Đề tài Sử dụng phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để đánh giá hiệu quả việc xây dựng hệ thống xử lí nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ

Tài liệu Đề tài Sử dụng phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để đánh giá hiệu quả việc xây dựng hệ thống xử lí nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ: LỜI NÓI ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài Công nghiệp giấy Việt Nam phát triển và trưởng thành ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách, việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, nâng cao đời sống văn hoá và trình độ dân trí, xứng đáng là một trong những ngành chiến lược quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước. Tuy nhiên vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường (ONMT) do nước thải công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp giấy nói riêng. Vì đây được đánh giá là một trong 2 ngành công nghiệp có lượng nước thải gây ô nhiễm lớn nhất. Thực tế hiện nay, lượng nước thải khổng lồ chứa các chất lơ lửng (SS = suppended solid), hàm lượng các chất hữu cơ chứa trong nước thải thường cao, các chỉ số COD (COD = chemical oxygen demand), và BOD (BOD = Biochonical oxygen demand) xác định trong nước thải nghành công nghiệp giấy rất cao này, đ...

doc106 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Sử dụng phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để đánh giá hiệu quả việc xây dựng hệ thống xử lí nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài Công nghiệp giấy Việt Nam phát triển và trưởng thành ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách, việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, nâng cao đời sống văn hoá và trình độ dân trí, xứng đáng là một trong những ngành chiến lược quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước. Tuy nhiên vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường (ONMT) do nước thải công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp giấy nói riêng. Vì đây được đánh giá là một trong 2 ngành công nghiệp có lượng nước thải gây ô nhiễm lớn nhất. Thực tế hiện nay, lượng nước thải khổng lồ chứa các chất lơ lửng (SS = suppended solid), hàm lượng các chất hữu cơ chứa trong nước thải thường cao, các chỉ số COD (COD = chemical oxygen demand), và BOD (BOD = Biochonical oxygen demand) xác định trong nước thải nghành công nghiệp giấy rất cao này, được thải trực tiếp vào các sông, hồ mà không qua xử lý, gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu vực xung quanh nhà máy. Trong điều kiện thực tế hiện nay, với công nghệ thấp, chậm phát triển so với khu vực và thế giới, máy móc trang thiết bị lạc hậu, chậm thay đổi, thiếu vốn đầu tư cho công nghệ xử lý nước thải, ngành công nghiệp giấy khó có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn thải theo quy định. Định hướng của ngành công nghiệp giấy trong thế kỉ XXI không chỉ là phát triển mà còn phải gắn kết chặt chẽ với vấn đề bảo vệ môi trường. Sử dụng công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, lắp đặt hệ thống xử lí môi trường là việc cần đẩy mạnh triển khai. Nó đem lại lợi ích không chỉ cho cá nhân nhà máy mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Tuy nhiên, để làm rõ được lợi ích của việc đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, người ta đã sử dụng nhiều phương pháp phân tích đánh giá khác nhau, một trong những phương pháp đang được sử dụng rộng rãi đó là phân tích chi phí – lợi ích (CBA – Cost and benefit analysis). CBA được đánh giá là một công cụ hữu hiệu nhất cho chúng ta một cách nhìn toàn diện về lựa chọn phương án hiệu quả nhất như định hướng đã đề ra. Với tất cả những lý do nêu trên, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài "Sử dụng phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để đánh giá hiệu quả việc xây dựng hệ thống xử lí nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ" 2/ Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những lý luận, phương pháp luận kinh tế môi trường và phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để liệt kê và đánh giá những chi phí cũng như lợi ích môi trường của việc đầu tư hệ thống xử lý nước thải nhà máy đem lại. Dựa trên kết quả phân tích, thấy được những lợi ích của việc đầu tư hệ thống xử lý nước mang lại cho nhà máy nói riêng và cộng đồng nói chung và khẳng định sự cấp thiết phải đổi mới công nghệ và hệ thống xử lý môi trường để nâng cao hơn chất lượng cuộc sống. 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Do tính đặc thù của ngành công nghiệp giấy, hoạt động sản xuất phát thải ra môi trường một lượng nước khổng lồ, trong phạm vi, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những đối tượng chịu hậu quả từ việc ô nhiễm nguồn nước do quá trình thải nước thải gây nên và từ đó tính toán những thiệt hại kinh tế do nhà máy gây ra mà cụ thể ở đây là nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ - thành phố Thái Nguyên. 4/ Phương pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp thu thập số liệu từ nhiều nguồn khác nhau: Phương pháp trực tiếp: Phỏng vấn và thu thập số liệu về tình hình sản xuất, mức độ và phạm vi ảnh hưởng của hoạt động sản xuất giấy tới môi trường. Phỏng vấn lãnh đạo nhà máy và các phường xung quanh khu vực nhà máy. Thu thập số liệu từ sở KHCNMT tỉnh Thái Nguyên và trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Thái Nguyên Thu thập số liệu đo đạc về hiện trạng môi trường của nhà máy tại Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và Tư vấn môi trường (CERECE). Phương pháp gián tiếp - Những số liệu gián tiếp là những số liệu thu thập từ những nguồn khác nhau như số liệu của Cục Môi trường, Viện Hoá học Công nghiệp, Khoa Kinh tế, Quản lý Môi trường và Đô thị, và tài liệu liên quan khác. Trên cơ sở các số liệu thu thập đó kết hợp với phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để tính toán các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Phương pháp thống kê xác suất: Các số liệu thu thập được tiến hành xử lý theo phương pháp thống kê. 5. Kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương I : Tiếp cận phương phân tích chi phí - lợi ích mở rộng cho sản xuất công nghiệp giấy Chương II : Tổng quan về nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ. Chương III: Phân tích chi phí lợi ích mở rộng Chương 1 Tiếp cận phương pháp phân tích chi phí - lợi ích Mở rộng cho hoạt động sản xuất giấy I. Cơ sở lý luận về phân tích chi phí lợi ích mở rộng Phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng ( Cost benefit analysis - viết tắt là CBA) là một công cụ của chính sách, là cơ sở cho các nhà quản lý đưa ra những chính sách hợp lý về sử dụng lâu bền các nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, làm giảm hoặc loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực phát sinh trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phương pháp CBA sẽ làm phép so sánh những lợi ích thu về do các hoạt động phát triển đem lại với những chi phí và tổn thất do việc thực hiện chúng gây ra. 1.1 Một số khái niệm cơ bản 1.1.1 Sự phát triển của CBA và mục đích của việc sử dụng CBA. 1.1.1.1 Sự phát triển của CBA Khái niệm CBA được đưa ra lần đầu tiên vào giữa thế kỉ XIX nhưng phải đến gần 100 năm sau người ta mới thực sự quan tâm và đưa vào sử dụng. Cách nhìn nhận của CBA là "toàn cục", không phản ánh lợi ích của bất cứ cá nhân, tổ chức hay nhóm nào. Chính vì vậy mà công cụ CBA ngày càng trở nên phổ biến và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. CBA có thể được dùng cho các chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án cũng có thể dùng rộng rãi trong các vấn đề như thị trường lao động, giáo dục, nghiên cứu khoa học và môi trường đặc biệt CBA là công cụ hiệu lực đối với đánh giá tác động môi trường cho dự án phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, đối với các dự án môi trường thì việc lượng hoá được những chi phí, lợi ích là rất phức tạp, không dễ gì thấy được và thời gian tác động là bao lâu.... chính vì vậy việc đo lường để lượng hoá kết quả là không đơn giản, thậm chí không có một thước đo chung, hay một phương pháp chung phục vụ cho việc tính toán. Nhưng CBA là kỹ thuật cho phép liệt kê tất cả các điểm được và mất một cách hệ thống, cố gắng tiền tệ hoá cái được và cái mất đối với môi trường, cân nhắc tầm quan trọng của chúng nếu phù hợp, thể hiện sự phân phối của cái được và cái mất giữa các nhóm người như thấy rõ trong tranh cãi môi trường và đánh giá môi trường. Đối với các nước đang phát triển, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên là biện pháp quan trọng, phổ biến để phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy phương pháp CBA rất phù hợp trong điều kiện thực tế của các nước này. 1.1.1.2 Mục đích của việc sử dụng CBA Đối với các nhà hoạch định chính sách, CBA là công cụ thiết thực hỗ trợ cho việc ra quyết định có tính xã hội, từ đó quyết định phân bổ nguồn lực một cách hợp lý, tránh gây ra thất bại thị trường (tức là giá cả hàng hoá không phản ánh đúng giá trị của nó) có thể xảy ra thông qua sự can thiệp hiệu quả của Nhà nước. Phương pháp CBA có nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau, có thể ở giai đoạn hình thành (exante), giai đoạn giữa (immedias- res) hoặc giai đoạn cuối (exposte) của dự án. Chính nhờ quan điểm tiếp cận phong phú này sẽ cung cấp cho chúng ta những góc nhìn khác nhau. Từ đó sẽ cung cấp cho chúng ta một lượng thông tin cơ bản về toàn bộ dự án, hay những bài học kinh nghiệm rút ra khi tiến hành một dự án tương tự. Muốn đưa ra được phương án đem lại hiệu quả cao nhất trong hàng loạt các phương án đề xuất thì cần phải có một căn cứ, cơ sở nào đó dùng để so sánh. Phương pháp CBA sẽ cho chúng ta hình dung ra được toàn bộ những chi phí cũng như lợi ích mà mỗi phương án đưa ra có thể đem lại, và dựa trên kết quả phân tích đó chúng ta sẽ lựa chọn được phương án phù hợp với mục tiêu đề ra. Kết quả của sự lựa chọn này sẽ đảm bảo độ tin cậy cao hơn. Đây là một công cụ thực sự có hiệu lực thuyết phục khi đưa ra một quyết định. Tuy nhiên không nên chỉ dựa vào CBA mà đi đến một quyết định vì CBA cũng còn có những hạn chế chưa khắc phục được, do đó nó chỉ là một phương pháp hữu hiệu trong số các phương pháp hoạch định chính sách và ra quyết định. 1.1.2 Phân tích kinh tế và phân tích tài chính Phân tích kinh tế và phân tích tài chính đều là phân tích chi phí lợi ích, tuy nhiên hai khái niệm này không đồng nhất với nhau. Tại sao lại như vậy? Câu trả lời cuối cùng là ở mục đích của người sử dụng. Dưới góc độ của nhà đầu tư, thì người ta sử dụng phương pháp phân tích tài chính vì mục tiêu cuối cùng họ muốn đạt được đó là tối đa hoá lợi nhuận (là sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí). Để đạt được điều đó thì họ phải giảm đến mức tối thiểu chi phí sản xuất. Và như vậy, một cách vô tình hay cố tình, họ đã quên đi khoản chi phí đầu tư cho xử lý môi trường mà đáng lẽ họ phải trả. Dưới góc độ quản lý vĩ mô, hoạt động sản xuất là nhằm đảm bảo phát triển bền vững có nghĩa là đảm bảo phát triển đồng đều cả 3 cực: kinh tế - xã hội - môi trường. Chính vì vậy mà phương pháp phân tích kinh tế được sử dụng, nói bao hàm rộng hơn, đây là phương pháp phân tích kinh tế - tài chính có tính đến yếu tố môi trường. 