TCNCYH 117 (1) - 2019 101 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Địa chỉ liên hệ: Trần Quế Sơn, Bộ môn Ngoại, Trường Đại 
học Y Hà Nội 
Email: 
[email protected] 
Ngày nhận: 09/10/2018 
Ngày được chấp thuận: 10/12/2018 
RÒ MẬT SAU PHẪU THUẬT CẮT GAN 
1,2Trần Quế Sơn, 1,2Trần Hiếu Học, 2Vũ Đức Long 
1Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Bạch Mai 
Nghiên cứu mô tả kết quả cắt gan có biến chứng rò mật về đặc điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ liên 
quan đến rò mật sau mổ. 67 bệnh nhân được cắt gan tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 6/2016 đến tháng 
9/2018, rò mật gặp ở 5 bệnh nhân (7,4%). Chỉ định mổ cắt gan điển hình do bệnh lý như ung thư (ung thư 
biểu mô tế bào gan - 59,7%, ung thư biểu mô đường mật – 9%, ung thư túi mật xâm lấn gan – 4,5%), u gan 
lành tính (23,9%), còn lại là sỏi gan (2,9%). Nhóm rò mật có nồng độ bilirubin toàn phần trước mổ cao hơn 
nhóm không rò mật (p < 0,001). 4 bệnh nhân rò mật sau cắt gan trái trong đó 3 bệnh nhân do ung thư đường 
mật, 1 bệnh nhân do u máu lớn, 1 bệnh nhân sau cắt gan trung tâm kèm nối mật ruột. Thời gian nằm viện 
trung bình 15,4 ngày. Rò mật độ B (80%), độ C (20%). Nồng độ albumin trước mổ < 30 g/L, cắt gan lớn ≥ 3 
hạ phân thùy và cắt gan kèm hạ phân thùy 4 là các yếu tố làm tăng nguy cơ rò mật. Kết luận: rò mật là một 
biến chứng sau cắt gan. Nồng độ albumin máu thấp, cắt gan lớn có kèm theo phần gan trung tâm (S4) làm 
tăng nguy cơ rò mật sau mổ. 
Từ khóa: cắt gan, rò mật sau cắt gan, biến chứng sau cắt gan 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rò mật sau cắt gan là một biến chứng 
phức tạp, không khó về mặt chẩn đoán xác 
định nhưng khó về mặt chẩn đoán vị trí tổn 
thương. Rò mật thường xảy ra sau phẫu thuật 
can thiệp về gan và đường mật như cắt túi 
mật nội soi, cắt gan, chấn thương gan. 
Nguyên nhân ít gặp hơn như vết thương do 
đạn bắn, dao đâm, sinh thiết gan hoặc áp xe 
gan [1]. Cắt gan là một trong những biện pháp 
điều trị nhiều bệnh lý gan mật như ung thư 
gan, ung thư đường mật, sỏi đường mật trong 
gan. Với sự phát triển của kỹ thuật cắt gan, 
chuẩn bị tốt bệnh nhân trước mổ, biến chứng 
cũng như tử vong sau mổ đã giảm trong nhiều 
thập kỷ qua [2]. Tuy nhiên, rò mật vẫn là một 
trong những biến chứng nặng dẫn đến thời 
gian nằm viện kéo dài hoặc mổ lại. Tỷ lệ rò 
mật đối với cắt gan không nối mật ruột và cắt 
gan kèm theo nối mật ruột lần lượt là 3,6 - 
11% và 0,4 - 8% [3 - 6]. Theo phân loại của 
Nagano, rò mật có thể do tổn thương đường 
mật chính, tổn thương đường mật ở bề mặt 
diện cắt gan, mất đoạn đường mậtdo đó 
việc điều trị và kết quả cũng khác nhau [5]. 
Năm 2011, nhóm nghiên cứu quốc tế về phẫu 
thuật gan mật tụy đã thống nhất và đưa ra 
định nghĩa rò mật sau mổ cũng như mức độ 
nặng của rò mật sau cắt gan hoặc cắt tá tụy 
[2; 7]. Để hạn chế rò mật, một số chất được 
sử dụng để che phủ diện cắt gan như keo 
dính fibrin, tấm polyglycolic acid (PGA) phủ 
keo fibrin, tấm collagen phủ fibrinogen và 
thrombin (CSFT, TachoSil) [8]. Rò mật sau mổ 
còn được điều trị bằng đặt dẫn lưu ống mật 
chủ qua nội soi mật tụy ngược dòng với tuýp 
A, dẫn lưu ổ bụng dưới siêu âm hoặc cắt lớp 
vi tính với rò mật tuýp B [9]. Cơ chế chung là 
làm giảm áp lực đường mật, giảm lưu lượng 
mật chảy qua đường rò, dẫn lưu ổ dịch mật 
tránh tạo thành ổ áp xe hay viêm phúc mạc 
tạo điều kiện cho đường rò tự lành [10]. Mặc 
 102 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
dù vậy đến nay vẫn chưa có biện pháp nào 
điều trị triệt để vì còn phụ thuộc vào vị trí tổn 
thương của đường mật [7]. Tại Việt Nam, báo 
cáo về chẩn đoán và điều trị rò mật sau cắt 
gan không nhiều, tỷ lệ rò mật chủ yếu được 
thông báo trong phần biến chứng sau các 
phẫu thuật can thiệp bệnh lý gan mật [1; 11]. 
