Đề tài Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở bảo hiểm xã hội tỉnh Lạng Sơn

Tài liệu Đề tài Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở bảo hiểm xã hội tỉnh Lạng Sơn: LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của em; Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Sinh viên Bế Thu Thủy LỜI CẢM ƠN Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo của Trường Đại học Lao động - Xã hội đã tận tình giảng dạy, rèn luyện, giúp đỡ em trong suốt bốn năm học vừa qua. Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn Th.s Đỗ Thùy Dung đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em cũng chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng tổ chức - Hành chính, đặc biệt là Phòng chế độ BHXH của BHXH tỉnh Lạng Sơn đã giúp đỡ, tạo điều kiện cung cấp tài liệu, số liệu để em hoàn thành khóa luận. Dù em đã cố gắng rất nhiều, song do thời gian và kiến thức có hạn nên khóa luận của em có lẽ sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vậy em kính mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm đến đề tài này. Em xin chân thành c...

doc73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở bảo hiểm xã hội tỉnh Lạng Sơn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của em; Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Sinh viên Bế Thu Thủy LỜI CẢM ƠN Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo của Trường Đại học Lao động - Xã hội đã tận tình giảng dạy, rèn luyện, giúp đỡ em trong suốt bốn năm học vừa qua. Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn Th.s Đỗ Thùy Dung đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em cũng chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng tổ chức - Hành chính, đặc biệt là Phòng chế độ BHXH của BHXH tỉnh Lạng Sơn đã giúp đỡ, tạo điều kiện cung cấp tài liệu, số liệu để em hoàn thành khóa luận. Dù em đã cố gắng rất nhiều, song do thời gian và kiến thức có hạn nên khóa luận của em có lẽ sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vậy em kính mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm đến đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày… tháng…. năm 2011 Sinh viên Bế Thu Thủy DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Tên đầy đủ ASXH An sinh xã hội BB Bắt buộc BH Bảo hiểm BHTN Bảo hiểm thất nghiệp BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế CBX Cán bộ xã CNVC Công nhân viên chức DNLD Doanh nghiệp liên doanh DNNN Doanh nghiệp nhà nước DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh HCSN Hành chính sự nghiệp HTTT Hưu trí, tử tuất HTX Hợp tác xã KCB Khám chữa bệnh KD Kinh doanh LĐLĐ Liên đoàn lao động LĐ-TBXH Lao động - Thương binh và Xã hội NLĐ Người lao động NCL Ngoài công lập SDLĐ Sử dụng lao động UBND Ủy ban nhân dân XP Xã phường MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Danh mục các bảng số liệu: Bảng Tên bảng Trang Bảng 1: Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008- 2010 20 Bảng 2: Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008- 2010 23 Bảng 3 Kết quả hoạt động thu BHXH cho quỹ HTTT ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 25 Bảng 4: Kết quả thu BHXH bắt buộc cho quỹ HTTT theo các khối ngành giai đoạn 2008 -2010 28 Bảng 5: Kết quả thu BHXH tự nguyện (quỹ HTTT) ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 31 Bảng 6: Tình hình xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 32 Bảng 7: Số đối tượng áp dụng hình thức chi trả lương hưu trực tiếp ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 -2010 34 Bảng 8: Số đối tượng áp dụng hình thức chi trả lương hưu gián tiếp ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 -2010 35 Bảng 9: Số đối tượng áp dụng hình thức chi trả lương hưu qua thẻ ATM ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 -2010 35 Bảng 10: Tình hình tăng, giảm số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ quỹ BHXH và từ NSNN giai đoạn 2008 - 2010 39 Bảng 11: Tình hình tăng, giảm số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng do chuyển đến, chuyển đi hoặc chết giai đoạn 2008 - 2010 40 Bảng 12: Cơ cấu số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 41 Bảng 13: Cơ cấu nguồn kinh phí chi trả lương hưu hàng tháng tại BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 43 Bảng 14: Tình hình chi trả chế độ một lần ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 44 Danh mục sơ đồ và các biểu đồ: Sơ đồ Tên sơ đồ Trang Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động BHXH tỉnh Lạng Sơn 18 Biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện cơ cấu trình độ cán bộ ở cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn 19 Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện cơ cấu số lao động tham gia BHXH bắt buộc theo từng khối ngành ở tỉnh Lạng Sơn năm 2010 21 Biểu đồ 3 Biểu đồ so sánh kết quả thu BHXH bắt buộc và kết quả thu cho quỹ HTTT giai đoạn 2008 -2010 37 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách BHXH không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Lịch sử phát triển ngành BHXH được đánh dấu như một bước phát triển mới khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007. Hệ thống tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam được thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương. Trong đó, BHXH cấp tỉnh là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý BHXH Việt Nam, là cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất để thực hiện tốt công tác BHXH trên toàn địa bàn tỉnh. Thực hiện tốt hoạt động ở BHXH cấp tỉnh thì mới đảm bảo cho việc thực hiện tốt của cả hệ thống. Trong thời gian thực tập tại BHXH tỉnh Lạng Sơn em nhận thấy BHXH tỉnh Lạng Sơn đã có nhiều cố gắng, nỗ lực và đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Trong đó nổi bật là việc thực hiện các chế độ BHXH, đặc biệt là việc thực hiện chế độ hưu trí - một trong những nội dung quan trọng nhất trong hệ thống sự nghiệp BHXH. Nhưng bên cạnh những kết quả đạt được về tình hình tham gia, công tác thu, chi và giải quyết chế độ hưu trí vẫn còn tồn tại một số khó khăn vướng mắc cần có những biện pháp giải quyết từ phía Chính phủ và các cấp trong ngành BHXH. Trước thực trạng đó, dựa vào kết quả thu thập được cùng với kiến thực đã học của bản thân em đã lựa chọn đề tài: " Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở BHXH tỉnh Lạng Sơn" để làm Khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận Mục đích nghiên cứu của em là tìm hiểu thực trạng tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở tỉnh Lạng Sơn và đánh giá được kết quả của việc thực hiện chế độ hưu trí trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị nhằm góp phần thực hiện tốt hơn chế độ hưu trí tại BHXH tỉnh Lạng Sơn. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình thực hiện chế độ hưu trí tại BHXH tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn 2008 - 2010. Đối tượng nghiên cứu: Những quy định về BHXH liên quan đến chế độ hưu trí, các quy định về thủ tục hồ sơ, quy trình giải quyết chế độ hưu trí của BHXH Việt Nam, hướng dẫn của BHXH Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: nhằm làm rõ lý luận cơ bản về chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước; Phương pháp điều tra, thống kê: để cập nhật số liệu phục vụ nội dung nghiên cứu; Phương pháp so sánh: để chỉ sự biến động của nội dung nghiên cứu; Phương pháp phân tích: nhằm chỉ ra thực trạng, mặt tích cực, tồn tại, nguyên nhân. 5. Nội dung nghiên cứu Khoá luận hệ thống hoá và giới thiệu những quy định nghiệp vụ về chế độ hưu trí theo Luật BHXH, các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ, các Công văn hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Khoá luận đánh giá tình hình thực hiện chế độ hưu trí, thông qua hệ thống số liệu về tình hình tham gia, thu, chi quỹ hưu trí tử tuất và quy trình giải quyết chế độ. Khoá luận đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chế độ hưu trí tại BHXH tỉnh Lạng Sơn. 6. Kết cấu của khóa luận: Kết cấu Khóa luận tốt nghiệp của em ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục thì gồm có ba phần như sau: Chương 1 : Một số lý luận chung về BHXH và chế độ hưu trí Chương 2 : Thực trạng tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008-2010 Chương 3 : Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chế độ hưu trí tại BHXH tỉnh Lạng Sơn CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ 1.1. Khái niệm, vai trò, nguyên tắc của chế độ hưu trí 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm BHXH Khái niệm chung của ILO về ASXH (trong Công ước 102, 1952) cũng được sử dụng trong lĩnh vực BHXH. Theo đó, BHXH có thể được hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp cộng đồng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Tuy nhiên, ở Việt Nam thuật ngữ BHXH thường được sử dụng với nội hàm hẹp hơn, chỉ bao gồm những trường hợp bảo hiểm thu nhập cho NLĐ. Theo Luật BHXH số 71/2006/ QHH ngày 29 tháng 06 năm 2006 của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì: “ Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết..., trên cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội.” Như vậy, phát sinh từ nhu cầu của NLĐ, BHXH đã trở thành chính sách xã hội quan trọng của nước ta và hầu hết các nước trên thế giới. BHXH trở thành phương thức dự phòng để khắc phục hậu quả của các rủi ro xã hội, đảm bảo an toàn xã hội và tạo động lực hữu hiệu để phát triển kinh tế. 1.1.1.2. Khái niệm chế độ hưu trí Theo nghĩa chung nhất: "Chế độ hưu trí là chế độ BHXH đảm bảo thu nhập cho người hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa" (Bài giảng BHXH 2, NXB Lao động - Xã hội). Dưới góc độ pháp luật: "Chế độ hưu trí là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham gia BHXH, khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động" (Bài giảng BHXH 2, NXB Lao động - Xã hội). 1.1.2. Vai trò 1.1.2.1. Vai trò của BHXH Đối với người lao động: BHXH là điều kiện cho người lao động được cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn...đồng thời cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro được khống chế, khắc phục hậu quả ở mức cần thiết. Tham gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả tiêu dùng cá nhân góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình, làm cho họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già... Đối với các tổ chức sử dụng lao động: BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. BHXH tạo điều kiện để người SDLĐ có trách nhiệm với NLĐ không chỉ khi trực tiếp SDLĐ mà trong suốt cuộc đời NLĐ. BHXH còn giúp đơn vị SDLĐ ổn định nguồn chi ngay cả khi có rủi ro lớn xảy ra Đối với xã hội: Qua hoạt động BHXH, những rủi ro trong đời sống của NLĐ được dàn trải theo nhiều chiều, tạo khả năng giải quyết an toàn nhất, với chi phí thấp nhất. BHXH là căn cứ đánh giá trình độ quản lý rủi ro và mức độ ASXH đạt được trong mỗi nước. BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế, xã hội phát triển. 1.1.2.2. Vai trò của chế độ hưu trí Đối với NLĐ, chế độ hưu trí đã đảm bảo được việc thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động với xã hội. Tiền lương mà họ nhận được là kết quả tích luỹ trong suốt quá trình làm việc đóng góp vào quỹ BHXH. Đây là khoản thu nhập chính đáng, là chỗ dựa chủ yếu nhằm bảo đảm cuộc sống về cả vật chất lẫn tinh thần cho NLĐ trong quãng đời còn lại sau quá trình lao động. Có thể khi về già, nhiều NLĐ cũng có những khoản tích luỹ, có chỗ dựa là con cháu song phần lớn là họ trông cậy vào khoản trợ cấp hưu trí. Hơn nữa, khoản trợ cấp này còn là chỗ dựa tinh thần cho người hết tuổi lao động. Người về hưu sẽ cảm thấy tự tin, yên tâm trong cuộc sống khi họ được hưởng lương hưu, không bị mặc cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội. Đối với xã hội, chế độ hưu trí thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội và của người SDLĐ đối với những người đã có quá trình lao động đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, nay hết tuổi lao động. Chế độ này phản ánh rõ nét các giá trị xã hội, tính nhân văn, nhân đạo của dân tộc, là một trong những nội dung nòng cốt của chính sách đảm bảo xã hội quốc gia. 1.1.3. Các nguyên tắc của chế độ hưu trí 1.1.3.1. Nguyên tắc chung của BHXH Chế độ hưu trí là một trong các chế độ của BHXH nên phải tuân thủ các nguyên tắc chung của BHXH. Nguyên tắc mọi người đều có quyền tham gia và hưởng BHXH. Nguyên tắc mức hưởng BHXH trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và chia sẻ cộng đồng. Nguyên tắc BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít. Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý BHXH. Nguyên tắc BHXH phải kết hợp hài hoà các lợi ích, mục tiêu và phù hơp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. 