1.1.2.1 Phân tích tài chính Phân tích tài chính dựa trên phân tích quá trình lưu chuyển dòng tiền tệ trong đời dự án mà khi thực hiện dự án đó có thể xảy ra. Trong phân tích tài chính người ta tập trung chủ yếu vào việc phân tích giá cả thị trường và các dòng lưu thông tiền tệ. Mục đích đạt tới là phải tối đa hoá lợi nhuận, khả năng sinh lời về mặt tài chính càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Ví dụ việc phân tích tài chính của dự án đầu tư công nghệ sản xuất mới của nhà máy giấy. Doanh thu và chi phí là 2 yếu tố cùng quyết định lợi nhuận. - MR (Marginal revenue) : Doanh thu biên là số lượng doanh thu mà nhà máy nhận được từ việc bán 1 đơn vị sản phẩm (1 tấn giấy). Vì yếu tố giá cả là do thị trường quyết định nên doanh thu biên đối với mỗi tấn giấy là như nhau, do đó đường doanh thu biên biểu diễn trên đồ thị sẽ là một đường thẳng nằm ngang. - Chi phí được chia ra làm 2 loại: chi phí cố định và chi phí biến đổi. + Chi phí cố định: Là chi phí mà nhà máy phải trả cả trước khi sản xuất và không đổi khi sản lượng thay đổi. + Chi phí biến đổi liên quan đến các khoản mục cần phải mua ngay khi sản xuất như tre nứa, hoá chất, lao động... do đó chi phí này biến đổi cùng với sự biến đổi của sản lượng. Sự biến đổi này được thể hiện rõ trên đường chi phí cận biên (tức biến phí của mỗi tấn giấy được sản xuất ra) - MVC (marginal vary cost) hay MC. P (giá 1 tấn giấy) MC O1 MR O Q1 Q (tấn giấy) A + Lợi ích cận biên cá nhân (MNPB = MR - MC ) là lợi nhuận hoạt động mà nhà máy thu được từ doanh thu biên sau khi đã trừ đi chi phí biến đổi cận biên. Hình 1: Thu nhập và chi phí cho mỗi tấn giấy : Lợi nhuận biên (= MR - MC), lợi nhuận thu về trên mỗi tấn giấy cho tới điểm Q1. : Số tiền bị lỗ (= MC - MR) khi sản xuất thêm một tấn giấy khi qua khỏi điểm Q1 O1 : Điểm hoà vốn (MR = MC), Q1 Là mức sản lượng tối ưu cho thị trường. AO1Q1O = tổng doanh thu của nhà máy khi bán Q1 tấn giấy. O1Q1O = Tổng chi phí mà nhà máy bỏ ra để sản xuất Q1 tấn giấy P (giá 1 tấn giấy) O Q1 Q (tấn giấy) MNPB A Như vậy, lợi nhuận hoạt động của nhà máy là toàn bộ diện tích tam giác AO1O. Và sự chênh lệch giữa MR và MC tạo cho nhà sản xuất đường lợi ích cận biên cá nhân MNPB, và nhà máy sẽ chỉ sản xuất khi MR > MC. Hình 2: Đường lợi ích cận biên của cá nhân (MNPB) Như vậy, nhà máy sẽ sản xuất ra từng đơn vị sản phẩm khi nào mà doanh thu cận biên còn cao hơn chi phí biên để sản xuất ra đơn vị sản phẩm đó. Tức là mở rộng sản xuất tới mức Q1 trong hình 1. Và để có thể duy trì việc kinh doanh lâu dài, tổng lợi nhuận ở điểm Q1 (diện tích tam giác AOQ1 = diện tích tam giác OAO1 ở hình 1) nhất phải bằng những khoản chi phí cố định như chi phí nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị... Tuy nhiên điều chúng ta quan tâm ở đây đó là các khoản chi phí của nhà máy chưa hề tính đến yếu tố môi trường trong đó. Bởi vì, khi sản lượng tăng lên tổng lượng chất ô nhiễm phát thải tăng lên.Trong chi phí sản xuất của mỗi tấn giấy sản xuất ra ở đây chỉ phản ánh số tiền mà nhà máy phải trả cho việc mua nguyên liệu (tre, nứa, bột giấy), hoá chất, thuê nhân công, duy trì máy móc... không hề có khoản chi phí cho giảm thiểu ô nhiễm mà nhà máy gây ra trong quá trình sản xuất. Do đó, giá của sản phẩm không phản ánh đúng giá trị của nó. 1.1.2.2 Phân tích chi phí lợi ích mở rộng (Phân tích kinh tế - tài chính) CBA mở rộng bao gồm phân tích chi phí, lợi ích cả của những tác động mà dự án phát triển gây ra cho môi trường, mà không được tính đến trong phân tích tài chính của dự án. Giả sử, như trong trường hợp hoạt động sản xuất của nhà máy giấy trên, trong điều kiện môi trường cạnh tranh hoàn hảo (tức là nhà máy có khả năng bán tất cả sản lượng tại mức giá thị trường đang thịnh hành) ta thấy rõ rằng sự tổn hại môi trường không ảnh hưởng đến nhà máy gây ô nhiễm trên (nghĩa là chi phí tổn hại không phải là chi phí nội sinh được phản ánh trong chi phí biến đổi của nhà máy) nhưng lại ảnh hưởng đến toàn xã hội. Vì trên thực tế, lượng nước thải ô nhiễm rất lớn mà nhà máy thải ra là yếu tố gây tác động tiêu cực đến sức khoẻ của công nhân cũng như dân cư quanh khu vực nhà máy, đến mùa màng, năng suất cây trồng, vật nuôi...Những tổn hại như vậy gọi là chi phí ngoại ứng và những chi phí ngoại ứng này xã hội đang phải gánh chịu, được thể hiện qua hình vẽ sau: MSC = MPC + MEC QW (lượng thải) MEC P (giá 1 tấn giấy) P* O* O Q1 Q* MPC O1 E QA Q (tấn giấy) QW1 Q*W QWA DD = P Hình 3: Mô hình ngoại ứng tiêu cực MPC (Marginal private cost) : Chi phí cận biên cá nhân của nhà máy MEC (Marginal external cost) : Chi phí môi trường cận biên MSC (Marginal social cost) : Chi phí xã hội cận biên (MPC + MEC) QW : Lượng chất thải mà nhà máy thải ra Vì thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nên nhà máy không có sức mạnh thị trường, không có ảnh hưởng đáng kể đến día trên thị trường, do đó đường cầu của nhà máy chính là đường lợi ích cận biên và chính bằng giá bán của sản phẩm, theo như hình vẽ 3: EO*O1 là tổng thiệt hại nhà máy gây ra cho xã hội. O1 : điểm cân bằng có tính cá nhân O1 (Q1, P *) = DD Ç MPC P* : Mức giá bán của một tấn giấy trên thị trường Q1 : Mức sản lượng tối ưu cho thị trường QW1: Lượng chất thải thải ra môi trường O*: Điểm cân bằng có tính xã hội O* (P*, Q*) = MSC Ç DD P* : Mức giá bán 1 tấn giấy trên thị trường Q* : Mức sản lượng tối ưu của xã hội Q*W : Lượng chất thải thải ra môi trường Bản chất của vấn đề ở đây là, khi chúng ta tiến hành sản xuất thì cũng có nghĩa là chúng ta phải thải ra môi trường một lượng thải nhất định (nước thải, chất thải...). ở một mức độ nào đó, thì môi trường có khả năng tự làm sạch, hấp thụ được nhưng nếu vượt quá giới hạn khả năng tự làm sạch thì đó là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và tiến tới suy thoái môi trường. Vậy thì liệu ở điểm O*, ô nhiễm có bằng O hay không? Chắc chắn sẽ là không, bởi vì xét về mặt kĩ thuật nó thực sự là không khả thi, trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ không được chấp nhận vì quá tốn kém xét về cả phương diện đầu tư về thiết bị và các quy trình làm giảm chất thải cũng như trong việc mất mát các lợi ích sinh ra từ việc sản xuất những sản phẩm đó. Số lượng chất ô nhiễm thải ra được hấp thụ Số lượng ô nhiễm O* Khả năng hấp thụ O Q1 QA Q* Q (tấn giấy) QWA Q*W QW1 QW (lượng thải) Khi sản lượng tăng lên thì tổng số lượng chất ô nhiễm phát thải tăng lên. Và ở dưới mức sản lượng QA (với lượng chất thải đưới mức QWA), tất cả các chất thải đều được môi trường hấp thụ an toàn (đó là đặc tính tự nhiên của môi trường) như hình 4 Hình 4: Ô nhiễm thải ra được hấp thụ O < QW £ QWA : Môi trường có khả năng hấp thụ các chất ô nhiễm ( QWA) thải ra QW > QWA : khả năng hấp thụ của môi trường bị vượt quá Khi sản lượng vượt quá QA (lượng chất thải vượt quá QWA), những đơn vị ô nhiễm ban đầu vượt quá QWA gây ra tương đối ít tác hại so với những đơn vị tiếp theo sau đó (Vì tác động của tổng mức ô nhiễm tích luỹ lại). Điều đó có nghĩa, cứ mỗi đơn vị ô nhiễm tăng thêm thì gây ra tác hại nhiều hơn là đơn vị trước đó, chúng ta có đường MEC dốc lên trên như hình 5. Chi phí thiệt hại MEC O Q1 QA Q* Q (tấn giấy) C1 C* QWA Q*W QW1 QW (lượng thải) Hình 5: Chi phí thiệt hại của ô nhiễm   Nhưng vì chúng ta không thể vì bảo vệ môi trường mà ngừng việc sản xuất lại. đó chính là lý do vì sao chúng ta phải chấp nhận một khoản chi phí ngoại ứng nhất định, là chấp nhận một mức thải trong giới hạn cho phép khi tiến hành sản xuất, và những giới hạn này được quy định cụ thể trong tiêu chuẩn việt nam . Các đơn vị sản xuất sẽ bị xử lý nếu như vượt quá những tiêu chuẩn đã quy định tuỳ theo mức độ nặng nhẹ khác nhau. MEC O* MNPB O Q1 QA Q* Q (tấn giấy) E QWA Q*W QW1 QW (lượng thải) Hình 6: MNPB và MEC   Khi xét đến nhân tố môi trường thì phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng sẽ đem đến kết quả là : + Lợi nhuận của nhà máy sẽ bị giảm xuống SD O*Q*Q1 + Lợi ích xã hội thu về do việc giảm ô nhiễm là S› O*EQ1Q* ( > SD O*Q*Q1). Kết luận: Trên quan điểm kinh tế thì tại điểm sản xuất với sản lượng Q* sẽ mang lại hiệu quả cao nhất, và tất cả mức sản xuất trong khoảng Q* đến Q1 thì đều không mang lại "hiệu quả xã hội”. Nhưng trên góc độ của người sản xuất thì đó là điều họ không mong muốn khi phải mất đi một khoản lợi nhuận là SD O*Q*Q1. Trách nhiệm này thuộc về các nhà hoạch định chính sách và quản lý môi trường nếu như muốn đạt được mức hiệu quả xã hội. Các nhà máy muốn vận hành hết công suất của mình (tức là muốn đạt tới mức sản lượng Q1) thì họ phải chi ra một khoản tiền đầu tư cho xử lí môi trường để làm sao chi phí môi trường sẽ giảm xuống, và khi đó mức sản lượng đạt hiệu quả xã hội Q* sẽ tiến gần tới Q1 hơn. đảm bảo được cả 2 mục tiêu: phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường. Đây cũng là mục đích cuối cùng mà người sử dụng phương pháp CBA mong muốn đạt đến, tránh gây ra thất bại thị trường. 1.2 Các phương pháp sử dụng trong CBA mở rộng 1.2.1 Phương pháp phân tích bằng biểu đồ, đồ thị 12.1.1 Nguyên lý Người ta sử dụng hình thức thể hiện trực quan để phát triển chi phí và lợi ích trên cơ sở đó giúp cho các nhà quản lý, các nhà theo dõi và vận hành dự án có thể nắm bắt nhanh tiến trình biến đổi trong chi phí qua các năm. 1.2.1.2 Nội dung Trên cơ sở số năm tồn tại của dự án, người ta sử dụng một đồ thị không gian 2 chiều: trục hoành biểu thị thời gian diễn biến của hoạt động phát triển; trục tung biểu thị lợi ích thu được trong quá trình tiến hành hoạt động. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 năm Chi phí - lợi ích Lợi ích và chi phí biểu thị trên đồ thị theo luỹ tích, chi phí cho xây dựng, khai thác và vận hành đều ghi chung. Như vậy, trên đồ thị bất cứ lúc nào ta cũng có thể so sánh chi phí và lợi ích ở dạng chưa chiết khấu hoặc chiết khấu nếu được tính toán, bổ sung và điều chỉnh thêm. Hình 7: Phân tích chi phí - lợi ích bằng biểu đồ : tổng chi phí qua các năm : Tổng lợi ích qua các năm Hoặc dưới dạng đồ thị Chi phí - lợi ích A B C t* t1 t O Hình 8: Phân tích chi phí - lợi ích bằng đồ thị   Tại năm t* dự án đem lại lợi ích ròng NBt = Bt - Ct là lớn nhất. Tại năm t1 là thời điểm ở đó lợi ích ròng = O, nếu tiếp tục đầu tư sản xuất sẽ bị lỗ. 1.2.1.3 Ưu nhược điểm - Ưu điểm: Về bản chất phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng là một nguyên tắc đúng đắn, vì nó tính đến lợi ích kinh tế một cách đầy đủ trước mắt và lâu dài, thông qua việc quy đổi chúng trên cơ sở 1 đơn vị đo thống nhất. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với việc lựa chọn quyết định cuối cùng. - Nhược điểm của phương pháp này là không xét đến tất cá các tác động đến môi trường, nhất là những tác động mang tính lâu dài hoặc gián tiếp. Mặt khác, việc sử dụng phương pháp này vào các dự án lớn sẽ rất khó khăn do số hạng mục, đối tượng phân tích và tính toán thường quá lớn. Ngoài ra có nhiều yếu tố môi trường không thể quy đổi thành tiền. 1.2.2 Phương pháp phân tích kinh tế - tài chính Khác với phương pháp trên, về mặt bản chất, mọi phân tích của chúng ta là phân tích kinh tế, sau đó quy đổi toàn bộ phân tích kinh tế ra tiền. Trên cơ sở tính toán các chỉ tiêu liên quan nhằm xác định được bản chất của lợi ích và chi phí, lợi nhuận có được của dự án. 1.2.2.1 Các khái niệm liên quan Bộ "công cụ" của CBA bao gồm các khái niệm cơ bản sau: a. Chi phí cơ hội Chi phí cơ hội là chi phí của việc hy sinh các hoạt động hay thu nhập thay thế. Đây là một khái niệm rộng được xét toàn diện và có tính lựa chọn trong quyết định sản xuất. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì khái niệm chi phí cơ hội phù hợp với bất cứ tình huống nào, trong đó phải quyết định sử dụng tài nguyên sản xuất cho mục đích này chứ không phải mục đích khác. ảnh hưởng của các sự lựa chọn công nghệ đối với môi trường cũng có thể lựa chọn bằng kĩ thuật này. Ví dụ, có thể có nhiều cách khác nhau để đến cùng một yêu cầu đó là đầu tư lắp đặt một hệ thống xử lý môi trường hay sẽ chi phí hàng năm cho các khoản xử lý ô nhiễm, chi phí đền bù thiệt hại cho những đối tượng chịu ảnh hưởng... từ việc sản xuất gây ô nhiễm đó. b. Giá thị trường và giá tham khảo Phân tích kinh tế đơn thuần được được bắt đầu bằng việc xác định giá cả trên thị trường của một loại hàng hoá nào đó. Tuy nhiên, khi đánh giá hàng hoá chất lượng môi trường hay một số loại hàng hoá công cộng khác, giá cả thị trường chưa hẳn đã phản ánh đúng giá trị thực của xã hội. Do vậy các nhà kinh tế thường sử dụng giá tham khảo (shadow price). Giá tham khảo là một mức giá không tồn tại trên thị trường nhưng khi đưa ra có cơ sở khoa học và thực tiễn hoặc sự biến động giá cả không ổn định buộc các nhà kinh tế phải đưa ra những luận cứ khoa học để xác định giá và có sự thống nhất một mức giá chung. Bằng cách tiếp cận từng phần, ta có thể điều chỉnh mức giả cả thị trường, làm cho nó trở nên đúng đắn hơn, phản ánh đúng chi phí của xã hội. c. Trục thời gian và chiết khấu Trong đó, tất cả các chi phí và lợi nhuận trong tương lai được quy về giá trị hiện thời (giảm giá trị). Do vậy, trong phân tích dự án việc xác định trục thời gian và hệ số chiết khấu có tính chất đặc biệt quan trọng. Chọn biến thời gian thích hợp Về mặt lý thuyết, phân tích kinh tế các dự án phải được kéo dài trong khoảng thời gian vừa đủ để có thể bao hàm hết mọi lợi ích và chi phí của dự án. Trong việc lựa chọn biến thời gian thích hợp cần lưu ý đến 2 nhân tố quan trọng sau đây: - Thời gian tồn tại hữu ích dự kiến (Expected useful life). - Hệ số chiết khấu. Chiết khấu Chiết khấu là một cơ chế mà nhờ nó ta có thể so sánh lợi nhuận và chi phí ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian. Trong việc sử dụng chiết khấu cần phải đảm bảo 2 điều kiện tiên quyết: - Mọi biến số đưa vào tính toán chiết khấu ( ví dụ chi phí tài nguyên, lợi nhuận đầu ra...) phải được quy đổi về cùng 1 hệ đơn vị (đơn vị tiền tệ). - Giá trị một đơn vị chi phí hoặc lợi nhuận hiện tại phải lớn hơn một đơn vị chi phí hoặc lợi nhuận trong tương lai. Hai điều kiện này sẽ có khó khăn khi đưa các nhân tố môi trường vào quá trình phân tích dự án. d. Mức tối ưu Pareto Khi ta lựa chọn một phương thức quyết định nào đó làm cho một người giàu lên nhưng cũng không làm cho người khác nghèo đi, do đó một phương thức phân bổ hiệu quả là phương thức mà khi chúng ta quyết định 1 người nào đó giàu lên mà không làm cho người khác nghèo đi. e. Nguyên tắc chi phí - lợi ích Một dự án chỉ được chấp nhận khi mà tổng lợi ích xã hội là dương, tỷ lệ lợi ích - chi