Đề tài Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội

Tài liệu Đề tài Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội: MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2001-2008 20 Bảng 2.2. Cơ cấu kinh tế Hà Nội giai đoạn 2001-2008 21 Bảng 2.3. Tình hình phân bố các chợ trên địa bàn Hà Nội 23 Bảng 2.4. Hàng hoá kinh doanh chủ yếu trong các siêu thị ở Hà Nội. 27 Bảng 2.5. Tốc độ tăng mức bán lẻ hàng hoá của các siêu thị trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2005-2008 28 Bảng 2.6. Cơ sở kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ cá thể tại Hà Nội 2001-2008 31 LỜI MỞ ĐẦU Thực phẩm là một trong những mặt hàng thiết yếu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống con người. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nhờ những cải cách hợp lý, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việt Nam từ một nước nghèo đói, phải nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ hai trên thế giới, nền kinh tế nhiều năm liền đạt mức tăng trưởng cao- trung bình trên 6,5%/năm, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Mức sống ngày càng nâng cao dẫn tới ...

doc52 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2001-2008 20 Bảng 2.2. Cơ cấu kinh tế Hà Nội giai đoạn 2001-2008 21 Bảng 2.3. Tình hình phân bố các chợ trên địa bàn Hà Nội 23 Bảng 2.4. Hàng hoá kinh doanh chủ yếu trong các siêu thị ở Hà Nội. 27 Bảng 2.5. Tốc độ tăng mức bán lẻ hàng hoá của các siêu thị trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2005-2008 28 Bảng 2.6. Cơ sở kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ cá thể tại Hà Nội 2001-2008 31 LỜI MỞ ĐẦU Thực phẩm là một trong những mặt hàng thiết yếu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống con người. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nhờ những cải cách hợp lý, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việt Nam từ một nước nghèo đói, phải nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ hai trên thế giới, nền kinh tế nhiều năm liền đạt mức tăng trưởng cao- trung bình trên 6,5%/năm, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Mức sống ngày càng nâng cao dẫn tới nhu cầu về thực phẩm không chỉ là số lượng mà còn có sự đòi hỏi cao về mặt chất lượng. Hiện nay nước ta đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và đặc biệt 1/1/2009 Việt Nam phải tiến hành mở cửa thị trường bán lẻ hàng hoá. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với hệ thống phân phối bán lẻ trong nước không những phát triển theo chiều rộng mà cần phát triển theo chiều sâu. Xuất phát từ lý do đó em đã mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội” Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nghiên cứu các thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hệ thống này. Hiện nay thủ đô Hà Nội đã được mở rộng, nhưng do điều kiện có hạn nên em xin giới hạn và tập trung chủ yếu vào khu vực Hà Nội cũ. Đối tượng nghiên cứu chính là các chợ tryền thống, các trung tâm thương mại, siêu thị, chuỗi cửa hàng hiện đại, các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. Trong quá trình nghiên cứu em sử dụng kết hợp cả hai phương pháp : Phương pháp nghiên cứu tại bàn và quan sát điều tra thực tế. Trong đó chủ yếu là phương pháp nghiên cứu tại bàn. Kết cấu của đề tài gồm có 3 chương : Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Chương 2: Thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội. Chương 3: Giải pháp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội. Đồng hành cùng người học trò luôn là sự chỉ bảo đầy tâm huyết của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo kính mến PGS.TS. Phan Tố Uyên đã tận tình chỉ bảo và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Trong suốt quá trình nghiên cứu mặc dù đã hết sức cố gắng nỗ lực nhưng do điều kiện về thời gian, điều kiện tài chính và trình độ còn hạn chế nên bài viết của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong các thầy cô thông cảm và tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thiện tốt hơn đề án này. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ MẶT HÀNG THỰC PHẨM 1.1. Hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm và sự cần thiết khách quan phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. 