1.1.3.2. Nguyên tắc của chế độ hưu trí Nguyên tắc phân biệt hợp lý độ tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và nữ: Do điều kiện về độ tuổi nghỉ lưu giữa lao động nam và lao động nữ khác nhau, lao động nữ thường được nghỉ hưu sớm hơn nam giới. Hơn nữa, quan điểm ưu đãi phụ nữ còn là truyền thống tồn tại lâu đời tron cộng đồng và được Nhà nước thừa nhận. Vì vậy, Luật BHXH nước ta quy định lao động nữ được nghỉ hưu sớm hơn lao động nam 5 tuổi nên cách tính lương hưu cũng phải quy định khác nhau để đảm bảo sự công bằng về quyền hưởng chế độ hưu trí giữa lao động nữ và lao động nam. Nguyên tắc giảm độ tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định: Xuất phát từ lý do điều kiện làm việc của NLĐ trong một số ngành nghề có tính chất nặng nhọc, độc hại; ở những nơi xa xôi hẻo lánh hay trong những lĩnh vực quan trọng như an ninh, quốc phòng... có sự khác nhau. Những NLĐ phải làm việc trong điều kiện lao động không thuận lợi hoặc làm những công việc mà tính quan trọng đối với an ninh đất nước có thể ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ thì sẽ được hưởng chế độ ưu đãi đặc biết. Trong chế độ hưu trí, sự giảm đội tuổi này thể hiện ở việc luật pháp cho phép họ được nghỉ hưu ở tuổi sớm hơn so với quy định chung nhưng không phải trừ đi tỷ lệ lương hưu do thời gian nghỉ sớm đó. 1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ BHHT 1.2.1. Chính sách tiền lương Chính sách tiền lương là một trong các nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chế độ hưu trí bởi vì tiền lương là căn cứ tính đóng BHXH cũng là căn cứ tính hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH của NLĐ. Theo Luật BHXH, mức đóng BHXH của NLĐ và người SDLĐ được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định của mức tiền lương, tiền công mà NLĐ nhận được. Tỷ lệ này có thể thay đổi tùy từng thời kỳ sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Mức tiền lương, tiền công phụ thuộc vào mức lương tối thiểu chung. Chính sách tiền lương thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mức đóng vào quỹ BHXH. Chẳng hạn, Nghị định 33/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 06/04/2009 về việc quy định mức lương tối thiểu chung. Theo đó, từ 01/05/2009 mức lương tối thiểu chung sẽ tăng từ 540.000 đồng/tháng lên 650.000 đồng/tháng. Nghị định số 28/2010/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu chung thực hiện từ 01/05/2010 là 730.000đồng/tháng. Sự tăng lên này kéo theo sự tăng lên của mức tiền lương, tiền công mà NLĐ nhận được, do đó mức đóng vào quỹ BHXH của họ cũng tăng theo. Bên cạnh đó, khi chính sách tiền lương thay đổi, Chính phủ sẽ có những sự điều chỉnh thích hợp để đảm bảo công bằng cho những đối tượng đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH. Cụ thể, song song với Nghị định tăng tiền lương tối thiểu chung Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2009/NĐ-CP ngày 06/04/2009 về việc điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH. Theo đó, người đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH sẽ được tăng thêm 5% mức lương mà họ hiện hưởng. Như vậy, sự thay đổi về chính sách tiền lương cũng ảnh hưởng trực tiếp, làm thay đổi thuận chiều mức hưởng BHXH của đối tượng. Mức hưởng tăng, dẫn đến khối lượng tiền chi trả tăng và làm cho công tác thực hiện chế độ hưu trí có những thay đổi rõ rệt. 1.2.2. Trình độ dân trí Trình độ dân trí được hiểu là sự hiểu biết của người dân về các vấn đề xã hội, văn hóa, pháp luật. Đây là một nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ BHHT. Khi trình độ dân trí cao, hiểu biết của người dân về các quy định pháp luật, các chính sách BHXH cũng được nâng lên, họ có thể tự nhận thấy quyền và lợi ích của mình khi tham gia BHXH, hoặc khi được tuyên truyền họ cũng có thể dễ dàng nắm bắt được. Nhờ đó, công tác thực hiện chế độ BHHT sẽ trở nên đơn giản, các khâu được nhanh gọn, chính xác. Ngược lại, nếu trình độ dân trí thấp, nhận thức của người dân về pháp luật còn dừng ở mức độ ban đầu thì các chính sách BHXH sẽ khó đến được với NLĐ. Đặc biệt, công tác tuyên truyền cho họ cũng gặp nhiều khó khăn vì không phải ai cũng có thể hiểu được, và không phải ai hiểu được cũng có thể làm theo. Do đó, công tác thực hiện chế độ BHHT chỉ triển khai được ở mức thấp vì số lượng người tham gia ít, công tác giải quyết chế độ chính sách chậm trễ và dễ gặp sai sót do đối tượng thiếu hiểu biết. Như vậy, trong việc thực hiện chế độ BHHT phải nâng cao trình độ dân trí, thay đổi nhận thức của người dân theo hướng tích cực, từ đó dần dần triển khai các chính sách, chế độ BHHT mới có thể thu được hiệu quả cao. 1.2.3. Điều kiện kinh tế Điều kiện kinh tế nói lên khả năng kinh tế của một quốc gia, một vùng miền hay một cá nhân. Điều kiện kinh tế cũng góp phần quyết định đến việc thực hiện các chính sách của chế độ BHHT. Chẳng hạn, khi xây dựng mức đóng BHXH người ta cũng căn cứ vào khả năng kinh tế chung của đất nước, trong lộ trình tăng mức đóng từ năm 2010 cũng phải căn cứ vào tình hình kinh tế mà thực hiện. Và cũng chính vì căn cứ vào tình hình kinh tế của nước ta mà chính sách BHXH tự nguyện mới thực sự được đi vào thực hiện từ năm 2008. Bên cạnh đó, khả năng kinh tế còn tác động mạnh đến trình độ dân trí. Nếu kinh tế phát triển sẽ có điều kiện đầu tư cho giáo dục giúp nâng cao trình độ dân trí, lúc này chính trình độ dân trí lại gián tiếp ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ BHHT. Ngược lại, kinh tế chậm phát triển, đất nước nghèo nàn, lạc hậu thì đi kèm với nó cũng là một trình độ dân trí thấp và lúc này sẽ góp phần ảnh hưởng không tốt tới công tác thực hiện chế độ BHHT. Xét trong phạm vi hẹp hơn, điều kiện kinh tế của một một cá nhân cũng có ảnh hưởng theo một khía cạnh khác đến việc thực hiện chế độ BHHT. Chẳng hạn, một cá nhân có điều kiện kinh tế họ sẽ dễ dàng phát sinh nhu cầu và sẵn sàng tham gia BHXH tự nguyện gấp nhiều lần so với một người khó khăn về kinh tế. Như vậy, khả năng kinh tế góp phần quyết định rất lớn trong việc thực hiện các chính sách BHHT của mỗi quốc gia. Nếu đất nước ngày càng phát triển thì càng có nhiều chế độ, chính sách có lợi hơn cho NLĐ được Nhà nước nghiên cứu và áp dụng. Ngược lại, nếu kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân khó khăn thì việc chăm lo cho các chính sách BHXH chắc chắn sẽ bị giảm sút, tiến trình thực hiện các chế độ có thể bị thay đổi. 1.3. Nội dung cơ bản của chế độ hưu trí ở Việt Nam 1.3.1. Đối tượng tham gia và mức đóng của chế độ hưu trí 1.3.1.1. Đối với chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc Đối với người lao động Hầu hết mọi NLĐ tham gia BHXH đều là đối tượng của chế độ hưu trí nên theo khoản 1 Điều 2 Luật BHXH thì NLĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam bao gồm: "Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; Cán bộ, công chức, viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân công an; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc." Mức đóng của NLĐ quy định tại khoản 1 Điều 91 Luật này là" đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí, tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%." Đối với người sử dụng lao động Người SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc cũng chính là tham gia vào chế độ hưu trí cho NLĐ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật BHXH thì: " Người SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ." Mức đóng của người SDLĐ được tính trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của NLĐ và được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 92 Luật này là đóng "11% vào quỹ hưu trí, tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạy mức đóng là 14%." Như vậy, cả NLĐ và người SDLĐ sẽ đóng góp 16% tổng quỹ lương vào quỹ hưu trí, tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ hai năm một lần quỹ này sẽ tăng thêm 2% cho đến khi đạt 22%. Quỹ HTTT dùng để chi trả chi các chế độ hưu trí và tử tuất trong đó chủ yếu dành cho chế độ hưu trí. 1.3.1.2. Đối với chế độ hưu trí trong BHXH tự nguyện Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và mức đóng BHXH tự nguyện cũng chính là đối tượng tham gia chế độ hưu trí và mức đóng dùng chi trả cho chế độ hưu trí. Theo quy đinh tại khoản 5 Điều 2 Luật BHXH thì "Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc diện áp dụng của pháp luật về BHXH bắt buộc." Mức đóng của NLĐ được quy định tại khoản 1 Điều 100 Luật này như sau: "Mức đóng hàng tháng bằng 16% mức thu nhập NLĐ lựa chọn đóng BHXH; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%." Khoản này cũng quy định: "Mức thu nhập làm cơ sở để tính đóng BHXH được thay đổi tuỳ theo khả năng của NLĐ ở từng thời kỳ nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng hai mươi tháng lương tối thiểu chung." 1.3.2. Điều kiện hưởng và mức hưởng chế độ hưu trí 1.3.2.1. Chế độ hưu trí hàng tháng 1.3.2.1.1. Điều kiện hưởng Đối với chế độ hưu trí hàng tháng đầy đủ: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên. Tuổi nghỉ hưu này được giảm xuống 5 tuổi, cụ thể là 55 tuổi đối với nam và 50 tuổi đối với nữ trong các trường hợp NLĐ đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên. Riêng đối với NLĐ có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên, trong đó có 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò thì tuổi nghỉ hưu của NLĐ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi. Đối với người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên, thì việc nghỉ hưu không phụ thuộc vào tuổi đời. Đối với chế độ hưu trí mức thấp hơn: Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và có thời gian đóng BHXH từ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. NLĐ đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại thuộc danh mục do Bộ LĐTB-XH và Bộ Y tế ban hành, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. 1.3.2.1.2. Mức hưởng Mức hưởng chế độ hưu trí hàng tháng: mức lương hưu hàng tháng của NLĐ được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với nữ, mức tối đa bằng 75%. Công thức: Tính lương hưu hàng tháng: LHHT = Tỷ lệ lương hưu Mbqtl (Trong đó: LHHT: Lương hưu hàng tháng Mbqtl: Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH) Tính tỷ lệ lương hưu: Đối với nam: %LH = 45% + (T - 15) 2% Đối với nữ: %LH = 45% + (T - 15) 3% ( Trong đó: %LH: tỷ lệ lưong hưu T: thời gian đóng BHXH) Chế độ trợ cấp một lần khi nghỉ hưu: Để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia chế độ hưu trí, đồng thời cũng đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động, pháp luật quy định về chế độ trợ cấp một lần khi nghỉ hưu như sau: Điều kiện hưởng: NLĐ đã đóng BHXH trên 30 năm đối với nam, trên 25 năm đối với nữ, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần. Mức hưởng: Mức hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu được quy định tại khoản 2 Điều 54. Theo đó, mức trợ cấp này được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH. 1.3.2.2. Chế độ BHXH một lần Điều kiện hưởng: NLĐ đủ tuổi hưởng lương hưu nhưng chưa đủ 20 năm đóng BHXH; Suy giảm khả năng lao động từ 61% tở lên mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH; Sau một năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng BHXH và có yêu cầu nhận BHXH một lần mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH; Ra nước ngoài để dịnh cư. Mức hưởng: Mức hưởng BHXH một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiên công tháng đóng BHXH. Công thức: Trợ cấp BHXH một lần = T 1,5 Mbqtl (Trong đó: T: thời gian đóng BHXH Mbqtl: Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH) 1.3.3. Thủ tục giải quyết chế độ hưu trí 1.3.3.1. Thủ tục hồ sơ Hồ sơ hưu trí đối với người đang đóng BHXH Sổ BHXH đã xác định thời gian đóng BHXH đến tháng nghỉ việc; Quyết định nghỉ việc của người SDLĐ (02 bản chính); Bản quá trình đóng BHXH theo sổ BHXH (04 bản); Bản điều chỉnh lương hưu đóng BHXH để tính hưởng BHXH (02 bản); Quyết định nâng lương trong 5 năm cuối; Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám định y khoa đối với người nghỉ hưu do suy giảm khả năng lao động (02 bản chính). Hồ sơ hưu trí đối với người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH Sổ BHXH đã xác định thời gian đóng BHXH đến tháng nghỉ việc; Quyết định nghỉ việc của người SDLĐ (02 bản chính); Đơn đề nghị của NLĐ có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú (mẫu số 12 HSB, 02 bản); Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám định y khoa đối với người nghỉ hưu do suy giảm khả năng lao động (02 bản chính). Hồ sơ hưởng BHXH một lần Sổ BHXH đã xác định thời gian đóng BHXH đến tháng nghỉ việc; Quyết định nghỉ việc của người SDLĐ hoặc văn bản chấm dứt hợp đồng lao động (01 bản chính); Đơn của NLĐ có xác nhân của chính quyền địa phương nơi cưu trú (mẫu số 14-HSB, 01 bản). 