phí dương thay vì âm. Tuy nhiên, đối với các dự án môi trường, trong một số trường hợp, khi nguồn số liệu về ảnh hưởng cũng như lợi ích đem lại cho môi trường bị hạn chế, mức độ hiểu biết không đầy đủ để thiết lập mối quan hệ giữa sự phá huỷ môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ công đồng... thì việc tiến hành dự án phát triển có thể đưa ra một mục tiêu và phân tích các cách khác nhau để đạt được mục tiêu đó. 1.2.2.2 Các chỉ tiêu dùng để tính toán Một khi mốc thời gian thích hợp và hệ số chiết khấu đã được lựa chọn, những tính toán thực tế có thể căn cứ vào nhiều dạng công thức khác nhau. Trong phần này sẽ trình bày một số công thức thường dùng. a. Giá trị hiện tại ròng (Net present value - NPV) (NPV³ 0) Công thức hay sử dụng nhất trong phát triển kinh tế là giá trị lợi nhuận ròng (NPV) của một dự án. Đại lượng này xác định giá trị lợi nhuận ròng hiện thời khi chiết khấu ròng lợi ích và chi phí trở về với năm cơ sở bắt đầu (năm thứ nhất). b. Hệ số hoàn vốn nội tại (IRR - Internal Rate of Return). Hệ số hoàn vốn nội tại k được định nghĩa như là hệ số mà qua đó giá trị hiện thời của lợi ích và chi phí là bằng nhau. Hệ số k tương đương với hệ số chiết khấu (r) , có thể xác định bằng cách suy diễn khi thoả mãn hệ thức sau: IRR được các tổ chức tài chính sử dụng rộng rãi Giá trị IRR sau khi tính toán sẽ được so sánh với lãi suất về tài chính hoặc hệ số chiết khấu để xem mức độ hấp dẫn về tài chính hoặc kinh tế của dự án. c. Phân tích độ nhậy. (B/C) (B/C ³ 1) Tỷ lệ này so sánh lợi ích và chi phí đã được chiết khấu. Thông qua chỉ tiêu này người ta xác định một đồng vốn bỏ ra so với lợi ích thu về chiếm tỉ lệ là bao nhiêu. Các tham số được sử dụng: Bt : Lợi ích thu về tại năm t C0 : Chi phí đầu tư ban đầu Ct : Chi phí bỏ ra tại năm t t : thời gian r : hệ số chiết khấu - tỷ lệ chiết khấu n : Số năm tồn tại của dự án S :Tổng trong khoảng thời gian từ năm thứ nhất đến năm n. Ba đại lượng trình bày trên đều căn cứ vào giá trị hiện thời của dòng lợi ích và chi phí. Giữa chúng có mối liên hệ khăng khít và chúng sẽ được ưu tiên lựa chọn tuỳ vào từng loại dự án cụ thể. II/ Các bước tiến hành CBA Quan niệm về các bước tiến hành phân tích có nhiều cách khác nhau của nhiều chuyên gia khác nhau. Trong chương trình của Đông Nam á đã nghiên cứu theo phương án 9 bước. 2.1 Xem xét quyết định lợi ích của ai và chi phí như thế nào. Trong phân tích CBA việc đầu tiên đặt ra là phải xác định được lợi ích của ai và ai là người được hưởng lợi. Đây là vấn đề hết sức phức tạp trong dự án kinh tế đơn thuần, và lại càng khó khăn hơn đối với dự án môi trường. Ví như trong dự án xây dựng cầu đường thì những người được lợi ích chính là những người tham gia giao thông trên đường, là những gia đình sẽ tăng thu nhập nhờ việc kinh doanh buôn bán, là những nhà máy, xí nghiệp giảm bớt được chi phí vận chuyển, v.v... Khả năng sáng suốt của người phân tích là bằng cách nào đó xác định được toàn lợi ích mà khi dự án được chấp nhận, nếu xác định càng đầy đủ bao nhiêu thì tính hiệu lực của dự án càng chính xác bấy nhiêu, càng tiếp cận điểm hiệu quả và điểm cân bằng mà xã hội mong muốn. Việc phân định chi phí xem ai là người phải chịu thì đơn giản hơn việc xác định lợi ích. Như đối với nhà máy giấy, đầu tư lắp đặt hệ thống xử lý môi trường thì tất nhiên chi phí phải do phía chủ đầu tư chịu, cụ thể ở đây là nhà máy. Đây là bước cơ sở nền tảng cho mọi bước tiếp theo nếu như phân định lợi ích và thiệt hại không đúng thì sẽ làm giảm hiệu lực của dự án. 2.2 Lựa chọn danh mục các dự án thay thế Bất cứ một dự án nào đưa ra thì cùng với nó sẽ có nhiều dự án thay thế, có nghĩa là khi dự án không được đạt hiêu quả thì sẽ được thay thế bằng dự án khác hiệu quả hơn. Về mặt kĩ thuật mỗi dự án đưa ra khả năng kĩ thuật để hình thành dự án khác nhau do đó hiệu quả sẽ khác nhau, việc thay đổi 1 dự án thay thế tức là thay đổi toàn bộ quá trình CBA. Do đó vấn dề đặt ra đối với người làm CBA là phải liệt kê được tất cả các phương án có thể có và trong mỗi phương án đưa ra phải phân tích CBA một cách đầy đủ nhất, để từ đó người ra quyết định có cơ sở xem xét và đi đến quyết định lựa chọn phương án tốt nhất. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng phương án được lựa chọn nhiều khi không thể dám chắc được đó là phương án tối ưu nhất hay không, bởi vì trong quá trình đi vào hoạt động của dự án thì còn có những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra, mà bản thân các nhà phân tích cũng khó có thể dự đoán được vì nó không theo một quy luật thuần tuý nào. 2.3 Liệt kê các ảnh hưởng tiềm năng và chỉ số đo lường Các ảnh hưởng tiềm năng là các ảnh hưởng mà chúng ta chưa thể thấy hết được khả năng xuất hiện của nó mà nó chỉ xuất hiện trong tương lai khi dự án đã đi vào hoạt động. Do đó, nó sẽ làm sai lệch kết quả chúng ta tính toán, nếu như chúng ta bỏ sót những ảnh hưởng này khi phân tích. Lựa chọn các chỉ số đo lường thực chất là giá trị để chúng ta xác định mức hấp dẫn của dự án và thường là kết quả xác định bằng giá trị cụ thể. Trong thực tế, tuỳ từng dự án cụ thể mà đưa ra những chỉ số đo lường thích hợp. Ví dụ như dự án xoá mù chữ ở miền núi, thì chúng ta không thể sử dụng chỉ số NPV, IRR ... được, mà ở đây phải là tỉ lệ bao nhiêu người sẽ được phổ cập tiểu học trên tổng số những người đi học. 2.4 Dự đoán những ảnh hưởng đến lượng trong suốt quá trình dự án tiến hành. Dự đoán được những khả năng tương đối làm cho kết quả dự kiến đưa ra có thể bị sai lệch, điều mà CBA thông thường có tính lý thuyết (cổ điển) ít đề cập đến cách làm như thế nào. Chắc chắn chúng ta phải thực hiện dựa trên những nguyên lý phân tích khi mới hình thành "exante", "inmedias - res" hoặc "exposte". Như vậy quá trình thực hiện từng bước đó sẽ dẫn đến 3 khả năng: Chi phí tăng, lợi ích tăng hoặc không có sự thay đổi. 2.5 Lượng hoá bằng tiền tất cả các tác động. Trong phân tích CBA điều quan trọng là phải lượng hoá được tất cả bằng giá trị cụ thể, như chúng ta biết có 2 phương thức xác định giá: giá thị trường và giá tham khảo. Mọi tác động môi trường đều thừa nhận phương thức WTP (willing to pay - bằng lòng chi trả) . Tuy nhiên, thực tế có những trường hợp thực hiện CBA không thể lượng hoá được bằng tiền, do đó chúng ta chỉ có thể phân tích theo xu hướng chi phí hiệu quả và theo xu hướng phân tích chỉ tiêu. 2.6 Khấu hao khoảng thời gian để đưa về dạng hiện tại. Điều quan trọng nhất đối với dự án phân tích môi trường phải xác định được hệ số quy đổi có tính xã hội, đó chính là điểm khác biệt giữa phân tích kinh tế môi trường và kinh tế học thuần tuý. Và khi xác định được giá trị này thì cá nhân thường phản ứng lại tỷ lệ khấu hao có tính xã hội. 2.7 Tổng hợp các lợi ích và chi phí. Giá trị sử dụng NPV, tuy nhiên không thể chỉ lấy chỉ số này làm căn cứ mà cần phải sử dụng thêm chỉ số IRR để lựa chọn phương án có tính tổng hợp. Như đã trình bày, có nhiều loại dự án khác nhau vì vậy khi phân tích phải cân nhắc, lựa chọn những chỉ số nào cho thích hợp đó là điều quan trọng. Ba đại lượng NPV, IRR, B/C có mối liên hệ khăng khít với nhau. 2.8 Phân tích độ nhậy Xác định khả năng thay đổi trong quá trình vận hành CBA khi một phương án lựa chọn. Trong mọi trường hợp, chúng ta phải có điểm dừng, một sự thừa nhận hay bằng lòng vì không có một dự án nào có tính tuyệt đối. 2.9 Tiến cử phương án đem lại lợi ích xã hội cao nhất. Là kết quả của 8 bước trên và các quyết định đưa ra chứng tỏ nguồn lực phân bổ là hiệu quả nhất. III/ Vận dụng CBA để đánh giá hiệu quả của việc lắp đặt hệ thống xử lý nước thải cho nhà máy giấy. Vấn đề ô nhiễm không khí, tiếng ồn, bụi,... cũng thường gặp ở các nhà máy giấy hiện nay nhưng thường chưa cấp bách so với vấn đề nước thải, vấn đề cần tập trung xử lý ở đây là nước thải công nghiệp. Nguyên nhân chính của việc này là vấn đề xử lý môi trường chưa được đặt ra đúng mức, mặt khác khi môi trường đã bị ảnh hưởng nặng nề thì các cơ sở này không đủ kinh phí để tiến hành xây dựng hệ thống xử lý. Muốn giải quyết được vấn đề ô nhiễm nước thải nghành giấy, phải giải quyết đồng thời bằng 2 con đường: - Lựa chọn công nghệ sản xuất thích hợp theo hướng sản xuất sạch (cleaner production) - Xử lý triệt để nước thải (The end of pipe techonology). Và kết quả đạt được sau khi đã xây dựng, lắp đặt hệ thống xử lý nước thải là phải đạt tiêu chuẩn thải của Việt Nam (được quy định chi tiết trong TCVN 1995). Như vậy, mức độ ảnh hưởng của nước thải đến môi trường xung quanh khu vực có thể được giảm đến mức thấp nhất và có thể nói là ảnh hưởng sẽ không còn đáng kể nữa. Tất nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay, việc xử lý luôn phải tính đến chi phí, đặc biệt là chi phí vận hành sao cho không ảnh hưởng quá lớn đến giá thành sản phẩm giấy và bột giấy. Để đánh giá được hiệu quả của việc lắp đặt hệ thống xử lý nước thải, cần phải phân định được những chi phí và lợi ích. 3.1 Đánh giá chi phí Chi phí môi trường là những loại chi phí trong quá trình thực hiện dự án và chi phí này được lượng hoá bằng tiền tệ. 3.1.1 Chi phí đầu tư ban đầu Chi phí đầu tư ban đầu bao gồm các khoản mục chi phí liên quan đến đầu tư ban đầu (xây dựng trạm xử lý, mua trang thiết bị,..). Thuật ngữ "chi phí đầu tư ban đầu " thay thế thuật ngữ "chi phí tài sản cố định". Thuật ngữ "chi phí tài sản cố định" chỉ nói đến các công cụ và các khoản mục nguyên liệu trực tiếp mà chúng được tính khấu hao đồng thời bỏ qua các chi phí không được tính khấu hao. Các chi phí không trực tiếp này liên quan đến chi phí đầu tư ban đầu chẳng hạn chi phí tổ chức lao động khoa học, chi phí đào tạo,...chúng có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận đầu tư và phải được đưa vào phân tích. 3.1.2 Chi phí hoạt động hàng năm Chi phí hoạt động hàng năm bao gồm tất cả các khoản chi phí để vận hành cho mỗi năm, gồm: - Chi phí sản xuất - Chi phí quản lý hành chính - khấu hao - Trả lãi vốn vay - Các loại thuế - Các loại chi phí khác 3.1.3 Chi phí môi trường trong giai đoạn thi công lắp đặt. Trong giai đoạn lắp đặt này sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến môi trường do việc tập trung thêm công nhân do đó lượng nước thải sẽ tăng thêm, phạm vi lắp đặt sẽ chịu ảnh hưởng của việc xây dựng như: ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm, thất thoát, rò rỉ dầu mỡ...Tuy mức độ ô nhiễm chỉ trong một khoảng thời gian ngắn nhưng nếu không có sự quản lý, xử lý thì nó sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Ngoài ra, khi đưa hệ thống xử lý môi trường vào hoạt động thì không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của quá trình thải nước ô nhiễm được, mà trong điều kiện còn khó khăn hiện nay của đất nước ta nói chung và các nhà máy nói riêng thì chúng ta chỉ cố gắng giảm thiểu một cách tối đa các nguồn gây ô nhiễm về mức tiêu chuẩn thải cho phép. Do đó, giả thiết đặt ra ở đây là tất cả các chi phí khác (như chi phí phòng chống ô nhiễm của dân cư, chi phí khám chữa bệnh do ô nhiễm, chi phí mua phân bón nhiều hơn cho chăm sóc hoa màu,...) sau khi lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống xử lý môi trường là gần bằng 0. 3.2 Đánh giá lợi ích Lợi ích môi trường của một dự án cho môi trường là những phần doanh thu và lợi ích về mặt xã hội đo được bằng tiền do dự án đó đem lại. Như đã biết để đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế của dự án thì ngoài việc lượng hoá được hết các chi phí và lợi ích đơn thuần của dự án thì phải lượng hoá được cả chi phí và lợi ích môi trường. Lợi ích môi trường thu về ở đây sẽ là những lợi ích do việc làm giảm mức độ gây ô nhiễm của hoạt động sản xuất giấy gây ra. Có 2 cách tiếp cận để tính toán được lợi ích thu về sau khi có hệ thống xử lý môi trường. 3.2.1 Cách tiếp cận giải quyết hậu quả của ô nhiễm môi trường. 