối hợp trong tư vấn cho các doanh nghiệp cổ phần hoá, cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, đưa cổ phiếu của doanh nghiệp vào giao dịch trên thị trường chứng khoán, mua bán các loại giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán, phát hành và phân phối trái phiếu của NHNO&PTNT Việt Nam..vv.. 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của AGRISECO. Mặc dù mới chính thức đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, nhưng AGRISECO đã thu hút được đông đảo khách hàng và nâng cao uy tín của mình. Nghiệp vụ tự doanh: Được triển khai từ những ngày đầu thành lập, tự doanh là nghiệp vụ được AGRISECO chú trọng khai thác với mục tiêu chủ yếu là gắn kết hoạt động kinh doanh với NHNO&PTNT Việt Nam, tham gia huy động vốn cùng ngân hàng mẹ, tạo thu nhập cho công ty. Tự doanh chứng khoán chưa niêm yết: Công ty đã thực hiện đề án mua giấy nhận nợ mía đường của Hiệp hội Trung Quốc ngay sau khi nhận được giấy phép hoạt động kinh doanh một tháng với tổng giá trị là 11.617.404 USD, công ty đã thanh toán được toàn bộ 9 hối phiếu còn lại của các tập đoàn Trung Quốc, mang lại thu nhập 4,2 tỉ đồng, chiếm 33,6% Tổng thu. Tiếp sau đó, công ty thực hiện đề án kinh doanh công trái xây dựng Tổ quốc với mệnh giá 50 tỉ đồng, thời hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm, đến hạn 19/5/2003, trả lãi một lần khi đến hạn.Với đề án này mang lại 1,99 tỉ đồng tiền lãi cho công ty, chiếm 15,84% Tổng thu. Đến tháng 5/2002 công ty nhận làm đại lý phát hành kỳ phiếu NHNO&PTNT Việt Nam với tổng giá trị phát hành 178 tỉ đồng, trong đó 67,25 tỉ đồng công ty thực hiện dưới hình thức tự doanh, đạt 118% kế hoạch được giao (không chính thức qua Sở giao dịch NHNO&PTNT Việt Nam) và là đơn vị huy động đứng thứ hai trong toàn hệ thống NHNO&PTNT Việt Nam. Tự doanh cổ phiếu, trái phiếu niêm yết: Ngược lại với Tự doanh chứng khoán chưa niêm yết, do điều kiện cán bộ và thị trường, qui mô tự doanh chứng khoán niêm yết của công ty rất hạn chế, chủ yếu là thử nghiệm và dự phòng. Số chứng khoán niêm yết hiện công ty đang nắm giữ là 32.000 cổ phiếu và 200 trái phiếu, với tổng giá trị đầu tư là 1,1 tỷ đồng. Tổng cổ tức thu được là 50,4 triêu đồng, trích dự phòng giảm giá 147,1 triệu đồng. Nghiệp vụ môi giới: Cùng với thời gian hoạt động AGRISECO đã nghiên cứu, xây dựng và ban hành được quy trình môi giới riêng cho công ty của mình, hoàn thiện chương trình phần mềm, đảm bảo cung cấp số liệu giao dịch của khách hàng nhanh chóng và chính xác. Đồng thời triển khai dịch vụ cung cấp thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho khách hàng của công ty qua email, cung cấp bản cáo bạch, số liệu về các công ty niêm yết trên mạng thông tin chứng khoán cho quảng đại người đầu tư, thực hiện chính sách ưu đãi về phí môi giới chứng khoán. Cho đến nay số tài khoản giao dịch được mở tại công ty là 310 và công ty đã thu được 352 triệu đồng phí môi giới trong năm 2002. Kết quả công tác môi giới thể hiện qua bảng sau Chỉ tiêu Tháng 12/2001 Tháng 7/2002 Tháng 12/2002 Số tài khoản của KH 85 222 300 Số lệnh giao dịch 145 511 750 Số lệnh thực hiện 95 287 320 Giá trị giao dịch (tỷ đ) 1,6 8,67 72,5 Phí môi giới (triệu đ) 8,3 66,78 352 Thị phần ( GTGD) 3,01% 4% Thị phần (KLGD) 4,16% 6,2% (Nguồn: Báo cáo tổ chức và hoạt động của AGRISECO) Phí môi giới giao dịch chứng khoán mà công ty thu được phụ thuộc vào lượng hàng hoá được giao dịch trên sàn. Công ty có thể áp dụng linh hoạt tuỳ vào tình hình hoạt động và mục tiêu của công ty. Từ tháng 6/2002 AGRISECO đã áp dụng chính sách giảm phí môi giới nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng của mình. Ta có thể thấy được mức phí giao dịch của AGRISECO thấp hơn so với mức phí của các công ty chứng khoán khác trên thị trường qua bảng sau: Tên CTCK Tổng giá trị giao dịch (tr.