1.3.3.2. Trách nhiệm của các bên Trách nhiệm của NLĐ: NLĐ lập đủ hồ sơ theo quy định, nộp cho BHXH huyện, quận nơi cư trú và nhận lại hồ sơ đã được giải quyết từ BHXH huyện, quận. Trách nhiệm của người SDLĐ: Giới thiệu NLĐ đang tham gia BHXH ra Hội đồng giám định y khoa để giám định mức suy giảm khả năng lao động để hưởng chế độ hưu trí; Lập đủ hồ sơ quy định, chuyển đến cơ quan BHXH chịu trách nhiệm quản lý và thu BHXH của đơn vị mình; Nhận lại hồ sơ đã giải quyết từ cơ quan BHXH để giao cho NLĐ. Trách nhiệm của cơ quan BHXH: Tiếp nhận hồ sơ từ NLĐ hoặc từ người SDLĐ theo trách nhiệm quy định đối với BHXH huyện, quận; Kiểm tra, đối chiếu về hồ sơ, nếu đủ và đúng theo quy định thì chuyển lên BHXH tỉnh, thành phố giải quyết; Nhận lại hồ sơ đã giải quyết từ BHXH tỉnh, thành phố để trả lại cho NLĐ hoặc người SDLĐ. 1.3.4. Tổ chức chi trả chế độ hưu trí 1.3.4.1. Phương thức chi trả Thanh toán trực tiếp cho đối tượng hưởng: Là phương thưc chi trả đến tạn tay đối tượng hưởng. Phương thức này phù hợp khi áp dụng để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH một lần. BHXH huyện sẽ lấy tiền từ tài khoản Ngân hàng và chi trả cho đối tượng sau khi hoàn tất các thủ tục. Ngân hàng Cơ quan BHXH Đối tượng hưởng Ưu điểm của phương thức này là giúp cơ quan BHXH nhanh chóng nắm bắt thông tin về đối tượng hưởng, những yêu cầu, vướng mắc của họ để kịp thời giải quyết, tránh được tình trạng vi phạm trong công tác chi trả. Nhược điểm: đòi hỏi công tác lập kế hoạch chi trả phải thật khoa học, phải sử dụng một số lượng lớn cán bộ chi trả, làm tăng chi phí quản lý. Thanh toán gián tiếp thông qua đại lý chi trả: Đại lý là những người có trách nhiệm và uy tín trong nhân dân, thường là chủ tịch, cán bộ chính sách xã phường... Cơ quan BHXH phải trích một khoản tiền để chi trả cho các đại lý gọi là lệ phí. Hàng tháng, BHXH lấy tiền từ Ngân hàng giao cho chủ tịch của từng xã, phường, sau đó chủ tịch xã, phường mang tiền về khu vực mình quản lý rồi giao cho các tổ trưởng xóm thôn, dân phố. Các tổ trưởng sẽ thông báo cho các đối tượng hưởng đến lĩnh tại trụ sở của thôn, xóm, tổ dân phố. Sau khi thanh toán hết cho đối tượng hưởng, các đại lý này phải báo cáo kết quả hoạt động của mình lên cơ quan BHXH. Ngân hàng Cơ quan BHXH Đại lý chi trả Đối tượng hưởng Ưu điểm của phương thức này là trong một thời gian ngắn có thể chi trả cho một số lượng lớn đối tượng và rộng khắp, tiết kiệm chi phí, thời gian đi lại của cán bộ chi trả, tạo mối quan hệ tốt giữa cơ quan BHXH và chính quyền địa phương. Nhược điểm: cơ quan BHXH khó theo dõi được tình hình thực tế chi trả, gây khó khăn cho việc giải quyết thắc mắc của đối tượng. Lệ phí chi trả thấp, do dó các đại lý chi trả nhiều khi không nhiệt tình trong công tác, nhiều đại lý chi trả còn chưa đáp ứng được yêu cầu về công tác quản lý tài chính của ngành. Thanh toán qua tài khoản ngân hàng: Phương thức này thường áp dụng để chi lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng tại những địa phương mà có hệ thống ngân hàng phát triển và hệ thống BHXH tiên tiến. Với phương pháp này, tiền từ tài khoản của BHXH sẽ được chuyển vào tài khoản của từng đối tượng hưởng. Đối tượng sẽ nhận tiền thông qua tài khoản thẻ ATM. Tài khoản của BHXH tại ngân hàng Đối tượng hưởng Ưu điểm nổi bật của phương thức này là chi trả nhanh, gọn, kịp thời, an toàn và tiết kiệm chi phí của cả người hưởng và cơ quan BHXH. Nhược điểm: việc lấy thông tin đối tượng hưởng để lập tài khoản còn nhiều khó khăn, đặc biệt là với những người lớn tuổi. Ngoài ra, người dân vẫn có thói quen lĩnh và tiêu tiền mặt, chưa quen với hình thức giao dịch qua thẻ ATM. 1.3.4.2. Tổ chức chi trả Hàng năm, BHXH huyện lập dự toán chi trả BHXH cho các đối tượng trên địa bàn gửi BHXH tỉnh, BHXH tỉnh tổng hợp dự toán chi của toàn tỉnh gửi BHXH Việt Nam. Sau khi dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt, BHXH Việt Nam chuyển tiền về tài khoản BHXH tỉnh, sau đó BHXH tỉnh chuyển về BHXH huyện theo tiến độ chi trả. Hàng tháng BHXH huyện thông báo danh sách đối tượng tăng, giảm về BHXH tỉnh. BHXH tỉnh căn cứ vào danh sách chi trả tháng trước, danh sách ghi tăng, giảm của huyện để lập danh sách chi trả gửi BHXH huyện. Căn cứ vào danh sách chi trả BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành chi trả trợ cấp BHXH cho từng người theo mức trợ cấp mà BHXH tỉnh đã ghi trong danh sách chi trả. Danh sách chi trả được lập hàng tháng và được coi là lệnh chi trả mà BHXH tỉnh giao cho BHXH huyện phải tổ chức thực hiện. Sau khi nhận được danh sách chi trả mà BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành các nghiệp vụ chi trả, như: rút tiền từ ngân hàng về, sau đó đem đến nơi quy định của từng xã, phường theo đúng ngày quy định để trả cho từng người. Việc chi trả có thể thực hiện bằng hai hình thức trực tiếp và gián tiếp, hặc BHXH huyện cử cán bộ đem tiền đến trả trực tiếp cho từng người. Ngoài ra, có thể áp dụng hình thức chi trả qua tài khoản ngân hàng. Kết thúc việc chi trả, BHXH huyện lưu danh sách chi trả có chữ ký của người nhận tiền tại BHXH huyện, đồng thời báo cáo tổng số tiền đã chi trả về BHXH tỉnh, BHXH tỉnh tổng hợp báo cáo của BHXH các huyện và báo cáo lên cơ quan cấp trên theo quy định. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ TẠI BHXH TỈNH LẠNG SƠN, GIAI ĐOẠN 2008 - 2010 2.1. Giới thiệu về tỉnh Lạng Sơn và cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Lạng Sơn Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc của Tổ quốc. Tỉnh Lạng Sơn nằm ở vị trí đường quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn; phía Đông như tỉnh Quảng Ninh; phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội và phía Bắc có đường biên giới dài 253km tiếp giáp với Trung Quốc, với 2 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu quốc gia và 7 cặp chợ biên giới. Với tổng diện tích tự nhiên là 8187,25 km2, tống số dân khoảng 750.000 người, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 820 USD/người/năm. Lạng Sơn có 11 huyện, trong đó có 1 thành phố. Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông thuận lợi, Lạng Sơn có điều kiện để phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương mại - du lịch - dịch vụ. Tỉnh Lạng Sơn luôn cố gắng vươn lên và phát triển khá toàn diện về nhiều mặt. Tăng trưởng kinh tế của năm 2010 ước tính đạt 9,61%, trong đó, nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,52%, công nghiệp - xây dựng tăng 10,86%, dịch vụ tăng 12,6%; GDP bình quân đầu người đạt 16 triệu đồng/năm. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng dần giúp nhiều lao động có cơ hội tìm được việc làm, kinh tế phát triển giúp thu nhập của NLĐ tăng lên và có cơ hội tham gia BHXH nhiều hơn, việc thu nộp BHXH cũng được thực hiện tốt hơn và ngày càng có nhiều NLĐ được bao phủ bởi chế độ hưu trí. Cùng với phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hoá - xã hội được duy trì ổn định và phát triển khá toàn diện. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được đảm bảo, giáo dục và đào tạo được triển khai nghiêm túc, có hiệu quả; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh năm 2010 giảm 2,85% so với năm 2009, tạo việc làm và giải quyết việc làm mới cho 12.200 lao động địa phương. Từ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện; trình độ dân trí và nhận thức của người dân về BHXH dần được được nâng cao và họ sẽ tự nguyện tham gia BHXH. 2.1.2. Khái quát về cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn 2.1.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn Nằm trong hệ thống BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh Lạng Sơn đã được thành lập theo Quyết định số 101/QĐ-TCCB ngày 04/08/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất hai bộ phận BHXH của Sở LĐ-TBXH và LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn. BHXH tỉnh Lạng Sơn là đơn vị hạch toán cấp 2, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. BHXH Lạng Sơn có trụ sở đặt tại 413A, đường Bà Triệu, phường Đông Kinh, thành phố Lạng Sơn. Từ ngày đầu thành lập, tuy còn gặp nhiều khó khăn, thử thách như cơ sở vật chất phục vụ công tác còn thiếu thốn, tổ chức và đội ngũ cán bộ chưa ổn định, năng lực, trình độ chuyên môn còn yếu kém, nhận thức về BHXH của các cấp, các ngành, các đơn vị sử dụng lao động và người lao động còn hạn chế... Nhưng, nhờ được sự quan tâm, chỉ đạo của BHXH Việt Nam, Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn cùng với sự nỗ lực, cố gắng của các cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức trong đơn vị đã tạo nguồn lực cho BHXH tỉnh Lạng Sơn vượt qua bao khó khăn để thành công trên con đường 15 năm xây dựng và phát triển và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ mà BHXH Việt Nam giao cho. 2.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH tỉnh Lạng Sơn Theo Điều 1, Điều 2, Quyết định số 4857/QĐ-BHXH ngày 21 tháng 10 năm 2008 quy định chức năng và nhiệm vụ, của BHXH tỉnh như sau: Chức năng của BHXH tỉnh: BHXH tỉnh là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam đặt tại tỉnh, có chức năng giúp Tổng giám đốc BHXH Việt Nam tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, Bảo hiểm thất nghiệp, BHYT ; quản lý quỹ BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh theo quy định của BHXH Việt Nam và quy định của pháp luật. Nhiệm vụ của BHXH tỉnh: Xây dựng, trình Tổng giám đốc kế hoạch ngắn hạn và dài hạn về phát triển BHXH, BHYT trên địa bàn; Tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách pháp luật về BHXH, BHYT; Tổ chức cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; Tổ chức thu các khoản đóng BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp; Hướng dẫn và tổ chức tiếp nhận hồ sơ, giải quyết hưởng các chế độ; Tổ chức chi trả các chế độ; Quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí và tài sản theo quy định; Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra BHXH huyện; Tổ chức kiểm tra, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo; Tổ chức quản lý, lưu trư hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng các chế độ BHXH, BHYT; Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động BHXH tỉnh Lạng Sơn Phòng Chế độ BHXH BHXH khối huyện, thị PHÓ GIÁM ĐỐC Phòng Giám định BHYT Phòng Thu Phòng Kế hoạch-tài chính Phòng Tổ chức hành chính Phòng Kiểm tra Phòng Công nghệ thông tin Phòng Cấp sổ, thẻ P.Tiếp nhận-quản lý hồ sơ PHÓ GIÁM ĐỐC GIÁM ĐỐC (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn gồm: 01 giám đốc: Bà Vi Thị Oanh, 02 phó giám đốc, 09 phòng ban và 11 BHXH khối huyện, thành phố. 2.1.2.3. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lao động của BHXH tỉnh Lạng Sơn Tính đến ngày 31/05/2010, toàn ngành BHXH tỉnh Lạng Sơn có 167 cán bộ công chức, viên chức và lao động hợp đồng. Cụ thể số lao động trong các phòng nghiệp vụ ở BHXH tỉnh như sau: Lãnh đạo có 1 Giám đốc và 2 Phó giám đốc, phòng Chế độ BHXH có 7 người, phòng Giám định BHYT có 9 người, phòng Thu có 11 người, phòng Kế hoạch tài chính có 7 người, phòng Kiểm tra 4 người, phòng Công nghệ thông tin 6 người, phòng Cấp sổ thẻ 7 người, phòng Tiếp nhận - quản lý hồ sơ 6 người, phòng Tổ chức - hành chính 10 người. Trong đó có 87 cán bộ nữ chiếm 52,09% và 80 cán bộ nam, chiếm 47,91% tổng số cán bộ của BHXH Lạng Sơn. Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện cơ cấu trình độ cán bộ ở cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn ( Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lao động của BHXH tỉnh Lạng Sơn nhìn chung đều có nhiều kinh nghiệm chuyên môn và phẩm chất nghề nghiệp tốt. Hiện nay toàn ngành BHXH tỉnh Lạng Sơn có 97 cán bộ có trình độ Đại học, 18 cán bộ có trình độ Cao đẳng, 45 cán bộ có trình độ Trung cấp và 7 lái xe có trình độ sơ cấp. Trong đó có 10 người đang tiếp tục học các lớp Đại học tại chức. Mặt khác, đội ngũ cán bộ BHXH tỉnh Lạng Sơn cũng đã tự trau dồi kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn cùng với công tác tuyển mới đã ngày càng bổ sung cho lực lượng cán bộ của BHXH tỉnh thêm hùng hậu. 2.1.2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của BHXH tỉnh Lạng Sơn BHXH tỉnh Lạng Sơn có trụ sở riêng đặt tại 413A, đường Bà Triệu, phường Đông Kinh, Thành phố Lạng Sơn. Trụ sở BHXH Lạng Sơn được xây dựng kiên cố và khang trang gồm 5 tầng với hệ thống cầu thang máy hiện đại. Mỗi cán bộ công chức, viên chức ở đây đều được trang bị 01 bộ bàn ghế làm việc và 01 máy vi tính riêng, thêm vào đó có hệ thống điều hòa khắp các phòng, trung bình mỗi phòng làm việc ít nhất có 01 máy in để phục vụ công tác. BHXH tỉnh có 03 ô tô phục vụ cho việc công tác của các cán bộ, nhất là mỗi khi các cán bộ xuống làm việc với tuyến xã, huyện. Cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn còn xây dựng một sân chơi cầu lông và một phòng chơi bóng bàn. Điều đó đã tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ cán bộ không những trong công việc mà còn được hoạt động giải lao sau hàng giờ làm việc mệt mỏi, góp phần giúp đội ngũ cán bộ BHXH tỉnh Lạng Sơn thành công trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. 