3.2.1.1 Lợi ích có thể lượng hoá được bằng tiền a/ Lợi ích thu về từ việc giảm chi phí sức khoẻ cộng đồng Chi phí bỏ ra để giải quyết hậu quả của ô nhiễm thường rất lớn, nhưng vấn đề nổi cộm ở đây đó là vấn đề sức khoẻ của cộng đồng đang bị đe doạ bởi việc sử dụng một môi trường bị ô nhiễm. Khi môi trường được xử lý, chắc chắn sức khoẻ cộng đồng sẽ được cải thiện, và lợi ích thu về ở đây sẽ chính bằng những chi phí hàng năm mà bỏ ra để phục hồi sức khoẻ cho dân cư quanh khu vực bị ô nhiễm. Tổng thiệt hại về SKCĐ do ÔNMT trong 1 năm (LI1) P1 : Chi phí chữa bệnh trung bình 1 ca bệnh i gây ra bởi ô nhiễm. SBNi : Tổng số người mắc bệnh i gây ra bởi ô nhiễm tại thời điểm điều tra SBNĐCi : tổng số bệnh nhân mắc bệnh i ở vùng đối chứng (đã quy về cùng một mặt bằng dân số so với vùng bị ô nhiễm) t : khoảng thời gian (năm ) từ khi bắt đầu bị ô nhiễm cho tới thời điểm nghiên cứu. n : Số bệnh ô nhiễm trong nghiên cứu b/ Giảm thiệt hại về chi phí cơ hội SKCĐ Tổng lợi ích do giảm thiệt hại chi phí cơ hội SKCĐ trong 1 năm Tổng lợi ích do giảm thiệt hại CPCH SKCĐ trong 1 năm (LI2) Trong đó: TNBQ : thu nhập bình quân 1 người một ngày trong khu vực nghiên cứu SNNi : Số ngày nghỉ bình quân của một người mắc bệnh i SBNlđi : Tổng số người trong độ tuổi lao động mắc bệnh i (đã trừ đi phần đối chứng tương ứng) t : Khoảng thời gian (năm) từ khi bắt đầu ô nhiễm cho tới thời điểm nghiên cứu n : Số bệnh ô nhiễm trong nghiên cứu c/ Lợi ích thu về do việc tăng năng suất nuôi trồng Khi bị ô nhiễm năng suất nuôi trồng quanh vùng bị giảm sút do chịu ảnh hưởng ô nhiễm. Nhưng khi môi trường được xử lý, thì năng suất nuôi trồng sẽ tăng lên về mức năng suất như khi chưa phải chịu ô nhiễm. Tổng lợi ích thu được do NS nuôi trồng tăng /1 năm (LI3) Pj : Giá thị trường của 1 Đơn vị cây (con) bị giảm năng suất Sj : Tổng diện tích cây (con) bị giảm năng suất do ô nhiễm tính trong 1 năm NSDCj : Năng suất cây (con) thứ j trong vùng đối chứng (không ô nhiễm) NSj : Năng suất cây (con) thứ i trong vùng bị ô nhiễm m : Số cây (con) xét tới trong nghiên cứu d/ Giảm chi phí phòng chống ô nhiễm của những đối tượng chịu ô nhiễm Khi có ô nhiễm thì người dân hoặc các ngành sản xuất khác thuộc vùng lân cận phải bỏ tiền ra để loại bỏ những tác động tiêu cực của các thành phần ô nhiễm trong môi trường sống của mình ( Chi phí lắp đặt hệ thống xử lý không khí trong nhà, các thiết bị bảo hiểm ngoài trời; Chi phí lắp đặt hệ thống xử lý nước, lọc nước sinh hoạt và nước phục vụ sản xuất, nuôi trồng; Chi phí bổ sung chăm sóc hoa màu, cây xanh chịu ảnh hưởng ô nhiễm...) Tuỳ từng đặc điểm, tính chất của mỗi khu vực chịu ô nhiễm khác nhau mà có thể tiến hành điều tra mẫu thích hợp, để tính toán được chi phí phòng chống ô nhiễm hàng năm của dân cư và từ đó có thể tính toán được lợi ích thu về khi có hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường. Lợi ích do giảm chi phí phòng tránh/ 1năm = (Tổng số hộ trong vùng bị ô nhiễm) (LI4) * (Chi phí phòng tránh trung bình/1 hộ/1năm) 3.2.1.2 Lợi ích không lượng hoá được bằng tiền Ngoài ra chúng ta còn phải tính đến những lợi ích thu về mà không thể lượng hoá được bằng tiền như làm đẹp cảnh quan xung quanh, góp phần vào quá trình đô thị hoá, tác động tích cực đến các hoạt động khác... 3.2.1.3 Tổng lợi ích thu được = LI1 + LI2 + LI3 + LI4 3.2.2 Cách tiếp cận theo chi phí giảm thải ô nhiễm Như trên đã trình bày, thì hoạt động sản xuất của các nhà máy giấy đang gây ra một ngoại ứng tiêu cực và đó chính là nguyên nhân gây ra thất bại thị trường. Theo kinh nghiệm của các nước thì khi nhà máy không có hệ hống xử lý nước thải thì sẽ phải nộp 1 khoản lệ phí thải tương ứng cho cơ quan nhà nước để xử lý ô nhiễm cho trước khi thải ra ngoài môi trường. Trên thực tế đất nước ta hiện nay, mặc dù đã ban hành luật môi trường, tuy nhiên vẫn chưa đưa công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, vì vậy những quy định về lệ phí, phí, thuế môi trường ... vẫn còn rất mới lạ . Do đó, để tính toán được thiệt hại hàng năm xã hội phải chịu do hoạt động sản xuất của nhà máy giấy thì phải dựa theo kinh nghiệm của các nước Trung Quốc, Thái Lan. Lợi ích thu về do giảm chi phí khắc phục hàng năm hay chi phí đầu tư cho các thiết bị chống ô nhiễm xử lý tại nguồn để thải ra theo đúng quy định trong TCVN 5945 - 1995, được tính theo mô hình sau: Lợi ích giảm chi phí khắc phục/1năm = i: Tác nhân gây ô nhiễm (BOD, COD, SS...) cần được giảm thải SLi: Số lượng chất ô nhiễm k trên một đơn vị thải (m3) TCi: Tiêu chuẩn giới hạn cho phép của chất gây ô nhiễm i trên một đơn vị thải (TCVN 5945 - 1995) Mi: Tổng lượng chất thải có chứa chất ô nhiễm i trong một năm (nước thải, khí thải) Ki: Chi phí đơn vị BVMT với các chất ô nhiễm trong nước thải (đồng/kg) Hi: Hệ số về mức độ khó của sự khắc phục ô nhiễm từ mức thực tế về mức tiêu chuẩn Tính theo lệ phí thải của Thái lan, là tổng số tiền mà chính phủ quy định từ các nguồn gây ô nhiễm bất cứ có hay không việc thải quá tiêu chuẩn cho phép. Loại phí này sẽ được sử dụng cho việc khắc phục những thiệt hại môi trường và ảnh hưởng của ô nhiễm đến sức khoẻ cộng đồng. Loại phí này trong trường hợp này lợi ích thu về mỗi năm sẽ là việc giảm được mức lệ phí đóng góp cho xử lý môi trường (cũng chính bằng mức chi phí hàng năm xã hội phải bỏ ra để khắc phục ô nhiễm). Nguyên tắc của phí giảm thải là nhà máy phải trả phí nếu như họ thải những chất thải ra ngoài môi trường, tỉ lệ phí phụ thuộc vào tổng lượng chất thải thải ra, và tiêu chuẩn thải cho phép. Phương trình sử dụng để tính toán phí giảm thải: C = 4.52 Q + 18.48 * SLBOD + 100 pH + 18.48*BODTC/CODTC * SLCOD + 18.48 *BODTC/SSTC * SLSS + Mag (đơn vị tính là bạt Thái Lan) Trong đó: Q : Tổng khối lượng nước thải thải ra (m3/năm) SLBOD : Tổng khối lượng BOD thải ra (kg/năm) SLCOD : Tổng khối lượng COD thải ra (kg/năm) SLSS : Tổng khối lượng SS thải ra (kg/năm) BODTC : Giá trị tiêu chuẩn của BOD (kg/m3) CODTC : Giá trị tiêu chuẩn của COD (kg/m3) SSTC : Giá trị tiêu chuẩn của SS (kg/m3) Mag Chi phí quản lý nước thải như giám sat, đo đạc chất lượng nước Mag = 0.1(4.52Q + 18.48*SLBOD + 100pH + 18.48*BODTC/CODTC * SLCOD + 18.48 *BODTC/SSTC * SLSS) áp dụng mô hình này vào trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, với tỷ giá hối đoái hiện nay trên thị trường 1 bạt = 320 đồng Việt Nam. Tiêu chuẩn nước thải công nghiệp loại C ở Việt Nam là Nồng độ BOD = 100 mg/l = 0.1 kg/m3 Nồng độ COD = 400 mg/l = 0.4 kg/m3 Nồng độ SS = 200 mg/l = 0.2 kg/m3 Công thức trên được quy đổi theo đơn vị tiền tệ của Việt Nam và mức phí cho mỗi kg chất thải gây ô nhiễm được điều chỉnh như sau: Lệ phí /1 m3 nước thải = 4,52 bạt = 4,52 * 320 = 1 446 (VNĐ) Lệ phí /1 kg BOD = 18.48 bạt = 591.4 (VNĐ) Lệ phí /1 kg COD = 4.62 bạt = 1474 (VNĐ) Lệ phí /1 kg SS = 9.24 bạt = 2957 (VNĐ) Phương trình áp dụng trong điều kiện Việt Nam như sau: C = 1446 Q + 591.4 * SLBOD + 32000 pH + 1478 * SLCOD + 2957 * SLSS + Mag Chương II Tổng quan về nhà máy giấy hoàng Văn Thụ I. Mô tả về Hiện trạng nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ. 1.1 Khái quát chung về nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ 1.1.1 Điều kiện tự nhiên của khu vực 1.1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ được thành lập vào những năm đầu của thế kỉ, cho đến nay nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ được coi là cái nôi khai sinh của nghành giấy Việt Nam. Nằm tại phường Quán Triều, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, nhà máy tiếp giáp với: - Phía Đông nhà máy tiếp giáp với sông Cầu - Phía Bắc nhà máy tiếp giáp với phường Tân Long - Phía Nam nhà máy tiếp giáp với phường Quang Vinh. - Phía Tây nhà máy tiếp giáp với quốc lộ 3. (xem cụ thể ở phụ lục ) Tỉnh Thái Nguyên được tái lập vào năm 1997 sau khi tách ra từ tỉnh Bắc Thái, có đường biên giới chung với 5 tỉnh: Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Giang. Diện tích của toàn tỉnh là 3.566,63 km2. Thành Phố Thái Nguyên nằm cách thủ đô Hà Nội 78 km về phía Bắc. Địa hình khu vực mang đặc trưng của vùng rừng núi và giáp ranh giữa vùng rừng núi phía Bắc với những thửa ruộng bậc thang canh tác nông nghiệp xen kẽ giữa những đồi núi nhỏ. 1.1.1.2 Đặc điểm khí hậu Thái Nguyên nằm trong khu vực trung du với đặc điểm khí hậu mang tính chất đặc trưng của khu vực Trung du Bắc Bộ. Khí hậu có đặc điểm cơ bản của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nền chung của khí hậu nóng ẩm nhưng có một mùa đông khá lạnh và mùa hè mưa nhiều. Nhiệt độ Mùa hè (nhiệt độ trung bình trên 240C) bắt đầu vào khoảng từ đầu tháng 5 và kết thúc vào cuối tháng 10, kéo dài khoảng 6 tháng: mùa đông (nhiệt độ trung bình dưới 210) bắt đầu từ khoảng trung tuần tháng 11 đến trung tuần tháng 3 năm sau kéo dài hơn 4 tháng. Thời gian còn lại thuộc các tháng 3 - 4, 10 - 11 được coi là thời kì chuyển mùa nhiệt hàng năm. Trạm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm Thái Nguyên 15.9 17.1 19.8 23.6 27.0 28.4 28.5 28.1 27.0 24.4 21.0 17.5 23.2 Bảng 1: Nhiệt độ không khí trung bình tháng và năm (0C) Gió Đặc trưng biểu hiện trước tiên là cơ chế gió mùa, hướng gió thịnh hành Đông Bắc trong các tháng mùa đông và hướng gió thịnh hành Đông Nam vào mùa hè. Tốc độ gió trung bình khá nhỏ chỉ khoảng 2 - 3 m/s. Mưa, ẩm Mưa ở mức ổn định thấp theo cả thời gian và không gian. Lượng mưa có quan hệ mật thiết với cơ chế hoạt động của gió mùa. Trên khu vực Thái Nguyên, lượng mưa hàng năm khá lớn (trung bình 2.047 mm). Tổng lượng mưa tháng và năm của khu vực trạm khí tượng Thái Nguyên được thống kê trong bảng 2: Trạm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm Thái Nguyên 22.2 35.0 62.9 114.1 239.1 354.4 408.5 376.6 266.9 117.3 44.0 23.2 2047 Bảng 2: Tổng lượng mưa tháng và năm (mm) Trạm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm Thái Nguyên 72.2 63.3 61.5 65.3 96.8 93.1 90.2 78.9 84.9 92.4 86.2 83.3 968.1 Bảng 3: Lượng bốc hơi trung bình tháng và năm (mm) 1.1.1.3 Đặc điểm thuỷ văn khu vực Con sông lớn nhất chảy qua khu vực là sông Cỗu có đặc điểm thuỷ văn như sau: Dòng chảy năm Đặc trưng dòng chảy năm tại các trạm thuỷ văn trong lưu vực sông Cầu Stt Trạm Sông Thời kì hoạt động Trung bình thời kì Hệ số biến sai Quan trắc Nhiều năm m3/s l/s.km2 m3/s l/s.km2 1 Thác Riềng Cầu 1960- 1999 17.3 24.3 17.5 24.6 0.25 2 Thác Bưởi Cầu 1960- 1996 52.2 23.5 52.0 23.4 0.28 Bảng 4: Đặc trưng dòng chảy của sông Cầu Kết quả tính toán về tổng lượng chảy trung bình thời kì nhiều năm (W0) của sông Cầu như sau: - Tính đến trạm Thác Riềng: 0,546 km3/ năm - Tính đến trạm Thác Bưởi: 1,6 km3/ năm Chế độ dòng chảy Cũng như các nơi khác ở Bắc Bộ, mùa mưa ở lưu vực sông Cầu thường bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 9 ở thượng lưu hay tháng 10 ở trung lưu và hạ lưu. Lượng mưa trong các tháng mùa mưa chiếm khoảng 65 - 85% tổng lượng mưa trong một năm. Dòng chảy sông suối cũng phân phối không đều trong năm và biến đổi theo mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ thường bắt đầu từ tháng 5, 6 đến tháng 10. Lượng dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng 80 - 85% tổng lượng dòng chảy toàn năm. Tháng 7 là tháng có lượng dòng chảy trung bình tháng lớn nhất. Mùa cạn kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4, 5 năm sau. Lượng dòng chảy trong mùa này chỉ chiếm khoảng 20% tổng lượng dòng chảy năm, tháng 2 là tháng có lượng dòng chảy trung bình tháng nhỏ nhất. Trong những năm gần đây, do rừng đầu nguồn bị tàn phá, nên dòng chảy sông suối ở đầu nguồn có xu thế cạn kiệt. Lượng nước sông Cầu sử dụng rộng rãi cho sản xuất, đời sống và nhu cầu dùng nước ngày càng tăng lên. Để khai thác nguồn nước, trong lưu vực đã xây dựng một số hồ chứa. Hồ Núi Cốc trên sông Công được xây dựng từ năm 1972 và hoàn thành năm 1978, có dung tích 175,5.106 m3. Hồ Núi Cốc có nhiệm vụ cấp nước tưới cho hạ lưu sông Công và cấp nước bổ sung cho sông Cầu để cấp nước cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên, các khu công nghiệp sông Công, Gò Đầm và tưới cho hơn 20.000 ha ruộng ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Những năm vừa qua, đã được sử dụng ở Thái Nguyên như sau: - Tưới ruộng: Lượng nước 151.106 m3/ năm dùng để tưới cho 10.900 ha ở tỉnh Thái Nguyên. - Nước sinh hoạt: Cấp cho thành phố Thái Nguyên 0.7 m3/s (30.106 m3/năm). - Sản xuất công nghiệp: Cấp cho khu gang thép Thái Nguyên 20.106 m3/năm (0,63 m3/s) trong năm 1996 và 12.106 m3/năm cho năm 1997 (do sử dụng hệ thống nước tuần hoàn nội bộ), khu công nghiệp sông Công 0.32 m3/s (10.106 m3/năm) cho sản xuất và sinh hoạt. Tuy tổng lượng nước sông Cầu là khá lớn so với tổng nhu cầu dùng nước, nhưng do dòng chảy phân phối rất không đều trong năm, nên trong mùa cạn đã xảy ra thiếu nước, nhất trong tháng 1 - 3. Theo tính toán sơ bộ, trong các tháng 1 - 3 thiếu 36.106 m3 nước để cung cấp cho tưới ruộng ở Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang và nước sinh hoạt, sản xuất công nghiệp ở Thái Nguyên. Trong tương lai nhi cầu dùng nước cho sinh hoạt và sản xuất tăng lên mạnh mẽ, tình trạng thiếu nước chắc chắn sẽ càng trầm trọng hơn nếu không có các biện pháp tốt để khai thác và bảo vệ nguồn nước sông Cầu. 1.