Góp phần vào việc chẩn đoán và điều trị biến 
chứng rò mật, chúng tôi mô tả một số đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và khảo sát một 
số các yếu tố nguy cơ gây rò mật ở bệnh 
nhân cắt gan điển hình do bệnh lý tại Bệnh 
viện Bạch Mai. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: Tất cả các 
bệnh nhân được mổ cắt gan tại Bệnh viện 
Bạch Mai do u gan, bệnh lý sỏi đường mật từ 
tháng 6/2016 đến tháng 9/2018. Rò mật được 
chẩn đoán theo khuyến cáo của hội phẫu 
thuật gan mật quốc tế (ISGLS) [2; 12]: 
- Dẫn lưu ổ bụng ra dịch mật, trên 50 ml/
ngày từ ngày thứ 3 sau mổ. 
- Nồng độ bilirubin toàn phần cao hơn 3 lần 
trong máu từ ngày thứ 3 sau mổ. 
- Hoặc thấy rò mật qua chụp đường mật. 
- Hoặc viêm phúc mạc mật khi mổ. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Cắt gan không điển 
hình do chấn thương gan hoặc khoét u gan. 
2. Phương pháp: Phương pháp mô tả. 
2.1. Quy trình nghiên cứu 
Mở bụng đường trắng giữa trên rốn với 
khối u ở phân thùy bên, sỏi thùy gan trái. Với 
khối u ở vị trí bên gan phải, chúng tôi thường 
mở bụng đường chữ J hoặc dưới sườn hai 
bên có sử dụng hệ thống van xích (Kent re-
tractor). Giải phóng gan. Kiểm soát cuống gan 
toàn bộ tạm thời ngắt quãng bằng ống Nela-
ton (15 phút kẹp – 5 phút thả kẹp cuống). Cắt 
gan do sỏi phân thùy bên, chúng tôi không 
cần kẹp cuống. Cắt nhu mô gan bằng kìm 
Kelly, khâu buộc mạch máu và đường mật 
trong nhu mô gan bằng chỉ line hoặc chỉ vicryl 
3.0, monosyl 4.0. Rửa bụng và diện cắt gan 
bằng nước muối sinh lý 0,9%, sau đó đặt một 
miếng gạc trắng vào diện cắt phần gan để lại, 
khoảng 5 - 10 phút sau kiểm tra vị trí nào rỉ 
dịch mật màu xanh hay không. Nếu có thì 
khâu lại bằng chỉ monosyl 4.0 mũi vắt hoặc 
chữ X. Đặt dẫn lưu ổ bụng: Nếu cắt gan do 
sỏi mật, có mở ống mật chủ thì đặt 2 dẫn lưu 
(một dẫn lưu diện cắt phân thùy bên, một dẫn 
lưu dưới gan). Nếu cắt gan do ung thư thì đặt 
một dẫn lưu ở cạnh diện cắt gan. Theo dõi 
màu sắc dịch vào ngày thứ 3, 5, 7 sau mổ. 
Rút dẫn lưu khi dịch ổ bụng ra ít hơn 50 ml/
ngày, màu dịch hồng nhạt, không có màu mật, 
lâm sàng bệnh nhân không sốt, đánh hơi 
được, bụng không chướng. 
2.2. Một số quy ước nghiên cứu 
Phân loại cắt gan theo Hội phẫu thuật gan 
mật quốc tế Brisbane năm 2000: cắt gan nhỏ 
là cắt một hoặc hai hạ phân thùy. Cắt gan lớn 
là cắt gan từ ba hạ phân thùy trở lên (theo 
phân chia gan của Couinaud. Cắt gan trung 
tâm là cắt hạ phân thùy 4, 5, 8 hoặc cắt hạ 
phân thùy 4 hoặc cắt hạ phân thùy 5, 8 [13]. 
