Đề tài Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam: Mục lục Trang Lời mở đầu 4 Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 6 1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD) 6 1.1.1. Khái niệm và phân loại DN-NQD 6 1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế 9 1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD 10 a) Đặc điểm 10 b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai 12 1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD 14 1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính 14 1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 16 1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh 16 1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản 17 1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD 17 1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD 22 1.2.2.3. Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD 28 1.2.2.3.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD 28 1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD 30...

docx102 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 922 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang Lời mở đầu 4 Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 6 1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD) 6 1.1.1. Khái niệm và phân loại DN-NQD 6 1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế 9 1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD 10 a) Đặc điểm 10 b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai 12 1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD 14 1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính 14 1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 16 1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh 16 1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản 17 1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD 17 1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD 22 1.2.2.3. Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD 28 1.2.2.3.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD 28 1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD 30 1.2.2.4. Quản lý việc phân phối lợi nhuận đối với doanh nghiệp NQD 34 1.2.2.5. Quản lý công tác kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp NQD 40 1.2.3. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 41 1.3 Sự cần thiết phải thiết lập cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 43 Chương II Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở Việt Nam hiện nay 45 2.1. Khái quát về khu vực kinh tế NQD 45 2.1.1. Quan điểm và đường lối chỉ đạo của đảng và nhà nước về sự phát triển của khu vực kinh tế NQD 45 2.1.2. Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD ở nước ta trong những năm qua 49 2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở nước ta hiện nay 57 2.2.1. Khái quát về cơ chế quản lý tài chính khu vực NQD ở nước ta 57 2.2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD ở nước ta hiện nay 59 2.2.2.1. Quản lý về thành lập và đăng kí kinh doanh 59 2.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản 59 2.2.2.3. Quản lý doanh thu chi phí 60 2.2.2.4. Quản lý phân phối thu nhập 63 2.2.2.5. Công tác kiểm toán kế toán và báo cáo tài chính 68 2.3. Đánh giá về cơ chế quản lý tài chính DNNQD 69 2.3.1. Những thành tựu chung đã đạt được 70 2.3.2. Những hạn chế của cơ chế quản lý tài chính DNNQD 71 2.3.3. Nguyên nhân căn bản của những hạn chế trên 72 Chương III Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD ở nước ta 76 3.1. Những quan điểm cần quán triệt trong việc thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế NQD 78 3.2. Giải pháp thiết lập cơ chế quản lý tài chính cho các DNNQD 78 3.2.1. Quản lý vốn và tài sản 80 3.2.2. Quản lý doanh thu chi phí 83 3.2.3 Quản lý thu nhập và phân phối thu nhập 87 3.2.4. Quản lý công tác kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính 89 3.2.5. Các giải pháp hỗ trợ khác 91 3.3. Kiến nghị điều kiện thực thi giải pháp 96 Kết luận 98 Danh mục tham khảo 99 Lời mở đầu Từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta xác định chúng ta đang trong thời kì quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nhiệm vụ trọng tâm xuyên xuốt trong giai đoạn lịch sử này. Để có được bài học đó, chúng ta đã phải trả giá bằng một thời kỳ dài nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với tất cả những "thói hư tật xấu", vì vậy để thực hiện được đường hướng của Đảng và Nhà nước, chúng ta phải thực hiện một quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế sâu sắc và toàn diện. Kèm theo đó là quá trình đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các loại hình sở hữu, tận dụng và phát triển mọi nguồn nội lực để phát triển, thực hiện tốt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Chính từ đó, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã ra đời và phát triển, trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế, huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước, chúng vận hành theo cơ chế thị trường, mục tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận. Chính vì thế, nhà nước không thể can thiệp trực tiếp, dưới hình thức hành chính hay mệnh lệnh tới các doanh nghiệp này. Đảng và nhà nước cần tạo lập cho khu vực kinh tế NQD một môi trường hoạt động phù hợp, vừa thực hiện đúng định hướng phát triển chung của đất nước, vừa khuyến khích và tận dụng được những ưu việt vốn có của nó. Trong đó, cơ chế quản lý tài chính chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Thiết lập được một cơ chế quản lý tài chính hiệu quả chính là tiền đề, là điều kiện cơ bản để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ khác. Hiện nay ở nước ta, chưa có một cơ chế quản lý tài chính chính thức và độc lập đối với doanh nghiệp NQD, công tác quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế này được thực hiện dựa trên cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước (Nghị định 59/NĐ-CP, và Nghị định 27/NĐ-CP ban hành kèm nghị định 59). Cơ chế này do đó chưa hoạt động thật sự hiệu quả, không phát huy được tối đa tiềm lực của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong thời gian qua, Chính phủ đang hướng dẫn chỉ đạo Bộ tài chính và các bộ ngành liên quan xây dựng và ban hành một Nghị định tương tự Nghị định 59/NĐ-CP nhưng là cho các doanh nghiệp NQD. Trước thực tế đó, em mạnh dạn đề cập và nghiên cứu đề tài : "Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam". Chuyên đề được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở Việt Nam hiện nay Chương III: Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD ở nước ta Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do kiến thức còn hạn chế, nhận thức chưa đầy đủ, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và những khó khăn khách quan về tài liệu, số liệu và các tài liệu tham khảo, chuyên đề chắc chắn không thể tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Vì vậy, em mong được thầy cô và các bạn phê bình, bổ sung và đóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các cán bộ Cục tài chính doanh nghiệp, nhất là tập thể cán bộ Ban ngoài quốc doanh, những người giàu kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Đặc biệt, em xin cám ơn thầy giáo Vũ Duy Hào người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH. 1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD) 1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD: Đề cập đến kinh tế ngoài quốc doanh, Nghị quyết Đại hội trung ương Đảng lần thứ V đã công nhận, trong hơn 10 năm thuộc thời kì đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân (kinh tế NQD) bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc sở hữu cá nhân, kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới các loại hình khác nhau như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH),..., kinh tế hộ gia đình, đã có những bước phát triển nhanh, mạnh và rộng khắp trên cả nước. Kinh tế NQD đã đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của đất nước, thông qua việc huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người dân, đóng góp vào ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội trong nước và nhiều mặt tích cực khác. Như vậy rõ ràng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là một chiến lược quan trọng lâu dài, phù hợp với qui luật vận động của nền kinh tế và nằm trong tổng thể các chiến lược chung của đất nước trong thời kì đổi mới. Nhưng vấn đề chính chúng ta cần thảo luận trong phần này chính là khái niệm về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp NQD xét dưới giác độ sở hữu bao gồm tất cả các đơn vị hay tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của một người hay một nhóm người. Quyền sở hữu này được xác định dựa trên quá trình huy động hình thành nên nguồn vốn hoạt động cho đơn vị kinh tế đó và được pháp luật thừa nhận. Điều này khác cơ bản với các doanh nghiệp quốc doanh, hay doanh nghiệp nhà nước (DNNN), khi mà nguồn vốn hình thành nên các DNNN được ngân sách nhà nước cấp, nghĩa là từ sự đóng góp của toàn dân(nguồn thu từ thuế). Tuy nhiên, DNNQD không bao gồm tất cả các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước. Trong nền kinh tế mở, các quốc gia có sự thông thương nhất định, các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh được thành lập, nhưng rõ ràng là không nên xếp chúng vào doanh nghiệp NQD. Thứ nhất, vì chúng không có tính đồng nhất về mặt sở hữu, một doanh nghiệp liên doanh có thể là sự liên doanh giữa hai công dân thuộc hai nước khác nhau, liên doanh giữa hai tổ chức hay liên doanh giữa hai chính phủ, còn doanh nghiệp nước ngoài thì càng không thể khẳng định nó thuộc sở hữu nhà nước hay tư nhân. Thứ hai, tính chất hoạt động và các ảnh hưởng của doanh nghiệp nước ngoài khác so với các doanh nghiệp trong nước, chúng vận hành theo một bộ luật riêng thường là luật đầu tư nước ngoài và ảnh hưởng lên một số khía cạnh đặc thù trong nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối, tài trợ xuất nhập khẩu v.v Vì vậy, ở đây chúng ta không xếp các doanh nghiệp nước ngoài như một bộ phận của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Như vậy, DNNQD ở nước ta hiện nay chính là các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp đó là các đơn vị kinh tế tồn tại dưới các hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (DNTN), do một hay nhiều người đứng ra làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình (hữu hạn hay vô hạn) về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tất nhiên cũng phải kể đến các hộ kinh doanh cá thể với mức vốn pháp định thấp hơn vốn pháp định của doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hình kinh tế hộ gia đình kinh doanh trong một số ngành nghề như nông nghiệp, thủ công, dịch vụ và buôn bán nhỏ. Nhìn chung, bộ phận chính, quan trọng nhất trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là các công ty bao gồm Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn: - Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân số lượng thành viên không quá 50 và không được quyền phát hành cổ phiếu. - Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn của doanh nghiệp và cũng không được quyền phát hành cổ phiếu. Công ty cổ phần - Doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành cổ phần, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng. Công ty hợp danh - Là loại doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn, thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của công ty (trách nhiệm vô hạn). Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trên lượng vốn góp của mình vào doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành chứng khoán. Doanh nghiệp tư nhân - Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, khu vực kinh tế NQD hay khu vực kinh tế tư nhân còn có thể được phân chia theo hiến pháp bao gồm các hình thức kinh tế sau: - Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê. - Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. - Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật Doanh nghiệp. Trên đây là một số cách phân loại khác nhau về các bộ phận cấu thành nên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sở dĩ có những sự phân chia hơi khác nhau như vậy là vì mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức, một cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, chúng ta có thể hiểu doanh nghiệp NQD là các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước, và tất nhiên là không phải các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (như đã trình bày ở trên). Đây là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, một phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nhiệm vụ quan trọng để đi đến thắng lợi cuối cùng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế: Kinh tế tư nhân có thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế, tất nhiên trừ một số ít lĩnh vực mà nhà nước giữ độc quyền để kiểm soát tình hình an ninh quốc phòng và ổn định chính trị trong nước. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục có những đóng góp tích cực và vô cùng quan trọng cần thiết trong công cuộc phát triển đất nước. - Góp phần quan trọng để tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế chung, đổi mới bộ mặt kinh tế xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ cho xã hội. - Là lĩnh vực chính thu hút lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Giải phóng sức lao động và huy động tối đa các nguồn lực trong dân cư vào công cuộc phát triển kinh tế. - Tạo môi trường cạnh tranh, nâng cao tính năng động hiệu quả cho nền kinh tế. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặc dù có những vai trò tích cực và quan trọng như đã kể trên, nhưng trong quá khứ và ngay cả hiện tại vẫn có những quan điểm không thống nhất về những đóng góp của khu vực kinh tế NQD. Nhiều quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, là nguyên nhân của sự phân hoá giàu nghèo, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng bước xoá bỏ. Tuy nhiên, một nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền kinh tế của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch về thu nhập cũng như sự bóc lột sức lao động. Cần phải quán triệt khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa tư bản khác nhau về căn bản. Vì thế sẽ là không thoả đáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư nhân hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và là đối tượng phải cải tạo của CNXH. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư nhân trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đóng góp quan trọng lâu dài vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Vấn đề chính yếu là để phát huy được hết tính tích cực của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển chung của đất nước, nhà nước phải có những định hướng đúng đắn, nhất quán và những chính sách, đường lối chỉ đạo phù hợp mà cơ chế quản lý tài chính, vấn đề được nghiên cứu ở đây chính là một bộ phận không thể thiếu. 1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD: a) Đặc điểm : - Thứ nhất, vốn trong các doanh nghiệp tư nhân xét về quyền sở hữu đều là vốn tự có hoặc đi vay của cá nhân hoặc nhóm cá nhân bất kể doanh nghiệp tư nhân đó hoạt động dưới hình thức nào Công ty TNHH, Công ty hợp danh, Công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Tại các nước xã hội chủ nghĩa như ở nước ta, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân đều có khả năng tài chính hạn hẹp, chưa phát huy hết thế mạnh, hoạt động mang tính nhỏ lẻ, sự vụ, thiếu những định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài ổn định, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ, hàng thủ công. Sau đó là trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu, đây là một trong những thiệt thòi của doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp nhà nước. Trong khi doanh nghiệp nhà nước được cung cấp thiết bị công nghệ tiên tiến, do nguồn vốn lớn từ ngân sách và tài trợ nước ngoài thì các doanh nghiệp tư nhân sử dụng công nghệ lạc hậu hơn, có một số máy móc đã quá cũ kĩ, hết thời gian sử dụng, thậm chí có một số là do doanh nghiệp nhà nước thanh lý. Tiếp theo phải nói đến trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập trong khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân thường có kiến thức và khả năng kinh doanh rất hạn chế, những hiểu biết về khoa học kinh tế hay nghiệp vụ kinh doanh rất sơ sài, bên cạnh đó là nhận thức và kiến thức về pháp luật, thông tin thị trường ngay trong nước chứ chưa nói đến quốc tế còn nhiều thiếu sót và yếu kém. Tất nhiên, tình trạng trên cũng một phần là do các nguyên nhân khách quan mang lại, đó là chiến tranh, thời kỳ bị bao vây cấm vận, thời kì thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và một số điều kiện kinh tế xã hội khác. Và cũng không phải toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân đều lâm vào tình cảnh trên, không thiếu những doanh nghiệp tư nhân làm ăn hiệu quả cao, vươn lên là những điển hình tiêu biểu là tấm gương để các doanh nghiệp khác noi theo phấn đấu. Trình độ phát triển yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân như trên chính là một giai đoạn mà nhiều nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang phát triển như nước ta vẫn thường trải qua. Và việc thiết lập một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn cho khu vực kinh tế này chính là một phương cách để rút ngắn thời gian, đẩy nhanh quá trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. - Đặc điểm thứ hai cần nhắc đến ở đây là do doanh nghiệp tư nhân là thuộc sở hữu tư nhân, không phải sở hữu nhà nước, quyền sở hữu này được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Cá nhân hay nhóm cá nhân được quyền tổ chức hoạt động cho doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình, và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp theo những gì pháp luật quy định. Cũng chính vì thế mà doanh nghiệp tư nhân không chịu sự điều tiết một cách trực tiếp theo cơ chế mệnh lệnh hành chính của nhà nước. Nhà nước không thể can thiệp quá trực tiếp hay thô bạo đến quá trình vận hành và tổ chức hoạt động của các DNNQD. Điều này không giống với các DNNN, và càng khác biệt rõ rệt với những gì mà cơ chế cũ đã thể hiện. Nhưng như vậy không có nghĩa rằng nhà nước không có vai trò gì đối với sự phát triển của DNNQD. Ngược lại, nhà nước ảnh hưởng sâu xắc đến sự phát triển của các DNNQD trên mọi phương diện thông qua các chính sách, định hướng và đường lối chỉ đạo, thông qua hệ thống pháp luật mà cơ chế quản lý tài chính cũng là một bộ phận trong đó. Đây cũng chính là đặc điểm cần hết sức lưu ý khi nghiên cứu để thiết lập một cơ chế quản lý tài chính DNNQD b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai: Xét về mặt định lượng, cơ cấu nền kinh tế theo các khu vực kinh tế đang thay đổi và chắc chắn sẽ còn thay đổi mạnh. Số liệu của Tổng cục thống kê về các "thành phần kinh tế" (không tính lĩnh vực nông nghiệp) cho thấy tình hình như sau: Các khu vực sở hữu Đơn vị 1992 1994 1995 1996 Số cơ sở Cơ sở 1514615 1558627 2078125 224558 DNNN " 7060 6264 5873 5790 DN tập thể " 3231 2275 1867 1760 DN có vốn đầu tư nước ngoài " 515 1054 1399 1648 DNNQD " 5158 15893 18727 21360 Cá thể 1000 cơ sở 1498,6 1533,1 2050,2 2215 Lao động 1000 người 4706,5 5453,4 6368,5 6903,2 DNNN % 38,7 30,3 28,3 26,7 DN tập thể % 3,0 2,5 1,6 1,4 DN có vốn đầu tư nước ngoài % 1,1 1,8 2,3 3,0 DNNQD (cả Cá thể) % 57,2 65,4 67,8 68,8 Nguồn: Tổng cục thống kê:"Báo cáo phân tích thực trạng của thành phần kinh tế tư bản nhà nước và tư bản tư nhân sau 10 năm đổi mới", tháng 6-1997 Theo các số liệu trên, năm 1996 so với khu vực nhà nước thì khu vực tư nhân mới là nơi chủ yếu thu hút lao động xã hội.. Theo các số liệu mới nhất cho thấy trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 1998 (tính theo giá hiện hành), kinh tế nhà nước chiếm 40%, kinh tế tư nhân chiếm 38%, khu vực sở hữu hỗn hợp chiếm 22%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 10%, kinh tế tập thể và liên doanh trong nước chiếm 12%. Thêm nữa, tốc độ tăng trưởng trong mấy năm gần đây của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn của khu vực kinh tế nhà nước, nhưng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, do phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, trang thiết bị giản đơn, phần nhiều là lao động thủ công, nên khu vực kinh tế tư nhân có năng suất lao động thấp. Trong tương lai, nếu được khuyến khích phát triển đúng mức, khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ có năng suất lao động cao và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Nếu tính rằng năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước xấp xỉ như nhau, thì với cơ cấu lao động như hiện tại (20% trong khu vực kinh tế nhà nước, còn lại 80% trong khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp), cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân tương ứng là 20% khu vực kinh tế nhà nước và 80% khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp. Tất nhiên những giả định hay con số nêu trên là không hoàn toàn hợp lý, nhưng đó cũng là những cơ sở nhất định để khẳng định vai trò vị trí ngày càng quan trọng cũng như những triển vọng phát triển ngày một lớn của khu vực kinh tế tư nhân. 1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD: 1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính: Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiểu một cách chung nhất là tổng thể các hình thức và phương pháp tác động lên hoạt động tài chính của doanh nghiệp, nhờ đó mọi nguồn lực của doanh nghiệp (Vốn, lao động, tài nguyên) được kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành sức mạnh giúp cho doanh nghiệp phát triển tốt nhất, thực hiện được các mục tiêu của riêng doanh nghiệp cũng như mang lại lợi ích chung và thực hiện các mục tiêu chung của xã hội. Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vận động hoặc sự biểu hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ. Cốt lõi của các mối quan hệ đó là những quan hệ về giá cả được biểu hiện dưới các sắc thái khác nhau. Hình thức biểu hiện của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp là hết sức đa dạng và linh động, phụ thuộc nhiều yếu tố. Cũng chính vì thế, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ cũng bao hàm rất nhiều thành tố. Tât cả những vấn đề như : Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và phương pháp quản lý vận hành doanh nghiệp đều nằm trong một khái niệm đó là Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta có thể tách cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp thành hai phần cơ bản, dựa trên hai giác độ tiếp cận khác nhau đối với việc quản lý tài chính doanh nghiệp đó là giác độ quản lý nhà nước và giác độ quản lý trong doanh nghiệp. Trên giác độ quản lý nhà nước, người ta đặc biệt quan tâm đến hai vấn đề đầu tiên đó là Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Xây dựng pháp luật về tài chính và tổ chức thực hiện nó chính là nhà nước đã tạo ra một môi trường chính thức, bình đẳng và công khai cho các doanh nghiệp hoạt động. Thông qua đó, nhà nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp lên các hoạt động tài chính của tất cả các doanh nghiệp nói chung hay một hoặc một nhóm các doanh nghiệp nói riêng. Với những điều chỉnh thích hợp về pháp luật trong từng thời kì, từng hoàn cảnh điều kiện nhất định, nhà nước có thể tạo nên những thay đổi rất căn bản trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hướng đến những mục tiêu: đảm bảo các doanh nghiệp phát triển đúng hướng, nâng cao hiệu quả và đóng góp của các doanh nghiệp đối với đất nước, tạo điều kiện phát triển và hạn chế những tiêu cực trong quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế. Và xét cho cùng, nhà nước là thể chế duy nhất thực hiện chức năng quản lý đất nước bằng pháp luật, pháp luật chính là công cụ vô cùng hữu hiệu mà chỉ nhà nước mới có và dùng được. Trên giác độ doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện chức năng quản lý tài chính của mình thông qua việc ra các quyết định tài chính như huy động vốn, quản lý thu chi, đầu tư v.v Trong đó mục tiêu quan trọng nhất là tối đa hoá nguồn vốn chủ sở hữu. và tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để thực hiện được các mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp có thể có những cách làm khác nhau, một chiến lược riêng, một phương pháp quản lý và hoạt động riêng biệt. Công tác quản lý tài chính trên giác độ này do đó rất đa dạng, linh hoạt phụ thuộc vào những đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta phải luôn khẳng định rằng, giữa việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và quản lý trong mỗi doanh nghiệp có mỗi quan hệ tương hỗ vô cùng mật thiết và chặt chẽ. Một doanh nghiệp nói riêng và cả khu vực kinh tế nói chung chỉ có thể phát triển tốt, thực hiện được các mục tiêu do doanh nghiệp và do xã hội đề ra khi và chỉ khi chúng được hoạt động trong một môi trường pháp luật lành mạnh và phù hợp, cũng như doanh nghiệp có những định hướng phát triển và phương pháp quản lý đúng đắn. Pháp luật có những ảnh hưởng quyết định lên việc ra quyết định của mỗi người đứng đầu doanh nghiệp và ngược lại những quyết định của người đứng đầu trong doanh nghiệp phản ảnh những nhu cầu những thay đổi thích nghi trong từng thời kì của nền kinh tế và qua đó tác động trở lại đối với người hoạch định chính sách, xây dựng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp cấp nhà nước. Đâu là mối quan hệ hai chiều biện chứng tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ. 