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên 1.1.2.1 Dân số và lao động Thái Nguyên có 7 đơn vị hành chính trực thuộc: 1 thành phố (Thái Nguyên); 1 thị xã (Sông Công) và 7 huyện (Định Hoá, Phú Lương, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên) với tổng số 180 phường và xã. Dân số toàn tỉnh là 1.060.316 người với 8 dân tộc anh em (Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chay, H'Mông). Nơi có mật độ dân số cao nhất tỉnh là thành phố Thái Nguyên 1.260 người/km2 và thấp nhất là huyện Võ Nhai 72 người /km2. Tốc độ gia tăng dân số vẫn còn ở mức tương đối cao 1,97%. Với nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm như hiện nay thì sự gia tăng dân số phải phấn đấu giảm xuống 1,2% đến 1,5% mới cho phép ở thế cân bằng ổn định. Về lao dộng có khoảng 562.000 người trong độ tuổi lao dộng, trong đó có 64.995 lao dộng làm việc trong khu vực Nhà nước. Ngoài ra còn có 13.764 người sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Lao dộng nông nghiệp ở nông thôn là 373.994 người. Số còn lại chủ yếu là kinh doanh nhỏ hoạt động trên mọi lĩnh vực kinh tế rải khắp địa bàn tỉnh. 1.1.2.2 Tài nguyên Do đặc điểm là một tỉnh miền núi, tuy diện tích đất không rộng nhưng Thái Nguyên khá giàu về các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, nước ngọt, khoáng sản. - Diện tích đất nông nghiệp: 76.745 ha (1996) và tăng lên 77.714 ha (1998). - Diện tích đất lâm nghiệp cũng được tăng dần trong những năm gần đây: 113.571 ha (năm 1996), 119.855 ha(năm 1997), 122 ha (1998). Như vậy trong 3 năm gần đây diện tích của rừng tăng được 8.722 ha, 80% là rừng phòng hộ của khu vực sông Công, sông Cầu. - Tài nguyên nước mặt khoảng 3 - 4 tỷ m3, nước ngầm khoảng 1,5 - 3 tỷ m3. Tài nguyên rừng có 134 loài cây thuộc 39 họ, có 3 loài gỗ quý, 100 loài cây thuốc, 422 loài động vật thuộc 91 họ, 28 bộ, 4 lớp động vật (chim, thú, bò sát, ếch nhái) trong đó hổ, báo, gấu, lợn rừng, hươu, nai gần như tuyệt chủng. Tuy nhiên chất lượng rừng ở đây bị xuống cấp nhiều, nghèo kiệt, độ che phủ thấp không còn khả năng ngăn lũ vào mùa mưa và giữ ẩm cho đất vài mùa khô dẫn đến tình trạng suy thoái đất, lũ lụt về mùa mưa, biến đổi dòng chảy, bồi lấp bờ sông... Mặc dù trong những năm gần đây, chủ trương giao đất giao rừng cho nhân dân quản lý đã thu được kết quả tương đối tốt. Khoáng sản có 30 loài thuộc 4 nhóm: Nhiên liệu, kim loại, phi kim loại và vật liệu xây dựng, trong đó có gần 100 mỏ lớn, vừa có trữ lượng quăng khá lớn và đang được khai thác. 1.1.2.3 Phát triển kinh tế Mức tăng trưởng kinh tế tính theo GDP của 4 năm (1995 - 1998) trung bình của cả tỉnh khoảng 5% năm. Thu nhập bình quân đầu người trong 5 năm qua mới chỉ đạt 1,7 triệu đồng đến 2,2 triệu đồng/năm. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của tỉnh Thái Nguyên từ 1995 đến 1998 được trình bày qua bảng sau: Bảng 5: GDP các ngành của tỉnh Thái Nguyên qua các năm. Hạng mục 1995 1996 1997 1998 GDP (tr.đ) GDP (tr.đ) % tăng trưởng GDP (tr.đ) % tăng trưởng GDP (tr.đ) % tăng trưởng Toàn tỉnh 1.638.606 1.753.657 7,02 1.874.593 6,90 1.945.275 3,74 Nông,lâm, thuỷ sản 692.817 650.780 3,33 682.450 4,87 713.160 4,50 CN - XDCB 532.579 581.348 9,16 625.853 7,66 646.005 3,22 Dịch vụ 476.210 521.529 9,52 566.290 8,58 586.110 3,50 (Nguồn: UBND tỉnh Thái Nguyên ) 1.1.2.4 Giáo dục và sức khoẻ cộng đồng Giáo dục Theo số liệu thống kê 1998 toàn tỉnh có 350 trường phổ thông với 7.572 lớp, 9.969 giáo viên, 252.299 học sinh, giảm so với năm 1997 là 3.504 học sinh; có 6 trường đại học và cao đẳng trên địa bàn với 920 giáo viên, 10.396 học sinh; 6 trường trung cấp do Trung Ương quản lý với 421 giáo viên, 5.086 học sinh; 3 trường do địa phương quản lý với 171 giáo viên và 2.117 học sinh; 8 trường công nhân kỹ thuật với 350 giáo viên, 5.126 học sinh. Sức khoẻ cộng đồng Trong tỉnh có 17 bệnh viện, 18 phòng khám, 176 trạm y tế phường xã với tổng số 3.416 giường bệnh, 2.199 cán bộ y tế. Số lượng cán bộ đạt 2,07 cán bộ y tế/1000 dân để phục vụ cho sức khoẻ cộng đồng. 1.2 Hiện trạng sản xuất của nhà máy giấy Hoàng văn thụ Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng Công Ty Giấy Việt Nam, Nhà máy này là nhà máy giấy đầu tiên của ngành giấy Việt Nam, tiền thân là Nhà máy giấy Đáp Cầu - Bắc Ninh. Trong những năm 1990, Nhà máy đã định hướng sản phẩm chính là các loại giấy bao gói công nghiệp và cát tông hòm hộp. Hiện nay sản phẩm chính của Nhà máy đã đáp ứng phần nào nhu cầu khách hàng trong nước, tuy nhiên thị trường ngày càng đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá bán ngày một thấp hơn. Do vậy buộc Nhà máy có chiến lược phát triển, mở rộng quy mô về số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu thị trường. 1.2.1 Mô tả quy trình sản xuất hiện nay của Nhà máy 1.2.1.1 Sơ đồ dây chuyền sản xuất Giấy được sản xuất từ bột giấy qua công nghiệp cơ bản là xeo giấy. Bột giấy cơ bản nguyên liệu là cellulose nguồn gốc thực vật như gỗ, tre nứa, rơm, bã mía. Do đó việc sản xuất giấy bao giờ cũng gồm những công đoạn sau: a) Chuẩn bị nguyên liệu có cellulose Nguyên liệu tre, nứa, vầu do các lâm trường Bạch Thông, Đồng Hỷ, Võ Nhai.. cung cấp thông qua 2 tuyến đường bộ và đường sông. Nguyên liệu nứa, vầu được xếp đống trên bãi, chứa theo từng loại riêng, tiện cho việc sử dụng. Những cây nguyên liệu sau khi được ổn định về độ ẩm, được đưa vào máy chặt mảnh có công xuất 2 tấn/giờ để cắt thành mảnh có kích thước 25 - 95 mm. Sau đó được hệ thống băng tải dẫn lên phễu chứa rồi được nạp vào các goòng để kéo và đổ vào các nồi nấu. b) Nấu để sản xuất bột giấy và tẩy bột giấy Nhà máy hiện có 2 hệ thống nồi nấu: Nồi cầu dung tích 8 m3 Nồi trụ nằm có dung tích 21 m3 ở 2 hệ thống nồi này, sau khi nạp đầy nguyên liệu và bổ sung 1 lượng xút, lưu huỳnh, nước theo lượng nhất định, nồi được đóng lại và tiến hành quay nồi cấp hơi nước bão hoà trực tiếp vào nồi ở áp lực tối đa 6 kg/cm2 trong một thời gian nhất định. Nguyên liệu nứa, vầu đã được nấu chín, được phóng hoặc đổ vào các két chứa sơ bộ. Tại két chứa sơ bộ sẽ tiến hành chắn triệt để dịch đặc để đưa về bộ phận cô dịch với sản phẩm phụ là dịch đen. Bột còn lại được rửa sơ bộ sau đó đưa vào các máy rửa khuyếch tán để tiến hành rửa thật triệt để. c) Tạo bột giấy thành phẩm Bột rửa sạch được tháo vào các máy nghiền của Hà Lan. Tại đây tuỳ theo từng loại giấy sẽ có một chế độ nghiền phù hợp. Sau khi gia keo, bột tinh được tháo xuống các phuy chứa của các máy xeo - thuộc phân xưởng giấy. d) Xeo giấy và tạo giấy thành phẩm Tại các phuy chứa bột dự trữ có trữ một lượng bột tối thiểu nhằm sản xuất liên tục. Sau khi pha loãng, bột nước được bơm chuyển về hòm điều tiết, tiếp tục pha loãng và điều chỉnh lưu lượng ổn định thì bột nước mới được dẫn qua sàng bằng và sàn đứng cát rồi lại qua sàng tinh. Sau khi lọc sạch cát, sạn, những sợi dài bột nước được đưa qua hòm bột chảy để lên lưới đồng. Sau khi qua hệ thống ép ướt băng, giấy được dẫn vào sấy. Giấy khô được cuộn thành từng cuộn có trọng lượng theo yêu cầu. Sau khi qua cắt hoặc cuộn lại, loại bỏ những phần không đạt yêu cầu thì tiến hành nhập kho thành phẩm, tới đây kết thúc chu trình sản xuất. Sơ đồ dây chuyền sản xuất hiện nay của Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ như sau: Chặt mảnh Goòng Nấu Két chứa sơ bộ Rửa khuyếch tán Nghiền Phuy chứa Pha loãng Hòm điều tiết Sàng thô Rãnh lắng cát Sàng tinh Hòm bột chảy Lưới Ép Sấy Cuộn Ép quang Kho Xút, lưu huỳnh Chắt dịch Cô đặc dịch đen Nồi hơi Hơi nước bão hoà Cuộn lại Cắt lựa SX cát tông lạnh Thu hồi bột Nhựa Phèn Sàng thô Cống thải SƠ ĐỒ DÂY CHUYỀN SẢN SUẤT Nguyên liệu Hình 9: Sơ đồ dây chuyền sản xuất hiện nay của Nhà máy 2.1.2 Trang thiết bị Thiết bị của nhà máy chủ yếu là do Trung Quốc sản xuất từ những năm 1970, ngoài ra còn phải kể đến một loạt các thiết bị của Pháp, Đức... Các thiết bị này qua quá trình sản xuất đã được đại tu, sửa chữa nhưng nhìn chung còn chắp vá, thường xuyên có tình trạng hư hỏng phải đóng máy xử lý, sửa chữa. Cụ thể: - Hệ thống chặt mảnh nguyên liệu: Với hai máy chặt mảnh Trung Quốc, công suất thiết kế 2T/h đã qua đại tu thay thế nhiều lần đến nay đã rệu rã. Như vậy chất lượng mảnh không đạt yêu cầu. Hơn thế nữa Nhà máy không có hệ thống sàng mảnh nên đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tiêu hao nguyên vật liệu dẫn đến ảnh hưởng đến chất lượng bột giấy sau khi nấu. - Hệ thống máy xeo: Gồm có 2 máy xeo phục hồi của Pháp, kiểu 1 lô giấy, 1 máy xeo Trung Quốc lưới dài và một máy xeo tròn cải tạo từ máy 3T8 cũ đã qua quá trình sử dụng đại tu sửa chữa chắp vá, xuống cấp, sai lệch nhiều vì vậy năng suất chất lượng sản phẩm đều thấp, tổn thất bột lớn. - Hệ thống nồi hơi: Có 3 nồi hơi kiểu KZL4-13 sản xuất và sử dụng từ những năm 1970 qua nhiều lần đại tu sửa chữa lớn, sự cố hỏng hóc thường xuyên xảy ra. Chi phí sữa chữa quá lớn, ảnh hưởng tới nhịp độ sản xuất. Hiện tại chỉ vận hành được 1 nồi hơi. Ngoài ra, hệ thống cấp nước và xử lý nước cấp rất sơ sài, có thể coi như chưa có, nước sản xuất hiện nay được bơm trực tiếp từ sông Cầu lên sử dụng. 1.2.1.3 Chất lượng sản phẩm Tình trạng thiết bị đã ảnh hưởng lớn tới công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Mặc dầu Nhà máy có điều chỉnh kỹ thuật công nghệ cho phù hợp nhưng kết quả vẫn hạn chế. Chất lượng sản phẩm nổi lên một số vấn đề như sau: Định lượng giấy không ổn định Giấy xốp, bở, ẩm, độ bền cơ lý kém. Đứt rách nhiều. 1.2.1.4 Kết quả sản xuất kinh doanh trong những năm gần đây Bảng 6: Bảng tổng kết kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy trong những năm gần đây Tên chỉ tiêu Đơn vị Năm 1994 Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Sản lượng Tấn 2.990 3.600 3.680 3.613 3.652 3.874 Doanh thu Tỷ đồng VN 11,1 15,3 16,1 16,1 17,2 19,7 Lợi nhuận Triệu đồng VN Hoà vốn 109 51 51 85 195,5 Nộp NS Triệu đồng VN 833,949 790 391,283 391,283 438 890 Lao động Người 432 427 438 438 438 428 Thu nhập BQ đồng/người/tháng 265.000 365.000 450.000 450.000 450.000 619.000 ( Nguồn: Báo cáo sản xuất kinh doanh của Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ) 1.2.2 Công tác xử lý môi trường ở nhà máy giấy hiện nay Công tác xử lý môi trường trong thời gian qua tại nhà máy chưa thực sự được sự quan tâm, chú trọng, nguyên nhân chính ở đây là do nhà máy còn thiếu vốn, quy mô sản xuất còn nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu. Mặc dù trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh đã đem lại hiệu quả cao hơn, nhưng vẫn chưa đủ khả năng để đầu tư cho thiết bị xử lý môi trường. Hiện tại, nhà máy có tổ chức thu hồi cô đặc dịch đen (200 Be) tuy nhiên hệ thống dẫn nước thải phóng rửa lần 1 đến chỗ hệ thống cô đặc dịch đen và hệ thống cô đặc đã cũ, hỏng hóc một số chỗ, lò hơi không đủ công suất để làm nhiệm vụ cô đặc dịch đen của nước rửa phóng lần 1. Hệ thống tách nước thải dịch đen và dịch trắng riêng biệt chưa có, do vậy hầu như toàn bộ nước thải được thải tự do ra hệ thống sông Câù thông qua hệ thống thoát nước 1300 m . Và ngay chính hệ thống thoát nước thải cũng bị hư hỏng không đáp ứng được yêu cầu thoát nước thải trong nhà máy Năm 1998 nhà máy đã cho lắp đặt hệ thống khử bụi nồi hơi (gồm 2 bộ), đã phần nào giải quyết được vấn đề ô nhiễm bụi trong quá trình sản xuất. Tóm lại, trong giai đoạn tới việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý môi trường ở nhà máy là việc cần phải đẩy mạnh triển khai, nó quyết định đến việc tồn tại của nhà máy trong thời gian tới vì nếu tiếp tục tồn tại tình trạng thải tự do ra môi trường mà không qua xử lý các chất độc hại trong nước thải thì nó sẽ làm không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của những người lao động trong nhà máy mà còn gây ảnh hưởng đến dân cư quanh khu vực và còn gây nhiều thiệt hại mà chúng ta không thể lường hết được. II. Hiện trạng chất lượng môi trường tại khu vực nhà máy hiện nay 2.1 Hiện trạng chất lượng môi trường không khí 2.1.1 Các nguồn gây ô nhiễm không khí Khí thải nhà máy bao gồm các nguồn chủ yếu sau: - Khí thải lò hơi - Bụi do vận chuyển, chặt mảng và sàng nguyên liệu - Khí thải ra từ nồi nấu trong lúc tháo liệu - Khí thải từ các phương tiện vận chuyển nghuyên liệu và sản phẩm 2.1.2 Chất lượng không khí tại khu vực nhà máy Những chỉ tiêu về ô nhiễm không khí được theo dõi ở đây là các thông số cơ bản trong không khí xung quanh như: Các hợp chất khí cơ bản trong không khí xung quanh: SO2, NO2; Các hợp chất khí phát sinh trong quá trình đốt cháy nhiên liệu từ các động cơ nổ và khuyếch tán xăng dầu như: tổng HC; CO... Các chất hạt: bụi lơ lửng. Thông qua công tác đo đạc, và tiến hành phân tích mẫu chất lượng không khí tại các điểm khác nhau xung quanh khu vực nhà máy. Trên cơ sở các tiêu chuẩn chất lượng môi trường Việt Nam đã được quy định, so sánh kết quả phân tích với các tiêu chuẩn tương ứng đã được quy định và từ đó đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh khu vực nhà máy. 2.1.2.1 Giới hạn nồng độ cho phép các chất độc trong không khí ở cơ sở sản xuất TT Chất gây ô nhiễm Dạng Đơn vị Nồng độ tối đa cho phép Khí và hơi Bụi 1 SO2 + mg/m3 20 2 CO + mg/m3 30 3 Pb + + mg/m3 10 4 Tổng HC + mg/m3 300 Bảng 7: Giới hạn nồng độ cho phép các chất độc trong không khí ở cơ sở sản xuất (Quy định của Bộ Y tế Việt Nam 505 BYT/QĐ ngày 13/4/1992) 2.1.2.2 Kết quả đo đạc chất lượng không khí Mạng lưới đo đạc chất lượng không khí được tiến hành tại 4 điểm: Điểm nền (cách tường nhà máy 500 m - đầu gió); Phân xưởng lò hơi; Khu chặt nguyên liệu; Nhà dân (cách tường nhà máy 30 m - xuôi gió). Bảng 8: Kết quả đo đạc không khí tại các điểm khác nhau Vị trí đo đạc SO2 (mg/m3) NOx (mg/m3) H2S (mg/m3) CO (mg/m3) TSP (mg/m3) Pb trong bụi (mg/m3) Điểm nền 43.13 4.3 1.69 0.78 0.38 0.09 Phân xưởng lò hơi 72.27 10.1 2.38 2.54 1.65 0.55 Khu chặt nguyên liệu 65.2 4.73 3.19 11.93 0.6 0.54 Nhà dân 35.84 5.6 2.86 0.88 0.579 0.28 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào Tạo và Tư vấn Môi trường ) 2.1.2.3 Đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường không khí Kết quả phân tích về chất lượng không khí tại khu vực nhà máy cho thấy một số chất khí và hơi vượt quá tiêu chuẩn cho phép, tuy nhiên mức độ ô nhiễm ở đây không quá lớn, do đó có thể nói hoạt động sản xuất của nhà máy ảnh hưởng đến môi trường không khí là không đáng kể. 2.2 Hiện trạng tiếng ồn 2.2.1 Các nguồn phát sinh tiếng ồn Các nguồn phát sinh tiếng ồn tại nhà máy sinh từ các bộ phận khác nhau trong dây chuyền công nghệ cũ và mới: Dây chuyền hiện tại: Bộ phận chặt mảnh nguyên liệu Bộ phận nấu Bộ phận nghiền Bộ phận sàng Bộ phận ép Dâ y chuyền mới Bộ phận nghiền thuỷ lực Bộ phận nghiền đĩa Bộ phận sàng áp lực Máy xeo giấy Hoạt động của thiết bị gia công giấy 2.2.2 Đánh giá hiện trạng môi trường tiếng ồn Để đánh giá được hiện trạng tiếng ồn tại khu vực nhà máy xem mức độ ảnh hưởng là bao nhiêu, dựa trên cơ sở là tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam về tiếng ồn và những thông tin thu thập được từ các khu vực quanh nhà máy. 2.2.2.1 Tiếng ồn khu vực công cộng và dân cư - mức tối đa cho phép TCVN 5949 - 1995 Bảng 9: Tiêu chuẩn tiếng ồn Đơn vị dB(A) TT Khu vực Thời gian 6h00-18h00 18h00- 22h00 22h00 - 6h00 1 Khu vực cần đặc biệt yên tĩnh (bệnh viện, thư viện, nhà trẻ,...) 