2.2. Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở BHXH tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2008 - 2010 2.2.1. Tình hình tham gia và tổ chức thu cho chế độ hưu trí 2.2.1.1. Đối tượng tham gia 2.2.1.1.1. Đối tượng tham gia chế độ hưu trí thuộc BHXH bắt buộc Khi NLĐ tham gia BHXH bắt buộc cũng chính là tham gia vào chế độ hưu trí. Số đối tượng tham gia chế độ hưu trí thuộc BHXH bắt buộc được thể hiện trong bảng sau: Bảng 1: Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008- 2010 Loại đơn vị Số đơn vị tham gia (đơn vị) Số lao động tham gia (người) 2008 2009 2010 2008 2009 2010 HCSN 1.050 1.117 1123 24.644 25.786 25.963 DNNN 97 96 95 7.410 7.358 7.324 DNLD 14 16 17 356 360 457 DNNQD 204 255 264 3.201 3.681 4.451 NCL 10 10 10 67 57 72 HTX 25 28 26 249 319 489 XP 226 226 226 5.127 5.181 5.351 Cộng 1.626 1.748 1.761 41.054 42.742 44.107 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết của BHXH tỉnh Lạng Sơn) Từ bảng số liệu trên ta thấy, nhìn chung tình hình tham gia BHXH bắt buộc của tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 tăng dần qua các năm, tăng cả về số đơn vị và số lao động tham gia: Về số đơn vị tham gia: Năm 2008 chỉ có 1.626 đơn vị tham gia BHXH bắt buộc đến năm 2009 đã có 1.748 đơn vị tham gia (tăng 7,5% tương ứng với 122 đơn vị) và đến năm 2010 tăng lên 1.761 đơn vị (tăng 0,7% tương ứng với 13 đơn vị). Sự gia tăng đó là do có nhiều đơn vị, doanh nghiệp mới được hình thành trên địa bàn tỉnh và sự mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; do sự thắt chặt của Luật BHXH từ khi có hiệu lực đã góp phần nâng cao ý thức của chủ SDLĐ trong việc tham gia BHXH cho NLĐ trong đơn vị của mình; không những thế Luật BHXH ra đời được phổ biến rộng rãi, NLĐ được tuyên truyền về quyền lợi của mình khi tham gia lao động nên giúp họ nâng cao ý thức đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình khi chủ SDLĐ không đóng BHXH xã hội cho họ. Về số lao động tham gia: Nếu năm 2008 chỉ có 41.054 người tham gia thì đến năm 2009 đã tăng lên 42.742 người (tăng 4,1% tương ứng với 1.688 người) và đến năm 2010 đã tăng lên 44.107 người (tăng 3,34% tương ứng 1.365 người). Sự gia tăng đó là do số đơn vị tham gia BHXH tăng lên, một số đơn vị cũng mở rộng quy mô nguồn nhân lực, dẫn đến số lao động tham gia BHXH cũng tăng. Không những thế, vì nhận thức của các đơn vị SDLĐ về BHXH cũng được nâng cao hơn trước nên nhiều đơn vị đã tham gia BHXH cho hầu hết lao động của mình. Cụ thể tình hình tham gia BHXH trong mỗi đơn vị tham gia như sau: Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện cơ cấu số lao động tham gia BHXH bắt buộc theo từng khối ngành ở tỉnh Lạng Sơn năm 2010 ( Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Khối HCSN là khối có số lượng đơn vị tham gia cũng như số lao động tham gia BHXH bắt buộc lớn nhất, thường chiếm khoảng 60% tổng số đơn vị và số lao động tham gia BHXH của tỉnh Lạng Sơn. Năm 2008, có 1.050 đơn vị tham gia, năm 2009 có 1.117 đơn vị tham gia (tăng 2,4% so với năm 2008 tương ứng với 67 đơn vị), đến năm 2010 có 1.123 đơn vị tham gia (tăng 0,5% so với năm 2009 tương ứng với 06 đơn vị và chiếm 63,8% tổng số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc năm 2010). Số đơn vị tham gia của khối này có nhiều biến động do sự gia tăng của 69 đơn vị HCSN trên địa bàn tỉnh trong 3 năm qua. Số lao động tham gia trong khối HCSN cũng tăng qua các năm. Năm 2008 có 24.644 người tham gia, năm 2009 có 25.786 người tham gia (tăng 4,63% tương ứng với 1.142 người), đến năm 2010 có 25.963 người tham gia (tăng 0,86% tương ứng với 177 người). Khối DNNN xếp thứ hai nhưng lại có hiện tượng giảm số đơn vị tham gia dẫn đến số lao động tham gia cũng giảm. Năm 2008 khối DNNN có 97 đơn vị và 7.410 người lao động tham gia, năm 2009 có 96 đơn vị tham gia ( giảm 1 đơn vị so với năm 2008 tương ứng với 52 người), đến năm 2010 chỉ còn 95 đơn vị với 7.324 người tham gia (giảm 1 đơn vị so với năm 2009 tương ứng với 34 người). Tuy có xu hướng giảm nhưng số lao động tham gia BHXH của khối DNNN vẫn chiếm khoảng 16% tổng số lao động tham gia BHXH bắt buộc. Sự giảm sút này do một số DNNN làm ăn thua lỗ phải giải thể, các doanh nghiệp khác cũng có sự điều chỉnh về nhân lực trong đơn vị của mình. Khối xã, phường xếp vị trí thứ 3, chiếm khoảng 12% tổng số đơn vị và số lao động tham gia BHXH bắt buộc. Khối này có số đơn vị tham gia trên toàn tỉnh không đổi là 226 đơn vị. Nhưng số lao động tham gia BHXH lại tăng qua các năm do có sự điều chỉnh nhân lực để đáp ứng nhu cầu của công việc. Năm 2008 có 5.127 người tham gia, năm 2009 có 5.181 người tham gia (tăng 1,05% tương ứng với 54 người), đến năm 2010 là 5.351 người (tăng 3,28% tương ứng với 170 người). Khối DNNQD năm 2008 có 204 đơn vị tham gia, năm 2009 có 255 đơn vị tham gia (tăng 25% so với năm 2008 tương ứng với 51 đơn vị), đến năm 2010 có 264 đơn vị (tăng 3,53% tương ứng với 9 đơn vị). Số lao động tham gia của khối cũng tăng mạnh, năm 2008 là 3.201 người, năm 2009 là 3.681 người (tăng 15% so với năm 2008 tương ứng với 480 người), đến năm 2010 là 4.451 người (tăng 21% so với năm 2009 tương ứng với 770 người). Khối này chiếm khoảng 10% tổng số lao động tham gia BHXH bắt buộc. Khối HTX cũng có số đơn vị tham gia tăng nhưng không đều, năm 2008 là 25 đơn vị, năm 2009 là 28 đơn vị (tăng 3 đơn vị), năm 2010 là 26 đơn vị (giảm 2 đơn vị). Có hiện tượng giảm này là do một số đơn vị HTX làm ăn không hiệu quả phải giải thể như HTX Hồng Phong, HTX Chi Lăng. Số lao động tham gia của khối HTX cũng tăng. Năm 2008 là 249 người, năm 2009 là 319 người (tăng 28% tương ứng với 70 người), đến năm 2010 là 489 người (tăng 53,3% tương ứng với 170 người). Khối HTX chiếm khoảng 1,11% tổng số lao động tham gia BHXH bắt buộc của tỉnh. Khối Doanh nghiệp liên doanh (DNLD) năm 2008 có 14 đơn vị tham gia, năm 2009 có 16 đơn vị (tăng 2 đơn vị), đến năm 2010 có 17 đơn vị (tăng thêm 1 đơn vị). Số lao động của khối DNLD cũng tăng, năm 2008 là 356 người, đến năm 2010 tăng 457 người (tăng 28,37% tương ứng với 101 người). Khối này chiếm khoảng 1,03% tổng số người tham gia BHXH BB. Khối NCL có số đơn vị tham gia là 10 đơn vị và không biến động qua các năm, nhưng số lao động lại biến động Năm 2008 có 67 người tham gia, năm 2009 có 57 người (giảm 14% tương ứng với 10 người), đến năm 2010 có 72 người tham gia (tăng 26,3% tương ứng với 15 người. sự biến động này là do có sự điều chỉnh nhân lực để đáp ứng nhu cầu của công việc. 2.2.1.1.2. Đối tượng tham gia chế độ hưu trí thuộc BHXH tự nguyện Sự ra đời của BHXH tự nguyện đã tạo điều kiện cho NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được tham gia BHXH và mọi NLĐ trong cả nước từ thành thị đến nông thôn đều có cơ hội được tham gia BHXH, quan trọng hơn cả là được tham gia vào chế độ hưu trí. Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai BHXH tự nguyện, BHXH tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tập trung tuyên truyền chính sách BHXH tự nguyện đến nhân dân trên địa bàn, tập trung vào 02 nhóm đối tượng chính là cán bộ xã theo Nghị định 09/NĐ-CP đã nghỉ việc do không đủ điều kiện xếp vào chức danh nhưng chưa giải quyết chế độ BHXH và nhân dân trong độ tuổi hưởng chế độ hưu trí sau này. BHXH tự nguyện ở nước ta hiện nay gồm hai chế độ là chế độ hưu trí và tử tuất nên khi NLĐ tham gia BHXH tự nguyện cũng đồng thời đã tham gia vào hai chế độ này. Theo số liệu của BHXH tỉnh Lạng Sơn ta có bảng sau: Bảng 2: Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008- 2010 Năm 2008 2009 2010 Số người tham gia (người) 56 229 332 Tốc độ tăng giảm liên hoàn (%) - 308,9 44,9 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Số người tham gia BHXH tự nguyện của năm 2008 chỉ có 56 người, năm 2009 đã có 229 người tham gia (tăng 308,9% so với năm 2008 tương ứng với 173 người), đến năm 2010 đã có 332 người tham gia (tăng 44,9% so với năm 2009 tương ứng 103 người). Có sự tăng nhanh như vậy là do BHXH tự nguyện đã dần được phổ biến rộng khắp và nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của BHXH cũng được nâng cao, nhất là đối với số lao động đang làm nghề buôn bán tự do, người chưa đủ thời gian đóng BHXH bắt buộc tham gia BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng đầy đủ... Tuy nhiên tỷ lệ người tham gia BHXH tự nguyện vẫn còn thấp so với tiềm năng của tỉnh, năm 2010 có 332 người tham gia chiếm 0,06% tổng số NLĐ đang làm việc trên địa bàn tỉnh. Vì Lạng Sơn vẫn là một tỉnh miền núi, mức thu nhập của người dân còn thấp, nhận thức về BHXH còn chưa cao nên hầu như họ chưa có điều kiện tham gia BHXH. 2.2.1.2. Tổ chức thu BHXH Khi NLĐ tham gia BHXH cũng chính là tham gia vào chế độ hưu trí. Thông qua sự đóng góp vào quỹ BHXH, một phần đóng góp của họ sẽ được trích vào quỹ hưu trí, tử tuất (HTTT) để dành cho việc chi trả hai chế độ dài hạn là hưu trí, tử tuất. Do đó, thực hiện thu BHXH cũng chính là thu cho quỹ HTTT. Hàng năm, BHXH tỉnh Lạng Sơn sẽ lập kế hoạch thu của năm, dựa vào kế hoạch thu của BHXH các huyện, thành phố gửi lên kết hợp với văn phòng thu BHXH tỉnh. Phương pháp lập kế hoạch thu dựa trên kế hoạch lao động, tổng quỹ lương của các đơn vị tham gia, số thu của năm trước và khả năng mở rộng đối tượng tham gia trong năm tới, dự tính số người tham gia và số thu. BHXH tỉnh Lạng Sơn có nhiệm vụ phân cấp cho BHXH các huyện tổ chức thu, hướng dẫn thực hiện thu BHXH đối với NLĐ, người SDLĐ trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra BHXH tỉnh cũng trực tiếp thu một số đơn vị SDLĐ và NLĐ do BHXH tỉnh quản lý. BHXH tỉnh Lạng Sơn mở hai tài khoản, một tài khoản tại Kho bạc Nhà nước cung cấp chuyên thu các đơn vị HCSN, Đảng Đoàn thể có nguồn quỹ lương từ NSNN, một tài khoản tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, cung cấp chuyên thu cho các đơn vị còn lại. Hàng tháng, đơn vị SDLĐ có trách nhiệm đóng vào quỹ BHXH đúng, đủ, kịp thời số tiền quy định cho BHXH huyện, sau đó BHXH huyện tổng hợp và chuyển vào tài khoản của BHXH tỉnh. Riêng đối với NLĐ tham gia BHXH tự nguyện thì NLĐ tự đến đóng trực tiếp tại trụ sở BHXH và được chọn mức đóng phù hợp với thu nhập và lựa chọn phương thức đóng theo tháng, quý hoặc nửa năm. Khi trong đơn vị có những thay đổi về mức lương, số người tham gia, số người nghỉ hưởng chế độ ốm đau..., bộ phận thu của BHXH phải đối chiếu với cán bộ làm công tác kế toán của đơn vị đó. Qua đó tổng hợp và cập nhật vào phần mềm quản lý thu đầy đủ, kịp thời. Cuối mỗi tháng, bộ phận thu kiểm tra, rà soát lại số liệu thu BHXH của những đơn vị tham gia nhằm phát hiện ra những sai sót, vướng mắc để kịp thời xử lý. Những năm qua BHXH tỉnh Lạng Sơn đã làm tốt công tác thu BHXH và đạt được nhiều kết quả, cụ thể trong chế độ hưu trí: 2.2.1.2.1. Đối với chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc Để thấy rõ tình hình thu cho quỹ HTTT tại BHXH tỉnh Lạng Sơn trong những năm qua, ta có bảng số liệu sau: Bảng 3: Kết quả hoạt động thu BHXH cho quỹ HTTT ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 Năm Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Số đơn vị (đơn vị) 1.626 1.748 1.757 Số lao động (người) 41.054 42.742 44.107 Tổng quỹ lương (triệu đồng) 876.145 1.035.760 1.162.415 Số phải thu (triệu đồng) 175.229 207.152 255.731 Số phải thu cho quỹ HTTT (triệu đồng) 140.183 165.722 209.234 Số đã thu (triệu đồng) 172.283 205.362 252.784 Số đã thu cho quỹ HTTT (triệu đồng) 137.826 164.290 206.823 Số còn nợ (triệu đồng) 2.946 1.790 2.947 Số còn nợ của quỹ HTTT (triệu đồng) 2.357 1.432 2.411 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Ghi chú: Số phải thu = 20% tổng quỹ lương Số phải thu cho quỹ HTTT = 16% tổng quỹ lương Riêng năm 2010: Số phải thu cho quỹ HTTT=18% tổng quỹ lương Số đã thu cho quỹ HTTT = 16% số đã thu/ 20% Riêng năm 2010: Số đã thu cho quỹ HTTT = 18% số đã thu / 22% (Vì theo Luật BHXH thì năm 2010, mức đóng BHXH sẽ tăng từ 20% lên 22% tổng quỹ lương, trong đó phần đóng vào quỹ HTTT cũng tăng từ 16% lên 18%) Số còn nợ = số phải thu - số đã thu Số còn nợ quỹ HTTT = số phải thu quỹ HTTT - số đã thu quỹ HTTT Qua bảng số liệu ta thấy, tổng quỹ lương làm căn cứ trích nộp BHXH của các đơn vị ở BHXH tỉnh Lạng Sơn đều tăng qua các năm. Năm 2008, tổng quỹ lương của toàn tỉnh đạt 876.145 triệu đồng, năm 2009 đạt 1.035.760 triệu đồng (tăng 18,2% tương ứng với 159.615 triệu đồng). Năm 2010, tổng quỹ lương của toàn tỉnh đã đạt 1.162.415 triệu đồng (tăng 12,2% tương ứng với 126.665 triệu đồng). Như ta đã biết, số phải thu của BHXH bắt buộc tương ứng với 20% tổng quỹ lương nên tổng quỹ lương mà tăng thì số phải thu