1.1.1. Mặt hàng thực phẩm, phân loại, đặc điểm và vai trò Trong mỗi bữa ăn hàng ngày chúng ta đều sử dụng thực phẩm. Vậy thực phẩm là gi? Chúng gồm những loại nào? Đặc điểm của chúng ra sao? Thực phẩm được hiểu là tất cả những vật phẩm có chứa các chất dinh dưỡng, chất xơ, các vitamin… mà con người có thể ăn uống được. Có nhiều cách phân loại thực phẩm khác nhau nhưng thông thường dựa vào hai cách phổ biến nhất: Nếu căn cứ vào nguồn gốc thực phẩm thì thực phẩm gồm thực phẩm bắt nguồn từ thực vật và thực phẩm bắt nguồn từ động vật. Thực phẩm bắt nguồn từ thực vật là các loại rau, cây, hoa quả và các loại đồ ăn chế biến từ thực vật như: rau muống, xu hào, cam, xoài, đồ hộp rau quả … Thực phẩm bắt nguồn từ động vật là các loại thịt và các sản phẩm chế biến từ động vật như: thịt lợn, thịt gà, thịt hộp, trứng, sữa… Nếu căn cứ vào mức độ chế biến của thực phẩm thì thực phẩm bao gồm thực phẩm nguyên xơ và thực phẩm đã chế biến. Thực phẩm nguyên xơ là các loại thực phẩm chưa trải qua quá trình chế biến như: thịt tươi sống, cá, rau xanh, trứng… Thực phẩm đã chế biến là các loại thực phẩm đã trải qua quá trình tác động, chế biến của con người như: Thịt hộp, cá hộp, cá đông lạnh, nước ép hoa quả, sữa hộp… Thịt thường chứa nhiều chất béo, rau muống chứa nhiều chất xơ, trứng thì có đặc điểm dễ vỡ,...Mỗi một loại thực phẩm cụ thể có những đặc điểm riêng khác nhau tuy nhiên chúng đều có một số đặc điểm chung sau đây: Thứ nhất tất cả các loại thực phẩm con người đều ăn được. Thực phẩm chính là thứ không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hàng ngày như: thịt, rau, hoa quả… Thứ hai là thực phẩm chứa các dinh dưỡng, các vitamin, các chất cần thiết giúp con người có thể tồn tại và phát triển. Cơ thể chúng ta cần thiết phải có đa dạng các loại vitamin, các chất dinh dưỡng, chất khoáng. Thịt là một loại thực phẩm chứa nhiều chất đạm và chất béo giúp cung cấp năng lượng cho cơ thể; hoa quả bổ sung những vitamin… Các loại thực phẩm đã đáp ứng được các nhu cầu của cơ thể. Đặc điểm thứ ba thể hiện tính khan hiếm của thực phẩm. Để tạo ra một lượng thực phẩm cụ thể nào đó thì con người phải mất một khoảng thời gian tương đối dài. VD: Để có được 10kg thịt lợn thì trước hết chúng ta phải mất ít nhất vài tháng từ khâu lấy giống, chăn nuôi đến giết mổ; để có được 1kg nhãn chúng ta phải mất ít nhất từ 6thang tới vài năm để tiến hành trồng cây và thu hoạch… Đặc điểm này đặt ra yêu cầu con người phải có kế hoạch trong việc sản xuất và tiêu dùng thực phẩm. Khác với các loại vật phẩm tiêu dùng khác, khoảng thời gian sử dụng của mặt hàng thực phẩm là tương đối ngắn, đặc biệt là các loại thực phẩm tự nhiên chưa qua chế biến. Chính vì vậy, vấn đề chế biến thực phẩm và bảo quản thực phẩm cũng hết sức quan trọng. Từ việc phân tích khái niệm, đặc điểm các loại thực phẩm kết hợp với các kiến thức thực tế cuộc sống cho thấy thực phẩm là một mặt hàng đặc biệt và có những vai trò hêt sức quan trọng : Vai trò quan trọng nhất của mặt hàng thực phẩm chính là việc cung cấp các chất dinh dưỡng, các vitamin, vi chất…cho con người giúp con người tồn tại và phát triển. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như trong bữa ăn của chúng ta không có thịt cá, không có rau, hoa quả…Liệu các vitamin hoá học có thể thay thế được các vitamin tự nhiên trong thực phẩm? Thực tế nghiên cứu hiện nay của các nhà khoa học cho thấy rằng con người sẽ không thể tồn tại và phát triển bình thường nếu như không có thực phẩm và các vitamin hoá học cũng không thể giúp chúng ta khắc phục được điều này. Cơ thể chúng ta không chỉ cần một số chất chủ yếu mà cần đa dạng các loại vitamin và vi chất. VD: Quả đu đủ chứa nhiều vitamin A giúp tăng cường thị lực, trong cơ thể cần có một lượng sắt nhất định nếu không sẽ dẫn tới tình trạng thiếu máu và thịt, cá đã giúp đáp ứng tốt nhu cầu này…Như vậy các loại thực phẩm khác nhau đã cung cấp đầy đủ và đa dạng các chất cần thiết giúp cơ thể phát triển khoẻ mạnh. Mặt hàng thực phẩm là sản phẩm của quá trình sản xuất nông nghiệp, việc phát triển mặt hàng thực phẩm có vai trò thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp phát triển. Khi nền kinh tế càng phát triển thì yêu cầu về mặt hàng thực phẩm càng cao, điều này buộc các ngành sản xuất thực phẩm phải có sự cải tiến về kĩ thuật, công nghệ giúp nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm điều đó thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất thực phẩm. Thực phẩm với tư cách là nguyên liệu có vai trò thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến. Do thời hạn sử dụng của mặt hàng thực phẩm tương đối ngắn và nhu cầu đa dạng về sản phẩm hàng hoá mà các doanh nghiệp đã đầu tư phát triển công nghệ chế biến thực phẩm để giúp bảo quản lâu hơn và đa dạng hoá