1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD: Trên giác độ quản lý nhà nước, một cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng được hình thành thông qua việc quy định và quản lý các mặt sau: + Sự thành lập và đăng kí kinh doanh + Quản lý vốn và tài sản + Quản lý doanh thu chí phí + Quản lý lợi nhuận và phân phối lợi nhuận + Chế độ kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính 1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh: Việc thực hiện quản lý sự thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp là sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp đó. Thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh, nhà nước có thể quy định và điều chỉnh những ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động mà doanh nghiệp có thể hoạt động. Khuyến khích những ngành nghề có lợi cho sự phát triển chung của đất nước, hay hạn chế những ngành nghề chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Do đó, những quy định về cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp cần được quy định thành pháp luật, trong đó có những điều khoản nhất định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi đã được pháp luật thừa nhận. Vấn đề đáng lưu ý khi xây dựng một cơ chế cho việc thành lập doanh nghiệp là tình hình phát triển của khu vực kinh tế đó, nhu cầu của đất nước, triển vọng phát triển và trình độ quản lý hiện tại của nhà nước đối với nền kinh tế. 1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản: Vốn và tài sản là hai mặt chính yếu và quan trọng nhất trong sự tồn tại của bất cứ một doanh nghiệp nào, đây là hai mặt của một quá trình thống nhất không thể tách rời. Vốn là nguồn lực cho mọi hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và hoạt động được khi có vốn. Phía bên kia, tài sản lại chính là sự biểu hiện hình thái và hiện trạng của vốn được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD: Cơ chế quản lý vốn đối với doanh nghiệp NQD chính là việc xác định và điều chỉnh các hình thức huy động vốn và cơ cấu vốn trong doanh nghiệp. Xét một cách tổng thể trong DNNQD có thể có những hình thức vốn sau: a) Nguồn vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tư nhân bao gồm các bộ phận sau: Vốn góp ban đầu Lợi nhuận không chia Phát hành cổ phiếu + Vốn góp ban đầu: Đây là loại vốn được hình thành tại thời điểm đầu tiên khi doanh nghiệp được thành lập. Khi nói đến nguồn vốn tự có của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đăng kí thủ tục thành lập và xin cấp giấy phép kinh doanh, bao giờ cũng phải có một lương vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật đó là vốn pháp định. Ngoài ra, doanh nghiệp hoàn toàn có thể có một luợng vốn lớn hơn vốn pháp định mà những chủ sở hữu trong công ty tự thoả thuận về số lượng và tỉ lệ góp vốn, đây là vốn điều lệ. Vốn điều lệ nhìn chung là do tự những người sáng lập nên công ty thoả thuận với nhau miễn là không nhỏ hơn vốn pháp định, tất nhiên đối với một số ngành nghề nhất định, nhà nước cũng có những quy định riêng về lượng vốn điều lệ tối đa. +Vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô của số vốn tự có ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có lãi thì nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ được mở rộng, đó là do nguồn vốn từ việc giữ lại lãi trong kinh doanh. Số lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư sẽ làm tăng thêm nguồn vốn của chủ sở hữu, tăng khả năng tài chính của doanh nghiệp, được phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Quy mô và tỷ lệ vốn giữ lại từ lợi nhuận phụ thuộc vào tình hình kinh doanh, kết quả hoạt động của thời kỳ đã qua và quyết định của chủ doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài chính và khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm bớt được chi phí, giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều công ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Tuy nhiên, nên lưu ý với trường hợp các công ty cổ phần, việc giữ lại lợi nhuận có liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm. Khi công ty giữ lại lợi nhuận mà không chia cho cổ đông dưới hình thức cổ tức, thì quyền sở hữu vốn cổ phần của các cổ đông sẽ tăng lên. Giá trị sổ sách của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kì trước mắt, do cổ đông chỉ nhận được một lượng cổ tức nhỏ nhất định. Đấy là còn chưa kể đến những rủi ro khi tỷ suất sinh lời của công ty giảm xuống, không đủ để đáp ứng chi trả một tỷ lệ cổ tức phù hợp. Khi đó, giá cổ phiếu sẽ bị giảm sút hay giá trị thị trường của công ty sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của Công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như: - Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ - Tỷ lệ cổ tức các năm trước - Uy tín của cổ phiếu, tính ổn định và tâm lý công chúng trên thị trường cổ phiếu - Hiệu quả của việc tái đầu tư + Phát hành cổ phiếu: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta có thể nhắc tới một số loại hình cổ phiếu cơ bản sau: Cổ phiếu thường: Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là mặt hàng quan trọng nhất là được trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Mặc dù phát hành cổ phiếu thường có nhiều ưu thế so với các phương thức huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần được cân nhắc kĩ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có tính pháp lý. Lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty được quyền phát hành là vốn cổ phiếu được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Uỷ ban chứng khoán nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại nhiều nước, số cổ phiếu được phép phát hành được ghi trong điều lệ của công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết cần phải được đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất các thủ tục quy định khác. Hầu hết, các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi ro cho công chúng. Thông thường, một Công ty có thể phát hành số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành. Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của Nhà nước và Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Ví dụ như ở nước ta hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thiện để tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp và lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ các công ty hoạt động trong một thị trường chứng khoán còn non trẻ như ở nước ta đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh và lâu dài cho thị trường chứng khoán ở nước ta. Cổ phiếu ưu tiên: Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là thường có cổ tức ổn định. Người chủ sở hữu của cổ phiếu này có quyền được thành toán lãi trước các cổ đông thông thường. Nếu có lãi chỉ đủ chi trả cổ tức cho cổ đông ưu tiên thì cổ đông thông thường sẽ không được nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết chính sách cho cổ đông ưu tiên thường được quy định rõ trong điều lệ công ty. Một vấn đề quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập Công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Mặc dù vậy, như đã đề cập, cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm đối với cả Công ty phát hành và cả nhà đầu tư. b) Nguồn vốn tín dụng, nợ và huy động nợ: Nguồn vốn tín dụng của DNNQD bao gồm các nguồn chủ yếu sau - Vay Ngân hàng quốc doanh (hạn mức tín dụng, hợp đồng vay mượn...) - Vay Ngân hàng thương mại cổ phần - Vay mượn từ công chúng và các doanh nghiệp khác (tín dụng thương mại, trái phiếu, thương phiếu...) - Vay các tổ chức tài chính phi ngân hàng( tổ chức tín dụng, HTX tín dụng, quỹ tín dụng) - Các nguồn khác (phi chính thức) Khi nhắc đến các nguồn vốn tín dụng, xét trên phương diện pháp lý của thị trường tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân người ta thường phân chia nó thành thị trường tín dụng chính thức và thị trường tín dụng phi chính thức. Tín dụng chính thức là hình thức huy động vốn và cho vay thông qua các tổ chức trung gian tài chính có đăng ký và hoạt động công khai theo luật, hoặc chịu sự quản lý và giám sát của chính quyền nhà nước các cấp. Hoạt động theo hình thức này chính là các hệ thống ngân hàng nhà nước, kho bạc, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng, các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, các tổ chức kinh tế có hoạt động ngân hàng, các tổ chức phi chính phủ trong nước và ngoài nước, các tổ chức quốc tế, các chương trình và các dự án của các ngành được thực hiện bằng nguồn vốn tín dụng của chính phủ và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Quỹ Quốc tế và phát triển Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (IFDA)v.v. Tất nhiên, sự tiếp cận của các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay đến các nguồn vốn từ các tổ chức lớn như WB hay IMF là cực kì hạn chế, nhưng bù lại lại có những quỹ đầu tư nước ngoài như Dragon Capital ... lại tập trung đầu tư chủ yếu vào các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tín dụng không chính thức hay tín dụng phi chính thức (trong xã hội nhiều người còn quen gọi là tín dụng ngầm) là hoạt động nằm ngoài khuôn khổ luật định của nhà nước, hoặc không phụ thuộc và không chịu sự quản lý, giám sát của chính quyền nhà nước các cấp. Nó bao gồm hoạt động cho vay của những người cho vay lấy lãi, của các tư thương dưới hình thức bán chịu hàng hoá, của các chủ cửa hàng cầm đồ, các nhóm tự hợp tác tín dụng dưới các hình thức chơi hụi, họ hoặc phường, hình thức cho vay bạn bè anh em, hàng xóm. Như vậy, dù đó là việc đi vay chính thức hay không chính thức thì vấn đề đặt ra cho một cơ chế quản lý tài chính là phải tổ chức xây dựng cho các doanh nghiệp NQD một cơ chế, một khuôn khổ hiệu quả, năng động trong việc tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho sự phát triển. Tuy nhiên quá trình huy động và sử dụng vốn cũng không được diễn ra một cách quá ồ ạt, thiếu tổ chức và giám sát của các cơ quan chức năng, tránh gây nên hiện tượng tiêu cực thiếu lành mạnh, gây nên những hậu quả không tốt cho nền kinh tế. 1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD: Các vấn đề đặt ra đối với việc quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD bao gồm các vấn đề như: + Quản lý tài sản cố định + Quản lý tài sản lưu động a) Công tác quản lý tài sản cố định: Tài sản cố định trong doanh nghiệp bao gồm các tài sản có giá trị lớn hơn 5 triệu đồng và thời hạn khấu hao hơn 1 năm. Công tác quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp NQD bao gồm quản lý 3 mặt chủ yếu sau đây : + Quản lý tài sản cố định hữu hình(TSCĐHH) + Quản lý tài sản cố định vô hình(TSCĐVH) + Quản lý khấu hao tài sản cố định(KHTSCĐ) - Quản lý tài sản cố định hữu hình: TSCĐHH bao gồm các nhóm tài sản như: Thứ nhất là nhóm tài sản nhà xưởng kho bãi, văn phòng, và các công trình xây dựng có mục đích tương tự. Đây là nhóm tài sản tạo ra môi trường, không gian hoặc nơi làm việc. Thời gian thu hồi khấu hao tài sản cố định của nhóm này khá dài, từ 10 đến 30 năm, thậm chí các công trình lớn lên đến 50 năm. Thứ hai là nhóm máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền sản xuất. Thứ ba là nhóm phương tiện vận tải xe cộ, phương tiện cơ giới có chức năng vận chuyển, đối với nhóm này cần chú ý đến chi phí xăng dầu, nhiên liệu và các vấn đề về bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự... Thứ tư là nhóm các thiết bị văn phòng, đo lường và kiểm định. Đây là nhóm thiết bị thường xuyên được thay đổi nâng cấp. Gắn liền với nhóm tài sản này là những chi phí liên quan đến công tác bảo mật thông tin, hỗ trợ nghiệp vụ và những bí quyết riêng của mỗi công ty. - Quản lý tài sản cố định vô hình: Đây là nhóm