cũng tăng, dẫn đến số thu cho quỹ HTTT cũng tăng. Năm 2008, số đã thu cho quỹ HTTT là 137.826 triệu đồng, năm 2009 thu được 164.292 triệu đồng (tăng 19,2% tương ứng 26.383 triệu đồng so với năm 2008). Năm 2010, số đã thu cho quỹ HTTT là 206.823 triệu đồng (tăng 25,9% tương ứng với 42.533 triệu đồng). Có sự gia tăng như vậy là do số đơn vị và số lao động tham gia BHXH không ngừng tăng lên, do sự nỗ lực trong công tác thu BHXH của đội ngũ cán bộ tại BHXH tỉnh Lạng Sơn, do NSDLĐ - NLĐ đã có ý thức tự nguyện tham gia BHXH và do chính sách tăng mức lương tối thiểu hàng năm của Chính phủ, do việc tăng mức đóng BHXH thực hiện từ 01/01/2010, riêng quỹ HTTT tăng mức đóng từ 16% lên 18%. Từ đó tổng quỹ lương của toàn tỉnh tăng lên đáng kể và kéo theo sự gia tăng của quỹ BHXH nói chung - quỹ HTTT nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn hiện tượng nợ đọng. Vì số thu cho quỹ BHXH BB và quỹ HTTT đều tăng nên số còn nợ cũng có xu hướng tăng, nhưng không đều. Năm 2008, số còn nợ của quỹ HTTT là 2.357 triệu đồng, năm 2009 số còn nợ quỹ HTTT là 1.432 triệu đồng (giảm 39,2% tương ứng với 925 triệu đồng). Đến năm 2010, số còn nợ của quỹ HTTT là 2.411 triệu đồng (tăng 68,4% tương ứng 979 triệu đồng). Nguyên nhân là do một số Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chưa có tiền đóng BHXH, hoặc đã thu BHXH của NLĐ nhưng đã sử dụng số tiền dó vào mục đích khác. Bên cạnh đó việc tăng mức đóng ở năm 2010 cũng khiến nhiều đơn vị SDLĐ gặp khó khăn, nhất là các DNNQD sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, ít vốn đầu tư. Để thấy rõ hơn nữa tầm quan trọng của chế độ hưu trí trong công tác thu BHXH, ta có biểu đồ sau: Biểu đồ 3: Biểu đồ so sánh kết quả thu BHXH bắt buộc và kết quả thu cho quỹ HTTT giai đoạn 2008 - 2010 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Nhìn chung tổng số đã thu cho quỹ BHXH bắt buộc qua các năm đều tăng nên tổng số đã thu cho quỹ HTTT qua các năm cũng tăng. Năm 2008, tổng số đã thu cho quỹ BHXH bắt buộc là 172.283 triệu đồng, trong đó tổng số đã thu cho riêng chế độ HTTT là 137.826 triệu đồng, chiếm 79,9% tổng số thu BHXH bắt buộc của tỉnh. Năm 2009, tổng số đã thu của BHXH bắt buộc là 205.362 triệu đồng (tăng 19,2% tương ứng 33.077 triệu đồng), trong đó tổng số đã thu cho riêng chế độ HTTT là 164.290 triệu đồng, (tăng 19,2% tương ứng 26.383 triệu đồng so với năm 2008), chiếm 80% tổng số thu BHXH bắt buộc của tỉnh. Năm 2010, tổng số đã thu của BHXH bắt buộc là 252.784 triệu đồng (tăng 23,1% tương ứng 47.422 triệu đồng), trong đó tổng số đã thu cho riêng chế độ HTTT là 206.823 triệu đồng, (tăng 25,9% tương ứng 42.533 triệu đồng so với năm 2009) chiếm 81,8% tổng số đã thu BHXH bắt buộc của tỉnh. Có kết quả như vậy còn do việc tăng mức đóng BHXH thực hiện từ 01/01/2010, riêng quỹ HTTT tăng mức đóng từ 16% lên 18%. Như vậy ta thấy rằng, số thu cho quỹ HTTT luôn chiếm chủ yếu trong tổng số thu BHXH bắt buộc của tỉnh Lạng Sơn (thường chiếm khoảng 80%). Điều đó chứng tỏ chế độ hưu trí nhận được rất nhiều sự quan tâm của Chính phủ và hầu hết NLĐ vì khi tham gia vào quan hệ lao động và đóng BHXH ai cũng muốn sau này sẽ trở thành đối tượng hưởng của chế độ hưu trí. Để có được kết quả thu cho quỹ HTTT như vậy phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các khối ngành tham gia BHXH BB ở tỉnh Lạng Sơn: Bảng 4: Kết quả thu BHXH bắt buộc cho quỹ HTTT theo các khối ngành giai đoạn 2008 -2010 (Đơn vị: Triệu đồng) Loại đơn vị Số đã thu cho quỹ BHXH bắt buộc Số đã thu cho quỹ HTTT 2008 2009 2010 2008 2009 2010 HCSN 115.054 134.413 155.847 92.043 107.530 127.512 DNNN 32.052 38.289 48.827 25.642 30.631 39.949 DNLD 1.030 1.685 2.628 824 1.348 2.150 DNNQD 6.362 9.822 15.983 5.090 7.858 13.077 NCL 126 134 162 101 107 132 HTX 481 689 975 384 552 798 XP 17.178 20.330 28.362 13.742 16.264 23.205 Cộng 172.283 205.362 252.784 137.826 164.290 206.823 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Ghi chú: Số đã thu cho quỹ HTTT = 16% số đã thu / 20% (Riêng năm 2010:Số đã thu cho quỹ HTTT = 18% số đã thu/ 22%) Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy, số thu được cho quỹ HTTT của khối HCSN chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các khối đơn vị. Năm 2008, kết quả thu BHXH bắt buộc là 115.054 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 92.043 triệu đồng chiếm 66,8% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2009, kết quả thu BHXH bắt buộc là 134.413 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 107.530 triệu đồng chiếm 65,5% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2010, kết quả thu BHXH bắt buộc là 155.847 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 127.512 triệu đồng chiếm 61,7% tổng số thu được của quỹ HTTT. Có kết quả như vậy là do khối HCSN là khối có số lượng đơn vị tham gia cũng như số lao động tham gia BHXH bắt buộc lớn nhất, thường chiếm khoảng 60% tổng số đơn vị và số lao động tham gia BHXH của tỉnh Lạng Sơn. Khối này áp dụng mức tiền lương tiền công đóng BHXH theo thang bảng lương nên luôn thu đúng, thu đủ và kịp thời. Xếp thứ hai là khối DNNN, năm 2008 thu cho quỹ BHXH BB 32.052 triệu đồng, trong đó quỹ HTTT là 25.642 triệu đồng, chiếm 18,6% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2009, thu cho quỹ BHXH BB 38.289 triệu đồng, trong đó quỹ HTTT là 30.631 triệu đồng, chiếm 18,6% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2010, thu cho quỹ BHXH BB 48.827 triệu đồng, trong đó quỹ HTTT là 39.949 triệu đồng, chiếm 19,3% tổng số thu được của quỹ HTTT. Xếp thứ ba là khối Xã phường, năm 2008 thu BHXH bắt buộc là 17.178 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 13.742 triệu đồng chiếm 9,97% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2009, kết quả thu BHXH bắt buộc là 20.330 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 16.264 triệu đồng chiếm 9,89% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2010, kết quả thu BHXH bắt buộc là 28.362 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 23.205 triệu đồng chiếm 11,2% tổng số thu được của quỹ HTTT. Xếp thứ tư là khối DNNQD, năm 2008 thu BHXH bắt buộc là triệu 6.362 đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 5.090 triệu đồng chiếm 3,69% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2009, kết quả thu BHXH bắt buộc là 9.822 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 7.858 triệu đồng chiếm 4,78% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2010, kết quả thu BHXH bắt buộc là 15.983 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 13.077 triệu đồng chiếm 6,3% tổng số thu được của quỹ HTTT. Xếp thứ năm là khối DNLD, năm 2008 khối này thu BHXH BB được 1030 triệu đồng, trong đó có 824 triệu đồng là của chế độ HTTT (chiếm 0,59% tổng số thu của quỹ HTTT). Năm 2009, kết quả thu BHXH bắt buộc là 1.685 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 1.348 triệu đồng chiếm 0,82% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2010, kết quả thu BHXH bắt buộc là 2.628 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 2.150 triệu đồng chiếm 1,04% tổng số thu được của quỹ HTTT. Xếp thứ sáu là khối HTX, năm 2008 khối này thu BHXH BB được 481 triệu đồng, trong đó có 384 triệu đồng là của chế độ HTTT (chiếm 0,28% tổng số thu của quỹ HTTT). Năm 2009, kết quả thu BHXH bắt buộc là 689 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 552 triệu đồng chiếm 0,34% tổng số thu được của quỹ HTTT. Năm 2010, kết quả thu BHXH bắt buộc là 975 triệu đồng, trong đó số thu cho quỹ HTTT là 798 triệu đồng chiếm 0,43% tổng số thu được của quỹ HTTT. Xếp thứ bảy là khối NCL. Năm 2008 khối này thu BHXH BB được 126 triệu đồng, trong đó có 101 triệu đồng là của chế độ HTTT (chiếm 0,07% tổng số thu của quỹ HTTT. Năm 2009 khối này thu BHXH BB được 134 triệu đồng, trong đó có 107 triệu đồng là của chế độ HTTT (chiếm 0,07% tổng số thu của quỹ HTTT. Năm 2010 khối này thu BHXH BB được 162 triệu đồng, trong đó có 132 triệu đồng là của chế độ HTTT (chiếm 0,06% tổng số thu của quỹ HTTT. Như vậy, có thể thấy công tác thu đặc biệt quan trọng đối với chế độ hưu trí vì số thu BHXH chủ yếu là dành cho quỹ HTTT. Do đó, BHXH tỉnh Lạng Sơn cần nâng cao hơn nữa vai trò của công tác thu BHXH cũng như ý thức trách nhiệm của các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. 2.2.1.2.2. Đối với chế độ hưu trí trong BHXH tự nguyện Hiện nay ở nước ta, BHXH tự nguyện chỉ thực hiện hai chế độ hưu trí và tử tuất nên số thu BHXH tự nguyện chính là số thu của quỹ HTTT và chỉ dành chi trả cho hai chế độ này, trong đó chủ yếu là chế độ hưu trí. Những NLĐ khi tham gia BHXH tự nguyện hầu hết đều muốn được hưởng lương hưu khi hết tuổi lao động. Tuy nhiên số người tham gia tự nguyện vẫn còn ít nên số thu của BHXH tự nguyện cũng như của chế độ hưu trí chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số thu của BHXH tỉnh Lạng Sơn. Đối với NLĐ tham gia BHXH tự nguyện thì tự đến đóng trực tiếp tại trụ sở BHXH nơi đăng ký tham gia và được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng theo tháng, quý hoặc nửa năm. Kết quả thu BHXH tự nguyện được thể hiện cụ thể trong bảng sau: Bảng 5: Kết quả thu BHXH tự nguyện (quỹ HTTT) ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 Năm Số người tham gia (người) Tốc độ tăng giảm (%) Số đã thu (triệu đồng) Tốc độ tăng giảm (%) 2008 56 - 76 - 2009 229 308,9 417 448,7 2010 332 44,9 734 76 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai BHXH tự nguyện, BHXH tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tập trung tuyên truyền chính sách BHXH tự nguyện đến nhân dân trên địa bàn, vận động các đối tượng tham gia và đóng BHXH tự nguyện. Vì là năm đầu triển khai với 56 người tham gia nên số thu BHXH tự nguyện năm 2008 chỉ đạt 76 triệu đồng, bình quân thu được 1,3 triệu đồng/người/năm. Đến năm 2009, vì số lượng người tham gia tăng lên 229 người nên số thu BHXH tự nguyện tăng mạnh, đạt 417 triệu đồng (tăng 448,7% so với năm 2008 tương ứng với 341 triệu đồng), bình quân thu được 1,8 triệu đồng/người/năm. Năm 2010, có 332 người tham gia, số thu BHXH tự nguyện đạt 734 triệu đồng (tăng 76% so với năm 2009 tương ứng với 317 triệu đồng), bình quân thu được 2,2 triệu đồng/người/năm. Có được kết quả như vậy là do BHXH tỉnh Lạng Sơn đã có những biện pháp tuyên truyền vận động để BHXH tự nguyện ngày càng đi vào trong nhân dân và làm tăng nhanh chóng số lượng người tham gia và số thu BHXH tự nguyện. Không những thế số thu BHXH tự nguyện cũng như số thu của chế độ hưu trí tăng mạnh còn do kết quả của việc tăng mức đóng BHXH thực hiện từ 01/01/2010, tăng từ 16% lên 18% mức thu nhập của NLĐ lựa chọn đóng và một phần do nhận thức của NLĐ về tầm quan trọng của BHXH được nâng cao nên mức thu nhập họ lựa chọn đóng cũng được nâng cao hơn. Tuy nhiên, vì số lao động tham gia BHXH còn chưa tương xứng với tiềm năng nên số thu của BHXH tự nguyện cũng như số thu cho quỹ HTTT của BHXH tự nguyện còn hạn chế. Điều đó đòi hỏi BHXH tỉnh Lạng Sơn phải phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc nâng cao số lượng người tham gia BHXH tự nguyện. Ngoài ra, do tâm lý e ngại của NLĐ khi tham gia BHXH tự nguyện sẽ phải làm nhiều thủ tục phức tạp và phải tự mình đến trụ sở cơ quan BHXH để đóng phí khiến nhiều người e ngại khi quyết định tham gia và đóng BHXH tự nguyện. 