Mức độ rò mật: Độ A (rò mật mức độ nhẹ, 
không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít về 
lâm sàng. Độ B (Ảnh hưởng về mặt lâm sàng 
cần phải can thiệp dẫn lưu mật hoặc dò mật 
mức độ A kéo dài hơn một tuần). Độ C (Rò 
mật cần phải phẫu thuật làm sạch ổ bụng, 
khâu rò hoặc nối mật ruột). 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 103 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Phân loại vị trí rò mật theo Nagano 
Hình 1. Phân loại tổn thương đường mật 
theo Nagano [5] 
Loại A, rò mật cung lượng thấp từ diện cắt. 
Loại B, rò mật cung lượng lớn từ một nhánh 
đường mật. Loại C, rò mật cung lượng lớn do 
tổn thương thành ống mật chính. Loại D, rò 
mật do tổn thương tại vị trí phân chia của ống 
mật. 
Yếu tố nguy cơ: tuổi, giới, hemoglobin, 
bạch cầu, prothrombin, bilirubin toàn phần, 
GOT, GPT, mức độ xơ gan, thời gian mổ, 
lượng máu mất trong mổ, thời gian kẹp cuống 
toàn bộ, trọng lượng phần gan cắt bỏ, thời 
gian phẫu thuật, loại cắt gan lớn hay nhỏ. 
3. Đạo đức trong nghiên cứu 
Số liệu được thu thập và theo dõi bệnh 
nhân trong mổ, sau mổ, các thông tin đều 
được mã hóa. Kết quả nghiên cứu được đề 
xuất nhằm nâng cao hiệu quả phẫu thuật các 
khối u vùng đầu tụy tá tràng, không phục vụ 
mục đích khác. 
III. KẾT QUẢ 
Chỉ định mổ cắt gan phần lớn là các bệnh 
lý ung thư gan và ung thư đường mật trong 
gan (49/67 bệnh nhân), nồng độ bilirubin 
trước mổ của nhóm rò mật cao hơn nhóm 
không rò mật. Kích thước các khối u gan 
được mổ tương đối lớn, không có sự khác 
biệt giữa 2 nhóm. Có duy nhất một bệnh nhân 
tử vong ngày thứ 2 do chảy máu sau cắt gan 
trái mở rộng bao gồm hạ phân thùy 2, 3, 4, 5, 
8 (bảng 1). 
Đặc điểm lâm sàng Bệnh nhân không 
rò mật (n1 = 62) 
Bệnh nhân 
có rò mật 
(n2 = 5) 
p 
Tuổi, năm 51,3 ± 11,9 52,2 ± 9,2 0,6 
Giới (nam/nữ) 43/19 3/2 0,645 
Chẩn đoán UTBM tế bào gan 39 1 
0,001 
 UTBM đường mật 3 3 
 Ung thư túi mật 3 0 
 U gan lành tính 15 1 
 Sỏi gan 2 0 
Tiểu cầu (x104 mm3) n = 67 247,2 ± 79,6 347 ± 68 0,303 
Bilirubin toàn phần n = 66 16,3 ± 8,2 79,6 ± 95,7 < 0,001 
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu 
 104 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Đặc điểm lâm sàng Bệnh nhân không 
rò mật (n1 = 62) 
Bệnh nhân 
có rò mật 
(n2 = 5) 
p 
Albumin (g/dl) n = 40 40,7 ± 4,8 32,3 ± 7,7 0,185 
Prothrombin (%) n = 67 92,6 ± 14,2 95,5 ± 18,2 0,24 
Kích thước khối u (mm) n = 63 52,7 ± 24,8 47,8 ± 21,8 0,89 
Thời gian mổ (phút) n = 67 128,6 ± 42,2 212 ± 56,2 0,456 
Mất máu trong mổ (ml) n = 67 230 ± 180 440 ± 227 0,526 
Phân loại cắt gan 
Cắt gan lớn 7 5 
< 0,001 
Cắt gan nhỏ 55 0 
Cắt gan bao gồm S4 
Không 52 0 
< 0,001 
Có 10 5 
Tử vong 1 (Cắt gan trái mở rộng gồm HPT 2,3,4,5,8) 
UTBM: ung thư biểu mô; HPT: hạ thùy phải 
Hình 2. Cắt gan trái ở bệnh nhân nam, 57 tuổi, ung thư biểu mô đường mật do sỏi 
- Rò mật ngày thứ 12. 
- Dẫn lưu mật ngày thứ 13 dưới siêu âm. 