50 45 40 2 Khu dân cư, khách sạn, nhà ở, cơ quan hành chính 60 55 45 3 Khu thương mại, dịch vụ 70 70 50 4 Khu sản xuất nằm xen kẽ khu dân cư 75 70 50 2.2.2.2 Kết quả đo đạc Bảng 10: Kết quả đo đạc tiếng ồn tại khu vực nhà máy (Đơn vị dB(A)) Vị trí 6h - 18h TB Max Trong khu làm việc 96 101.8 Khu máy chặt 115.7 118.3 Đầu hướng gió 71.7 74.7 Cuối hướng gió 57 66.9 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào Tạo và Tư vấn Môi trường ) 2.2.2.3 Đánh giá môi trường tiếng ồn Tiếng ồn tại khu vực sản xuất, nhất là khu vực máy chặt cao quá tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên, mức độ ô nhiễm tiếng ồn chỉ giới hạn trong khu vực tường rào nhà máy. Kết quả đo đạc tiếng ồn tại khu vực xung quanh cho thấy mức độ tiếng ồn vẫn nằm trong giới hạn cho phép. 2.3 Hiện trạng môi trường nước 2.3.1 Các nguồn phát sinh nước thải Nguồn nước thải từ nhà máy phát sinh từ các nguồn sau: Nước thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên Nước thải sản xuất (nước dịch đen, nước thải rửa bột, nước thải xeo giấy) Nước mưa rửa trôi bề mặt khu vực Nước vệ sinh máy móc thiết bị Nước thải khi xảy ra sự cố. 2.3.2 Hiện trạng chất lượng nước tại khu vực nhà máy 2.3.2.1 Hiện trạng chất lượng nước cấp Trạm bơm nước cấp của Nhà máy hiện tại gồm 3 bơm có công suất 3 x 200 m3/giờ = 600 m3/giờ đủ cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của Nhà máy hiện nay (250 m3/giờ) và nhu cầu cung cấp nước cho dây chuyền sản xuất mới (150 m3/giờ). Như vậy nhu cầu nước là không thiếu. Kết quả đo đạc chất lượng nước cấp cho sinh hoạt cho thấy nồng độ các chất độc hại trong nước sinh hoạt còn cao, không đảm bảo đủ tiêu chuẩn chất lượng nước cấp, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của cán bộ công nhân viên. Nước cấp cho sản xuất cũng không đảm bảo tiêu chuẩn chính vì vậy mà chất lượng sản phẩm nhà máy sản xuất ra còn bị hạn chế nhiều. Do đó, nhà máy cần phải nghiên cứu và cải tạo hệ thống xử lý nước cấp. 2.3.2.2 Hiện trạng chất lượng nước thải Nước thải sinh hoạt: Tổng lượng cán bộ công nhân viên của toàn nhà máy là 608 người. Theo tính toán mức tiêu thụ nước khoảng 120 lít/ người/ ngày thì lượng nước cung cấp cho các nhu cầu sinh hoạt của toàn bộ công nhân nhà máy sẽ vào khoảng 73 m3/ngày và lượng nước thải theo ước tính khoảng 66 m3/ngày. Nước thải từ khu vực vệ sinh được tập trung về bể phốt chung của nhà máy. Nước thải sinh hoạt mang theo một lượng lớn các chất hữu cơ, các loại vi khuẩn (E. Coli, vi rút các loại, trứng giun sán) sẽ là nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước nơi nước thải ra nhập. Nước thải sau khi ra khỏi bể phốt được đổ vào bể tập trung cùng với nước thải khác của nhà máy trước khi thải ra ngoài. Bảng 11: Ước tính mức thải của mỗi người dân đến hệ thống cống rãnh STT Chất thải Mức thải (g/người/ngày) Lượng thải (kg/ngày) 1 BOD5 45 - 54 27.36 - 32.8 2 COD 72 - 102.6 43.84 - 62.32 3 SS 70 - 145 42.56 - 88.16 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào Tạo và Tư vấn Môi trường ) Ngoài ra các chất thải còn chứa một loạt các dinh dưỡng khác, dinh dưỡng trong nước thải là nguyên nhân gây ra hiện tượng phú dưỡng trong các ao hồ, sông nơi tiếp nhận chất thải. Nước thải sản xuất: Trong các nguồn nước thải kể trên , nguồn nước thải từ khâu nấu bột (nước dịch đen) đây là lượng nước thải có màu rất đen, nhất là nước rửa lần 1 của bộ phận nấu có màu đen kịt, có nồng độ kiềm rất cao (2600 - 7930 mg/l) và nồng độ COD đo được là 15 480 – 50 280 mg/l, BOD đo được là 4800 – 24 000 mg/l, chứa các thành phần khó phân huỷ sinh học (lignin và cellulose). Tuy nhiên tải lượng thải ra của lượng nước thải dịch đen là không nhiều. Nước thải dịch trắng chủ yếu là do công đoạn xeo giấy sinh ra, theo số liệu đo đạc lưu lượng nước thải xeo giấy khoảng 2 000 – 2 500 m3/ngày đêm và điều hoà trong suốt thời gian hoạt động của nhà máy. Thực tế khi hai loại nước thải này được pha trộn với nhau đã tạo thành lượng nước thải có lưu lượng lớn (khoảng 3500 m3/ ngđ) và nồng độ các chất ô nhiễm rất cao (COD khoảng 2.500 mgO2/L, pH = 8,5 - 9,2) có khả năng gây ô nhiễm nặng nề đến chất lượng nước sông Cầu. Với nồng độ chất hữu cơ cao, đặc biệt các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học, lượng oxy hoà tan trong nước sẽ giảm rất nhanh đến 0 do hoạt động của các vi sinh vật hiếu khí phân huỷ các chất hữu cơ. Trong điều kiện kị khí (không có oxy), các loại sinh vật nước đều bị tiêu diệt, nhiều loại khí độc hại hình thành như carbonic CO2, methane CH4, sulfua hydro H2S gây ô nhiễm môi trường không khí và gây "hiệu ứng nhà kính" . Đặc biệt là vấn đề cảm quan, do lượng lớn ligin và các sản phẩm hữu cơ, nước thải có độ màu rất cao. Độ màu của nước thải đã làm tăng độ màu của nước sông và do pH cao lớp bột dày tạo thành trên mặt nước đã làm mất mỹ quan nguồn cấp nước. Việc sử dụng nguồn nước này không qua xử lý sẽ gây ngứa ngáy. Bảng 12: Tổng lượng thải của nhà máy mỗi năm: Công đoạn sản xuất Định mức nước (m3/tấn sản phẩm) Công suất (tấn/năm) Tổng lượng nước thải (m3/năm) - Nấu bột 5 3.500 17.500 - Rửa bột 100 3.500 350.000 - Xeo giấy 200 3.500 700.000 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào Tạo và Tư vấn Môi trường ) Bảng 13: Kết quả phân tích chất lượng nước thải của nhà máy giấy như sau: Stt Mẫu nước Thông số Mầu pH BOD (mg/l) COD (mg/l) SS (mg/l) 1 Nước rửa 1( bộ phận nấu) Đen kịt 9,97 24.000 50.280 399 2 Nước rửa 2( bộ phận nấu) Đen 8,95 4.800 15.480 248 3 Nước thải xeo 1 Lờ nhờ 8,89 138 290 233 4 Nước thải xeo 2 Lờ nhờ 9,21 180 350 248 5 Nước thải xeo 3 Lờ nhờ 9,25 319 600 324 6 Nước thải xeo rửa nấu Đen 10,24 102 7 Nước thải tại cửa chính n.máy Đen 10,10 46 8 Nước thải tại cửa xả ra s.Cầu Hơi đen 9,27 500 1.830 24 9 Tiêu chuẩn thải loại A 6-9 20 50 50 10 Tiêu chuẩn thải loại B 5,5-9 50 100 100 11 Tiêu chuẩn thải loại C 5-9 100 400 200 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào Tạo và Tư vấn Môi trường ) 2.3.2.3. Đánh giá chất lượng nước thải Qua kết quả phân tích chất lượng nước thải cho thấy nước thải dịch đen có mức độ ô nhiễm rất cao, chỉ số COD lên tới 50 280 mg/l với nước rửa phóng lần 1và 15 480 mg/l với các nước rửa sau đó. Nước thải nhà máy đổ ra sông Cầu có mức độ ô nhiễm cao, chỉ số COD lên tới 1830 mg/l gấp hơn 37 lần tiêu chuẩn thải TCVN 5945- 1955 loại A, chỉ số BOD lên tới 500mg/l gấp 25 lần tiêu chuẩn thải TCVN 5945-1995 loại A. Như vậy, hiện trạng nước sông Cầu đang ở mức báo động, khi mà mỗi năm nhà máy thải ra một lượng nước thải khổng lồ với nồng độ các chất ô nhiễm quá cao như vậy, lượng nước này thải trực tiếp ra sông Cầu và hoà cùng dòng chảy qua 5 tỉnh thành, có thể kết luận rằng nguồn nước thải của nhà máy đang là mối lo ngại lớn cho không chỉ cộng đồng dân cư xung quanh nhà máy mà còn ảnh hưởng đến cả cư dân sống ở hai bên bờ sông Cầu, đe doạ đến hệ sinh thái dưới nước, và cây trồng ở hai bên sông. III. Mô tả dây chuyền sản xuất giấy bao bì công nghiệp công suất 15 000 tấn/ năm và hệ thống xử lý nước thải 3.1 Mô tả quy trình công nghệ sản xuất 3.1.1 Khái quát Giấy bao gói xi măng được sản xuất từ bột Kraft không tẩy (UKP): 30% và bột tre nứa tự nấu: 70%. Chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn loại A giấy bao gói xi măng nhập khẩu hiện nay. Giấy bao gói công nghiệp: Công nghệ sản xuất giấy bao gói công nghiệp dựa trên việc sử dụng hỗn hợp giấy loại và bột tre nứa tự nấu, tỷ lệ sử dụng giấy loại là 50% và bột tre nứa tự nấu là 50%. Chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn loại A giấy bao gói công nghiệp. Dây chuyền sản xuất và thiết bị đảm bảo các yêu cầu sau: Công nghệ đạt mức trung bình tiên tiến. Có hệ thống xử lý môi trường. Yếu tố đánh giá chất lượng và mức độ tiên tiến của công nghệ là: Chất lượng sản phẩm. Định mức tiêu hao nguyên liệu vật liệu chủ yếu. Chất lượng nước thải sau xử lý. 3.1.2 Dây chuyền sản xuất giấy bao bì công nghiệp 3.1.2.1 . Sơ đồ dây chuyền công nghệ sản xuất. Sơ đồ công nghệ sản xuất giấy bao bì công nghiệp được trình bày ở hình 2 dưới đây. Đóng gói Thành phẩm Các chất phụ gia Bể phối trộn Bể xeo Sàng áp lực Máy xeo giấy Cát cuộn lại Bơm Sàng thô Lọc cát hình dùi nồng độ cao Bể chứa Sàng li tâm Lọc cát hình dùi Sàng áp lực Cô đặc Bể chứa Nghiền đĩa Bể chứa Bột tre nứa tự nấu Băng tải Thuỷ lực Sàng thô Lọc cát hình dùi nồng độ cao Bể chứa Sàng áp lực Cô đặc Bể chứa Nghiền đĩa Bể chứa Sàng tạp chất Bột kraft không tẩy (hoặc giấy loại) Hình 2.3 Sơ đồ dây chuyền công nghệ sản xuất giấy bao bì Hai dây chuyền chuẩn bị bột được thiết kế song song: Dây chuyền 1: Dùng để xử lý bột Kraft không tẩy và giấy loại. Dây chuyền 2: Dùng để xử lý bột tre nứa tự nấu. Các dây chuyền chuẩn bị bột đều bao gồm: Băng tải đưa nguyên liệu, máy đánh tơi thuỷ lực có kết cấu loại bỏ tạp chất tự động, máy sàng thô và hệ lọc cát thô, hệ thống lọc cát, sàng áp lực, máy cô đặc, hệ thống nghiền đĩa, bể chứa bột và toàn bộ hệ thống bơm bột tại từng công đoạn. Bột giấy không tẩy được băng tải đưa vào máy đánh tơi thủy lực, tại đây các tạp chất (như băng dính, đinh ghim, tạp chất cơ học...) được loại bỏ. Phần bột được bơm qua sàng tinh, sau sàng tinh bột được đưa về bể chứa cấp 2. Từ đây bột được cấp cho hệ thống lọc cát. Sau lọc cát bột được cô đặc và đưa vào bể chứa tiếp theo. Từ bể chứa này bột được bơm đi nghiền qua hệ thống nghiền đĩa sau đó vào bể chứa bột. Tại đây bột được cho phụ gia cần thiết và được đưa đi xeo. Dây chuyền chuẩn bị bột tre nứa tự nấu cũng bao gồm các thiết bị tương tự như chuẩn bị bột giấy Kraft không tẩy nhưng được tăng cường thêm khâu sàng thô và rửa bột. Khi sản xuất giấy bao gói xi măng thì sử dụng nguyên liệu là hỗn hợp Kraft không tẩy và bột tre nứa tự nấu. Khi sản xuất giấy bao gói công nghiệp thì sử dụng nguyên liệu là hỗn hợp giấy loại và bột tre nứa tự nấu. 3.1.2.2 Nước cấp và nước thải nhà máy sau khi đưa dây chuyền công nghệ mới vào hoạt động a) Nước cấp Vấn đề cần quan tâm ở đây đó là nước cấp và nước thải của nhà máy. đối với nước cấp, nhà máy sẽ bổ sung hệ thống bơm nước cấp với công suất 1 bơm 200 m3/h để dự phòng và cải tạo, củng cố lại trạm bơm, đường ống để đảm bảo an toàn và đáp ứng yêu cầu cấp nước cho sản xuất của Nhà máy. Nhà máy cũng sẽ đầu tư mới hệ thống xử lý nước cấp đảm bảo yêu cầu chất lượng nước cho sản xuất và sinh hoạt. b) Nước thải Đối với nước thải Nhà máy sẽ đầu tư hệ thống xử lý nước thải với mục tiêu nước thải ra phải đạt tiêu chuẩn xả ra nguồn tiếp nhận (theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN5945-1995). Bởi vì, khi nhà máy đưa hệ thống dây chuyền công nghệ mới vào hoạt động mặc dù dây chuyền công nghệ này có những tiến bộ hơn lượng nước thải/1 tấn sản phẩm sẽ giảm đi nhưng do sản lượng tăng lên do đó tổng lượng nước thải hàng năm của nhà máy sẽ tăng lên. Và yếu tố môi trường chịu ảnh hưởng chính trong quá trình vận hành là yếu tố môi trường nước. Các thành phần môi trường khác như không khí, tiếng ồn không bị ảnh hưởng lớn, vẫn nằm trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên, nhà máy cũng sẽ cố gắng đầu tư để đảm bảo môi trường làm việc cho các cán bộ công nhân viên được tốt hơn. Nước thải công nghiệp (nước thải từ sản xuất) của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ bao gồm nước thải của các công đoạn sản xuất sau: Công đoạn nấu bột (nước thải dịch đen) Công đoạn rửa bột (nước thải dịch trắng). Công đoạn xeo giấy (nước thải dịch trắng). Tổng lượng nước thải của nhà máy khi dây chuyền xeo giấy mới đưa vào hoạt động sẽ được trình bày trong