2.2.2. Công tác chi trả chế độ hưu trí BHXH tỉnh lạng Sơn luôn coi công tác chi trả các chế độ chính sách đối với NLĐ là nhiệm vụ lớn của ngành, nhất là đối với chế độ hưu trí. Tình hình thực hiện công tác này gồm hai khâu chính là công tác xét duyệt hồ sơ và tổ chức chi trả: 2.2.2.1. Công tác xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí Tại BHXH tỉnh Lạng Sơn, công tác xét duyệt hồ sơ, thẩm định, giải quyết chế độ hưu trí cho NLĐ luôn được đảm bảo kịp thời, đúng quy định, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ. Trong công tác công tác xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí, BHXH tỉnh Lạng Sơn có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ của NLĐ từ dưới tuyến BHXH huyện chuyển lên để phòng Chế độ BHXH tỉnh Lạng Sơn giải quyết. Trước đó, BHXH huyện đã tiếp nhận, xem xét tính đầy đủ về thủ tục hồ sơ, tính hợp pháp và điều kiện hưởng của từng đối tượng. Sau khi BHXH tỉnh Lạng Sơn đã giải quyết hồ sơ hưởng cho các đối tượng, BHXH các huyện sẽ nhận lại hồ sơ và trả cho NLĐ. Để thấy rõ thực trạng công tác xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí, ta có bảng số liệu sau: Bảng 6: Tình hình xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 (Đơn vị: hồ sơ) Năm Tổng số hồ sơ Số hồ sơ đã xét duyệt Hưu CNVC Hưu CBX BHXH 1 lần 2008 1.175 721 16 438 2009 1.659 729 20 910 2010 2.192 732 6 1.454 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết của BHXH tỉnh Lạng Sơn) Qua bảng số liệu ta thấy, tổng số hồ sơ đã xét duyệt dều tăng qua các năm. Nếu năm 2008 mới chỉ có 1.175 hồ sơ dược xét duyệt thì năm 2009 đã là 1.659 hồ sơ (tăng 41,2% tương ứng với 520 hồ sơ). Đến năm 2010, số hồ sơ đã xét duyệt đạt 2.192 hồ sơ (tăng 32,1% tương ứng với 533 hồ sơ). Số hồ sơ được xét duyệt qua các năm đều tăng, chứng tỏ công tác thẩm định, xét duyệt hồ sơ ngày càng được quan tâm đúng mức, đáp ứng nhu cầu của người tham gia. Đối với hồ sơ hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, BHXH tỉnh Lạng Sơn đã thẩm định hồ sơ hưu CNVC và trợ cấp cán bộ xã, trong đó: Số hồ sơ hưu CNVC được xét duyệt đều tăng qua các năm, năm 2008 đã xét duyệt cho 721 hồ sơ, năm 2009 xét duyệt 729 hồ sơ (tăng 1,1% tương ứng với 8 hồ sơ), đến năm 2010 BHXH tỉnh đã xét duyệt được 732 hồ sơ (tăng 1,0% tương ứng với 3 hồ sơ). Tuy số lượng hồ sơ được xét duyệt chỉ tăng nhẹ nhưng đã chứng tỏ sự ổn định của lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh. Đối với hồ sơ hưu CBX, số hồ sơ đã xét duyệt chỉ chiếm một lượng rất nhỏ, bình quân dưới 20 hồ sơ mỗi năm. Năm 2008, có 16 hồ sơ hưởng trợ cấp CBX được xét duyệt, năm 2009 tăng lên 20 hồ sơ (tăng 25% tương ứng với 4 hồ sơ), đến năm 2010 chỉ xét duyệt được 6 hồ sơ (giảm 70% tương ứng với 14 hồ sơ so với năm 2009). Nguyên nhân là do số lượng cán bộ xã ít, làm việc theo nhiệm kỳ nên thời gian đóng BHXH không lâu, thường hưởng BHXH một lần. Đối với hồ sơ hưởng BHXH một lần, số hồ sơ đã xét duyệt tăng nhanh qua các năm. Năm 2008, chỉ có 438 hồ sơ được xét duyệt, năm 2009 tăng lên là 910 hồ sơ (tăng 107,8% tương ứng với 472 hồ sơ). Năm 2010 đã có 1.454 hồ sơ được xét duyệt (tăng 59,8% tương ứng với 544 hồ sơ). Sự tăng lên đột biến này là do sự khủng hoảng của nền kinh tế chung diễn ra năm 2008 đã kéo theo hậu quả là nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, thậm chí giải thể nên nhiều lao động của tỉnh bị thất nghiệp phải về làm hồ sơ hưởng BHXH một lần tại địa phương. Mặc dù số hồ sơ được xét duyệt tăng nhanh nhưng vẫn còn một số ít hồ sơ chưa được xét duyệt qua các năm. Nguyên nhân là do các hồ sơ đó không hợp lệ, chưa đầy đủ, không đúng quy định về thủ tục hồ sơ hoặc do NLĐ nộp hồ sơ vào cuối năm nên chuyển sang năm sau giải quyết. Do BHXH các huyện thường nộp dồn hồ sơ vào cuối tháng nên BHXH tỉnh không kịp giải quyết hết để hồ sơ bị tồn đọng. 2.2.2.2. Tổ chức chi trả chế độ hưu trí Tổ chức chi trả là khâu quan trọng trong công tác giải quyết chế độ hưu trí cho NLĐ. Do đặc điểm của chế độ hưu trí là chế độ dài hạn, chi trả trong thời gian dài với số đối tượng hưởng đông nên công tác chi trả phải thực hiện thường xuyên với số lượng tiền lớn. Không những thế công tác chi trả còn đòi hỏi sự an toàn cao và tránh xảy ra thất thoát. 2.2.2.2.1. Phương thức chi trả BHXH tỉnh Lạng Sơn thực hiện phân cấp cho BHXH huyện, thành phố chi trả cho các đối tượng. Phương thức chi trả chủ yếu được áp dụng là chi trả trực tiếp ở tuyến BHXH huyện, thành phố: Đối với chi chế độ BHXH một lần và trợ cáp một lần khi nghỉ hưu, các đối tượng sẽ trực tiếp đến trụ sở BHXH để nhận tiền. Đối với chi lương hưu, cán bộ BHXH huyện sẽ trực tiếp về cơ sở để trả tiền cho các đối tượng theo định kỳ hàng tháng. BHXH tỉnh Lạng Sơn sẽ chuyển tiền cho BHXH huyện qua tài khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh, BHXH huyện sẽ lấy tiền từ tài khoản Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện và chi trả cho đối tượng sau khi hoàn tất các thủ tục. Bảng 7: Số đối tượng áp dụng hình thức chi trả lương hưu trực tiếp ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 -2010 (Đơn vị: người) Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Số người 12.012 12.559 13.057 Lượng tăng giảm - 547 498 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Qua bảng ta thấy số đối tượng được cơ quan BHXH chi trả trực tiếp đều tăng qua các năm là do số đối tượng hưởng ngày càng đông. Năm 2008 là 12.012 người, năm 2009 là 12.929 người (tăng 908 người), năm 2010 là 13.871 (tăng 942 người). Điều đó cho thấy sự nỗ lực trong công tác chi trả của đội ngũ cán bộ BHXH tỉnh Lạng Sơn. Hiện nay, toàn tỉnh đã có 44 điểm chi trả lương hưu trực tiếp cho các đối tượng hưởng. Thanh toán gián tiếp thông qua đại lý chi trả: BHXH tỉnh Lạng Sơn thời gian qua đã mở nhiều đại lý chi trả ở hầu hết các xã, phường trên địa bàn tỉnh. Đại lý là những người có trách nhiệm và uy tín trong nhân dân, thường là chủ tịch, cán bộ chính sách xã phường... Cơ quan BHXH phải trích một khoản tiền để chi trả cho các đại lý gọi là lệ phí. Hàng tháng, cán bộ BHXH huyện, thành phố lấy tiền từ ngân hàng giao cho chủ tịch của từng xã, phường, sau đó chủ tịch xã, phường mang tiền về khu vực mình quản lý rồi giao cho các tổ trưởng xóm thôn, dân phố. Các tổ trưởng sẽ thông báo cho các đối tượng hưởng đến lĩnh tại trụ sở của thôn, xóm, tổ dân phố. Sau khi thanh toán hết cho đối tượng hưởng, các đại lý này phải báo cáo kết quả hoạt động của mình lên cơ quan BHXH huyện, thành phố. Bảng 8: Số đối tượng áp dụng hình thức chi trả lương hưu gián tiếp ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 -2010 (Đơn vị: người) Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Số người 5.489 5.514 5.602 Lượng tăng giảm - 25 88 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Qua bảng ta thấy số đối tượng được chi trả gián tiếp cũng tăng qua các năm, nhưng tăng chậm. Năm 2008 có 5.489 người, năm 2009 có 5.514 người (tăng 25 người), năm 2010 có 5.602 người (tăng 88 người). Có sự tăng chậm như vậy là do phương thức chi trả gián tiếp thông qua đại lý chi trả có nhược điểm là phải chi một khoản gọi là lệ phí để chi trả cho đại lý nên gây tốn kém cho quỹ BHXH. Hơn nữa khoản lệ phí này thường rất thấp nên các đại lý cũng không mấy mặn mà với công việc. Hiện nay, toàn tỉnh đã có 48 điểm chi trả gián tiếp qua đại lý. Ngoài ra, BHXH tỉnh Lạng Sơn còn đang thực hiện thí điểm việc chi trả lương hưu qua thẻ ATM: Bảng 9: Số đối tượng áp dụng hình thức chi trả lương hưu qua thẻ ATM ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 -2010 (Đơn vị: người) Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Số người 293 298 305 Lượng tăng giảm - 5 7 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Số người nhận lĩnh tiền qua thẻ ATM ngày càng tăng, năm 2008 là 293 người, năm 2009 là 298 người (tăng 5 người), năm 2010 là 305 người (tăng 7 người). Thực tế, phương thức chi trả này còn đang thực hiện thí điểm trên địa bàn 02 phường Đông Kinh và phường Chi Lăng do BHXH thành phố quản lý 2.2.2.2.2. Tổ chức chi trả Tổ chức chi trả là khâu rất quan trọng trong công tác giải quyết chế độ hưu trí cho NLĐ. Vì chế độ hưu trí có số đối tượng hưởng rất đông và chi trả khối lượng tiền lớn nên việc tổ chức chi trả cần tiến hành đảm bảo an toàn và hiệu quả. Thứ nhất, đối với chi lương hưu hàng tháng: Công tác chuẩn bị: BHXH tỉnh Lạng Sơn tuy không trực tiếp chi trả cho các đối tượng mà phân cấp cho BHXH huyện, thành phố quản lý. Nhưng BHXH tỉnh Lạng Sơn lại có nhiệm vụ quan trọng là lập danh sách chi trả để gửi cho BHXH các huyện, căn cứ vào danh sách chi trả tháng trước, danh sách chi tăng, giảm của BHXH huyện gửi lên để lập và in danh sách chi trả rồi gửi cho BHXH huyện chi trả cho các đối tượng. Căn cứ vào danh sách chi trả của BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện phân công các cán bộ trong cơ quan thành các tổ chi trả, cứ hai người thành một tổ. Trong đó một người làm công tác kế toán, kiểm tra, đối chiếu với sổ theo dõi lương hưu của từng đối tượng, kịp thời phát hiện những sai lệch, một người trực tiếp phát tiền đến tận tay NLĐ căn cứ vào số tiền đã nghi trong sổ theo dõi lương hưu. BHXH huyện, thành phố phải thông báo trước lịch phát lương hưu hàng tháng cho UBND xã, phường, thị trấn để họ bố trí địa điểm và phải đảm bảo được tính an toàn và thuận lợi cho các đối tượng đến lĩnh tiền. Tổ chức chi trả: Sau khi đã lập danh sách chi trả gửi xuống cho BHXH huyện, thành phố, BHXH tỉnh Lạng Sơn chuyển tiền cho BHXH các huyện qua tài khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh. BHXH huyện, thành phố cử kế toán và thủ quỹ đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện để lấy tiền và chia tiền cho các tổ chi trả. Cán bộ của BHXH huyện sẽ áp tải tiền đến từng địa điểm chi trả kịp thời và an toàn. Kế toán căn cứ vào danh sách chi trả, đối chiếu với sổ nhận tiền, nhận diện đối tượng, ghi đầy đủ các yêu cầu trong sổ nhận tiền sau đó chuyển sang thủ quỹ để phát tiền cho đối tượng. Thủ quỹ và kế toán khi chi trả tại địa bàn sẽ căn cứ vào sổ theo dõi lương hưu do kế toán chuyển sang, kiểm tra lần cuối với danh sách để phát tiền cho đối tượng. Thanh quyết toán: Sau khi đã kết thúc việc chi trả ở địa bàn, cán bộ BHXH huyện, thành phố phải lưu danh sách chi trả có chữ ký của người nhận tiền. Sau 5 ngày kể từ ngày trả lương cuối cùng, kế toán và thủ quỹ chi trả phải hoàn chỉnh thủ tục thanh quyết toán với BHXH huyện, đồng thời BHXH huyện báo cáo tổng số tiền đã chi trả về cho BHXH tỉnh Lạng Sơn. Như vậy, với việc phân cấp cho BHXH huyện, thành phố để chi trả bằng phương pháp trực tiếp cho các đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng đã góp phần giúp BHXH tỉnh Lạng Sơn những năm qua thực hiện tốt công tác chi trả. Quy trình chi trả được thực hiện đầy đủ theo các bước và đúng nguyên tắc từ cấp dưới trình số đối tượng lên cấp trên và cấp trên xét duyệt, phân bổ nguồn quỹ xuống cho cấp dưới. Việc chi trả trực tiếp ở BHXH huyện, thành phố luôn đảm bảo an toàn, kịp thời cho đối tượng hưởng. Mọi thắc mắc của đối tượng trong quá trình chi trả đều được giải quyết kịp thời. Những đối tượng chậm đến lĩnh thì được tạo điều kiện đến lĩnh sau tại trụ sở cơ quan BHXH huyện, thành phố hoặc chuyển sang tháng sau nhận lĩnh. Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác chi trả đều có thái độ phục vụ nhiệt tình, làm hài lòng đối với số đông các đối tượng đến lĩnh. Tuy nhiên, việc BHXH tỉnh Lạng Sơn phân cấp cho BHXH huyện, thành phố chi trả lương hưu trực tiếp cho các đối tượng còn gặp một số khó khăn: Số lượng cán bộ trong mỗi cơ quan BHXH huyện, thành phố rất ít nhưng tính chất của công tác chi trả trực tiếp lại đòi hỏi phải có nhiều cán bộ chi trả, chi trả tại nhiều địa điểm ở hầu hết các xã, thị trấn nên để chi trả được hết phải mất 5-7 ngày. Theo quy định, BHXH huyện phải chi trả lương hưu xong trước ngày mùng 10 hàng tháng nên đôi khi BHXH huyện, thành phố chưa kịp thời đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ công việc. Số đối tượng đến lĩnh lương hưu hàng tháng quá đông, khối lượng công việc lớn nên đôi khi các cán bộ BHXH huyện, thành phố khó tránh khỏi nhầm lẫn trong quá trình ghi sổ và chi trả cho các đối tượng. Trước mỗi đợt chi trả, BHXH huyện, thành phố phải báo trước cho UBND các xã, thị trấn bố trí địa điểm chi trả. Nhưng nhiều khi địa điểm chi trả bị thay đổi, khó tìm địa điểm, gây khó khăn cho các đối tượng đến lĩnh tiền. Quá trình vận chuyển tiền từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đến các xã, thị trấn còn nhiều khó khăn, nguy hiểm do không có các phương tiện chuyên dụng để chở tiền hoặc ít người bảo quản. Thứ hai, đối với chi chế độ BHXH một lần và Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu: BHXH tỉnh Lạng Sơn cũng phân cấp cho BHXH huyện, thành phố chi trả trực tiếp cho các đối tượng tại trụ sở BHXH huyện, thành phố. Sau khi đã lập danh sách chi trả gửi xuống cho BHXH huyện, thành phố, BHXH tỉnh chuyển tiền cho BHXH huyện qua tài khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh. Cán bộ BHXH huyện sẽ lấy tiền từ ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện, kiểm tra số tiền, số đối tượng và trực tiếp giao tiền cho đối tượng tại trụ sở BHXH huyện, thành phố. Phương thức chi trả trực tiếp này rất phù hợp với việc chi trả cho chế độ BHXH một lần và Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu. Số lượng người đến lĩnh không nhiều, số tiền ít hơn so với chi lương hưu hàng tháng nên không mắc phải những nhược điểm trong khi chi trả. 2.2.2.3. Quản lý đối tượng hưởng chế độ hưu trí Trong những năm qua, BHXH tỉnh Lạng Sơn luôn phối hợp chặt chẽ với BHXH huyện, thành phố, theo dõi tình hình thay đổi của các đối tượng chết, hết thời hạn hưởng, chuyển đến, chuyển đi trên địa bàn các xã, phường, thị trấn và BHXH huyện sẽ báo cáo lượng tăng, giảm cụ thể, kịp thời, chính xác lên BHXH tỉnh để BHXH tỉnh quản lý và làm căn cứ để lập danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng cho NLĐ. Tình hình thay đổi của các đối tượng hưởng cụ thể trong chế độ hưu trí như sau: Bảng 10: Tình hình tăng, giảm số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ quỹ BHXH và từ NSNN giai đoạn 2008 - 2010 (Đơn vị: người) Năm Số đối tượng hưởng mới từ quỹ BHXH chi Số đối tượng giảm từ NSNN chi Tổng Hưu CNVC Hưu Quân đội Hưu CBX Tổng Hưu CNVC Hưu Quân đội 