Phần lớn bệnh nhân bị rò mật sau cắt gan trái do ung thư đường mật, trong đó có 2 bệnh 
nhân phải nối mật ruột, 4 trường hợp rò mật mức độ B (bảng 2). 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 105 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 2. Đặc điểm bệnh nhân rò mật 
Giới Tuổi (năm) 
Chẩn 
đoán 
Cắt 
HPT 
PT kết 
hợp 
KT u 
(mm) 
Dẫn lưu 
(ngày) 
Mức 
độ rò 
Ngày 
viện Can thiệp 
Nữ 43 K 4,5,8 Nối MR 65 21 B 17 - 
Nam 50 U máu 2,3,4 Cắt TM 74 16 C 17 Nối MR do hẹp OGP 
Nam 57 K 2,3,4 Cắt TM 23 13 B 13 Dẫn lưu dưới SÂ 
Nữ 50 K 2,3,4 Cắt TM 72 15 B 17 - 
Nam 49 K 2,3,4 Cắt TM Nối MR 32 12 B 13 Dẫn lưu dưới SÂ 
K: ung thư biểu mô đường mật, HPT: hạ phân thùy, PT: phẫu thuật, TM: túi mật, KT: kích thước, MR: mật - 
ruột, OGP: ống gan phải, SÂ: siêu âm 
Hình 3. Phẫu thuật cắt gan trung tâm (Hạ thùy phải 4, 5, 8). Bệnh nhân nam, 49 tuổi 
Bảng 3. Các yếu tố nguy cơ của rò mật sau cắt gan 
Đặc điểm lâm sàng BN không rò 
mật (n1=62) 
BN có rò mật 
(+) (n2 = 5) P value OR 
Tuổi, ≥ 50 40 3 0,594 0,825 
Bệnh lý 
Ung thư 45 17 
0,592 0,662 
U lành, sỏi gan 4 1 
Tiểu cầu (x 104 
mm3) < 150 0 5 0,474 0,855 
Bilirubin 
toàn phần > 20 15 3 0,12 4,6 
Albumin (g/dl) < 30 2 2 0,043 0,06 
Prothrombin (%) < 70 5 0 1 0,919 
 106 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Đặc điểm lâm sàng BN không rò 
mật (n1= 62) 
BN có rò mật 
(+) (n2 = 5) P value OR 
Thời gian mổ 
(phút) ≥ 150 13 5 < 0,001 0,21 
Mất máu trong 
mổ (ml) > 500 8 2 0,157 4,5 
Phân loại cắt gan 
≥ 3 HPT 7 5 < 0,001 0,113 
Gồm S4 10 5 < 0,001 0,161 
* BN: bệnh nhân; HTP: hạ thùy phải. 
Nồng độ Albumin < 30 g/l, thời gian mổ kéo dài trên 150 phút, cắt gan lớn và cắt gan có bao 
gồm phần gan trung tâm HPT4 là các yếu tố nguy cơ gây rò mật. Nồng độ Bilirubin toàn phần 
trước mổ trên 20 µmol/l và mất máu trong mổ trên 500 ml làm tăng nguy cơ rò mật gấp 4,6 và 4,5 
lần. 
Hình 4. Phẫu thuật cắt gan trái do u máu lớn (hạ thùy phải 2, 3, 4) 
- Rò mật ngày thứ 3 – ngày thứ 16 
- Mổ lại nối mật ruột do hẹp đường mật gan phải ở sát vị trí rốn gan sau mổ lần thứ nhất 49 
ngày. 
IV. BÀN LUẬN 
Hiện nay với những tiến bộ trong chẩn 
đoán, kỹ thuật mổ, ứng dụng các phương tiện 
trong mổ như dao siêu âm, dao CUSA 
(Cavitron Ultrasonic Surgical Aspirator) đã 
giúp giảm biến chứng trong mổ, sau mổ và 
kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân bị các 
khối u gan. Tuy nhiên rò mật sau cắt gan vẫn 
là một biến chứng có thể gặp sau cắt gan, dao 
động 4,8% đến 10% [4 - 7; 12]. Các nghiên 
cứu gần đây cho thấy một số yếu tố nguy cơ 
gây rò mật như tuổi trên 65 tuổi, mất máu 
trong mổ trên 1000 ml, cắt gan trái hoặc thời 
gian mổ kéo dài. Kỹ thuật kiểm soát cuống 
Glisson trong nhu mô gan, phẫu tích sâu vào 
vùng rốn gan, sử dụng dao siêu âm cắt nhu 
mô cũng có thể là yếu tố nguy cơ làm tổn 
thương đường mật. Do đó các tác giả cho 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 107 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
rằng nên phẫu tích cẩn thận nhu mô đặc biệt là quanh vị trí cuống Glisson [4; 14]. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán rò mật của các tác giả trên thế giới 
 N Khái niệm rò mật Thời gian để 
dẫn lưu 
Rò mật 
(%) 
Can 
thiệp (%) 
Fong 60 Dẫn lưu ra dịch mật trên 1 tuần 4 5 8,3 
Sun [15] 60 Nồng độ bilirubin tăng cao hơn 
bình thường 3 - 5 0 5 
Vigano 593 Dân lưu ra trên 50 ml dịch mật trên 
3 ngày 4 5,7 1,3 
Kyoden[16] 1269 
(i) Dịch mật bẩn nhiễm trùng. 