đ) Mức phí giao dịch (%) CTCK Bảo Việt (BVSC) 100-200 0,45 200-400 0,4 400-500 0,35 500 trở lên 0,3 CTCK Ngân hàng Công thương (IBS) 100-200 0,45 400-500 0,35 500 trở lên 0,3 CTCK Ngân hàng No&PTNT(AGRISECO) 100-200 0,4 200-500 0,3 500 trở lên 0,2 Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: Công ty lưu ký tất cả các loại cổ phiếu niêm yết cho khách hàng đến giao dịch, đảm bảo an toàn và thực hiện đầy đủ các quyền của người sở hữu chứng khoán, quy trình lưu ký, rút chứng chỉ chứng khoán với thủ tục đơn giản nhanh chóng và không tốn kém cho khách hàng. Hiện công ty đang nghiên cứu triển khai dịch vụ quản lý cổ đông cho các công ty cổ phần như là một dịch vụ hỗ trợ cho việc tư vấn niêm yết và tư vấn cổ phần hoá. Việc thu phí có thể chưa cần thiết đặt ra nhưng công ty sẽ có lợi ở chổ hầu hết cổ đông của các đơn vị này sẽ lưu ký chứng khoán tại công ty và tiến hành giao dịch khi cổ phiếu của họ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trên thị trường đã có IBS triển khai nghiệp vụ lưu ký đối với các loại cổ phiếu chưa niêm yết. Nghiệp vụ này đã đóng góp vào việc triển khai các hoạt động khác trong công ty. Số chứng khoán được lưu ký tại công ty tăng song chậm. Tính đến 31/12/2002, số chứng khoán lưu ký tại công ty là 1.087.910. Nghiệp vụ tư vấn: Công ty hiện tại vẫn thực hiện việc cung cấp các thông tin chính thức do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán phát hành. Ngoài ra, công ty còn xây dựng các thông tin hướng dẫn cho các khách hàng tham gia giao dịch chứng khoán. Khách hàng khi được công ty tư vấn sẽ không phải trả bất kỳ một khoản phí nào. Công ty đang triển khai nghiệp vụ tư vấn niêm yết và tư vấn cổ phần hoá. Các hoạt động này đang từng bước được thực hiện. Công ty đã ký biên bản ghi nhớ làm tư vấn niêm yết với công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn và công ty XNK Nhà Bè. Ngoài ra công ty cũng kết hợp với công ty tư vấn tài chính TVH và công ty tư vấn đầu tư tài chính Mezfin nhằm tăng cường năng lực của công ty trong việc cung ứng các dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Trên thực tế, hoạt động của nghiệp vụ này chỉ thực hiện đối với trường hợp chứng khoán được phát hành ra công chúng, trong khi các nhà đầu tư cũng như nhà phát hành, không phân biệt đối với trường hợp phát hành ra công chúng hay phát hành riêng lẻ đều có nhu cầu huy động vốn và sử dụng vốn với hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Chính vì những hạn chế đó, mà nghiệp vụ này chưa mang lại kết quả tích cực đối với hầu hết các công ty chứng khoán trên thị trường chứ không riêng gì AGRISECO, các nhà đầu tư vẫn băn khoăn về tính chính xác của thông tin tư vấn của các công ty chứng khoán khi họ đặt niềm tin để tham gia thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, việc chưa hoàn thiện khung pháp lý trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng có những ảnh hưởng tiêu cực tới các công ty chứng khoán trong việc thực hiện nghiệp vụ này. Thực tế, các công ty chứng khoán chưa mặn mà với nghiệp vụ chưa mang lại lợi nhuận cho công ty. Mặt khác, để làm được điều này thì các công ty chứng khoán cũng chưa có đội ngũ nhân viên chuyên sâu về nghiệp vụ, vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải có cán bộ có chuyên môn sâu, lựa chọn kỹ càng và được đào tạo cơ bản và có khả năng tiếp thị mang lại hiệu quả cao. Nhìn chung, việc triển khai hoạt động kinh doanh của AGRISECO được thực hiện bài bản, được cụ thể hoá bằng các đề án. Cùng với sự gia tăng doanh thu môi giới, số lượng cổ phiếu lưu ký, số lượng tài khoản và tổng giá trị tiền ký quỹ của khách hàng tại các công ty chứng khoán đang có chiều hướng tăng lên. Các dịch vụ hỗ trợ khác: Công ty đã phối hợp với NHNO&PTNT chi nhánh 50 Bến Chương Dương cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ như cho vay cầm cố chứng khoán, cho vay bảo chứng, ứng trước tiền bán. Ngoài ý nghĩa mang lại thu nhập cho công ty, hiện tuy không đáng kể (tổng doanh thu chỉ đạt khoảng 13 triệu đồng), song việc thực hiện các dịch vụ này đã góp phần mở rộng tiện ích nhằm thu hút khách hàng tham gia giao dịch chứng khoán và thể hiện mối quan hệ gắn kết giữa công ty và NHNO&PTNT Việt Nam trong hoạt động kinh doanh. Riêng với AGRISECO được thực hiện cả 5 nghiệp vụ nhưng thực tế chỉ có nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự doanh là mang lại nguồn thu đáng kể cho công ty. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và bảo lãnh phát hành hiện công ty chỉ mới đưa vào thực hiện. Mặc dù mới chính thức đi vào hoạt động chưa được 2 năm nhưng với thực trạng hoạt động trên của công ty cho thấy công ty có những thế mạnh cần phát huy và những hạn chế cần khắc phục. 3. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty 3.1. Kết quả đạt được. Tính đến 31/12/2002, các chỉ tiêu tài chính cơ bản của năm 2002 của công ty được thể hiện ở bảng sau: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2002 Chỉ tiêu 6 tháng ĐN 6 tháng CN TỔNG THU 5.231.256.334 7.274.030.998 Thu từ hoạt động kinh doanh 3.214.256.891 2.150.511.374 Lãi tiền gửi 29.234.120 20.787.029 Chênh lệch tỉ giá ngoại tệ 751.365.249 486.658.197 Lãi kỳ phiếu NHNO&PTNT 1.236.400.074 4.616.074.398 TỔNG CHI 3.526.814.255 5.236.489.533 Chi phí hoạt động kinh doanh 2.722.464.574 3.927.367.149 Chi phí quản lý 797.674.229 1.309.122.384 CHÊNH LỆCH THU-CHI 1.704.442.079 2.037.541.465 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2002 của AGRISECO) Bảng tổng kết tài sản Ngày 31/12/2002 TÀI SẢN Số dư cuối kỳ Tài sản lưu động Tài sản cố định 61.266.545.400 3.163.636.420 TỔNG CỘNG TÀI SẢN 64.430.181.820 NGUỒN VỐN Số dư cuối kỳ Nợ phải trả Nguồn vốn chủ sỏ hữu 2.830.293.080 61.599.888.740 TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN 64.430.181.820 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của AGRISECO năm 2002) Sau gần hai năm hoạt động, công ty chứng khoán AGRISECO đã dần tạo chổ đứng trên thị trường. Việc tham gia thị trường sau khi trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM hoạt động đã giúp công ty có được kinh nghiệm từ các công ty đi trước, từ đó có điều kiện trao đổi dịch vụ, kỹ thuật, đào tạo và nâng dần uy tín của công ty đối với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Thứ nhất, đầu tư trang thiết bị và hệ số hoạt động: Thời gian qua, công ty đã đầu tư bài bản cho trang thiết bị. Tất cả các trang thiết bị phục vụ cho việc giao dịch, kết nối và xử lý thông tin đều đáp ứng nhu cầu hiện tại. Hiệu quả sử dụng từng loại tài sản được phản ánh qua các chỉ tiêu: Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn: Hiệu quả sử dụng vốn 6 tháng ĐN: 0,0265 Hiệu quả sử dụng vốn 6 tháng CN: 0,0316 Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn kinh doanh bỏ ra trong 6 tháng đầu năm sẽ được 0,0265 đồng lợi nhuận, 6 tháng cuối năm sẽ được 0,0316 đồng lợi nhuận. Hệ số này tăng 19,24% nhưng vẫn thấp, điều này cho thấy lợi nhuận của công ty thấp trong khi vốn bỏ ra thì lớn. Lợi nhuận thấp do công ty chỉ thu lợi nhuận chủ yếu ở nghiệp vụ môi giới và tự doanh. Tình hình này sẽ được cải thiện khi thị trường đi vào ổn định, công ty sẽ mở rộng nghiệp vụ và tăng doanh thu. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh: Hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh 6 tháng ĐN: 1,483 Hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh 6 tháng CN: 1,39 Các chỉ tiêu trên cho thấy cứ một đồng chi phí kinh doanh sẽ mang lại 1,483 đồng doanh thu ứng với 6 tháng đầu năm 2002; 1,39 đồng doanh thu ứng với 6 tháng cuối năm 2002. Sức sinh lời của chi phí kinh doanh 6 tháng ĐN: 0,48 Sức sinh lời của chi phí kinh doanh 6 tháng CN: 0,39 Như vậy cứ một đồng chi phí kinh doanh chứng khoán bỏ ra thì thu được 0,48 đồng lợi nhuận ở 6 tháng đầu năm 2002 và 0,39 đồng lợi nhuận ở 6 tháng cuối năm 2002. Con số này cho thấy mặc dù tỉ lệ không thấp nhưng có xu hướng giảm, chứng tỏ chi phí kinh doanh công ty bỏ ra thì lớn và tăng nhưng lợi nhuận thu được tăng với tốc độ thấp hơn Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài sản lưu động: Khả năng sinh lời của TSLĐ 6 tháng đầu năm 2002: 0,0278 Khả năng sinh lời của TSLĐ 6 tháng cuối năm 2002: 0,033 Theo tính toán trên cứ một đồng tài sản lưu động 6 tháng đầu năm sẽ tạo ra 0,0278 đồng lợi nhuận, 6 tháng cuối năm tạo ra 0,033 đồng lợi nhuận, tăng 18,7%. Mặc dù tỉ lệ này còn thấp nhưng có chiều hướng tăng lên, điều này cho thấy công ty ngày càng sử dụng vốn có hiệu quả. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định : Sức sản xuất của TSCĐ 6 tháng ĐN: 1,667 Sức sản xuất của TSCĐ 6 tháng CN: 2,3 Mức sinh lời của TSCĐ 6 tháng ĐN: 0,54 Mức sinh lời của TSCĐ 6 tháng CN: 0,64 Như vậy cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định sẽ đem lại 1,667 đồng doanh thu tương ứng với 6 tháng đầu năm 2002. Với 6 tháng cuối năm 2002 cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định sẽ đem lại 2,6 đồng doanh thu, tăng 0,933 đồng so với 6 tháng đầu năm 2002. Với một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chủ yếu là dịch vụ mà sức sản xuất của tài sản cố định như trên là vừa phải. Mặt khác, mức sinh lời của tài sản cố định lại tăng biểu hiện ở cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định sẽ đem lại 0,54 đồng lợi nhuận trong 6 tháng đầu năm 2002 và tăng lên 0,64 đồng lợi nhuận ở 6 tháng cuối năm. Điều này phản ánh công ty dần dần khai thác tốt tài sản cố định, đồng thời phản ánh sự kinh doanh phát đạt của công ty. Thứ hai, hệ số cơ cấu tài chính: Hệ số nợ / tổng tài sản là 0,044, hệ số nợ / vốn chủ sở hữu là 0,46. Như vậy các hệ số nợ này đều rất thấp, một mặt thể hiện công ty đã từng bước kinh doanh có hiệu quả và đảm bảo tính an toàn cho công ty cũng như khách hàng, mặt khác lại cho thấy: nhu cầu sử dụng vốn chưa cao, khách hàng chưa nhiều về số lượng cũng như khối lượng giao dịch của khách hàng còn ít. Tỷ trọng tài sản lưu động của công ty chiếm tới 95% tổng tài sản, AGRISECO có thể tham khảo cơ cấu tài sản của các công ty chứng khoán khác để xác định mức độ hợp lý về cơ cấu tài sản của mình. Trong năm 2002, công ty đã làm ăn có lãi và được UBCKNN nhận định là công ty có kết quả tài chính cao. Điều này khẳng định thành công bước đầu của công ty vì mục tiêu chính của công ty trong giai đoạn này không phải là lợi nhuận. Kết quả đã đánh dấu sự cố gắng trong việc chỉ đạo, quản lý điều hành và thực hiện công tác hạch toán kinh doanh của công ty. Bộ máy công ty được tổ chức quá gọn nhẹ. Số nhân viên trong công ty không nhiều, lại phải đảm nhiệm công việc hoàn toàn mới mẻ, chưa có kinh nghiệm. Nhưng do công ty có phương pháp sắp xếp công việc cụ thể cho từng người, đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tinh thông nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm với công việc nên các cán bộ luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, đem lại những thành tích đáng kể cho công ty và sự tin cậy của khách hàng. Doanh số giao dịch công ty thực hiện cho khách hàng qua từng tháng đều tăng. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước phát triển, tạo lòng tin cho công chúng đầu tư. Bên cạnh đó, công ty thực hiện nghiệp vụ môi giới một cách bài bản, nhanh chóng, chính xác với độ an toàn cao, từ đó tạo niềm tin nơi khách hàng để họ tích cực hơn trong việc tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán. Số chứng khoán lưu ký được lưu ký tại công ty tăng dù chậm, khách hàng khi mua bán chứng khoán ở công ty đều được lưu ký chứng khoán tại công ty. Khách hàng đến công ty ngày càng nhiều. Với việc đảm bảo nguyên tắc cơ bản của thị trường chứng khoán cũng như các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, hình ảnh của công ty đã được nhiều người biết đến. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn đầu tư hoạt động dần dần có hiệu quả và thu hút được nhiều khách hàng đến với công ty. Điều quan trọng hơn cả là tất cả các nghiệp vụ mà công ty thực hiện liên quan trực tiếp đến khách hàng đã được khách hàng tin tưởng, hài lòng và hình ảnh của công ty đã được truyền miệng từ người này sang người khác, do đó số khách hàng đến với công ty ngày càng tăng. Như vậy có thể khẳng định rằng nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán ngày càng hoạt động có hiệu quả và đang từng bước được hoàn thiện. Có được những thành công đáng kể trên là nhờ: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân viên có trình độ, hiểu biết và được đào tạo cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã chỉ đạo và thực hiện các nghiệp vụ một cách an toàn, hiệu quả và tạo được lòng tin ở khách hàng. Ban lãnh đạo công ty là những người có thâm niên trong ngành tài chính, ngân hàng nên dù ở giai đoạn đầu hoạt động nhưng việc điều hành các nghiệp vụ của công ty đều trôi chảy, tất cả các cán bộ kinh doanh chủ chốt đều đã qua các lớp đào tạo của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và có giấy phép hành nghề. Các nhân viên môi giới tài sản của công ty đều đã được lựa chọn kỹ và được trung tâm giao dịch chứng khoán đào tạo. Ngoài ra, một số đã được gửi ra nước ngoài đào tạo chuyên sâu hoặc được chuyên gia nước ngoài sang đào tạo tại chỗ; cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại đã góp phần quan trọng trong quá trình hoạt động hiệu quả của công ty. Điển hình là bảng điện tử giúp cho khách hàng theo dõi thông tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Bảng điện tử giúp cho nhà đầu tư có thông tin cập nhật nhất về giá cả, khối lượng chào bán và đặt mua của từng loại chứng khoán, giá cả và khối lượng dự kiến khớp lệnh của từng loại chứng khoán. Bên cạnh đó, công ty còn có hệ thống thông tin theo dõi và giám sát khách hàng. Số dư tài khoản của khách hàng, các giao dịch thực hiện trong phiên đều được công ty giám sát chặt chẽ để thông báo cho khách hàng, đảm bảo khi thực hiện các giao dịch, khách hàng đã ký quỹ 100%, cũng như không xảy ra trường hợp mua bán cùng một loại chứng khoán trong một phiên giao dịch. Việc giám sát này không những giúp cho khách hàng luôn tuân theo những quy định của pháp luật trong giao dịch mà còn đảm bảo cho cả uy tín của công ty trong việc thực hiện các dịch vụ cho khách hàng. Hơn nữa, hệ thống thông tin này có khả năng cung cấp các thông tin liên quan đến khách hàng khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Một lý do khác nữa là thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng hoạt động ổn định, đúng theo hướng và mục tiêu đã đề ra ngay từ khi mới thành lập. 3.2. Những hạn chế Thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam còn sơ khai, có nhiều hạn chế. Hàng hoá trên thị trường tuy đã tăng về số lượng những vẫn còn ít và chưa đa dạng về chủng loại. Quy mô thị trường còn nhỏ bé cả cung và cầu. Hệ thống giao dịch thanh toán còn ở mức ban đầu, chưa bao quát đầy đủ các chức năng của hệ thống. Mặt khác chưa có luật về chứng khoán nên hiệu lực của các văn bản pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán không cao, dẫn đến nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Những hạn chế này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh của các công ty chứng khoán nói chung và công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng No&PTNT nói riêng. Mặt khác, việc một số tổ chức niêm yết công bố thông tin không chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của mình đã khiến lòng tin của nhà đầu tư trên thị trường có sự lung lay. Điều này dẫn đến thị trường hoạt động không sôi động và giảm đi nguồn thu đáng kể của các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, số người hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán không nhiều, kiến thức về thị trường rộng đã khiến cho các công ty chứng khoán rất khó khăn trong việc tuyên truyền phổ biến kiến thức cho người đầu tư. Cũng chính vì điều đó, các công ty gặp khó khăn khi tiếp xúc với khách hàng là công ty để tư vấn cho họ cổ phần hoá và đưa chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán vì đội ngũ lãnh đạo của các công ty chưa chủ động cổ phần hoá, họ vẫn còn ngại công bố thông tin trên thị trường Đứng trong mặt bằng chung của thị trường, tuy đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ nhưng AGRISECO vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. So với các công ty chứng khoán khác trên thị trường thì AGRISECO cùng với công ty chứng khoán ngân hàng Ngoại thương có vốn điều lệ lớn nhất là 60 tỷ đồng, đây là cơ sở tốt để thực hiện các nghiệp vụ đòi hỏi vốn lớn như bảo lãnh phát hành, tự doanh. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy chỉ có nghiệp vụ tự doanh và môi giới là hai nghiệp vụ mang lại lợi nhuận cho AGRISECO, trong khi các nghiệp vụ khác vẫn còn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa sôi động và chưa đóng vai trò quyết định trong hiệu quả kinh doanh của công ty. Mặt khác các nghiệp vụ như môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán chưa thực sự hoạt động đúng theo tiềm năng của công ty. Trong quá trình hoạt động AGRISECO còn một số vướng mắc về tư duy và tác phong của cán bộ nhân viên khi họ chưa kịp đổi mới với kinh doanh, vẫn còn sai sót trong kỹ thuật nhập lệnh và do số cán bộ công ty còn quá ít (toàn công ty chỉ có 30 người) nên áp lực công việc quá lớn đối với người lao động. Hiện tại AGRISECO chỉ có ba phòng là phòng hành chính – tổng hợp, kế toán – lưu ký và phòng kinh doanh, chưa xây dựng các phòng ban độc lập cho từng loại nghiệp vụ, do đó có thể dẫn tới các xung đột lợi ích trong công ty khi triển khai đồng thời cả nghiệp vụ môi giới và tự doanh. AGRISECO có trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, do vậy chưa tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư ở các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. AGRISECO lại có điều kiện thuận lợi hơn các công ty khác khi mở rộng thêm các nghiệp vụ phụ trợ do có ưu thế của ngân hàng mẹ nhưng do thị trường vẫn còn quá nhỏ, quá ít nghiệp vụ khiến cho công ty không phát huy hết khả năng vốn có của mình. 3.3. Nguyên nhân. Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau: Hoạt động marketing của công ty còn quá yếu: Tiềm năng khách hàng của thị trường rất lớn nhưng khách hàng hiện tại còn quá ít. Tại sao khối lượng khách hàng lớn như vậy vẫn chưa tham gia vào thị trường? Một phần do các hoạt động Marketing của công ty chưa phát triển, chưa tiếp cận được với khách hàng tiềm năng. Công ty đã soạn thảo đề án: “Chính sách tiếp thị của công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” nhằm phân loại khách hàng, xây dựng một quy trình cung cấp dịch vụ tương ứng cho mọi loại khách hàng. Chính sách khách hàng được tập trung vào các khâu: Quảng cáo, tiện ích và chế độ ưu đãi về phí. Tuy nhiên cho đến nay, công tác Marketing của công ty vẫn chưa tốt, dẫn đến thông tin chưa đầy đủ ảnh hưởng đến phân tích chứng khoán, ảnh hưởng đến tư vấn đầu tư cho khách hàng. Trên thực tế, công ty vẫn chưa chủ động trong công tác tìm kiếm khách hàng. Hầu hết các khách hàng đã mở tài khoản