bảng sau. Bảng 14:Ước tính tổng lượng nước thải khi dây chuyền xeo mới đi vào hoạt động. Công đoạn sản xuất Định mức nước (m3/tấn sản phẩm) Công suất (tấn/năm) Tổng lượng nước thải (m3/năm) A. Dây chuyền cũ - Nấu bột 5 3.500 17.500 - Rửa bột 100* 3.500 350.000 - Xeo giấy 200 3.500 700.000 B. Dây chuyền xeo mới - Xeo giấy 80 13.500 1.080.000 Nước tái sử dụng - 300.000 Tổng lượng nước thải công nghiệp từ nhà máy 2.047.500 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào Tạo và Tư vấn Môi trường ) Theo thiết kế thời gian làm việc của nhà máy 300 ngày/năm thì lượng nước thải trung bình ngày của nhà máy ước tính vào khoảng 6825 m3. Trong khi nước thải dịch trắng bị nhiễm bẩn chủ yếu bởi các chất lơ lửng, hàm lượng các chất lơ lửng trong nước trắng dao động trong khoảng từ 500 - 1200 mg/l và hàm lượng các chất hữu cơ hoà tan không lớn (BOD = 20 - 40 mgO2/l), không chứa các chất độc hại và pH trung tính. Nước thải dịch đen có pH rất cao (12.0 - 12.85) do ảnh hưởng của xút (NaOH) trong quá trình nấu. Hàm lượng các chất hữu cơ trong dịch đen rất cao (giá trị COD xác định lên tới 51 000 mg/l). Đặc biệt nước thải thải dịch đen còn chứa lignin một hợp chất hữu cơ khó bị phân huỷ sinh học với nồng độ cao, các chất hữu cơ dễ phân huỷ sinh học như tinh bột, đường, protein. Với công suất sản xuất bột giấy như hiện nay (20.000 tấn/năm) thì mỗi ngày công đoạn nấu bột thải ra khoảng 50 - 55 m3 nước dịch đen. Nước thải dịch trắng trong giai đoạn này bao gồm nước rửa bột và nước thải từ quá trình xeo giấy. Tổng lượng dịch trắng (nước xeo giấy và nước rửa bột) khi dây chuyền xeo mới hoạt động cùng với dây chuyền sản xuất cũ vào khoảng 1.830.000 m3/năm, trong đó nước rửa bột là 350 000 m3/năm. Nước thải dịch trắng tuy có nồng độ ô nhiễm nhỏ , cặn lơ lửng dễ xử lý bằng quá trình lắng tự nhiên và lắng keo tụ, nhưng lại có lưu lượng rất lớn (khoảng 2 300 m3/ngđ). Cả hai loại nước thải đều có khả năng gây ô nhiễm đến môi trường. Bảng15: Tính toán tải lượng chất thải mang theo nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ sau khi đã mở rộng Phân xưởng sản xuất Thành phần Hàm lượng (mg/l) Lượng nước thải (m3/năm) Lượng thải (kg/năm) I. Phân xưởng SX. bột Nước thải dịch đen COD 51000 17500 892 500 BOD 24 000 17 500 420 000 SS 400 17 500 7 000 Nước rửa bột COD 15500 350 000 5 425 000 BOD 4 800 350 000 1 680 000 SS 250 350 000 87 500 II. Phân xưởng xeo Nước xeo giấy COD 450 1 480 000 666 000 BOD 220 1 480 000 325 600 SS 280 1 480 000 414 400 Từ bảng tính toán kết quả trên nhận thấy lượng các chất thải mang theo cùng với nước thải là khá lớn, tính theo COD là 6 983,5 tấn/năm. Để giảm thiểu tác động của quá trình thải nước thải giấy Hoàng Văn Thụ đến môi trường nước sông Cầu nhà máy sẽ đầu tư xây dựng một hệ thống xử lý nước thải song song với việc áp dụng công nghệ sạch vào sản xuất (tái sử dụng nước trắng của dây chuyền xeo giấy và nước ngưng từ hơi nước). Theo đề xuất trong quy trình xử lý nước, nước thải từ công đoạn sản xuất bột giấy và xeo giấy sẽ được phân tách để tiến hành xử lý theo những quy trình công nghệ phù hợp. Quy trình tách nước, xử lý và tái sử dụng nước như đã trình bày theo sơ đồ sau: Quá trình nấu bột quá trình rửa bột Quá trình xeo giấy Hệ thống xử lý nước thải từ công đoạn nấu, rửa Hệ thống xử lý nước thải xeo Nước cấp Tái xử dụng 1000 m3/ngđ Thải ra sông Hình 10 : Quy trình tách nước, xử lý và tái sử dụng nước 3.2 Mô tả công nghệ xử lý nước thải 3.2.1 Nguyên tắc lựa chọn công nghệ Qua số liệu thành phần nước thải có thể chia nước thải thành 2 loại: nước thải dịch trắng và nước thải dịch đen. Nước dịch đen bị nhiễm bẩn chất hữu cơ cao, trong đó lượng chất rắn lơ lửng (TSS) chiếm một lượng khá cao, vì vậy việc xử lý nước thải dịch đen sẽ chủ yếu dựa vào phương pháp sinh học và phương pháp hoá lý. Nước thải dịch trắng chủ yếu là chất lơ lửng sẽ chỉ sử dụng phương pháp xử lý hoá lý. Dây chuyền công nghệ vạch ra được dựa trên lưu lượng và thành phần nước thải đầu vào, đồng thời nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn xả vào nguồn. 3.2.1.1 Nước thải dịch đen (sản xuất bột giấy) Nước thải dịch đen xả ra từ nồi nấu bột trong phân xưởng sản xuất bột giấy. Nước thải dịch đen được xả gián đoạn theo quy trình nấu - xả của bồn nấu bột giấy. Trên cơ sở quy trình sản xuất bột giấy, nước thải dịch đen được xả 3 lần: Lần 1: Ngay sau khi kết thúc chu trình nấu, lượng nước trong bồn nấu được thải ra ngoài, với khối lượng xút NaOH là 300 kg/tấn bột giấy, lượng nước này còn chứa khá nhiều xút, vì vậy lượng dịch đen này thường được tuần hoàn để tái sử dụng lượng xút dư. Lần 2: Sau khi xả vào bể chứa, bột được rửa bằng nước sạch và xả ra ngoài, lượng nước này thường chứa lượng chất ô nhiễm rất cao. Lần 3: Số lần rửa bột tuỳ thuộc vào công nghệ và chất lượng sản phẩm yêu cầu, lượng nước này cũng được xả vào môi trường. 3.2.1.2 Nước thải dịch trắng (sản xuất giấy từ bột giấy) Khác với nước thải dịch đen, nước thải dịch trắng được xả liên tục từ các máy xeo giấy. Nước thải dịch trắng tuy có nồng độ ô nhiễm không cao nhưng có lưu lượng thải rất lớn. 3.2.2 Sơ đồ dây chuyền công nghệ 3.2.2.1 Sơ đồ dây chuyền công nghệ xử lý nước thải dịch đen Nước thải từ nấu Nước thải từ rửa Bể điều hoà Bể phản ứng I Bể phản ứng II Bể lọc sinh học Bể phản ứng IV Bể phản ứng kỵ khí Bể phản ứng III Bể nén bùn Máy ép lọc Bùn đem đi chôn lấp Khí Nước thải trộn với nước thải xeo đã xử lý đổ ra sông Cầu H2SO4 FeSO4 pH » 6 PAA NaOH Bể lắng Bể lắng Hình11: Sơ đồ dây chuyền công nghệ xử lý nước thải dịch đen Do nồng độ chất hữu cơ trong dịch đen rất (trong đó có rất nhiều hợp chất hữu cơ rất khó phân huỷ), độ kiềm rất cao nhưng lưu lượng không lớn và lại xả ra theo từng mẻ. Do vậy toàn bộ nước thải của phân xưởng nấu và rửa bột giấy được thu gom riêng về bể điều hoà. Tại bể điều hoà thành phần của nước thải được trộn đều nhau trong cả thời gian xả và làm nơi ổn định lưu lượng cấp cho hệ thống xử lý làm việc ổn định. Từ bể điều hoà nước thải của dây chuyền xử lý nước thải dịch đen được bơm lên bể phản ứng 1, tại đây một lượng axít Sulfuric được thêm vào bằng bơm định lượng để hạ pH của nước thải xuống khoảng 6. Độ pH được khống chế bởi lượng axít đưa vào qua bơm định lượng và một đầu đo khống chế pH tự động. Sau đó nước thải được đưa sang bể phản ứng 2, tại đây FeSO4 được đưa vào theo tính toán dựa trên thành phần nước thải để oxy hoá các hợp chất hữu cơ khó phân huỷ bằng sinh học và lượng Fe3+ tạo thành sẽ tham gia vào quá trình keo tụ tại bể phản ứng 3. Toàn bộ hỗn hợp được đưa sang bể phản ứng 4 và tại đây chất trợ keo tụ được thêm làm tăng nhanh quá trình keo tụ lắng của chất hữu cơ mạch dài cùng các phân tử màu. Toàn bộ hỗn hợp được khuấy trộn đều và đưa sang bể lắng, tại bể lắng hai pha lỏng rắn sẽ được tách khỏi nhau và cũng sau quá trình này này một lượng COD trong nước thải sẽ được tách ra cùng với bùn lắng, theo thí nghiệm ban đầu thì tại đây lượng các hợp chất hữu cơ đã tách ra khỏi nước thải là khoảng 70% (tức là nồng độ COD đã giảm từ 8000 mg/l xuống còn khoảng 2500 mg./l) nhưng chủ yếu là các hợp chất hữu cơ mạch dài và rất khó phân huỷ sinh học được loaị ra sau quá trình này cũng như độ pH của nước thải chỉ còn khoảng 7 là điều kiện thích hợp với quá trình phân huỷ sinh học sau này. Lượng bùn sinh ra trong quá trình này được tách hoàn toàn khỏi pha nước bằng bể lắng và bùn được đưa sang bể lắng bùn, tại đây lượng nước còn lẫn trong bùn sẽ được tách triệt để hơn nữa và được đưa cùng với lượng nước trong vào quá trình xử lý tiếp theo. Bùn đã được nén được đưa máy lọc ép để tách triệt để lượng nước trong bùn còn phần bùn khô được đưa đi chôn lấp cùng với rác thải tại bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Lượng nước trong sau lắng được đưa thẳng vào bể phản ứng kỵ khí, tại đây quá trình thuỷ phân cũng như quá trình phân huỷ kỵ khí sẽ được diễn ra với thời gian lưu nước là 24 giờ. Trong quá trình này hầu hết các hợp chất hữu cơ được phân huỷ thành khí CO2 và CH4. Theo mô hình thí nghiệm lượng các hợp chất hữu cơ trong quá trình này sẽ giảm được từ 70 cho đến 90 % lượng COD đi vào hệ thống (tức là sau quá trình kỵ khí này lượng hàm lượng COD trong nước thải từ khoảng 2500 mg/l sẽ giảm xuống còn khoảng từ 300 mg/l đến 750 mg/l). Nước thải sau xử lý bằng phương pháp kỵ khí sẽ có hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp, để cung cấp thêm oxy hoà tan trong nước cũng như tiếp tục giảm nồng độ của COD trong nước, sau khi qua quá trình kỵ khí toàn bộ nước được đưa qua bể lọc sinh học có cấp khí tại rồi đi qua bể lắng sau quá trình này nước thải sẽ đạt được độ trong cao, độ màu thấp và hàm lượng các chất hữu cơ tuy còn hơi cao nhưng tải lượng các chất hữu cơ đã được giảm đi rất nhiều (từ 8000 mg/l xuống còn khoảng 250 đến 400 mg/l). Tức là sau dây chuyền công nghệ này lượng các hợp chất hữu cơ trong nước thải đã được xử lý lên đến khoảng 95 đến 97% COD ban đầu và nếu tính theo tải lượng thì một ngày dây chuyền công nghệ này đã xử lý được 9600 kgCOD/ngđ, một khối lượng chất thải khổng lồ mà hiện nay vẫn đang được xả ra môi trường hằng ngày. 3.2.2.2 . Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải xeo Bể điều hoà Bể phản ứng I Bể phản ứng II Bể lắng Bể chứa thu hồi bột giấy Bể lọc cát Nước thải từ dây chuyền xeo cũ Al2SO4 PAA Thu hồi bột giấy Nước trong quay lại Nước thải từ dây chuyền xeo mới xả nước ra trộn với nước dịch đen đã xử lý đổ vào sông Cầu hoặc tái sử dụng Nước rửa lọc Hình 12: Sơ đồ dây chuyền công nghệ xử lý nước thải dịch đen Ngược lại với nồng độ các chất hữu cơ không lớn lắm của dây chuyền xeo (trong đó chứa chủ yếu là sơ sợi và bột giấy), nhưng lưu lượng rất lớn và lại xả ra liên tục. Do vậy toàn bộ nước thải của phân xưởng xeo cũ và xeo mới được tách khỏi nước thải của phân xưởng nấu và rửa bột giấy được đưa về bể điều hoà. Tại bể điều hoà của dây chuyền công nghệ xử lý nước thải xeo thành phần nước thải được trộn đều nhau trong cả thời gian xả và làm nơi ổn định lưu lượng cấp cho hệ thống xử lý làm việc ổn định. Từ bể điều hoà nước thải được bơm lên bể phản ứng 1, tại đây một lượng phèn nhôm được thêm vào bằng bơm định lượng để tạo bông kết tủa. Sau đó nước thải cùng với hệ keo tụ được đưa sang bể phản ứng 2, tại đây PAA (chất trợ lắng) được đưa vào theo tính toán khả năng lắng của hệ keo tụ để tăng thêm khả năng lắng của các hợp chất lơ lửng. Toàn bộ hỗn hợp được đưa sang bể tuyển nổi, tại đây toàn bộ sơ sợi và bột giấy sẽ được thu hồi bằng một bộ gạt và đưa về bể chứa thu hồi bột giấy phần nước được tách ra và đi qua bể lọc cát. Nước trong của bể chứa thu hồi bột giấy và nước rửa lọc của bể lọc cát được đưa quay trở laị bể điều hoà để xử lý đạt đến tiêu chuẩn cho phép. Với sơ đồ công nghệ này nước sau khi xử lý có nồng đọ COD nhỏ hơn 100 mg/l và đạt độ trong tuyệt đối. Sau quá trình này nước sau xử lý được sử dụng một phần tuần hoàn cho sản xuất, lượng còn lại được trộn với nước dịch đen sau khi đã xử lý để xả ra môi trường bên ngoài. Chương III: Phân tích chi phí lợi ích mở rộng I/ Đánh giá thiệt hại kinh tế do ngoại ứng tiêu cực của hoạt động sản xuất. 1.1 Tiêu chí xác định ô nhiễm: Dựa vào các tiêu chuẩn môi trường và các tiêu chuẩn thải để xác định mức độ ô nhiễm.Từ đó đánh giá mức độ vi phạm tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn thải là bao nhiêu lần thông qua những ảnh hưởng tới con người, hệ sinh thái cùng phạm vi các ảnh hưởng đó và thời gian bị ảnh hưởng. 1.1.1 Các tiêu chuẩn môi trường và tiêu chuẩn thải. Hiện nay nước ta đã có những tiêu chuẩn chất lượng môi trường: tập 1-chất lượng nước; tập 2- chất lượng không khí, âm học, chất lượng đất, giống các loại. 1.1.1.1 Chất lượng nước. - Tiêu chuẩn chất lượng nước mặt(bảng 1-phụ lục 1) - Tiêu chuẩn chất lượng nước ngầm(bảng 3- phụ lục 1) Tiêu chuẩn chất lượng nước thải công nghiệp Tiêu chuẩn chất lượng nước sinh hoạt. 1.1.1.2 Chất lượng không khí Giá trị giới hạn thông số cơ bản trong không khí xung quanh ( bảng 5-phụ lục 1) Nồng độ tối đa cho phép của một số chất độc hại trong không khí xung quanh (bảng 6- phụ lục 1) Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ (bảng 7- phụ lục 1) Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất hữu cơ (bảng 8- phụ lục 1) 1.1.1.3 Tiêu chuẩn tiếng ồn. 1.1.2 Các tiêu chí để xác định mức ô nhiễm 1.1.1.2. Mức độ vi phạm các tiêu chuẩn (môi trường, thải) bao nhiêu lần, có thể chia thành bốn mức độ khác nhau Từ 1,1 - 2 lần : chớm bị ô nhiễm (ô nhiễm nhẹ) Từ 2- 4 lần : bị ô nhiễm trung bình Từ 4-10 lần : bị ô nhiễm nặng > 10 lần : ô nhiễm nghiêm trọng. 