(ii) Nồng độ bilirubin dẫn lưu > 5,0 
mg/dl (85 µmol/l) ở 2 lần xét 
nghiệm hoặc một lần vào ngày thứ 
7 sau mổ. 
7 8,7 2 
Koch [2] 70 
ISGLS. Nồng độ bilirubin dẫn lưu ≥ 
3 nồng độ bilirubin trong máu ngày 
thứ 3 hoặc có dấu hiệu viêm phúc 
mạc mật phải dẫn lưu hoặc mổ lại 
5 16 10 
Rahbari [17] 256 ISGLS 3 27,2 18,5 
Yamazaki [18] 316 ISGLS 3 4,4 0,3 
Guillad [19] 1001 
(i) Dịch mật xanh chảy qua dẫn lưu 
ổ bụng. 
(ii) Dịch mật sau mổ phải dẫn lưu 
dưới siêu âm hoặc phẫu thuật. 
(iii) Viêm phúc mạc mật phải mổ lại 
5 8 5,6 
Donadon [12] 475 
Nồng độ Bilirubin dẫn lưu > 171 
µmol/l (= 10 mg/dl) trong hai lần xét 
nghiệm vào ngày thứ 3, thứ 5 và 
thứ 7 sau mổ. 
7 8,2 1,7 
Đến nay tiêu chuẩn để chẩn đoán rò mật 
sau cắt gan vẫn còn nhiều tranh luận giữa các 
nghiên cứu của nhiều tác giả. Theo Donadon 
(2015) thì sau mổ cắt gan nên đặt dẫn lưu ổ 
bụng bởi một số lý do: thời gian để dẫn lưu 
ngắn (chỉ khoảng 5 ngày), có thể phát hiện 
được biến chứng chảy máu, ngoài ra, có thể 
lấy dịch dẫn lưu để đo nồng độ bilirubin so 
sánh với nồng độ trong máu phát hiện rò mật 
[12]. Để chẩn đoán rò mật, hội phẫu thuật gan 
quốc tế (International Study Group of Liver 
Surgery - ISGLS) đưa ra tiêu chuẩn ngắn gọn 
và được nhiều tác giả áp dụng đó là xét 
nghiệm nồng độ bilirubin trong dịch dẫn lưu ổ 
bụng cao hơn 3 lần nồng độ bilirubin trong 
máu từ ngày thứ 3 sau mổ hoặc ổ tụ dịch mật 
 108 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
cần dẫn lưu hoặc viêm phúc mạc mật phải mổ 
lại [2]. Tuy nhiên, động học của bilirubin trong 
huyết thanh và trong ống dẫn lưu là khác 
nhau: bilirubin huyết thanh có nồng độ cao 
nhất ở ngày thứ nhất nhưng giảm dần ngày 
thứ 3, thứ 5 và thứ 7, còn bilirubin trong dịch 
tăng trong ngày thứ 3 và thứ 5 sau đó giảm 
dần. Donadon lấy nồng độ bilirubin dịch ống 
dẫn lưu > 171 µmol/l (10 mg/dL) trong hai lần 
xét nghiệm ở ngày thứ 3, thứ 5 hoặc thứ 7 
sau mổ để chẩn đoán rò mật. Từ tiêu chuẩn 
đó nghiên cứu trên 475 trường hợp cắt gan 
chỉ có 8,2% rò mật, 1,7% được can thiệp dẫn 
lưu và dẫn lưu thường được rút ở ngày thứ 7 
sau mổ [12]. Tại Việt Nam, chưa có tiêu chuẩn 
riêng để chẩn đoán rò mật mà chủ yếu dựa 
vào đặc điểm lâm sàng khi quan sát dẫn lưu ổ 
bụng chảy dịch mật màu xanh hoặc khi mổ lại 
vì viêm phúc mạc mật mà không có tiêu chuẩn 
về xét nghiệm nồng độ bilirubin trong dịch dẫn 
lưu. Trong 5 bệnh nhân của chúng tôi được 
chẩn đoán dựa vào dẫn lưu ổ bụng đặt cạnh 
diện cắt gan chảy dịch màu xanh. Thời gian 
lưu dẫn lưu ổ bụng lần lượt là 21, 16, 13, 15 
và 12 ngày và không bệnh nhân nào phải mổ 
lại vì viêm phúc mạc trong thời gian nằm viện. 