tại công ty là những khách hàng tự đến với công ty. Mặt khác, việc tuyên truyền về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa được công ty chú trọng phát triển. Công ty chưa tổ chức được những buổi nói chuyện, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa cán bộ công ty và khách hàng để tạo thêm sự hiểu biết cho khách hàng về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đồng thời tăng sự hiểu biết của khách hàng về công ty. Cho đến nay AGRISECO vẫn chưa xây dựng được trang Web để công chúng đầu tư có thuận lợi hơn trong việc tìm hiểu và theo dõi những thông tin cần thiết. Thiếu kinh nghiệm kinh doanh thực tế nên công ty vẫn còn lúng túng khi triển khai các nghiệp vụ kinh doanh. Điều này cũng dễ hiểu khi thị trường chứng khoán Việt Nam vừa mới đi vào hoạt động và AGRISECO là công ty chứng khoán thành lập muộn so với các công ty chứng khoán khác. Các nghiệp vụ của công ty còn hạn chế, chủ yếu chỉ là nghiệp vụ môi giới và tự doanh, còn các nghiệp vụ khác thì chưa phát triển. Mặt khác, số công ty niêm yết trên thị trường còn ít, hàng hoá cho thị trường hiếm hoi thì nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty khó để được thực hiện. (Trong tất cả các công ty chứng khoán thì chỉ có công ty chứng khoán Bảo Việt thực hiện được hợp đồng bảo lãnh phát hành cho công ty cổ phần giấy Hải Phòng). Bên cạnh đó, công ty vẫn chưa mở rộng tối đa quan hệ đối ngoại của mình để tích luỹ kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, khoa học kỹ thuật hiện đại... Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh: Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh bị hao mòn vô hình rất nhanh. Mặt khác việc buôn bán chứng khoán diễn ra rất nhanh, thời gian là tiền bạc, hệ thống công nghệ thông tin phải đủ mạnh để xử lý chính xác và kịp thời. Mặc dù văn phòng làm việc cũng như các trang thiết bị của AGRISECO được đánh giá là khá tốt so với các công ty chứng khoán khác, nhưng muốn thực hiện các nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, nghĩa là khách hàng ký gửi chứng khoán cho công ty, công ty tiến hành kinh doanh hộ khách hàng, thanh toán tiền lãi và cổ tức, trên thực tế, hệ thống tin học chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng nhu cầu của hàng triệu khách hàng nằm rải rác trên toàn quốc. Điều này cũng dễ hiểu vì công ty phải tự lực phần mềm, vốn còn hạn chế. Đồng thời khoa học kỹ thuật phát triển ngày càng mạnh mẽ mà công ty chưa thể nhanh chóng nâng cấp được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của mình nên hiện tại vẫn chưa đáp ứng được tốt yêu cầu của kinh doanh chứng khoán. Tâm lý của nhà đầu tư : Đa số việc mua bán cổ phiếu diễn ra giữa các nhà đầu tư nhỏ với tâm lý đầu tư “ngắn hạn” nhằm mua cổ phiếu theo biến động giá hơn là dựa vào đánh giá tiềm năng phát triển của công ty thông qua việc đánh giá tình trạng tài chính và thị trường một cách toàn diện. Các nhà đầu tư Việt Nam chưa có thói quen phải trả tiền khi sử dụng các dịch vụ họ được cung cấp, thị trường chỉ có rất ít loại chứng khoán nên họ vẫn có thể theo dõi và tự quyết định cho bản thân nên mua, bán chứng khoán nào, vào lúc nào. Chính vì thế, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chưa thực sự được các nhà đầu tư cho là cần thiết. Mặt khác, họ vẫn chưa thấy được lợi ích khi có một danh mục đầu tư hợp lý mà chỉ sợ mất phí và tốn tiền, cho nên mặc dù là một dịch vụ tốt và rất có hiệu quả nhưng quản lý danh mục đầu tư vẫn bị các nhà đầu tư bỏ qua. Cùng với những điều đó, AGRISECO vẫn chưa tận dụng được hết lợi thế của ngân hàng mẹ. Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam là ngân hàng thương mại hoạt động tốt nhất và có mạng lưới khách hàng lớn nhất hiện nay. AGRISECO có thể dựa vào vị thế, tiềm năng của ngân hàng mẹ để mở rộng thêm các dịch vụ mà các công ty chứng khoán khác không có được như đưa chứng khoán về nông thôn và hỗ trợ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ ở nông thôn. Mặc dù công ty cũng đã có đề án đưa chứng khoán về nông thôn và thành lập Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ ở nông thôn nhưng vẫn chưa được thực hiện. Từ thực trạng của AGRISECO trong thời gian qua, cùng với các kết quả đạt được cũng như các mặt hạn chế, công ty cần có các biện pháp kịp thời để tiếp tục phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu để ngày càng phát triển vững vàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA UBCKNN VÀ CỦA AGRISECO TRONG THỜI GIAN TỚI. 1. Định hướng của UBCKNN. Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế, UBCKNN đã đề ra chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cho giai đoạn 2003-2010, với quan điểm chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đi từ qui mô nhỏ đến lớn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng thị trường hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả, bảo vệ người đầu tư, và có thể linh hoạt thích ứng thực tế; đồng thời tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường. Mục tiêu tổng quát của chiến lược là: “Củng cố, ổn định và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô thị trường; tăng cường hiệu quả quản lý giám sát thị trường, bảo vệ người đầu tư. Góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, đảm bảo ổn định và an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia; nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Tạo ra môi trường nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá và huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển”. Mục tiêu giai đoạn 2003-2005 là củng cố thị trường chứng khoán và hoàn thiện xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản cho thị trường, từng bước phát triển quy mô, phạm vi hoạt động thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thị trường chứng khoán, tăng cung hàng hóa, hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của thị trường, xây dựng và phát triển các định chế hoạt động trên thị trường. Một số chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đạt mức 2-3% GDP. Xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán ban đầu cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Hoàn thiện, nâng cấp hệ thống giao dịch tự động tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh để thay thế hệ thống giao dịch ban đầu. Phát triển các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, thành lập một số công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán. Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 là tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ của thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu là mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ, khuyến khích tăng cường khả năng cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập quốc tế. Chính vì thế các chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Tổng giá trị thị trường đạt mức 10-15% GDP. Nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán, hệ thống giám sát thị trường, thông tin thị trường tự động hoá hoàn toàn. Kết nối mạng giao dịch diện rộng giữa Sở giao dịch với các công ty chứng khoán, đưa giao dịch qua mạng Internet. Cùng với điều đó, sẽ tiến hành nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội trở thành thị trường phi tập trung (OTC). Đồng thời thành lập trung tâm lưu ký độc lập, cung cấp đồng thời các dịch vụ thanh toán, lưu ký, đăng ký chứng khoán tập trung, phục vụ cho hoạt động giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán; lưu ký chứng k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCkhoan (12).doc
Tài liệu liên quan