2008 917 721 180 16 378 225 153 2009 914 729 165 20 371 233 138 2010 943 732 205 6 414 236 178 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết của BHXH tỉnh Lạng Sơn) Qua bảng số liệu ta thấy, tổng số người hưởng mới từ quỹ BHXH chi luôn lớn hơn số đối tượng giảm từ NSNN chi. Điều đó cho thấy số người hưởng lương hưu thực tế tăng. Trong đó: Đối với chế độ hưu của CNVC, số đối tượng hưởng mới từ quỹ BHXH luôn chiếm chủ yếu trong tổng số đối tượng hưởng. Năm 2008, số đối tượng hưởng mới của hưu CNVC là 721 người (chiếm 78,6% tổng số đối tượng hưởng mới), năm 2009 là 729 người (chiếm 79,8% ), năm 2010 tăng lên 732 người (chiếm 77,6% số đối tượng). Vì lực lượng CNVC là lực lượng đông đảo và nòng cốt trong lực lượng lao động của tỉnh Lạng Sơn nên khi hết tuổi lao động, lực lượng này vẫn chiếm chủ yếu trong tổng số đối tượng. Số đối tượng giảm từ NSNN chi cũng tăng qua các năm, chứng tỏ quỹ BHXH của tỉnh Lạng Sơn ngày càng ổn định và chi trả tốt hơn cho nhiều đối tượng. Đối với hưu Quân đội, số đối tượng hưởng mới từ quỹ BHXH chi cũng tăng nhưng không đều. Năm 2008, số đối tượng hưởng mới từ quỹ BHXH chi cho chế độ hưu Quân đội là 180 người, chiếm 19,6% tổng số đối tượng hưởng mới. Năm 2009 là 165 người (giảm 15 người), chiếm 18% tổng số đối tượng. Năm 2010 lại tăng lên là 205 người (tăng 40 người), chiếm 21% tổng số đối tượng. Số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng của hưu Quân đội chỉ chiếm một lượng nhỏ và đứng thứ hai sau số đối tượng hưởng chế độ hưu CNVC. Số đối tượng giảm từ NSNN chi cũng có biến động, nhưng nhìn chung là tăng qua các năm. Năm 2008 là 153 người, năm 2009 là 138 người, (giảm 15 người), năm 2010 là 178 người, (tăng 40 người). Điều đó chứng tỏ số người hưởng lương hưu Quân đội hàng tháng không nhiều và số người hưởng mới từ quỹ BHXH ngày càng tăng. Đối với chế độ hưu CBX, số đối tượng hưởng mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Năm 2008 là 16 người, năm 2009 tăng lên 20 người (tăng 4 người), năm 2010 chỉ có 6 người (giảm 14 người). Có thể lý giải điều này do số lượng CBX ít, thường làm việc theo nhiệm kỳ, thời gian đóng BHXH không nhiều nên họ thờng lựa chọn hình thức hưởng chế độ BHXH một lần. Bảng 11: Tình hình tăng, giảm số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng do chuyển đến, chuyển đi hoặc chết giai đoạn 2008 – 2010 (Đơn vị: người) Năm Tổng số Tăng Giảm Số người chuyển đến Số người chuyển đi Số người chết 2008 62 10 16 36 2009 70 8 20 42 2010 84 12 23 49 (Nguồn: BHXH tỉnh Lạng Sơn) Bảng số liệu cho thấy tình hình biến động của số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng. Số người chết, số người chuyển đến, chuyển đi đều tăng qua các năm. Năm 2008 có 36 người chết, 16 người chuyển đi tỉnh khác tức là giảm 52 người hưởng hưu trí hàng tháng, và tăng 10 người do họ chuyển hồ sơ để hưởng chế độ hưu trí tại tỉnh Lạng Sơn. Năm 2009, có 8 người chuyển đến, 16 người chuyển đi, 42 người chết (tăng 8 người, giảm 62 người). Năm 2010 có 12 người chuyển đến, 23 người chuyển đi và 49 người chết (tăng 12 người, giảm 72 người). Kết quả trên có được là do trong thời gian qua BHXH tỉnh Lạng Sơn đã rất cố gắng trong công tác quản lý đối tượng hưởng hưu trí hàng tháng trên địa bàn tỉnh. Từ đó nắm bắt được cơ bản tình hình thay đổi của NLĐ và giúp BHXH tỉnh Lạng Sơn quản lý và chi trả chính xác cho các đối tượng hưởng. Tuy thực hiện khá tốt nhưng trong quá trình thực hiện công tác quản lý đối tượng hưởng vẫn còn gặp một số khó khăn như: Khối lượng công việc nhiều, số lượng cán bộ BHXH ở tuyến huyện còn ít, một số đối tượng hưởng lại sinh sống ở sâu trong các xã nên khó nắm bắt được kịp thời những thay đổi của các đối tượng về sự tăng, giảm, chuyển đến, chuyển đi hoặc chết . 2.2.2.4. Kết quả chi trả chế độ hưu trí BHXH tỉnh Lạng Sơn luôn quan tâm đến lợi ích của người lao động nên luôn hoàn thành tốt công tác chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng hưởng. Kinh phí chi trả cho chế độ hưu trí của BHXH tỉnh Lạng Sơn được lấy từ hai nguồn là quỹ BHXH và NSNN. BHXH tỉnh Lạng Sơn những năm qua đã thực hiện chi trả chế độ hưu trí cụ thể như sau: Thứ nhất, chi trả cho các đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng: Chế độ hưu trí là một trong các chế độ được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều nhất, NLĐ khi tham gia BHXH cũng rất mong muốn và chờ đợi cho đến khi hết tuổi lao động sẽ được hưởng chế độ này. Do vậy đây cũng là chế độ có số đối tượng hưởng chiếm tỷ lệ lớn nhất và tổng mức chi trả lớn nhất. Số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn được thể hiện qua bảng số liệu: Bảng 12: Cơ cấu số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 (Đơn vị: người) Năm Tổng số NSNN đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo Số đối tượng Tỷ lệ (%) Số đối tượng Tỷ lệ (%) 2008 17.794 11.595 65,16 6.199 34,84 2009 18.371 11.283 61,42 7.088 38,58 2010 18.964 10.982 57,91 7.982 42,09 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết của BHXH tỉnh Lạng Sơn) Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng số đối tượng được hưởng lương hưu hàng tháng tăng dần qua các năm. Nếu năm 2008 chỉ có 17.794 người thì năm 2009 tăng lên là 18.371 người (tăng 3,24% tương ứng với 577 người), đến năm 2010 tổng số đối tượng hưởng đã là 18.964 người (tăng 3,22% tương ứng với 593 người). Có sự tăng nhanh như vậy là do số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ quỹ BHXH của tỉnh Lạng Sơn ngày càng tăng lên, quỹ BHXH của tỉnh ngày càng chi trả cho được nhiều đối tượng hưởng, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ. Số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ NSNN giảm dần qua các năm. Năm 2008 có 11.595 người được hưởng lương hưu hàng tháng từ nguồn NSNN, năm 2009 là 11.283 người (giảm 2,69% tương ứng với 312 người). Đến năm 2010 chỉ có 10.982 người (giảm 2,67% tương ứng với 301 người). Tuy vậy, số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ NSNN vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số đối tượng hưởng. Năm 2008, số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ NSNN chiếm 65,16% tổng số đối tượng, năm 2009 chiếm 61,42%, đến năm 2010 giảm còn 57,91%, nhưng vẫn nhiều, chứng tỏ số người được hưởng lương hưu do NSNN chi trả vẫn rất lớn và vẫn là một gánh nặng cho NSNN. Số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ quỹ BHXH ngày càng tăng nhanh. Năm 2008 có 6.199 người, năm 2009 có 7.088 người, (tăng 14,34% tương ứng với 889 người). Đến năm 2010 có 7.982 người được hưởng lương hưu hàng tháng từ quỹ BHXH (tăng 12,6% tương ứng với 894 người). Tỷ lệ số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ quỹ BHXH trong tổng số đối tượng cũng tăng nhanh. Năm 2008 chiếm 34,84% tổng số đối tượng, năm 2009 chiếm 38,58% (tăng 3,74%), năm 2010 chiếm 42,09% tổng số đối tượng (tăng 3,51%). Số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ quỹ BHXH ngày càng tăng nhanh như vậy có thể lý giải là do số đối tượng tham gia ngày càng được mở rộng; do từ năm 2007, Luật BHXH chính thức có hiệu lực nên nhiều đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng do quỹ BHXH chi trả tăng nhanh, giảm gánh nặng cho NSNN. Số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng gia tăng dẫn đến nguồn kinh phí chi trả lương hưu hàng tháng cho các đối tượng cũng tăng: Bảng 13: Cơ cấu nguồn kinh phí chi trả lương hưu hàng tháng tại BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 (Đơn vị: triệu đồng) Năm Tổng số NSNN đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo Số chi Tỷ lệ (%) Số chi Tỷ lệ (%) 2008 343.698 223.870 65,14 119.828 34,86 2009 410.046 249.767 60,91 160.279 39,09 2010 465.060 264.919 56,96 200.141 43,04 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác chi trả của BHXH tỉnh Lạng Sơn) Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng số kinh phí chi trả lương hưu hàng tháng tăng khá nhanh qua các năm. Năm 2008, tổng số chi lương hưu hàng tháng cho các đối tượng là 343.698 triệu đồng, năm 2009 tổng số chi là 410.046 triệu đồng (tăng 19,3% tương ứng với 66.348 triệu đồng). Đến năm 2010, tổng số chi là 465.060 triệu đồng (tăng 13,4% tương ứng với 55.014 triệu đồng). Sở dĩ có hiện tượng tăng nhanh như vậy là do số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng tăng nhanh, do sự điều chỉnh lương hưu hàng tháng của Chính phủ, do mức tiền lương tối thiểu chung đều tăng qua các năm. Tổng số tiền chi trả cho các đối tượng ngày càng tăng chứng tỏ đời sống của NLĐ khi về hưu ngày càng được đảm bảo. Số chi từ NSNN cũng tăng dần qua các năm. Năm 2008 NSNN chi 223.870 triệu đồng cho các đối tượng, năm 2009 NSNN chi 249.767 triệu đồng (tăng 11,5% tương ứng với 25.897 triệu đồng). Đến năm 2010, số chi là 264.919 triệu đồng (tăng 6,07% tương ứng với 15.152 triệu đồng). Số chi từ NSNN qua các năm tăng là do sự tăng lên của mức lương tối thiểu lớn hơn sự giảm đi của số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng từ NSNN. Về tỷ trọng của số chi lương hưu hàng tháng từ NSNN trong tổng số chi có xu hướng giảm, năm 2008 chiếm 65,14% tổng số chi, năm 2009 chiếm 60,91% (giảm 4,23%), đến năm 2010, số chi từ NSNN chiếm 56,96% tổng số chi (giảm 3,95%). Tỷ trọng này giảm đi chứng tỏ quỹ BHXH đang dần thay thế cho NSNN, làm giảm gánh nặng cho NSNN. Số chi từ quỹ BHXH cũng tăng dần qua các năm, năm 2008 quỹ BHXH chi 119.828 triệu đồng, năm 2009 chi 160.279 triệu đồng (tăng 33,76% tương ứng với 40.451 triệu đồng. Đến năm 2010, quỹ BHXH đã chi 200.141 triệu đồng (tăng 24,87% tương ứng với 39.862 triệu đồng). Số chi từ quỹ BHXH tăng chứng tỏ mức hưởng lương hưu từ quỹ BHXH khá cao do mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH tăng qua các năm. Tỷ trọng của số chi từ quỹ BHXH trong tổng số chi ngày càng lớn, năm 2008 chiếm 34,86% tổng số chi, năm 2009 chiếm 39,09% (tăng 4,23%), đến năm 2010 chiếm 43,04% (tăng 3,95%). Do số người hưởng lương hưu hàng tháng từ NSNN ngày càng giảm, dần dần quỹ BHXH sẽ bảo đảm chi trả hầu hết cho các đối tượng. Chi trả lương hưu hàng tháng cho các đối tượng là công tác quan trọng và có khối lượng công việc lớn do số đối tượng hưởng đông, số chi rất lớn nên BHXH tỉnh Lạng Sơn luôn cố gắng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để ngày càng thực hiện tốt công tác chi trả lương hưu hàng tháng cho NLĐ. Thứ hai, chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ một lần: Nói đến chế độ một lần là nói đến chế độ Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu đối với những người có thời gian đóng vượt mức 25 năm đối với nữ, 30 năm đối với nam và chế độ BHXH một lần cho những người không tiếp tục tham gia BHXH nữa mà chưa đủ điều kiện về hưu. Tình hình chi trả hai chế độ này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 14: Tình hình chi trả chế độ một lần ở BHXH tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2008 - 2010 Năm Tổng số Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu BHXH một lần Số đối tượng (người) Số chi (triệu đồng) Số đối tượng (người) Số chi (triệu đồng) Số đối tượng (người) Số chi (triệu đồng) 2008 939 9.335 501 7.014 438 2.321 2009 1.533 13.506 623 8.410 910 5.096 2010 2.150 18.670 696 10.092 1.454 8.578 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác chi trả của BHXH tỉnh Lạng Sơn) Qua bảng số liệu ta thấy, tổng số người hưởng chế độ một lần của tỉnh Lạng Sơn đều tăng qua các năm. Cùng với đó số chi cho chế độ này cũng tăng mạnh. Năm 2008, tổng số đối tượng hưởng là 939 người với tổng số chi là 9.335 triệu đồng. Trong đó: Số đối tượng hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu là 501 người (chiếm 53,4% tổng số người hưởng chế độ một lần), số chi tương ứng là 7.014 triệu đồng (chiếm 75,1% tổng số chi); Số người hưởng chế độ BHXH một lần là 438 người (chiếm 46,6% tổng số người hưởng chế độ một lần), số chi BHXH một lần là 2.321 triệu đồng (chiếm 24,9% tổng số chi). Năm 2009, tổng số người hưởng chế độ một lần là 1.533 người (tăng 63,3% so với 2008 tương ứng 594 người), tổng số chi là 13.506 triệu đồng (tăng 44,7% so với 2008 tương ứng 4.171 triệu đồng). Trong đó: Số đối tượng hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu là 623 người (tăng 24,4% so với năm 2008 tương ứng 122 người, chiếm 40,6% tổng số người hưởng chế độ một lần), số chi tương ứng là 8.410 triệu đồng (tăng 20% tương ứng với 1.396 triệu đồng, chiếm 62,3% tổng số chi); Số người hưởng chế độ BHXH một lần là 910 người (tăng 107,8% so với năm 2008 tương ứng 472 người, chiếm 59,4% tổng số người), số chi BHXH một lần là 5.096 triệu đồng (tăng 119,6% so với năm 2008 tương ứng 2.775 triệu đồng, chiếm 37,7% tổng số chi). Năm 2010, tổng số người hưởng 2.150 người (tăng 40,2% so với 2009 tương ứng 617 người), tổng số chi là 18.670 triệu đồng (tăng 38,2% so với 2009 tương ứng 5.164 triệu