Duy nhất có một bệnh nhân phải mổ lại do 
hẹp đường mật gan phải sau cắt gan trái do u 
máu gan với tổn thương hẹp ống gan phải 
ngay ngã ba đường mật sát vị trí khâu cuống 
gan trái, đó cũng có thể là nguyên nhân bệnh 
nhân này rò mật từ diện cắt gan từ ngày thứ 7 
đến ngày thứ 26 sau mổ. Chúng tôi đã phẫu 
tích lên rất cao, bộc lộ ống gan phải, ống gan 
phải đường kính 8 mm và thực hiện miệng nối 
mật ruột kiểu Roux-en-Y qua mạc treo đại 
tràng ngang. Các trường hợp rò mật khác đều 
trên bệnh nhân ung thư đường mật, tình trạng 
bụng mềm, không có dấu hiệu viêm phúc 
mạc, các tạng trong ổ bụng như dạ dày, gan 
phải, mạc nối đến khu trú và bịt lại các vị trí rò 
mật sau 2 - 3 tuần. Trong một nghiên cứu đa 
trung tâm của Nhật Bản trên 631 bệnh nhân 
được mổ cắt gan, không nối mật ruột thì tỷ lệ 
rò mật là 4,8% (30 bệnh nhân), năm yếu tố 
độc lập liên quan đến rò mật là cắt gan do ung 
thư di căn (OR = 5,8, p < 0,01), thời gian mổ 
kéo dài trên 330 phút (OR = 3,7, p = 0,048), 
phẫu tích cuống gan (OR = 5,4, p < 0,01), tiểu 
cầu sau mổ ngày thứ nhất dưới 99.000/mL 
(OR 8,4, p < 0,01) và nồng độ bilirubin toàn 
phần trong huyết thanh ngày thứ nhất trên 1,4 
mg/dl (24 µmol/l) (OR = 3,6, p = 0,02). Tỷ lệ rò 
mật sẽ tăng lên trên 40% ở những bệnh nhân 
có bốn hoặc nhiều hơn các yếu tố dự đoán 
này [4]. Một nghiên cứu đa trung tâm trên thế 
giới với 949 bệnh nhân được cắt gan thì 69 
trường hợp rò mật (7,3%) kết luận bệnh nhân 
mất máu phải truyền máu từ 300 ml trở lên 
trong mổ làm tăng nguy cơ rò mật, rò mật hay 
gặp ở những bệnh nhân cắt gan do u vùng 
rốn gan (u Klatskin), trên nền gan xơ và đặc 
biệt ở những bệnh nhân được dẫn lưu đường 
mật, do đó việc đặt dẫn lưu đường mật 
thường quy là không cần thiết. Về điều trị, chỉ 
có 1,7% các trường hợp cần làm dẫn lưu mật 
qua ERCP hoặc dẫn lưu mật qua da, 3,2% 
cần để dẫn lưu kéo dài hoặc mổ lại. Rò mật là 
một trong những biến chứng nặng nhưng ít 
gặp tuy nhiên nó không trầm trọng so với chảy 
máu cấp hay suy gan – là những biến chứng 
có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân [20]. Một 
nghiên cứu khác trên 310 bệnh nhân của tác 
giả Ishii (2016) có tỷ lệ rò mật là 3,5% trong đó 
mổ cắt lại u gan (OR = 5,5, p = 0,002) và cắt 
gan trung tâm (OR = 23,9, p = 0,001) và thời 
gian mổ kéo dài là các yếu tố làm tăng nguy 
cơ rò mật. Tác giả chia làm hai nhóm nghiên 
cứu so sánh thấy rằng, đối với nhóm tổn 
thương đường mật phát hiện trong lúc mổ 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 109 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
được khâu đường mật và không khâu đường 
mật tỷ không rò mật và rò mật sau mổ lần lượt 
là 80% và 36,4%, tỷ lệ này nếu đặt dẫn lưu 
mật và không đặt dẫn lưu mật là 81% và 30%. 