tài sản mang một số thuộc tính đặc biệt, khó xác định hình thái vật chất, thậm chí trừu tượng, nhưng có ảnh hưởng quan trọng đối với sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài. Điển hình là các yếu tố : + Chi phí thành lập, chi phí khảo sát thiết kế + Uy tín lợi thế thương mại + Quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ: Chẳng hạn, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, bằng phát minh sáng chế, bản quyền, giải pháp công nghệ hữu ích v.v + Đặc quyền khai thác, kinh doanh, quyền đăc nhượng hoặc giấy phép đặc biệt trong một số lĩnh vực. Trong thực tế, rất khó đánh giá chính xác giá trị của một tài sản cố định vô hình vì nó không tồn tài dưới dạng vật chất cụ thể có thể đo đếm hay định giá rõ ràng. Tuy nhiên sự phát triển của các thị trường tài chính, thị trường về quyền sở hữu công nghiệp đã tạo điều kiện hình thành các mức giá thị trường cho tài sản cố định vô hình. Công ty cần hạch toán chính xác các chi phí ngay từ khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp hay dự án. Đó là các chi phí như Chi phí khảo sát thiết kế, xây dựng luận chứng kinh tế-kĩ thuật, chi phí cần thiết và hợp lý cho các thủ tục pháp lý như đăng ký kinh doanh, thuế trước bạ, lệ phí chứng thư, ngoài ra còn có các chi phí như mua bán quyền sáng chế, phát minh, hoặc trị giá được thừa nhận của quyền sở hữu công nghiệp. Doanh nghiệp dự tính tuổi thọ hữu ích cho tài sản cố định vô hình, tức là dự tính thời gian tính khấu hao của các tài sản cố định vô hình. Hiện nay, ở nước ta chưa có phương pháp tính chính thức nào được đưa ra, nhưng có thể dùng phương pháp chuyên gia để đánh giá. Mục đích của việc tính toán này không phải là sự chính xác tuyệt đối mà nhằm phản ánh tương đối lợp lý chi phí khấu hao vào giá thành sản phẩm và dịch vụ. - Quản lý KHTSCĐ Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định dần hư hỏng và xuống cấp, đây được hiểu là sự hao mòn. Sự hao mòn đó làm giảm giá trị của tài sản cố định một cách tương ứng. Do đó công ty phải xác định trị giá hao mòn trong từng thời kỳ và hạch toán vào giá thành sản phẩm, đó chính là khái niệm khấu hao tài sản cố định. Quá trình hao mòn bao gồm hai hình thái: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là sự suy giảm giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn, xuống cấp về mặt vật chất. Các hao mòn hữu hình có thể quan sát nhận biết được bằng trực quan, như sự han gỉ, hư hỏng các chi tiết, hiệu suất hoạt động giảm ... Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào điều kiện hoạt động, cường độ khai thác, chế độ vận hành bảo dưỡng và tuổi thọ của tài sản cố định. Hao mòn vô hình (HMVH) là sự mất giá tương đối và tuyệt đối của tài sản cố định do tiến bộ khoa học kĩ thuật, do thị hiếu hay do các nhân tố khác. Đây là sự giảm sút giá trị của tải sản không biểu hiện qua bên ngoài của máy móc. Do đó, có những thiết bị còn mới 100% chưa qua sử dụng nhưng lạc hậu về công nghệ thì giá trị bị giảm sút rất nhiều. Khi mua sắm vật tư máy móc dây chuyền sản xuất cần lưu ý vấn đề này. Việc áp dụng phương pháp và tỷ lệ khấu hao có quan hệ trực tiếp đến chi phí sản xuất trong kỳ, do đó liên quan trực tiếp đến thuế thu nhập doanh nghiệp phải đóng. Ngoài ra, KHTSCĐ còn liên quan rất lớn đến việc xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị còn lại của tài sản cố định bằng hiệu số giữa nguyên giá trừ đi số khấu hao luỹ kế. Do đó, giá trị còn lại của tài sản phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp và các chế độ khác về khấu hao. Do tầm quan trọng của chế độ khấu hao nên ở các nước đều có cơ chế thể hiện qua các quy định kiểm soát việc khấu hao tài sản cố định của các doanh nghiệp. Nội dung của các quy định nhà nước về khấu hao thường bao gồm một số điểm sau + Cho phép chọn hay ấn định bắt buộc phương pháp tính khấu hao nhất định + Quy định về tỷ lệ khấu hao (khung tỷ lệ về khấu hao) đối với nhóm tài sản cố định nhất định + Quy định về tuổi thọ hữu ích của tài sản cố định + Quy định các nghiệp vụ kế toán liên quan đến việc hạch toán khấu hao tài sản cố định, kế toán đối với tài sản cố định cho thuê tài chính. Vấn đề quản lý quỹ khấu hao tài sản cố định cũng phải được quy định cụ thể. Số khấu hao luỹ kế trích từng kỳ cộng dồn lại và tào thành một nguồn vốn cho doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề phân bổ nguồn vốn này như thế nào, khi nào thì phân bổ và phân bổ cho những vấn đề gì cũng cần có những quy định chặt chẽ để tránh những gian lận những hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định về quản lý khấu hao cũng không được quá cứng nhắc hay giáo điều. Vì nếu vậy, sẽ gây ra những khó khăn không đáng có đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp có thể chậm hay ngại đổi mới, nâng cấp trang thiết bị, không đầu tư vào dây chuyền sản xuất, hạn chế tính tự chủ và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Xu hướng đổi mới là giao cho doanh nghiệp những quyền tự chủ nhất định rộng rãi hơn, thoáng hơn trong việc quản lý sử dụng khấu hao tài sản cố định, làm tăng tính linh hoạt và tính hiệu quả trong vấn đề quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. b) Quản lý tài sản lưu động: Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động phần lớn đóng vai trò là đối tượng lao động, tức là các vật bị tác động trong quá trình chế biến, bởi lao động của con người hay máy móc. Do đó, tài sản lưu động phản ánh các dạng nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, phụ liệu v.v Tuy nhiên cần lưu ý một số loại công cụ lao động nhỏ, dụng cụ nhỏ cũng được coi là tài sản lưu động mặc dù về bản chất chúng thuộc tài sản cố định, vì chúng có giá trị nhỏ và thường xuyên được thay thế. Đối với tài sản lưu động, chúng ta không có khái niệm khấu hao vì giá trị của tài sản lưu động được chuyển một lần và toàn bộ vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất. Chúng ta có thể cơ cấu và phân loại một số loại tài sản lưu động chủ yếu sau đây: - Tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển (nội tệ và ngoại tệ) đều thuộc nhóm "tài sản bằng tiền". Đây là loại tài sản phản ánh khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, một số doanh nghiệp sẽ chịu cảnh lao đao, thậm chí là nguy cơ phá sản nếu thiếu tiền mặt đây cũng là một điểm đáng chú ý khi xây dựng một cơ chế quản lý tài chính cho doanh nghiệp. - Các tài sản tương đương tiền Đây cũng là nhóm tài sản có khả năng chuyển đổi cao, tức là dễ bán, dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết. Nhóm tài sản này bao gồm các loại chứng khoán nhưng chỉ các loại chứng khoán ngắn hạn hay sắp đến kỳ thanh toán. Ngoài ra cũng phải kể đến một số loại như hối phiếu, kỳ phiếu, chứng từ thanh toán v.v - Chi phí trả trước: Bao gồm các khoản tiền mà Công ty đã trả trước cho người bán, nhà cung cấp hay các đối tượng khác. Một số khoản trả trước có độ rủi ro cao, phụ thuộc vào nhiều yếu tố không dự đoán trước được. - Các khoản phải thu: Các khoản phải thu là một loại tài sản quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt là các Công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hoá. Hoạt động mua bán chịu giữa các bên làm phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Thực ra, các khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ mua bán, quan hệ hợp đồng. Trong thực tế, cần có những quy định cụ thể, những chính sách nhất định để quản lý loại tài sản này, đảm bảo khả năng thanh toán và bảo tồn nguồn vốn lưu động cho doanh nghiệp. - Hàng hoá vật tư (Inventory) Hàng hóa vật tư được theo dõi trong một tài khoản gọi là hàng tồn kho. Hàng tồn kho trong khái niệm này không có nghĩa là hàng hóa bị ứ đọng, không bán được, mà thực chất bao hàm toàn bộ các hàng hoá vật liệu, nguyên liệu đang tồn tại ở các nhà kho, quầy hàng hoặc trong xưởng. Trên thực tế, hàng hoá tồn kho có thể bao gồm hàng trăm chủng loại khác nhau. Tuy nhiên, có thể gộp lại thành ngững nhóm sau: nguyên liệu vật liệu chính, vật liệu phụ, thành phẩm, sản phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ, phụ tùng thay thế, sản phẩm hỏng và các loại khác. - Các chi phí chờ phân bổ Trong thực tế hoạt động, một khối lượng nguyên vật liệu và một số khoản chi phí đã phát sinh nhưng có thể chưa được phân bổ vào đánh giá thành phẩm hay dịch vụ. Những khoản này sẽ được đưa vào giá thành trong khoảng thời gian thích hợp. 1.2.2.3 Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD: Doanh thu và chi phí là hai chỉ tiêu quan trọng để xác định kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế quảnlý doanh thu và chi phí của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng liên quan đến việc xác định kết quả hoạt động kinh doanh và mức thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Do vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của bản thân doanh nghiệp cũng như lợi ích của nhà nước. 1.2.2.3.1 Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD: Doanh thu là chỉ tiêu tài chính phản ánh tổng giá trị được tính bằng tiền của hàng hoá và dịch vụ đã tiêu thụ trong một thời gian nhất định. Doanh thu của một doanh nghiệp gồm doanh thu từ hoạt động kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động bất thường khác. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền bán hàng, cung ứng dịch vụ trong kỳ được ghi nhận từ khi khách hàng chấp nhận trả tiền. Doanh thu gộp tức là doanh thu bao gồm cả các khoản giảm trừ. Doanh thu thuần hay doanh thu ròng là hiệu số của doanh thu gộp và các khoản giảm trừ, như hàng hoá bị trả lại, giảm giá hàng bán, chiết khấu bán hàng. Ngoài ra doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm: + Các khoản chi phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có), trợ giá, phụ thu theo quy định của Nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng đối với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ trong kỳ + Giá trị các sản phẩm hàng hoá đem biếu tặng, trao đổi hoặc tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp. Doanh thu từ hoạt động tài chính là doanh thu phát sinh do việc cho các bên khác sử dụng, thuê tài sản của công ty, lãi phát sinh từ việc đầu tư vào các tài sản tài chính, lãi tiền gửi, trái phiếu, mua bán các loại chứng khoán và từ việc đầu tư vào các dự án và công ty khác. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt động tài chính còn bao gồm: Từ hoạt động nhượng bán ngoại tệ hoặc thu nhập về chênh lệch tỷ giá nghiệp vụ ngoại tệ theo quy định của chế độ tài chính; Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoán; Tiền cho thuê tài sản đối với doanh nghiệp cho thuê tài sản không phải là hoạt động kinh doanh thường xuyên. Doanh thu khác phát sinh là do các khoản thu từ các hoạt động xảy ra không thường xuyên như: thu từ bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa; các khoản phải trả nhưng không trả được vì nguyên nhân từ phía chủ nợ, thu chuyển nhượng, thanh lý tài sản, nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu hồi được, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi đã trích vào chi phí của năm trước, hoàn nhập số dư chi phí trích trước về bảo hành hàng hoá, sản phẩm, công trình và hạng mục công trình khi hết thời hạn bảo hành, chi phí trích trước về sửa chữa TSCĐ lớn hơn số thực chi; thu về cho sử dụng hoặc chuyển quyền sử dụng sở hữu trí tuệ, thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, thu về chiết khấu thanh toán, thu về chiết khấu thanh toán, các khoản thuế phải nộp (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp) được Nhà nước giảm. Chú ý rằng doanh thu thực được ghi nhận khi hàng hoá, dịch vụ được xác định là thực hiện nghĩa là đã giao hàng, đã thanh toán hoặc khách hàng chấp nhận trả tiền. Đây là một cơ sở quan trọng để xác định doanh thu trong doanh nghiệp. 