đồng). Trong đó: Số đối tượng hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu là 696 người (tăng 11,2% so với năm 2009 tương ứng 73 người, chiếm 32,3% tổng số người hưởng chế độ một lần), số chi tương ứng là 10.092 triệu đồng (tăng 20% tương ứng với 1.682 triệu đồng, chiếm 54,1% tổng số chi); Số người hưởng chế độ BHXH một lần là 1.454 người (tăng 59,8% so với năm 2009 tương ứng 544 người, chiếm 67,6% tổng số người), số chi BHXH một lần là 8.578 triệu đồng (tăng 68,3% so với năm 2009 tương ứng 3.482 triệu đồng, chiếm 45,9% tổng số chi). Số đối tượng hưởng và số chi ngày càng tăng cao có nguyên nhân là do số lao động tham gia BHXH từ nhiều năm trước đông và có nhiều người tham gia đóng BHXH lâu dài trên 25, 30 năm. Không những thế, sự gia tăng mạnh này còn do cuộc khủng hoảng kinh tế chung diến ra năm 2008 đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp trong nước cũng như trong tỉnh Lạng Sơn làm ăn thua lỗ, phải giải thể hoặc cắt giảm lao động khiến nhiều NLĐ làm việc trong và ngoài tỉnh bị thất nghiệp trở về quê hương để hưởng BHXH một lần; một số khác chưa đến tuổi nghỉ hưu nhưng muốn nghỉ làm vì lý do sức khoẻ hoặc đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ 20 năm đóng BHXH. 2.2.3. Đánh giá chung 2.2.3.1. Một số kết quả đạt được Thời gian qua, BHXH tỉnh Lạng Sơn đã nhận thức được vai trò quan trọng của chế độ hưu trí cũng như hiểu rõ được tâm tư, nguyện vọng của người tham gia nên BHXH tỉnh Lạng Sơn đã không ngừng cố gắng để thực hiện tốt chế độ hưu trí và đã đạt được một số kết quả: Số đối tượng tham gia BHXH ngày càng có xu hướng tăng lên và ngày càng có nhiều NLĐ được bao phủ bởi chế độ hưu trí. Điều đó chứng tỏ BHXH tỉnh Lạng Sơn đã làm khá tốt công tác vận động tuyên truyền NLĐ tham gia BHXH, nhận thức của người lao động khi tham gia BHXH ngày càng cao, thể hiện sự nỗ lực không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ làm công tác thu BHXH. Số đã thu BHXH của tỉnh Lạng Sơn cũng tăng qua các năm, đều đạt và vượt chỉ tiêu được giao, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Do vậy số thu cho chế độ hưu trí cũng tăng theo và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số đã thu của BHXH. Như vậy, quỹ BHXH sẽ dần được ổn định và đảm bảo nguồn chi trả cho các đối tượng. Công tác xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí ở BHXH tỉnh Lạng Sơn luôn được thực hiện tốt để đảm bảo cho NLĐ được hưởng chế độ kịp thời, chính xác. Số hồ sơ đã được xét duyệt của chế độ hưu trí hàng tháng và chế độ một lần đều tăng qua các năm, chứng tỏ sự cố gắng và nhiệt tình trong công việc của đội ngũ cán bộ làm công tác xét duyệt. Trong những năm qua, BHXH tỉnh Lạng Sơn đã thực hiện tương đối tốt công tác quản lý đối tượng hưởng chế độ hưu trí trên địa bàn tỉnh và cơ bản nắm bắt được những thay đổi liên quan đến NLĐ, ví dụ như các đối tượng chuyển đến, chuyển đi hoặc chết. Số đối tượng hưởng và nguồn kinh phí chi trả luôn tăng qua các năm chứng tỏ BHXH tỉnh Lạng Sơn đã rất quan tâm đến quyền lợi của NLĐ. Thực hiện tốt sự chỉ đạo của BHXH Việt Nam, trong những năm qua BHXH tỉnh Lạng Sơn đã tiến hành phân cấp cho BHXH huyện, thành phố chi trả trực tiếp lương hưu hàng tháng cho NLĐ tại địa điểm ở hầu hết các xã, thị trấn và chi trả Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần tại trụ sở của BHXH huyện, thành phố và phương pháp chi trả gián tiếp thông qua các đại lý, qua thẻ ATM nhằm đảm bảo chi trả một cách nhanh nhất đến từng địa bàn NLĐ sinh sống. BHXH tỉnh Lạng Sơn đã cố gắng thực hiện tốt công tác chi trả an toàn, tiết kiệm và cũng chưa để xảy ra bất kỳ một thiệt hại tiêu cực nào. BHXH tỉnh Lạng Sơn luôn quan tâm đến lợi ích của người lao động nên luôn hoàn thành tốt công tác chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng hưởng. Nguồn quỹ BHXH của BHXH tỉnh Lạng Sơn cũng được cân đối và duy trì ổn định cho công tác chi trả nhất là đối với chế độ hưu trí. Để có được những kết quả đó là do:: BHXH tỉnh Lạng Sơn đã nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH Vỉệt Nam cũng như sự phối kết hợp của các ban ngành có liên quan và các đơn vị SDLĐ. Hệ thống các văn bản chính sách thực hiện chế độ hưu trí đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức và không ngừng được hoàn thiện. Các văn bản hưởng dẫn thi hành thực hiện chế độ hưu trí đều được BHXH tỉnh Lạng Sơn nghiên cứu chặt chẽ và triển khai cụ thể trong từng khâu trong công tác thu, xét duyệt hồ sơ hưởng, quản lý đối tượng hưởng và chi trả chế độ hưu trí. Do sự cố gắng không ngừng nghỉ của đội ngũ cán bộ thực hiện chế độ hưu trí, các cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH và sự nhiệt tình trong công tác chi trả đến tận tay các đối tượng hưởng. Do nhận thức của người SDLĐ và NLĐ khi tham gia BHXH ngày càng được nâng cao, ngày càng có nhiều người tự nguyện tham gia BHXH. Thời gian gần đây Chính phủ đã có chính sách tăng tiền lương tối thiểu, tăng mức đóng BHXH từ 20% - 22% (năm 2010) dẫn đến số thu cho BHXH ngày càng tăng lên và số thu cho quỹ HTTT cũng tăng lên. 2.2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế Việc triển khai mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với NLĐ ở vùng sâu vùng xa, hoạt động trong lĩnh vự nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, còn quá nhiều những NLĐ chưa được tham gia BHXH và được hưởng quyền lợi từ chế độ hưu trí trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Vẫn còn tình trạng nợ đọng BHXH. Tuy con số này không cao nhưng cũng ảnh hưởng đến tiến độ thu và thực hiện chế độ hưu trí của BHXH tỉnh Lạng Sơn. Trong công tác xét duyệt hồ sơ vẫn còn tồn tại một số khó khăn như, thời gian giải quyết các hồ sơ, đặc biệt là chế độ BHXH một lần còn chậm, còn hiện tượng tồn đọng hồ sơ chuyển sang tháng sau giải quyết. Công tác quản lý đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng vẫn còn gặp một số khó khăn vì một số đối tượng sinh sống ở địa bàn các xã vùng sâu vùng xa, lại sống rải rác không tập trung nên cơ quan BHXH khó quản lý, gây ảnh hưởng đến việc điều chỉnh tăng giảm các đối tượng, lập và in danh sách chi trả. Số đối tượng hưởng ngày càng tăng, số tiền chi trả ngày càng lớn, chứng tỏ khối lượng công việc của BHXH tỉnh Lạng Sơn ngày càng nhiều, trong quá trình làm việc không tránh khỏi những áp lực. Việc chi trả trực tiếp cho các đối tượng hưởng đôi khi còn chậm trễ vì thời gian của một đợt chi trả chỉ kéo dài 5 - 7 ngày mà số đối tượng hưởng lại rất lớn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác chi trả còn thiếu thốn như chưa trang bị được ô tô chuyên dụng để vận chuyển tiền từ ngân hàng đến địa điểm chi trả. 2.2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế Nguyên nhân đầu tiên là do công tác thông tin, tuyên truyền BHXH chưa được thường xuyên, sâu rộng đến các đối tượng ở vùng sâu vùng xa, hình thức tuyên truyền còn hạn chế gây nhàm chán, chưa thu hút được đông đảo người dân lắng nghe và tham gia BHXH. Nguyên nhân thứ hai là, vẫn còn sự hạn chế trong nhận thức của chủ SDLĐ và NLĐ, một số bộ phận SDLĐ và NLĐ chưa hiểu rõ về quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH. Vì nhiều Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Hợp tác xã còn trốn tránh việc tham gia BHXH cho người lao động nên tỷ lệ người lao động tham gia BHXH còn thấp và chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Nguyên nhân thứ ba dẫn đến tình trạng trốn đóng, nợ đọng là do một số Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chưa có tiền đóng BHXH, hoặc đã thu BHXH của NLĐ nhưng đã sử dụng số tiền dó vào mục đích khác. Bên cạnh đó việc tăng mức đóng ở năm 2010 cũng khiến nhiều đơn vị SDLĐ gặp khó khăn, nhất là các DNNQD sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, ít vốn đầu tư. Nguyên nhân thứ tư do số đối tượng hưởng chế độ hưu trí ngày càng đông nên khối lượng công việc ngày càng nhiều mà đội ngũ cán bộ của ngành còn ít về số lượng và hạn chế về trình độ chuyên môn (số cán bộ có trình độ Đại học đúng chuyên ngành vẫn còn ít). Vì thế nên đôi khi không tránh khỏi hiện tượng chậm trễ trong công tác xét duyệt và chi trả cho các đối tượng. Nguyên nhân thứ năm do số đối tượng hưởng đông và ngày càng tăng, một số đối tượng lại sinh sống ở địa bàn các xã vùng sâu vùng xa gây khó khăn trong việc nắm bắt tình tình thay đổi của các đối tượng hưởng; Nguyên nhân thứ sáu do số lượng cán bộ BHXH ở địa phương còn ít mà khối lượng công việc lại lớn nên không thể tránh khỏi những áp lực. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ TẠI BHXH TỈNH LẠNG SƠN 3.1. Định hướng về công tác BHXH và tình hình thực hiện chế độ hưu trí trong những năm tới của BHXH tỉnh Lạng Sơn 3.1.1. Định hướng về công tác BHXH Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHXH, giúp tất cả NLĐ và nhân dân nhận thức đầy đủ về ý nghĩ, mục đích và tính ưu việt của các chế độ chính sách BHXH. Từ đó tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Thực hiện đồng bộ các biện pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHYT tự nguyện, nhất là các đơn vị doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Xây dựng và triển khai tốt lộ trình tiến tới BHXH toàn dân. Tiếp tục thực hiện đổi mới công tác chi trả trợ cấp BHXH, khai thác và sử dụng có hiệu quả các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin, phục vụ tích cực cho chương trình cải cách tổ chức hành chính. Thực hiện có hiệu lực dự án thẻ BHYT điện tử. Tích cực kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý các phòng chức năng, BHXH các huyện, thành phố, các chức danh còn thiếu. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ chính trị, quản lý Nhà nước, kỹ năng giao tiếp và tinh thần thái độ phục vụ đối tượng. Duy trì đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trên các mặt công tác của ngành. Coi đây là biện pháp quan trọng, là động lực thúc đẩy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo của các cá nhân, tập thể trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của ngành. 3.1.2. Định hướng thực hiện chế độ hưu trí Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng chế độ hưu trí, đặc biệt là chính sách BHXH tự nguyện tới các cấp các ngành, các tầng lớp nhân dân trong toàn tỉnh. Giúp họ nhận thấy rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình, chủ động tự nguyện, tự giác tham gia. Tổ chức triển khai kịp thời các Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong đó, tổ chức triển khai triệt để chính sách về chế độ hưu trí, nhằm mở rộng đối tượng tham gia, tăng cường công tác phục vụ đối tượng, bảo đảm mọi NLĐ đều nắm được bản chất, ý nghĩa của chế độ hưu trí cũng như vai trò, trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH. Thực hiện công tác xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí của NLĐ kịp thời, đúng quy định, tạo sự công bằng giữa những người tham gia, đảm bảo nguyên tắc "mức hưởng trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng BHXH, không gây phiền hà cho NLĐ, không để tiêu cực xảy ra làm thất thoát nguồn quỹ. Tổ chức chi trả lương hưu và các khoản trợ cấp BHXH cho đối tượng, đảm bảo kịp thời, đầy đủ, đến tận tay NLĐ, thực sự là chỗ dựa tin cậy của NLĐ khi tham gia BHXH. Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH của tỉnh Lạng Sơn, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển mạnh sang phương thức phục vụ đối tượng. 3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chế độ hưu trí tại BHXH tỉnh Lạng Sơn 3.2.1. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng mà BHXH tỉnh Lạng Sơn đã đề ra: Đối với BHXH bắt buộc: Thực hiện tuyên truyền cho chế độ hưu trí phải đa dạng hoá về cả nội dung và hình thức tuyên truyền. Chế độ hưu trí là chế độ chủ yếu và quan trọng nhất của chính sách BHXH nên nội dung của chế độ này rất đa dạng và phức tạp với nhiều loại đối tượng và nhiều trường hợp giải quyết khác nhau. Về nội dung tuyên truyền, nội dung tuyên truyền cần được trình bày cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu, tập trung vào những vấn đề mà NLĐ quan tâm và nhiều thủ tục mà họ chưa hiểu rõ. Chẳng hạn, tuyên truyền về quyền và lợi ích của NLĐ được hưởng khi hết tuổi lao động, tuyên truyền về thủ tục hồ sơ để xét hưởng các chế độ hưu trí hàng tháng hoặc BHXH một lần. Từ đó giúp công tác giải quyết chế độ được tiến hành nhanh chóng, chính xác hơn và tránh được những trường hợp do NLĐ thiếu hiểu biết mà làm sai và thiếu trong quy trình làm hồ hơ thủ tục hoặc bỏ qua quyền lợi chính đáng mà mình được hưởng. Về hình thức tuyên truyền, cần mở rộng, đa dạng hóa và kết hợp có hiệu quả các hình thức tuyên truyền. Trong tuyên tuyền trực tiếp, tránh hình thức gây nhàm chán như đọc, phát biểu trong hội nghị, như vậy sẽ không t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB7870 THU TH7910Y2723BH4.doc
Tài liệu liên quan