Ngược lại, đối với nhóm không tổn thương 
đường mật trong mổ, nhóm được phủ keo 
sinh học và không phủ keo sinh học có tỷ lệ rò 
mật sau mổ là 0% và 7,7%. Từ đó tác giả 
khuyến cáo nếu rách đường mật trong mổ cắt 
gan trung tâm thì nên khâu đường mật kết 
hợp dẫn lưu đường mật, ngược lại thì nên 
phủ keo sinh học diện cắt gan. Hiện nay các 
loại keo sinh học được áp dụng như PGS – 
polyglycolic acid hoặc CSFT - collagen sheet 
coated with a fibrinogen and thrombin layer 
[7]. Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ rò mật là 
5/67 bệnh nhân (7,5%), nồng độ albumin 
trước mổ < 30 g/l, thời gian mổ kéo dài trên 
150 phút và cắt gan lớn bao gồm hạ phân 
thùy 4 là các yếu tố độc lập liên quan đến rò 
mật sau mổ, các bệnh nhân thường hết rò 
trong thời gian một tháng và chỉ một bệnh 
nhân trong số đó phải mổ lại để nối mật ruột 
do hẹp đường mật. Khi cắt gan bao gồm một 
phần gan trung tâm thì diện cắt gan nằm ở 
giữa gan nơi có nhiều cấu trúc như tĩnh mạch 
cửa, động mạch gan và vị trí ngã ba đường 
mật nên đường mật dễ tổn thương. Đặc biết 
nếu ống gan hạ phân thùy 1 đổ hoàn toàn vào 
ống gan trái, khi cắt gan trái (gồm hạ thùy phải 
2, 3, 4) bệnh nhân rất dễ bị rò mật. Kinh 
nghiệm của chúng tôi sau khi cắt gan, bao giờ 
cũng rửa sạch diện cắt bằng nước muối sinh 
lý 0,9% phát hiện điểm rỉ máu để đốt điện 
hoặc khâu cầm máu, sau đó đắp một gạc 
trắng vào diện cắt, để khoảng 5 - 10 phút rồi 
đánh giá xem miếng gạc có thấm dịch mật hay 
không. Nếu tổn thương ở đường mật chính thì 
khâu bằng sợi monosyl 4.0 hoặc vừa khâu 
vừa làm dẫn lưu mật qua ống cổ túi mật. Đối 
với tổn thương ung thư đường mật rốn gan (u 
Klatskin) chúng tôi cắt gan trái và đường mật 
ngoài gan, sau đó nối ống gan phân thùy 
trước, phân thùy sau và ống gan hạ phân thùy 
1 với ruột. Chúng tôi có một bệnh nhân được 
cắt gan trung tâm (hạ thùy phải 4) do u tuyến 
lành tính (adenoma) được phủ keo PGS ra 
viện sau 7 ngày điều trị không biến chứng. 
Vigano cho rằng 76% các trường hợp rò mật 
được điều trị dẫn lưu bảo tồn, tuy nhiên dẫn 
lưu ổ bụng vẫn ra khoảng 100 ml từ ngày thứ 
10 trở đi là yếu tố tiên lượng việc điều trị bảo 
tồn không hiệu quả và cần phải can thiệp dẫn 
lưu thêm dưới siêu âm hoặc mổ lại [3]. 
V. KẾT LUẬN 
Rò mật là một trong những biến chứng sau 
mổ cắt gan với tỷ lệ 7,4%, phần lớn được điều 
trị dẫn lưu không mổ. Cắt gan lớn bao gồm hạ 
phân thùy 4, nồng độ albumin trước mổ dưới 
30 g/l và thời gian mổ kéo dài trên 150 phút là 
các yếu tố nguy cơ gây rò mật sau mổ. 
Lời cảm ơn 
Nhóm tác giả chân thành cảm ơn Đảng ủy, 
ban lãnh đạo Bệnh viện Bạch Mai, nhân viên 
phòng mổ, nhân viên khoa Ngoại tổng hợp đã 
tạo điều kiện để các bệnh nhân trong nhóm 
nghiên cứu được phẫu thuật, chăm sóc và 
điều trị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phạm Hữu Tùng, Hồ Đăng Quý Dũng, 
Trần Đình Trí và cộng sự (2015). Điều trị rò 
mật bằng đặt stent qua nội soi tại Bệnh viện 
Chợ Rẫy. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 19
(5), 28 - 32. 
2. Koch M., Garden O. J., Padbury R et 
al (2011). Bile leakage after hepatobiliary and 
pancreatic surgery: a definition and grading of 
 110 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
severity by the International Study Group of 
Liver Surgery. Surgery, 149(5), 680 - 688. 
3. Kajiwara T., Midorikawa Y., Yamazaki 
S et al (2016). Clinical score to predict the risk 
of bile leakage after liver resection. BMC sur-
gery, 16(1), 30 - 38. 
4. Nakagawa K., Tanaka K., Nojiri K et al 
(2017). Predictive factors for bile leakage after 
hepatectomy for hepatic tumors: a retrospec-
tive multicenter study with 631 cases at Yoko-
hama Clinical Oncology Group (YCOG). Jour-
nal of hepato-biliary-pancreatic sciences, 
24(1), 33 - 41. 
5. Nagano Y., Togo S., Tanaka K et al 
(2003). Risk factors and management of bile 
leakage after hepatic resection. World journal 
of surgery, 27(6), 695 - 698. 
6. Castro S. M., Kuhlmann K. F., Busch 
O. R et al (2005). Incidence and management 
of biliary leakage after hepaticojejunostomy. 
Journal of gastrointestinal surgery: official jour-
nal of the Society for Surgery of the Alimentary 
Tract, 9(8), 1163 - 1171. 