1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD: Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các yếu tố tiêu hao phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ xác định. Về bản chất, chỉ tiêu chi phí phản ánh sự tiêu hao, sự phí tổn các yếu tố hữu hình và vô hình dưới hình thức tiêu hao lao động sống và lao động quá khứ trong một thời kỳ nhất định. Trong cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp, cần chú trọng hoàn thiện các quy định, các nguyên tắc hạch toán chi phí. Số liệu và thông tin báo cáo sai lệch có thể dẫn đến những quyết định sai. Một trong những nguyên nhân thường gây ra sai sót trong kế toán chi phí, đó là sự lẫn lộn giữa chi phí phát sinh và khoản tiền chi ra của doanh nghiệp trong kỳ kế toán. Ngoài ra, doanh nghiệp được hạch toán chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế phát sinh có chứng từ hợp pháp, hợp lệ, hợp lý. Cơ chế tài chính còn phải phân biệt rõ sự khác nhau giữa chi phí sản xuất kinh doanh thực tế phát sinh và chi phí được thừa nhận để xác định lợi nhuận chịu thuế. Nói cách khác, cơ chế phải làm rõ sự khác biệt giữa nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp và các quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sẽ trình bày rõ hơn ở phần sau). Các chi phí của doanh nghiệp bao gồm các loại chính sau: a) Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: Chi phí hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất là các chi phí về vật tư, chi phí về hao mòn máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác, chi phí về tiền lương và tiền công cho người lao động và các chi phí khác bằng tiền. * Chi phí hoạt động kinh doanh có thể được phân loại theo nội dụng kinh tế như sau: + Chi phí nguyên, nhiên vật liệu (chi phí vật tư) + Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là số khấu hao tài sản cố định trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản của doanh nghiệp + Chi phí tiền lương: là toàn bộ tiền lương, tiền công chi phí có tính chất lương doanh nghiệp phải trả. + Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. + Chi phí dịch vụ mua ngoài là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiêp như vận chuyển, điện nước, điện thoại, sửa chữa tài sản cố định, tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, bảo hiểm tài sản, đại lý, môi giới, uỷ thác xuất nhập và các dịch vụ khác. + Chi phí bằng tiền khác. * Theo công dụng và địa điểm phát sinh, chi phí kinh doanh được chia thành: + Chi phí vật tư trực tiếp. + Chi phí nhân công trực tiếp. + Chi phí sản xuất chung. + Chi phí bán hàng. + Chi phí quản lý doanh nghiệp. * Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh và khối lượng hàng hoá bán ra hoặc doanh thu tiêu thụ, chi phí kinh doanh được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi (còn gọi là định phí, biến phí) Chi phí cố định là những chi phí không bị biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng hàng bán hoặc doanh thu tiêu thụ, bao gồm: + Chi phí khấu hao tài sản cố định. + Chi phí bảo hiểm. + Tiền lương trả cho các nhà quản lý, chuyên gia. + Thuế môn bài. + Chi phí quảng cáo. + Thuê tài chính hay thuê bất động sản. + Chi phí bảo hiểm rủi ro... Chi phí biến đổi là những chi phí biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng hàng bán hay doanh thu tiêu thụ, bao gồm các loại chi phí như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, tiền hoa hồng bán hàng... b) Chi phí hoạt động tài chính của doanh nghiệp: là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động tài chính gồm các loại chính sau: + Chi phí phát sinh liên quan đến các hoạt động liên doanh, liên kết. + Chi phí cho thuê tài sản. + Chi phí mua bán trái phiếu, cổ phiếu, kể cả khoản tổn thất trong đầu tư nếu có. + Dự phòng giảm giá chứng khoán. + Giá trị ngoại tệ bán ra, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ theo chế độ tài chính hiện hành (không bao gồm chênh lệch tỷ giá ngoại tệ thuộc vốn vay để đầu tư xây dựng cơ bản khi công trình chưa đưa vào sử dụng hoặc vốn vay bằng ngoại tệ để góp vốn liên doanh). + Chi phí về số lãi phải trả để huy động vốn sử dụng trong kỳ. + Chi phí triết khấu thanh toán cho người mua hàng hoá dịch vụ khi thanh toán tiền trước thời hạn. + Chi phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. c) Chi phí bất thường là cáckhoản chi phí xảy ra không thường xuyên, gồm các loại chính sau: + Chi phí nhượng bán, thanh lý TSCĐ (bao gồm cả giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý và nhượng bán). + Giá trị tổn thất thực tế sau khi đã giảm trừ tiền đền bù của người phạm lỗi và tổ chức bảo hiểm, trị giá phế liệu thu hồi (nếu có) và số đã được bù đẵp bằng các quỹ dự phòng tài chính. + Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ phải thu khó đòi đã xoá sổ kế toán. + Chi phí vê tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế. + Chi phí để thu tiền phạt. + Các khoản chi phí bất thường khác. d) Chi phí hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp thương nghiệp: Đây là điểm đáng chú ý vì doanh nghiệp thương nghiệp có những đặc điểm khác nhất định so với các doanh nghiệp sản xuất. Chi phí kinhdoanh trong doanh nghiệp thương nghiệp là giá trị mua vào của lượng hàng hoá bán ra và chi phí lưu thông hàng hoá. Chi phí lưu thông hàng hoá thường gồm: + Chi phí khâu mua và dự trữ hàng hoá. + Chi phí bán hàng. + Chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí lưu thông phân bổ cho lượng hàng hoá xuất bán trong kỳ được tính theo công thức sau: Chi phí lưu thông phân bổ cho lượng hàng hoá xuất bán trong kỳ = CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ đầu kỳ + Tổng CPLT phát sinh trong kỳ - CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ = CPLT phân bổ cho hàng dự trữ đầu kỳ + Các khoản CPLT phát sinh ở khâu mua hàng và dự trữ hàng hoá X Trị giá hàng hoá dự trữ cuối kỳ Trị giá hàng hoá dự trữ đầu kỳ + Trị giá hàng hoá mua vào trong kỳ Quản lý chi phí được thực hiện trên cơ sở các chi phí thực phát sinh của doanh nghiệp và các quy định của bộ tài chính về chi phí của doanh nghiệp. Đồng thời, tất cả các chi phí của doanh nghiệp đều phải có chứng từ hợp lệ theo đúng quy định của pháp luật. 1.2.2.4. Quản lý việc phân phối lợi nhuận đối với doanh nghiệp NQD: Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động trong doanh nghiệp. Lợi nhuận là số tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó. Nội dung lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm: - Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh: là số lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu của doanh nghiệp. - Lợi nhuận từ hoạt động khác: là số lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác, bao gồm từ hoạt động tài chính và bất thường. Các phương pháp cơ bản xác định lợi nhuận của doanh nghiệp: * Phương pháp trực tiếp : Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định trực tiếp từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp như sau: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh = Doanh thu thuần - Trị giá vốn hàng bán - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lý doanh nghiệp Hoặc Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh = Doanh thu thuần - Giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ trong kỳ Trong đó: - Doanh thu thuần = Doanh thu tiêu thụ - Các khoản giảm trừ doanh thu - Các khoản doanh thu = Hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt Trị giá vốn hàng bán : + Đối với doanh nghiệp sản xuất: Trị giá vốn hàng bán = Giá thành sản xuất của khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ Giá thành SX của khối lượng SP tiêu thụ trong kỳ = Giá thành SX của khối lượng SP tồn kho đầu kỳ + Giá thành SX của khối lượng SP sản xuất trong kỳ - Giá thành SX của khối lượng SP tồn kho cuối kỳ + Đối với doanh nghiệp thương nghiệp: Trị giá vốn hàng bán = Trị giá mua vào của hàng hoá bán ra Trị giá mua vào của hàng hoá bán ra = Trị giá hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá hàng hoá mua vào trong kỳ - Trị giá hàng hoá tồn kho cuối kỳ Lợi nhuận từ các hoạt động khác bao gồm lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận bất thường. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính = Thu nhập HĐTC - Chi phí HĐTC Lợi nhuận hoạt động bất thường = Thu nhập HĐBT - Chi phí HĐBT Tổng số lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp là tổng số lợi nhuận từ các hoạt động trên được xác định như sau: Lợi nhuận trước thuế TNDN = Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh + Lợi nhuận từ hoạt động tài chính + Lợi nhuận từ hoạt đông bất thường Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuần trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp Hoặc Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế x (1- Thuế suất thuế TNDN) * Phương pháp xác định lợi nhuận gián tiếp ( xác định qua các bước trung gian) Lợi nhuận của doanh nghiệp được tính dần qua từng khâu hoạt động. Cách tính này cho phép người quản lý nắm được quá trình hình thành lợi nhuận và tác động của từng khâu hoạt động đến kết quả hoạt đông kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế. Dưới đây là cách xác định lợi nhuận theo phuơng pháp đang được sử dụng ở nước ta hiện nay: 1. Doanh thu bán hàng 2. Cáckhoản giảm trừ - Giảm giá hàng bán - Hàng bán bị trả lại - Thuế xuất khẩu - Thuế tiêu thụ đặc biệt 3. Doanh thu thuần về bán hàng (= 1 - 2) 4. Trị giá vốn hàng bán 5. Lợi nhuận gộp về hoạt động kinh doanh (=3 - 4) 6. Chi phí bán hàng 7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 8. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ( = 5 - 6 - 7 ) 9. Thu nhập hoạt động tài chính 10. Chi phí hoạt động tài chính 11. Lợi nhuận hoạt động tài chính ( = 9 - 10 ) 12. Thu nhập hoạt động bất thường 13. Chi phí bất thường 14. Lợi nhuận bất thường ( = 12 - 13 ) 15. Lợi nhuận trước thuế ( = 8 + 11 + 14 ) 16. Thuế thu nhập doanh nghiệp 17. Lợi nhuận sau thuế ( = 15 - 16 ) *Quá trình phân phối lợi nhuận doanh nghiệp Lợi nhuận làm ra của các doanh nghiệp cần được phân phối và sử dụng một cách đúng đắn và hợp lý. Phân phối lợi nhuận đúng đắn được hiểu là kết hợp hài hoà lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, do vậy nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích người lao động và tạo nguồn thu cho Nhà nước. Lợi nhuận thực hiện trong năm được phân phối theo cách sau (căn cứ trên Nghị định 59/NĐCP và 27/NĐCP về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp quốc doanh): - Chuyển lỗ theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (nếu có) - Nộp thuế thu nhập theo luật định - Bù lỗ các năm trước không được bù vào lợi nhuận trước thuế - Trả tiền vi phạm pháp luật Nhà nước như: Vi phạm luật thuế, luật giao thông, luật môi trường, luật thương mại và quy chế hành chính... sau khi đã trừ đi tiền bồi thường của tập thể cá nhân gây ra (nếu có) - Trừ các khoản chi thực tế đã chi nhưng không được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế - Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu có). Phần lợi nhuận còn lại dùng để trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp: Quỹ dự phòng tài chính, Quỹ đầu tư phát triển, Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, Quỹ đặc biệt đối với một số ngành đặc thù ( như ngân hàng thương mại, bảo hiểm v.v ...), Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi. Đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận sau khi đã nộp đủ thuế theo luật định được phân chia do đại hội cổ đông quyết định, trong đó có số lợi nhuận trích lập các quỹ của công ty, số lợi nhuận chia cho các cổ đông hàng năm Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thì phần lợi nhuận sau thuế được phân chia theo quyết định của các thành viên công ty. Điều đáng lưu ý đối với công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn trong việc phân phối lợi nhuận sau thuế là phải trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc cho đến mức 10% vốn điều lệ của công ty theo pháp luật quy định. Cũng những phân tích trên, thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng có một vai trò rất quan trọng trong việc phân phối lợi nhuận của các doanh nghiệp NQD. Trên giác độ quản lý nhà nước, thuế chính là một công cụ hữu hiệu mà nhà nước có thể dùng để tác động đến các doanh nghiệp NQD. Tuỳ thuộc vào từng ngành nghề sản xuất kinh doanh, loại hình công ty, quy mô triển vọng phát triển... nhà nước có thể ra những chính sách thuế nhằm khuyến khích phát triển hay hạn chế đối với các loại hình doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp NQD, lợi nhuận sau thuế mới là điều mà họ quan tâm nhất, mục tiêu lớn nhất của họ. Vì thế, không thể phủ nhận rằng các doanh nghiệp tư nhân luôn có xu hướng trốn thuế, lách thuế, lậu thuế. Vấn đề đặt ra là một cơ chế quản lý thuế đối với doanh nghiệp cần được xây dựng và thực hiện một cách hợp lý, chặt chẽ, công bằng và hiệu quả. Sau đây, chúng ta hãy tìm hiểu chung nhất về thuế TNDN. * Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập của doanh nghiệp. Thuế thu nhập phải nộp được tính theo công thức: Thuế thu nhập phải nộp = Thu nhập chịu thuế X Thuế suất thuế thu nhập Thu nhập chịu thuế = Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế - Chi phí tính thuế hợp lý + Thu nhập chịu thuế khác - Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung ứng dịch vụ, bao gồm cả cáckhoản trợ giá, phụ thu, phụ trội mà doanh nghiệp được hưởng. Đối với trường hợp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu để xác định thu nhập chịu thuế là tổng giá thanh toán, bao gồm cả thuế GTGT. Đối với trường hợp tính thuế GTGT theo phương phát khấu trừ thì doanh thu để xác định thu nhập chịu thuế là doanh thu không có thuế GTGT. - Chi phí tính thuế được sẵp xếp vào một số nhóm chính sau: + Khấu hao tài sản cố định + Chi phí nguyên vật liệu + Tiền lương, tiền công + Chi phí nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, hỗ trợ giáo dục + Chi phí mua ngoài + Chi cho lao động nữ, bảo hộ lao động, y tế, công đoàn + Chi trả lãi tiền vay + Trích dự phòng + Trợ cấp thôi việc + Chi phí tiêu thụ, bảo hành sản phẩm + Quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại + Thuế, phí, tiền thuê đất + Chi phí quản lý của công ty mẹ + Bên đi thuê trả tiền trước cho nhiều năm Tóm lại, công tác phân phối lợi nhuận của các doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiêu yếu tố: hình thức sở hữu và cấu trúc doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu tổ chức, chính sách và những quy định cụ thể từ phía pháp luật, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Tất cả những vấn đề trên đều cần được quy định rõ ràng và phù hợp trong cơ chế quản lý tài chính của nước ta. 1.2.2.5. Quản lý công tác kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính trong doanh nghiệp: Công tác kế toán kiểm toán, công khai tài chính phải phản ánh trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp trên nguyên tắc và các chuẩn mực kế toán kiểm toán Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, là công cụ cho công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp. Đây là điều kiện kiên quyết để có thể thực hiện tốt các chức năng quản lý khác, chúng ta không thể đặt vấn đề có một cơ chế quản lý tài chính hợp lý, hiệu quả nếu không có thông tin một cách đầy đủ và chính xác về tình hình tài chính thực sự trong các doanh nghiệp. Quy định đầy đủ, chính xác về quy trình lập và báo cáo các thông tin tài chính là một nhiệm vụ quan trọng để hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Về cơ bản báo cáo tài chính trong một doanh nghiệp bao gồm các loại sau: - Bảng cân đối kế toán - Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ - Và các tài liệu thuyết minh, bổ xung gắn kèm khác. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải luôn luôn đề cao công tác kiểm toán, kiểm soát tài chính đối với các doanh nghiệp, bao gồm cả kiểm soát nội bộ và các cuộc thanh tra kiểm soát của các cơ quan chức năng. Trên đây là những nội dung cơ bản mà người hoạch định chính sách, khi xây dựng một cơ chế quản lý tài chính cho các doanh nghiệp NQD phải lưu tâm. Có hiểu biết thấu đáo các vấn đề cơ bản trên, cộng thêm kinh nghiệm thực tiễn và những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể trong nước thì chúng ta mới có thể xây dựng được một cơ chế quản lý tài chính thực sự phù hợp và hiệu quả, đi đúng định hướng mà đảng và nhà nước đã đề ra. 1.2.3. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD: Như trên đã phân tích, doanh nghiệp NQD đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước, những đóng góp của kinh tế NQD trong những năm vừa qua là không thể phủ nhận. Với tầm quan trọng của mình, DNNQD xứng đáng có được một vị trí quan trọng hơn trong cơ cấu kinh tế ở nước ta. Một cơ chế tài chính tách biệt, độc lập nhằm phát huy tính hiệu quả của DNNQD đồng thời thể hiện nhận thức đúng đắn của xã hội và các cấp lãnh đạo đối với khu vực kinh tế này là hết sức cần thiết. DNNQD với đặc điểm là sở hữu tư nhân, nhà nước không thể can thiệp trực tiếp, quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, vì thế một cơ chế đúng đắn không những đảm bảo cho DNNQD phát triển mà nó còn giúp bộ phận kinh tế này phát triển một cách có định hướng và đặt trong sự quản lý chặt chẽ của các cấp chính quyền thể hiện bản chất và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nó chính là công cụ quản lý nhà nước đối với sự phát triển của khu vực kinh tế này. Cơ chế điều hành DNNQD phải thể hiện sự can thiệp đến các doanh nghiệp với tư duy và biện pháp kinh tế, phù hợp với trình độ và điều kiện phát triển của DNNQD, tránh cho doanh nghiệp có suy nghĩ bị ép buộc gò bó, bị phân biệt đối xử rồi từ đó dẫn đến những tệ nạn tiêu cực khác. Một cơ chế như vậy sẽ có tác động quyết định trong việc hình thành nên các quyết định kinh tế của những người lãnh đạo, những người trực tiếp sở hữu doanh nghiệp. Họ sẽ hướng những hành vi kinh tế của mình vì lợi ích của bản thân,và hơn nữa là vì lợi ích của người lao động và xã hội. Cơ chế tài chính đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nên môi trường hoạt động lành mạnh, công bằng và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Nó giúp cho các doanh nghiệp có sự hoạt động nhịp nhàng hợp lý, bổ sung lẫn nhau, cùng nhau phát triển. Cơ chế tài chính càng trở nên đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực tài chính, một cơ chế quản lý tài chính lành mạnh và hiệu quả là lá chắn cho nền kinh tế nước ta thoát khỏi những khuyết tật của nền kinh tế thị trường như nạn độc quyền, ngoại ứng tiêu cực, thông tin bất cân xứng và đặc biệt là những cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, những gì đã từng làm cho các nước trên thế giới và trong khu vực chịu nhiều tổn thất trong thời gian vừa qua. Trong thời kì, mở cửa hội nhập, cơ chế tài chính thông thoáng, nhất quán và triệt để chính là điều hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, kêu gọi vốn đầu tư, tăng nguồn vốn phát triển kinh tế xã hội trong nước. Đây là một điều kiện phát triển tất yếu mà mỗi quốc gia không thể đứng ngoài cuộc trong nền kinh tế được toàn cầu hoá, hợp tác đa phương đa chiều sâu sắc như hiện nay. Tóm lại, cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD có vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống, cơ chế phát triển kinh tế chung của đất nước. Nó không chỉ giới hạn ảnh hưởng trong lĩnh vực tài chính mà cũng không chỉ có tác dụng đối với bộ phận kinh tế NQD, nó là một yếu tố không thể thiếu, ảnh hưởng sâu rộng trên mọi mặt của đất nước. 1.3. Sự cần thiết phải thiết lập cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD: Việc thiết lập cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD là một nhiệm vụ thực sự cần thiết và mang tính cấp bách cao trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Trước hết, việc xây dựng cơ chế quản lý tài chính độc lập và chính thức đối với DNNQD sẽ chứng tỏ quan điểm rõ ràng của Đảng và Nhà nước ta trong việc khuyến khích phát triển đối với khu vực kinh tế này. Điều đó cũng thể hiện Đảng và Nhà nước đối xử bình đẳng như nhau đối với các khu vực kinh tế dù đó là kinh tế quốc doanh hay ngoài quốc doanh. Điều này hoàn toàn phù hợp với đường lối phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một cơ chế như vậy sẽ đưa doanh nghiệp ngoài quốc doanh trở thành một bộ phận cấu thành nên nền kinh tế quốc dân, độc lập và bình đẳng với các khu vực kinh tế khác, chấm dứt cảm giác bị "lép vế", đối xử không công bằng khi phải hoạt động "nhờ" cơ chế dành cho doanh nghiệp nhà nước. Cũng nhờ đó, việc thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế này được thuận lợi hơn, phù hợp với những đặc điểm riêng về sở hữu, quy mô và hình thức hoạt động. Hơn thế nữa, chắc chắn với cơ chế mới phù hợp và hiệu quả hơn, các doanh nghiệp NQD sẽ không ngừng tăng quy mô đầu tư, tích cực phát triển khoa học công nghệ ứng dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất. Qua đó, nâng cao năng suất lao động, tạo thêm nhiều của cải vật chất cho đất nước, và góp phần quan trọng trong công cuộc hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kích thích đầu tư trong nước, phát huy nội lực là một chiến lược đúng đắn lâu dài của nước ta trong công cuộc phát triển kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã và đang tiếp tục phát triển nhanh mạnh, đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế chung của đất nước, vì vậy việc thiết lập cơ chế quản lý phù hợp và xứng đáng với vị thế của khu vực kinh tế này là việc làm cần thiết. Hơn nữa, tăng cường quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế NQD là một nhân tố quan trọng trong việc chống thât thu thuế, tăng thu cho ngân sách, hạn chế hiện tượng lãng phí, trốn lậu thuế và gian lận thương mại. Tóm lại, thiết lập cơ chế quản lý tài chính là công tác cần thiết và mang tính cấp bách cao. Cơ chế quản lý tài chính độc lập tương xứng với vị thế và tiềm năng phát triển của khu vực kinh tế này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nên kinh tế nước ta cả trước mắt và lâu dài. Chương II: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NQD Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1 Khái quát về hoạt động của khu vực kinh tế NQD: 2.1.1. Quan điểm và đường lối chỉ đạo của đảng và nhà nước về sự phát triển của khu vực kinh tế NQD: Trước những năm 1980, ở nước ta kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển và là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa theo kiểu mệnh lệnh hành chính. Trong thời gian này, nền kinh tế nước ta chỉ có hai hình thức kinh tế chính là: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế gia đình và kinh tế tiểu chủ tồn tại chủ yếu dưới dạng phụ thuộc vào kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước, còn kinh tế tư bản tư nhân hoặc đã chuyển thành kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước hay công ty hợp doanh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đánh một dấu mốc quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách kinh tế mới của đảng và nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân được hồi sinh và phát triển trong một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Các Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng sau đó đã khẳng định lại đường lối đổi mới được khởi xướng tại Đại hội VI và đưa ra các định hướng lớn trong chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam. Theo đó, sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân được khẳng định như sau: Thứ nhất, kinh tế cá thể có phạm vi tương đối rộng lớn, được phát triển trong cả nước, thành thị và nông thôn, tại mọi ngành nghề, không hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, có thể tham gia các loại hình hợp tác hoặc liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức. Thứ hai, kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh được pháp luật quy định. Đường lối đổi mới cơ bản đó của Đảng đã được thể chế hoá bằng các văn bản pháp lý. Trước hết là trong Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 15 điều quy định về chế độ kinh tế, theo đó nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1992 quy định : kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập không bị hạn chế về quy mô, hoạt động trong nhiều ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Tháng 1-1991 Chủ tịch Hội đồng nhà nước đã kí sắc lệnh ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty, tiếp theo là các Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng ban hành cụ thể hoá các điều luật của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty cho phép công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty. Ngoài ra, đối với các cá nhân, nhóm kinh doanh có vốn kinh doanh thấp hơn vốn pháp định theo quy định đối với các doanh nghiệp, công ty tư nhân thì được thành lập hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu chủ hoặc nhóm hộ kinh doanh đuợc đăng kí theo nghị định số 66/HĐBT ban hành tháng 12-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng khẳng định: “ Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài… Như vậy, đường lối chính sách và cơ sở pháp lý đã tạo đủ các điều kiện cho các hình thức kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Trên thực tế trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế vừa qua, khu vực kinh tế tư nhân phát triển đã góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, tạo thêm nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Thực tế đã chứng minh rằng đường lối đổi mới thông qua các chính sách kinh tế mới do Đảng khởi xướng là hoàn toàn đúng đắn. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần làm rõ thêm về quan điểm, chính sách và nhất là tìm các giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân vì mục tiêu phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước trong giai đoạn mới-giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trước hết cần quán triệt một số quan điểm trong việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn sắp tới: 1. Sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân là nhu cầu tất yếu khách quan và lâu dài của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều trình độ phát triển thuộc nhiều phương thức sản xuất khác nhau đan xen, tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu các hình thức kinh tế thời kỳ quá độ. Trong đó các hình thức kinh tế tư nhân đã và sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Lịch sử phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như hơn 70 năm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chứng minh điều đó. Sau mấy trăm năm phát triển, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vẫn chủ yếu là nền kinh tế tư nhân; còn sau hơn 70 năm thử xây dựng một nền kinh tế gồm hai thành phần chi phối là nhà nước và tập thể, phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa trước đây phải trở lại với nền kinh tế tư nhân. Trong công cuộc đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam, trong khi chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã coi trọng sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và điều đó đã đem lại những thành công ngoạn mục. Ví dụ, chỉ với nghị quyết 10 của Bộ chính trị về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong chính sách đổi mới quản lý sản xuất nông nghiệp, trao lại quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cho kinh tế hộ nông dân đã đủ sức gây nên sự đột biến kì diệu mà ít người hình dung nổi là Việt Nam từ một nước thiếu lương thực luôn phải nhập khẩu đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn còn nhiều tồn tại và vướng mắc. Trong các cấp lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước vẫn còn băn khoăn nghi ngại về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nên giữa chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện trong thực tế còn có khoảng cách, nhiều chính sách và quy định cụ thể còn thể hiện sự phân biệt đối xử rõ rệt, dành lợi thế cho khu vực kinh tế nhà nước, gây phiền hà cho khu vực kinh tế tư nhân (cơ chế xin-cho, vay vốn, chính sách thuế, chính sách cho thuê mặt bằng sản xuất (đất đai), chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động…) Những hạn chế nói trên đôi khi gây ra nhiều hậu quả, sự hoài nghi về tính nhất quán của chủ trương, đường lối, chính sách với việc tổ chức thực hiện, giữa lời nói và việc làm; chưa tạo được lòng tin vững chắc cho doanh nghiệp và sự đồng thuận xã hội đối với đường lối, chủ trương của đảng; chưa tạo được dư luận xã hội rộng rãi thật sự tôn vinh, coi trọng và đánh giá đúng vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì vậy, đã đến lúc cần khẳng định dứt khoát quan điểm: hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong mọi lĩnh vực mà luật pháp không cấm là chủ trương, chính sách nhất quán lâu dài trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, coi đó là quan điểm chỉ đạo việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới; đồng thời phải thể chế hoá chủ trương này thành luật pháp, chính sách cụ thể sát với thực tế loại bỏ những chính sách, quy định không còn phù hợp, tạo môi trường pháp lý và môi trường kinh tế xã hội lành mạnh cho các hình thức kinh tế phát triển bình đẳng. 2. Khi đã thừa nhận sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là tất yếu khách quan, lâu dài trong cơ cấu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì cũng có nghĩa là phải đặt các khu vực kinh tế nhà nước, tư nhân, hỗn hợp có vị trí bình đẳng trước pháp luật. Đây là điều kiện rất quan trọng để huy động hết sức mạnh tiềm ẩn về vốn, lao động, công nghệ của các khu vực kinh tế đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Về mặt pháp lý, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư bản tư nhân đều là các pháp nhân, chịu trách nhiệm như nhau trước pháp luật; trong sản xuất kinh doanh chúng là những đơn vị kinh tế độc lập, cùng cạnh tranh với nhau trên thị trường và cùng chịu sự chi phối của các quy luật thị trường, do đó chúng cần được đối xử bình đẳng với nhau trên mọi phương diện. Mọi sự ưu tiên dành thuận lợi cho khu vực này, gây trở ngại cho khu vực kia là trái với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, rốt cuộc sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế. Theo quan điểm này, các chính sách đầu tư (vốn, đất đai, tín dụng, thị trường, v.v) khuyến khích phát triển phải được thực hiện theo lĩnh vực, đối tượng đầu tư chứ không phải là chủ thể đầu tư là ai, nhà nước hay tư nhân, trong nước hay nước ngoài. 3. Khuyến khích hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý, kinh tế - xã hội thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, trước hết là hình thức kinh tế tư bản tư nhân, tăng cường đầu tư vốn, tài sản vào sản xuất kinh doanh quy mô lớn đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp, công ty lớn của các nước trong khu vực trên thị trường khu vực và quốc tế. 2.1.2 Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD ở nước ta trong những năm qua: Sự phát triển về số lượng của các doanh nghiệp NQD Trước đổi mới (năm 1986), khu vực kinh tế NQD hầu như không phát triển, không được thừa nhận, khuyến khích và bảo vệ. Nhưng vì khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể không đủ thỏa mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội của đất nước, nên khu vực kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế, vì vậy vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình (của các cán bộ công nhân viên nhà nước và hộ xã viên hợp tác xã), các tổ hợp tác, tổ hợp sản xuất núp bóng doanh nghiệp nhà nước hoặc hợp tác xã (thực chất là những loại hình kinh tế tư nhân khác nhau). Tuy mức độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế nhưng các hình thức kinh tế tư nhân cũng đã thực sự góp phần tăng thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho một bộ phận lớn cán bộ, công nhân viên nhà nước, xã viên hợp tác, giảm bớt căng thẳng cho nền kinh tế lúc bấy giờ. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) và nhất là từ khi ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và Nghị định số 221/HĐBT (ngày 23/7/1991) về “Cá nhân và nhóm kinh doanh” cùng nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Chính sách khuyến khích khác của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển (xem bảng 1). Năm 1990 mới có khoảng 800.000 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, thì đến năm 1992 – sau một năm thực hiện Nghị định số 221/HĐBT, đã có 1.498.600 hộ cá thể, tiểu chủ đăng ký kinh doanh. Hai năm sau, năm 1994, đã lên tới 1.533.100 cơ sở, tăng thêm 34.500 cơ sở; năm 1995 có 2.050.200 cơ sở, tăng thêm 51.100 cơ sở; năm 1996 có 2.215.000 cơ sở, tăng thêm 164.900 cơ sở (so với năm 1995). Bình quân giai đoạn 1990 – 1996, mỗi năm tăng 533.775 cơ sở, và tốc độ tăng hàng năm hơn 20%. Bảng 1: Số cơ cở kinh tế tư nhân giai đoạn 1991-1998 Loại hình 1991* 1992** 1993 1994 1995 1996 1997 1998 DNTBTN 414 5198 6808 10881 15276 18894 25002 26021 % so năm trước 1255,5 59,8 40,4 23,7 32,4 4,1 DNTN 270 3676 5812 7794 10916 12464 17500 18750 % so năm trước 1361,4 50,4 40,1 14,2 40,4 7,1 CTTNHH 122 1444 1607 2968 4242 6303 7350 7100 % so năm trước 1183,6 84,7 42,9 48,6 16,7 -3,4 CTCP 22 78 19 119 118 127 152 171 % so năm trước 354,5 526,3 -0,8 7,6 19,7 12,5 Số cơ sở kinh tế cá thể*** 1498600 1533100 2050200 (1882798) 2215000 % so năm trước 102,3 133,7 108 (*) Theo số liệu báo cáo kinh tế của Ban kinh tế Trung ương:"Về kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân...", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội,5-1999 (**) Theo số liệu của Tổng cục Thống kê trong cuốn "Kinh tế xã hội Việt Nam - thực trạng xu thế và giải pháp", Nxb.Thống kê, Hà Nội, 1996, tr 225 (***) Theo số liệu báo cáo của Ban kinh tế Trung ương:"Một số chỉ tiêu cơ bản của 5 thành phần kinh tế", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 5-1999 Nguồn: Số liệu thống kê trong báo cáo: Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế tư nhân và định hướng doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010, Hà Nội,3-1999. Cùng với kinh tế cá thể, tiểu chủ, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần cũng có bước phát triển vượt bậc về số lượng (Biểu đồ 2). Nếu năm 1991 tổng số các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là 414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 là 5.198 doanh nghiệp (tăng 1.155%); tương tự các năm 1993, 1994, 1995,1996,1997 là: 6.808 doanh nghiệp (tăng 31%) 10.881 doanh nghiệp (tăng 60%), 15.276 doanh nghiệp (tăng 40%), 18.894 doanh nghiệp (tăng 24 %), 25.002 doanh nghiệp (tăng 32%) và năm 1998 đã tăng lên đến 26.021 gấp 62 lần so với số doanh nghiệp năm 1994. Tính bình quân giai đoạn 1991-1998, mỗi năm tăng thêm 3.252 doanh nghiệp, tức là khoảng 32% và gấp 1,5% lần mức tăng của các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ trong cùng thời gian, trong đó, năm 1992 các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có tốc độ tăng về số lượng rất cao (1.225%). Năm 1999, Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành trong cả nước kể từ tháng 1-2000. Tính đến tháng 12-2000, sau 12 tháng thực hiện luật Doanh nghiệp trên cả nước, số lượng doanh nghiệp đăng ký lên đến 13.500 doanh nghiệp (tăng gấp 5 lần số doanh nghiệp được thành lập trong năm 1999), trong đó có 3.736 công ty trách nhiệm hữu hạn, 3.559 doanh nghiệp tư nhân, đưa tổng số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong cả nước trên 40.000 doanh nghiệp (tính đến cuối năm 2000). Biểu đồ 2:Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân giai đoạn 1991-1998 Số doanh nghiệp Mức tăng về số lượng của mỗi loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần cũng khác nhau. Cụ thể là: Loại hình doanh nghiệp tư nhân: Nếu năm 1991 cả nước mới có 270 cơ sở thì đến năm 1998 có 18750 cơ sở, tăng gần 70 lần, trong đó năm 1992 có tốc độ tăng đột biến tới 1.361%, các năm 1994 và 1995 tăng trên 45%; từ năm 1996 và nhất là năm 1998 tốc độ phát triển đã chậm lại. Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn: Năm 1991 có 122 công ty, năm 1998 có 7100 công ty, tăng lên 58 lần, trong đó năm 1992 tăng đột biến về số lượng lên tới 1.183%, nhưng năm 1997 tốc độ tăng chậm lại, và năm 1998 chỉ còn 3%. Công ty cổ phần: Năm 1991 có 22 công ty, đến năm 1998 tăng lên 171 công ty – tăng 7,7 lần năm 1992 có tốc độ tăng số lượng cao nhất là 526%, nhưng các năm 1993, năm 1995 và 1996 tốc độ tăng chậm lại, năm 1997 cũng có tăng nhưng năm 1998 lại giảm còn 12%. Nhìn chung, các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng trong giai đoạn 1992-1994, nguyên nhân sâu xa là sự khuyến khích của các chính sách vĩ mô - đặc biệt là Luật doanh nghiệp tư nhân (1991) và sau này là luật doanh nghiệp (1999). Sự suy giảm về số lượng doanh nghiệp giai đoạn 1997-1998 là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, sự phát triển chậm lại của nền kinh tế nước ta nói chung và những yếu kém của bản thân các doanh nghiệp, cùng với những hạn chế của chính sách, giải pháp vĩ mô chưa theo kịp với tình hình v.v Nhìn chung từ năm 1991 đến năm 1998, số lượng ba loại hình doanh nghiệp nêu trên đã tăng tới 62 lần, tốc độ phát triển bình quân trong 5 năm (1993-1997) là 38%. Trong tổng số 26.021 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thống kê đến thời điểm năm 1998 thì: Doanh nghiệp tư nhân có 18.750 cơ sở, chiếm 72%; tiếp theo là loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn gồm 7.100 cơ sở, chiếm 27,3% và sau cùng là công ty cổ phần gồm 171 cơ sở, chiếm 0,65%. Như vậy, loại hình doanh nghiệp tư nhân là phổ biến nhất trong các loại hình kinh tế của khu vực kinh tế tư nhân. (Biểu đồ 3) Biểu đồ 3:Cơ cấu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân năm 1998(%) Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh theo ngành nghề sản xuất kinh doanh: Theo các số liệu thống kê, cũng như kết quả của các cuộc khảo sát điều tra cho thấy: đa số các cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế NQD đều tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kế đó mới đến sản xuất công nghiệp và sau cùng là sản xuất nông nghiệp. Xu hướng tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại dịch vụ của khu vực kinh tế tư nhân không chỉ thể hiện về mặt số lượng, cơ cấu các loại hình doanh nghiệp, hộ cá thể tiểu chủ như đã thấy ở trên, mà còn thể hiện qua cơ cấu vốn đầu tư và số lượng lao động sử dụng, doanh thu, nộp thuế v.v.. Số liệu điều tra của Viện quản lý kinh tế Trung Ương năm 1996 cho thấy: trong số 170.495 tỷ đồng vốn kinh doanh huy dộng được của khu vực kinh tế tư nhân thì 38,3% là của ngành thương nghiệp, sửa chữa xe máy; gần 27% là của ngành công nghiệp chế biến; hơn 9% cho lĩnh vực vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc; cá lĩnh vực còn lại chiếm khoảng 26%. Tính vượt trội của ngành thương nghiệp, sửa chữa xe máy và công nghiệp chế biến còn thể hiện ở số lượng lao động làm việc trong hai ngành này. Cụ thể là, trong tổng số 5.057.242 lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân, thì lĩnh vực công nghiệp chế biến chiếm gần 32%, thương nghiệp, sửa chữa xe máy hơn 31%- hai ngành này chiếm trên 60% lực lượng lao động của cả khu vực kinh tế tư nhân, lĩnh vực khách sạn nhà hàng chiếm khoảng 10%, còn lại hơn 20% là thuộc các ngành nghề khác . Thương nghiệp, sửa chữa xe máy và công nghiệp chế biến là các lĩnh vực mang lại doanh thu lớn nhất cho các doanh nghiệp NQD và cũng là lĩnh vực nộp thuế nhiều nhất cho Nhà nước. Thương nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân đã và đang làm chủ nhiều ngành hàng -nhất là công nghệ phẩm: lương thực thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, bán lẻ hàng hoá, dịch vụ cá nhân v.v trở thành đối thủ cạnh tranh và thay thế nhiều lĩnh vực trước đây vốn do thương nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã đảm nhiệm, đã làm thay đổi cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của xã hội. Năm 1990, kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng 66,9 tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ xã hội, thì đến năm 1998 đã tăng lên 78%; ngược lại, tỷ trọng của kinh tế nhà nước và tập thể đã giảm từ 33,1% năm 1990 xuống chỉ còn 22% năm 1998; đồng thời đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành hệ thống marketing mới ở nước ta – trong đó thương nghiệp nhà nước chỉ còn làm chủ lĩnh vực bán buôn những ngành hàng quan trọng Trong lĩnh vực sản xuất, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng thấp, tiềm lực còn nhỏ bé, dễ bị tác động trước sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Năm 1998, khối sản xuất của khu vực nhà nước còn chiếm tới 53% tổng giá trị sản lượng (mặc dù so với năm 1995 đã giảm đi 6%), khối kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ 15% năm 1995 đã tăng lên 18% năm 1998, khối kinh tế tư nhân chiếm 28% năm 1995 đã giảm xuống 27,8% vào năm 1998, trong đó khu vực kinh tế tư nhân chính thức (có đăng kí kinh doanh) từ 10,5% năm 1995 giảm xuống 9,6% năm 1998. Nếu xét về tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng thì: khu vực nhà nước từ 11,7% năm 1995 giảm xuống 5,5% năm 1998; khu vực kinh tế tư nhân từ 16,8% năm 1995 xuống đến 9% năm 1998; riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ 14,9% năm 1995 tăng lên 28,1% vào năm 1998 Biểu đồ 4: Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong giá trị tổng sản lượng khối sản xuất , năm 1998(%) Sở dĩ các loại hình kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu vào ngành thương mại, sửa chữa xe máy và công nghiệp chế biến vì đó là các ngành, lĩnh vực có thị trường lớn, đòi hỏi vốn đầu tư không nhiều, phù hợp với nguồn vốn còn hạn hẹp của phần đông các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nước ta, khả năng quay vòng vốn nhanh, hạn chế được rủi ro, tỷ suất lợi nhuận cao (trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác thì cạnh tranh lớn, rủi ro cao, thị trường hẹp…) phù hợp với triết lý phổ biến của các chủ doanh nghiệp “vốn ít, lãi nhiều, quay vòng nhanh, rủi ro thấp”. Sự tập trung của khu vực kinhtế tư nhân vào các lĩnh vực thương mại, dịch vụ… đã góp phần đáp ứng được nhiều nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, có tác động thúc đẩy trở lại đối với sản xuất mặt khác điều đó cũng cho thấy: các chính sách, giải pháp vĩ mô của Nhà nước chưa thực sự khuyến khích khu vực kinh tế đầu tư mạnh vào những lĩnh vực sản xuất vật chất, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Chính những hạn chế chủ yếu đó đã khiến khu vực kinh tế NQD chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. 2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở nước ta hiện nay: 2.2.1. Khái quát về cơ chế quản lý tài chính khu vực NQD ở nước ta: Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ chế quản lý tài chính chính thức đối với doanh nghiệp tư nhân và việc quản lý tài chính đối với doanh nghiệp tư nhân được áp dụng trên cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, cao nhất là nghị định 59/CP ngày 3/10/1996 của chính phủ: Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước; và Nghị định số 27/CP ngày 20/4/1999 của chính phủ về việc sửa đổi bổ sung nghị định 59/CP. Tất nhiên, đối với mỗi lĩnh vực tài chính thuộc các doanh nghiệp NQD, chính phủ và các bộ các ngành cũng đã ban hành những nghị định, thông tư hướng dẫn cụ thể. Ví dụ Nghị định 221/HĐBT ngày 23/7/1991 của Hội đồng Bộ trưởng và 222/ HĐBT ngày 23/7/1991 quy định về mức vốn pháp định đối với công ty TNHH và công ty cổ phần, các nghị định này sau đó đã được thay thế bởi Nghị định số 26/1998/NĐCP về quy định mức vốn pháp định mới cho các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, ngoài ra là các nghị định, thông tư hướng dẫn về công tác quản lý từng phần trong cơ chế quản lý tài chính do Bộ tài chính hay các cơ quan chức năng khác ban hành, nhưng đa phần các văn bản này đều là quy định cho DNNN, việc áp dụng cho DNNQD chỉ mang tính căn cứ, bổ sung, không chính thức. Phần lớn những thắc mắc, khiếu kiện, những nhu cầu xin hỗ trợ của các DNNQD thường được nhà nước mà cụ thể là Bộ tài chính và các ban ngành chức năng xem xét giải quyết theo từng trường hợp cụ thể mang tính chất nhỏ lẻ và sự vụ. Do chưa có cơ chế quản lý tài chính thích hợp nên việc đánh giá thực trạng tài chính, hiệu quả kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp và của các doanh nghiệp là đối tác kinh doanh gặp nhiều khó khăn và không thống nhất. Đó cũng là một trong các nguyên nhân tạo ra các ý kiến và cách nhìn nhận khác nhau trong đánh giá tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, chính vì chưa có cơ chế tài chính quy định và hướng dẫn cần thiết cho doanh nghiệp nên cũng tạo ra tâm lý cho rằng Nhà nước chưa tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước. Nhiều doanh nghiệp còn lúng túng trong công việc tổ chức công tác tài chính, trong việc xác định nội dung và thực hiện công tác quản lý tài chính doanh nghiệp và hạch toán kế toán. Rõ ràng là, từ yêu cầu thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) và quản lý tài chính doanh nghiệp rất cần một khuôn khổ pháp lý và những hướng dẫn cần thiết về cơ chế vận hành tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp NQD hoạt động phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường, bình đẳng với các DNNN cả về nghĩa vụ và quyền lợi. Cần phải có những quy định rõ ràng, thống nhất, vừa có tác dụng hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện, vừa làm cơ sở để quản lý thống nhất về mặt tài chính doanh nghiệp. Đó là sự thống nhất mang tính nguyên tắc tài chính mà mọi doanh nghiệp phải tôn trọng. Đồng thời, thông qua đó, các doanh nghiệp biết rõ trong lĩnh vực tài chính và hạch toán kinh doanh, doanh nghiệp được làm gì, nên làm như thế nào, không được làm gì, cái gì nên cái gì không nên, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư, yên tâm tổ chức sản xuất kinh doanh đúng luật pháp, đạt lợi ích kinh tế cao nhất. Cần phải định rõ một số chỉ tiêu tài chính có tính cảnh báo cho hoạt động của doanh nghiệp (Như mức vốn huy động, quy mô nợ quá hạn, khả năng thanh toán chung và nợ đến hạn...) và quy định những thông tin cần thiết doanh nghiệp phải công khai vỡi các nhà đầu tư, các bên góp vốn, các bên liên doanh, hợp danh, với các bạn hàng các nhà cho vay, bán chịu hàng hoá và đặc biệt là với các cơ quan quản lý, với người lao động. 2.2.2 Thực trạng cơ chế quản lý tài chính DNNQD ở nước ta hiện nay: 2.2.2.1 Quản lý về thành lập và đăng kí kinh doanh: Thực hiện quá trình đổi mới tư duy kinh tế, thúc đẩy xây dựng và thực thi pháp luật theo nguyên tắc: "công dân có quyền kinh doanh tất cả các ngành mà pháp luật không cấm". Trong thời gian qua, nhà nước ta đã tiến hành một số biện pháp thúc đẩy sự thành lập và kinh doanh cho các DNTN. Điển hình nhất là việc ban hành Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000, và tiếp theo là Nghị định 02/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của chính phủ về đăng kí kinh doanh. Luật doanh nghiệp cũng như nghị định 02/NĐ-CP đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ và thống nhất cho các doanh nghiệp trong việc huy động và phát huy nội lực, thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Thể hiện chủ trương cải cách hành chính theo hướng đảm bảo quyền tự do kinh doanh, giảm tối đa các thủ tục, hồ sơ rườm rà, phức tạp và tốn kém trong việc thành lập doanh nghiệp cũng như mở rộng quy mô, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh. Tác động tích cực trực tiếp của những việc đó là việc đã xoá bỏ được 175 loại giấy phép khác nhau (chiếm 44% tổng số giấy phép kinh doanh), đây được đánh giá là một sự đột phá trong cải cách hành chính, thể hiện sự thay đổi căn bản về tư duy và phương thức quản lý của nhà nước theo hướng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tách bạch rõ quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với quản lý nhà nước. Những kết quả đó bước đầu đã được dư luận trong nước và nhất là các doanh nghiệp NQD đánh giá cao và hưởng ứng nhiệt liệt, tính đến hết năm 2001, tổng số DN thuộc khu vực KTTN là 74.393 DN. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cũng đã xuất hiện những tiêu cực, tận dụng những lỗ hổng trong những đạo luật mới ban hành, gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện chủ trương đổi mới và cải cách hành chính của Nhà nước. Rất nhiều doanh nghiệp "ma" được thành lập nhằm mục đích mua bán hoá đơn thuế giá trị gia tăng, làm ăn phi pháp, trốn thuế v.v do thiếu sự kiểm soát chặt chẽ từ các cấp các ngành các cơ quan chức năng. Một số ý kiến đã cho rằng cơ chế cho việc thành lập doanh nghiệp hiện nay ở nước ta là quá thông thoáng, nằm ngoài khả năng kiểm soát của Nhà nước. Luật Doanh nghiệp đã tạo ra khuôn khổ pháp lý tương đối thuận lợi để mọi người có thể gia nhập thị trường, song còn thiếu những cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm điều chỉnh hoạt động trên thị trường, cụ thể là điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, đồng thời, điều chỉnh việc rút ra khỏi thị trường thông qua phá sản hay giải thể. Chúng ta đã quen với việc một sản phẩm chiếm lĩnh thị trường rồi biến mất khỏi thị trường nhưng lại coi việc một doanh nghiệp phá sản là bất bình thường và đáng lo ngại. Chỉ khi chúng ta chấp nhận doanh nghiệp phá sản là một hiện tượng bình thường được pháp luật hoá thì KTTN mới có thể phát triển đúng bản chất của nó. Theo đó, vấn đề cốt lõi trong tài chính đối với khu vực kinh tế tư nhân là xây dựng cơ sở pháp lý cho việc hình thành, thực hiện, theo dõi, thanh lý, giải quyết tranh chấp các hợp đồng tài chính khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể theo quy luật của thị trường. Để đối phó với những tiêu cực trên, rõ ràng nhà nước phải sớm ban hành một cơ chế kiểm tra chặt chẽ việc đăng kí kinh doanh và quản lý sau khi đăng kí, những văn bản luật hay dưới luật để bổ sung, lấp đầy những lỗ hổng đã bộc lộ trong thời gian qua. 2.2.2.2 Quản lý vốn và tài sản: Trước hết, thiếu vốn là chủ đề được đề cập đến nhiều nhất khi nói tới KTTN, đây cũng là hiện tượng phổ biến ở hầu hết các nước đang phát triển và chuyển đổi. Trước hết, thiếu vốn là hiện tượng tự nhiên của các cơ sở KTTN quá nhỏ (trên 90% doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ, bình quân vốn của một doanh nghiệp đăng kí theo luật doanh nghiệp chỉ có 900 triệu đồ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTC-03.docx