1.1.2.2- Mức độ ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng (SKCĐ) Tuỳ yếu tố ô nhiễm và mức độ vi phạm tiêu chuẩn môi trường, tuỳ vào việc tiếp cận và sử dụng tài nguyên môi trường mà có thể bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khoẻ con người. Những ảnh hưởng này được thể hiện trên con số thống kê về số người mắc bệnh nghề nghiệp, số người bị mắc bệnh do việc sử dụng nguồn nước, hít thở nguồn không khí ô nhiễmv..v Mức độ, thời gian ảnh hưởng, phạm vi ảnh hưởng được chia ra 4 mức độ: - Nhẹ Trung bình Nặng Rất nặng 1.1.2.3. Mức độ ảnh hưởng đến sinh vật Qua số liệu thống kê các loài vật( trâu, bò, lợn, gà), các loại cây trồng( cây lâu năm, lương thực v..v) bị bệnh, bị chết về số lượng, diện tích, năng suất mà có thể nhận ra các loại: nặng, nhẹ, trung bình, rất nặng. 1.1.2.4. Mức độ ảnh hưởng đến giá trị thẩm mỹ. Nhiều khi ảnh hưởng của các thông số ô nhiễm cụ thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến cảnh quan xung quanh: màu của nước ô nhiễm gây ảnh hưởng đến màu của nước sông, ao, hồ, giếng...; Khói bụi do hoạt động sản xuất gây ra làm cho cả một khu dân cư bị nhiễm bẩn, cây cối xung quanh bị héo úa; chất thải rắn không được thu gom làm ảnh hưởng đến vệ sinh khu vực ,... Một cách tương đối chung cũng có thể chia ra làm 4 mức độ khác nhau: nhẹ, trung bình, nặng và rất nặng. 1.1.2.5. Thời gian ảnh hưởng: Nhanh (Đơn vị tính ngày) Kéo dài (Đơn vị tính tháng) Rất dài (Đơn vị tính năm) 1.2 Đánh giá ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường của hoạt động sản xuất. Hoạt động sản xuất giấy của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ là một hoạt động cần thiết, không chỉ góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tăng tốc độ đô thị hoá v..v của thành phố Thái Nguyên mà còn đấp ứng nhu cầu thiết yếu về giấy gói bao bì của thị trường trong nước. Kết quả đo đạc, phân tích các thành phần môi trường nước ở khu vực nhà máy cho thấy vấn đề ô nhiễm môi trường nước ở đây đang ở mức báo động. Lượng nước thải từ quá trình sản xuất giấy có hàm lượng chất hữu cơ quá cao được thải trực tiếp ra sông Cầu . Ô nhiễm nước ở đây đang đe doạ đến sức khoẻ người sử dụng nguồn nước sông Cầu đặc biệt là người dân thường xuyên tiếp xúc với nước thải. 1.2.1 Thiệt hại về sức khoẻ cộng đồng. Đối tượng chịu ảnh hưởng trước hết là những người công nhân- những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Do điều kiện lao động còn nhiều hạn chế, trang thiết bị bảo hộ lao động trong quá trình sản xuất chưa đạt tiêu chuẩn, môi trường lao động còn chưa đảm bảo (như ở khu chặt mảnh, lò hơi v..v), nên người công nhân sản xuất ở đây là những người phải chịu ảnh hưởng độc hại trước tiên. Tổ lò hơi là khu cung cấp năng lượng chính cho cả nhà máy, vì ở đây nguyên liệu sử dụng chính là than đốt nên hàng năm người công nhân vận hành nồi hơi phải tiếp xúc với bụi than và khí độc. Quá trình đốt than toả ra khí CO2 và các chất xúc tác tạo ra axit sunfuric hydric rất có hại cho sức khoẻ người lao động. Qua số liệu khám chữa bệnh hằng năm của nhà máy cho thấy sức khỏe của người lao động ngày càng giảm đi. Bảng 16: Tình hình sức khoẻ cán bộ công nhân viên nhà máy Năm Tổng số khám Loại I Loại II Loại III Loại IV 1997 403 72 189 129 23 1998 391 29 198 139 25 1999 395 8 177 182 28 2000 390 11 186 166 27 (Nguồn: Trạm Y tế nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ) Bảng 17: Tỷ lệ mỗi loại sức khoẻ Năm Tổng số khám (%) Loại I(%) LoạiII(%) Loại III (%) Loại IV(%) 1997 100 17,87 46,89 32,0 3,23 1998 100 7,42 50,64 35,55 6,39 1999 100 2,03 44,81 46,08 7,09 2000 100 2,82 47,69 42,56 6,93 Theo tiêu chí phân loại của Bộ Y tế: Loại I : Rất khoẻ Loại II : Khoẻ Loại III : Trung bình Loại IV : Yếu Kết quả phân tích ở bảng số liệu sức khoẻ trên cho ta thấy chỉ trong 4 năm qua tình trạng sức khoẻ của cán bộ công nhân viên nhà máy có những thay đổi rõ rệt. Năm 2000 sức khoẻ loại I chỉ còn 11 người so với năm 1997 là 72 người. Ngược lại số công nhân có sức khoẻ loại IV lại tăng lên, cụ thể ở đây là tăng lên gấp 2 lần. Điều này chứng tỏ một điều rằng môi trường làm việc đang ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ cán bộ công nhân viên. Số cán bộ công nhân viên mắc bệnh nghề nghiệp (bụi phổi Si02) là 17 người. Nguyên nhân chính là do tiếp xúc với SiO2 trong quá trình làm việc. Trong thời gian qua, nhà máy đã quan tâm đến sức khoẻ của cán bộ công nhân viên (CBCNV) bằng cách tổ chức khám bệnh hằng năm. Tổng chi phí khám bệnh của CBCNV như sau: - Chi phí bình quân cho mỗi người khám/ 1 lần = 15000 đồng/người/1 lần. Tổng chi phí khám C1 = 15.000 * 446 = 6.690.000 (đồng) - Chi phí bồi dưỡng cho mỗi ca khám bệnh / 1 lần = 30.000 đồng/người Tổng chi phí bồi dưỡng khám bệnh C2 = 30.000 * 446 = 13.380.000 đồng Chi phí tổ chức khám chữa bệnh (C3) Mời cán bộ y tế về khám: 12.000.000 đồng - Chi phí phục vụ : 7.000.000 đồng Tổng C3: 19.000.000 đồng Chi phí bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên sức khoẻ loại IV : 1.000.000 Đ Tổng chi phí khám bệnh hàng năm: 1.000.000 * 27 = 27.000.000 Đ C1 + C2 + C3 + C4 = 6.690 + 13.380 + 19.000 + 40.500 = 79.570.000 (đồng) Đây là tiền nhà máy bỏ ra để tổ chức khám sức khoẻ định kì cho cán bộ công nhân chịu ảnh hưởng của môi trường ô nhiễm. Cũng theo kết qủa khám bệnh ở nhà máy thì số bệnh thường gặp phải ở đây là mắt, đường ruột, xoang... được thể hiện qua bảng sau: Bảng 18: Bảng thống kê tình trạng sức khoẻ CBCNV nhà máy STT Loại bệnh Số CBCNV bị bệnh 1 Đường ruột, viêm dạ dày 23 2 Bệnh mắt 102 3 Bệnh viêm xoang, mũi họng, thanh quản 104 4 Viêm phế quản 53 5 Bệnh phổi 20 6 Hen phế quản, giãn phế quản, dị ứng 30 7 Bệnh dạ tá tràng 56 8 Bệnh ngoài da 46 9 Bệnh thận 28 Đối với dân cư xung quanh khu vực nhà máy, nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ thuộc phường Quán Triều và tiếp giáp với 2 phường Quang Vinh và Tân Long, do đó các vùng này ít nhiều chịu ảnh hưởng của ô nhiễm. Phường Tân Long nằm tiếp giáp với nhà máy nhưng do ở phía thượng lưu chỗ gia nhập của nước thải vào dòng chảy sông Cầu nên không chịu tác động. Qua kết quả kiểm tra, đánh giá của bộ KHCNMT tỉnh Thái Nguyên thì số hộ dân nằm tiếp giáp với nhà máy phải chịu ảnh hưởng không khí ( khí độc hại sinh ra từ khâu xử lý hoá chất) Phường Quang Vinh và Quán Triều trước đây lấy nước sông Cầu là nguồn nước sinh hoạt chủ yếu, và việc sử dụng nước sinh hoạt từ nguồn nước sông Cầu lên, chỉ qua một vài khâu xử lý cơ bản rồi đưa vào sử dụng rất không đảm bảo vệ sinh. Đây là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ. Vài năm trở lại đây các hộ dân do sự cấp thiết phải cải tạo môi trường sống để đảm bảo sức khoẻ của chính bản thân đã đào giếng để lấy nước sử dụng. Như số liệu cung cấp, phường Quang Vinh có tổng số hộ là : 1418 hộ Trong đó: Số hộ sử dụng nước giếng: 864 hộ Số hộ sử dụng nước máy : 425 hộ Số hộ sử dụng giếng đất : 122 hộ Số hộ sử dụng giếng khoan: 7 hộ Tuy chất lượng nước có khá hơn so với nước lấy từ sông Cầu nhưng vẫn chưa đảm bảo đủ tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Một số giếng đào lên không sử dụng được do nước ở đây bị ô nhiễm, gây lãng phí tiền của của người dân ( trung bình một giếng đào là một triệu đồng). Số liệu thống kê tại trạm y tế phường cho thấy người dân ở đây mắc một số bệnh như đường ruột, da, mắt, dạ dày... Điều đó đã phần nào chứng minh được ảnh hưởng của ô nhiễm nước đến sức khoẻ của nhân dân 2 phường. 1.1.1 Thiệt hại về năng suất cây trồng. Phường Quang Vinh và Quán Triều là 2 phường sử dụng hoàn toàn nước sông Cầu để tưới tiêu, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Qua con số thống kê của các phường cho thấy năng suất lúa và hoa màu ở đây thấp hơn so với các phường khác, nhưng công sức bỏ ra để chăm sócc thì lại lớn hơn rất nhiều, các hộ dân ở đây để đạt được năng suất lúa là 38 tạ/ha đã phải sử dụng rất nhiều phân bón, thời gian, công sức để khắc phục phần nào những ảnh hưởng của ô nhiễm đến năng suất cây trồng. Hầu hết các ruộng sử dụng để cấy lúa ở đây bị bám mảng rất khó trong công đoạn cày bừa. Nước sông Cầu được lấy lên để tưới ruộng đem theo rất nhiều những chất độc hại, ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng của cây trồng dẫn đến giảm năng suất cây trồng. Tỷ lệ súc vật nuôi ở đây thường có tỉ lệ chết cao hơn, mặc dù chưa cơ quan hay tổ chức nào quan tâm đến việc tìm hiểu nguyên nhân, nhưng có thể nói rằng khi sống trong một môi trường bị ô nhiễm, hàng ngày phải uống nguồn nước độc hại từ các mương dẫn nước thì có thể thấy được một phần nguyên nhân ở đây là do môi trường sống bị ô nhiễm. 1.2.3 Thiệt hại chi phí phòng chống của dân cư Tại hai phường Quang Vinh và Quán Triều nhìn chung dân cư đang phải sống trong một môi trường bị ô nhiễm, chính và đang phải chịu đựng một số tác hại do ô nhiễm môi trường trực tiếp của nhà máy như khói bụi, mùi xử lý hoá chất rất khó chịu, nguồn nước sinh hoạt cũng như nước phục vụ tưới tiêu không đảm bảo. Nước giếng hiện đang sử dụng vẫn còn chứa nhiều yếu tố độc hại không đạt tiêu chuẩn nước sinh hoạt theo quy định, nhưng do điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, do đó công tác phòng chống ô nhiễm của dân cư trong khu vực là không đáng kể. 1.2.4 Thiệt hại do ảnh hưởng đến mỹ quan môi trường Do nước thải dịch đen của nhà máy có độ màu rất cao (đen kịt), chính vì vậy khi thải ra hệ thống sông Cầu đã gây ảnh hưởng đến độ màu của nước sông Cầu, cùng với các nhà máy ở ven hai bên bờ sông Cầu nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đạng làm mất đi vẻ đẹp của dòng sông Cầu. Lượng bột giấy không được thu hồi hết theo dòng chảy ra sông Cầu, nhưng do khối lượng quá lớn gây nên hiện tượng mảng bám, ảnh hưởng đến mỹ quan khu vực xung quanh nhà máy... 1.1 Lượng giá thiệt hại môi trường trên cơ sở tính toán chi phí giảm thải Theo phương pháp "Lượng giá chi phí thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường" thì cần phải tập hợp được đầy đủ số liệu về tình trạng sức khoẻ của dân cư trong khu vực chịu ô nhiễm, về thiệt hại mùa màng do tác động của ô nhiễm môi trường gây nên, chi phí phòng chống, chi phí do ảnh hưởng đến hệ sinh thái v.v... Tuy nhiên công tác này, ở Việt Nam từ trước tới nay chưa được thực sự quan tâm thống kê con số cụ thể, chưa quan tâm nghiên cứu hậu quả của những ảnh hưởng ô nhiễm môi trường gây nên do đó gây khó khăn cho việc lượng hoá theo phương pháp trên. Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực như Trung Quốc và Thái Lan, trên cơ sở tính toán những thiệt hại kinh tế mà các nhà máy gây ra cho xã hội và chi phí mà xã hội bỏ ra để khắc phục ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn thải cho phép. Phương pháp tính toán theo chi phí giảm thải dựa trên mức độ gây ô nhiễm. - Tổng lượng thải ra của một số chất gây ô nhiễm cụ thể hoặc một nhóm các chất gây ô nhiễm (tấn/ngày đêm). - Nồng độ chất ô nhiễm cụ thể được thải ra (mg/l) - Tổng khối lượng chất thải (m3/ngày đêm). Như vậy, phương pháp này không tiếp cận theo cách tính toán thiệt hại mà chỉ dựa trên những chi phí mà xã hội phải bỏ ra để xử lý toàn bộ lượng nước thải ô nhiễm đạt tiêu chuẩn thải trước khi nó được thải ra môi trường. Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ sau khi lắp đặt và đưa dây chuyền công nghệ mới vào sử dụng thì tổng lượng thải của nhà máy và nồng độ các chất thải trong nước thải của nhà máy được thể hiện cụ thể qua bảng sau: Bảng19: Tổng lượng thải của nhà máy mỗi năm khi vận hành dây chuyền sản xuất mới và cũ (đơn vị tính 1000 m3) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Nước SH 24 24 24 24 24 24 24 24 24 24 CN cũ Nấu bột 17.5 17.5 17.5 17.5 17.5 17.5 17.5 17.5 17.5 17.5 Rửa bột 350 350 350 350 350 350 350 350 350 350 Xeo giấy 700 700 700 700 700 700 700 700 700 700 CN mới Xeo giấy 0 0 840 1080 1080 1080 1080 1080 1080 1080 Nước tái sử dụng 0 0 - 300 - 300 - 300 - 300 - 300 - 300 - 300 - 300 Tổng nướcxeo 700 700 1240 1480 1480 1480 1480 1480 1480 1480 Tổng 1091.5 1091,5 1631.5 1871.5 1871.5 1871.5 1871.5 1871.5 1871.5 1871.5 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và Tư vấn Môi trường) Bảng 20: Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải nhà máy (đơn vị kg/m3): STT Loại nước thải SS COD BOD 1 Nước thải sinh hoạt 0.64 0.66 0.41 2 Dịch trắng 0.28 0.45 0.22 3 Nước thải dịch đen 0.4 51 24 4 Nước rửa bột 0.25 15.5 4.8 (Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và Tư vấn Môi trường) Tổng lượng thải trong hai năm đầu: Tổng lượng SS thải ra là: SLSS = 0.64 * 24000 + 0.28 * 700 000 + 0.4 * 17 500 + 0.25 * 350 000 = 305 860 (kg/năm) Tổng lượng COD thải ra là: SLCOD = 0.66 * 24 000 + 0.45 * 700 000+ 51 * 17500 + 15.5 * 350000 = 6 648 340 (kg/năm) Tổng lượng BOD thải ra là: SLBOD = 0.41 * 24 000 + 0.22 * 700 000 + 24 * 17500 + 4.8 * 350 000 = 2263 840 (kg/năm) Tổng lượng thải trong năm thứ ba (2002) khi dây chuyền mới bắt đầu đi vào hoạt động là: Tổng lượng SS thải ra là: SLSS = 0.64 * 24000 + 0.28 * 1 240 000 + 0.4 * 17 500 + 0.25 * 350 000 = 457 060 (kg/năm) Tổng lượng COD thải ra là: SLCOD = 0.66 * 24 000 + 0.45 * 1 240 000+ 51 * 17500 + 15.5 * 350000 = 6 891 340 (kg/năm) Tổng lượng BOD thải ra là:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMT (48).doc
Tài liệu liên quan