7. Ishii T., Hatano E., Furuyama H et al 
(2016). Preventive Measures for Postoperative 
Bile Leakage After Central Hepatectomy: A 
Multicenter, Prospective, Observational Study 
of 101 Patients. World journal of surgery, 40
(7), 1720 - 1728. 
8. Hayashibe A., Sakamoto K., Shinbo M 
et al (2006). New method for prevention of bile 
leakage after hepatic resection. Journal of sur-
gical oncology, 94(1), 57 - 60. 
9. Terajima H., Ikai I., Hatano E et al 
(2004). Effectiveness of endoscopic nasobil-
iary drainage for postoperative bile leakage 
after hepatic resection. World journal of sur-
gery, 28(8), 782 - 786. 
10. Shah J. N (2007). Endoscopic treat-
ment of bile leaks: current standards and re-
cent innovations. Gastrointestinal endoscopy, 
65(7), 1069 - 1072. 
11. Trần Quế Sơn, Đỗ Tuấn Anh (2016). 
Phẫu thuật u gan tại Bệnh viện Việt Đức giai 
đoạn 2010 - 2014. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 
100(2), 131 - 138. 
12. Donadon M., Costa G., Cimino M et 
al (2016). Diagnosis and Management of Bile 
Leaks After Hepatectomy: Results of a Pro-
spective Analysis of 475 Hepatectomies. 
World journal of surgery, 40(1), 172 - 181. 
13. Strasberg SM., Belgihiti J., Clavien 
PA et al (2000). The Brisbane 2000 terminol-
ogy of liver anatomy and resections. HPB, 
22000, 333 - 339. 
14. Yamashita Y., Hamatsu T., Rikimaru 
T et al (2001). Bile leakage after hepatic re-
section. Annals of surgery, 233(1), 45 - 50. 
15. Sun H. C., Qin L. X., Lu L et al (2006). 
Randomized clinical trial of the effects of ab-
dominal drainage after elective hepatectomy 
using the crushing clamp method. The British 
journal of surgery, 93(4), 422 - 426. 
16. Kyoden Y., Imamura H., Sano K et al 
(2010). Value of prophylactic abdominal drain-
age in 1269 consecutive cases of elective liver 
resection. Journal of hepato-biliary-pancreatic 
sciences, 17(2), 186 - 192. 
17. Rahbari N. N., Elbers H., Koch M et 
al (2012). Bilirubin level in the drainage fluid is 
an early and independent predictor of clinically 
relevant bile leakage after hepatic resection. 
Surgery, 152(5), 821 - 831. 
18. Yamazaki S., Takayama T., Morigu-
chi M et al (2012). Criteria for drain removal 
following liver resection. The British journal of 
surgery, 99(11), 1584 - 1590. 
19. Guillaud A., Pery C., Campillo B et al 
(2013). Incidence and predictive factors of 
clinically relevant bile leakage in the modern 
era of liver resections. HPB: the official journal 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 111 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
of the International Hepato Pancreato Biliary 
Association, 15(3), 224 - 229. 
20. Brooke-Smith M., Figueras J., Ullah 
S et al (2015). Prospective evaluation of the 
International Study Group for Liver Surgery 
definition of bile leak after a liver resection and 
the role of routine operative drainage: an inter-
national multicentre study. HPB: the official 
journal of the International Hepato Pancreato 
Biliary Association, 17(1), 46 - 51. 
Summary 
BILE LEAKAGE AFTER HEPATIC RESECTION 
The aim of this study was to identify the patient’s characteristics and perioperative risk factors 
for postoperative bile leakage (POBL) after hepatic resection. From 6/2016 to 8/2018 a total of 67 
consecutive patients were performed at our institute. POBL developed in 5 patients (7.4%). Sur-
gery indications were hepatocellular carcinoma (HCC - with 59.7%), intrahepatic cholangiocarci-
noma (ICC - with 9%), gallbladder cancer invasived the liver (4.5%), benign hepatic tumors 
(23.9%) and lateral intrahepatic stones (2.9%). Total bilirubin level in POBL group was higher than 
non-POBL group (p < 0.001). Four patients developed bile leakage after left hemihepatectomy 
due to ICC (3 patients), left huge hemagioma (1 patient), and one patient was performed central 
hepatectomy (including segment 4, 5, 8) with hepaticojejunal anastomosis. The mean hospital 
stay was 14.5 days. In classification, level B and level C bile leakage was 80% and 
20% respectively. Albumin level < 30 g/l (p = 0.043), major liver resection (p < 0.001) and resec-
tions including segment IV (p < 0.001) were independently associated with an increased risk of 
bile leak. Conclusions: Bile leakage is a complication with low rate of occurrence after liver resec-
tion. Low albumin level, major hepatic resection and hepatectomy including segment IV were in-
dependent risk factors for POBL. 
Key words: hepatectomy, postoperative bile leakage, liver resection complication