mặt hàng. Thực tế các quốc gia phát triển trên thế giới cho thấy ngành công nghiệp chế biến thực sự phát triển và đóng góp một phần đáng kể trong cơ cấu GDP. Thực phẩm là mặt hàng đặc biệt trong quá trình lưu thông giữ vai trò quan trọng đối với sự ổn định của một quốc gia. Tình hình Việt Nam những năm đầu thập niêm 80 là một trong những ví dụ điển hình. Thực phẩm của chúng ta lúc đó hết sức thiếu thốn và chất lượng thấp dẫn tới tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Sau quá trình nghiên cứu, đánh giá, chính phủ đã có những cải cách kịp thời giúp nền kinh tế phát triển nói chung và mặt hàng lương thực thực phẩm nói riêng đã đáp ứng tốt nhu cẩu của nhân dân. Đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng,dần dần đi vào quĩ đạo phát triển. 1.1.2. Hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm thông thường bao gồm ba loại hình chủ yếu. 1.1.2.1. Chợ truyền thống. Khái niệm: Chợ là nơi có diện tích mặt bằng rộng lớn tập trung các thương nhân, khách hàng để tiến hành trao đổi hàng hoá. Phân loại. Có nhiều cách phân loại chợ khác nhau nhưng thông thường người ta căn cứ vào hai tiêu chí: Dựa vào chủng loại hàng hoá thì chợ bao gồm chợ chuyên doanh và chợ tổng hợp Chợ chuyên doanh là loại chợ chỉ kinh doanh một loại hàng hoá Vd: chợ trái cây, chợ vải, chợ hoa… Chợ tổng hợp là loại chợ kinh doanh đa dạng chủng loại hàng hoá. Vd: chợ Mơ, chợ Kim Liên… Dựa vào quy mô diện tích thì có các loại chợ: Chợ loại 1: là những chợ có diện tích lớn hơn 10000m2 Chợ loại 2: là những chợ có diện tích từ 5000m2-10000m2 Chợ loại 3: là những chợ có diện tích từ 3000m2-5000m2 Chợ loại 4: là những chợ có diện tích từ 1000m2-3000m2 Chợ loại 5: là những chợ có diện tích nhỏ hơn 1000m2 1.1.2.2. Trung tâm thương mại, siêu thị và chuỗi hệ thống các cửa hàng hiện đại. Trung tâm thương mại, siêu thị là một hình thức kinh doanh hiện đại được hiểu là nơi diễn ra hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá dựa trên cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại. Thông thường trung tâm thương mại có quy mô diện tích lớn hơn siêu thị và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ. Cũng giống như chợ truyền thống người ta cũng thường dựa vào hai tiêu chí để phân loại siêu thị: Nếu căn cứ vào loại hàng hoá thì siêu thị gồm có siêu thị tổng hợp và siêu thị chuyên doanh. + Siêu thị chuyên doanh là siêu thị chỉ kinh doanh một loại hàng hoá nhất định. Vd: siêu thị điện máy, siêu thị thực phẩm… + Siêu thị tổng hợp là siêu thị kinh doanh nhiều loại hàng hoá. Vd: Siêu thị Metro, Big C… Nếu căn cứ vào quy mô diện tích và tiêu chí về số lượng quy cách chủng loại hàng hoá thì siêu thị được phân thành 3 hạng: + Siêu thị hạng 1: có diện tích tối thiểu là 5000m2 và có tối thiểu 20.000 chủng loại hàng hoá. + Siêu thị hạng 2: có diện tích tối thiểu là 2000m2 và có tối thiểu 10.000 chủng loại hàng hoá + Siêu thị loại 3: có diện tích tối thiểu là 500m2 và có tối thiểu 4000 chủng loại hàng hoá. Trung tâm thương mại cũng được phân hạng dựa trên căn cứ trên. Và thông thường các trung tâm thương mại có diện tích lớn không những chỉ cung cấp hàng hoá mà còn phuc vụ nhiều dịch vụ khác như: ăn uống, vui chơi giải trí Vd: Trung tâm thương mại Vincom, Tràng Tiền plaza… Các chuỗi hệ thống cửa hàng hiện đại được hiểu là một hệ thống các cửa hàng của các doanh nghiệp,các ông chủ tư nhân… được đầu tư trang thiết bị hiện đại để tiến hành kinh doanh hàng hoá dịch vụ. Vd: chuỗi cửa hàng tiện ích của Hapro, Fivimart… Các chuỗi cửa hàng này thường có quy mô diện tích nhỏ hơn và số lượng quy cách chủng loại hàng hoá ít hơn siêu thị 1.1.2.3. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong là hệ thống phân phối bán lẻ với quy mô nhỏ và số lượng hàng hoá ít, hoạt động một cách đơn lẻ và thiếu tính liên kết. Đây là loại hình phân phối bán lẻ có sự tồn tại và phát triển từ rất lâu đời. Mặc dù quy mô nhỏ và hoạt động đơn lẻ nhưng hình thức kinh doanh này vẫn tồn tại và phát triển do tính tiện ích mà nó đem lại. 1.1.2.4. Đặc điểm chung của hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm Do mặt hàng thực phẩm có những tính chất, đặc điểm riêng nên hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm ngoài các đặc điểm của hệ thống phân phối bán lẻ nói chung, chúng còn có một số đặc điểm sau: Thứ nhất hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm thường phải đáp ứng được yêu cầu bảo quản thực phẩm. Khi chúng ta vào một siêu thị bán hàng thực phẩm đặc biệt là thực phẩm tươi sống hoặc đông lạnh thì các siêu thị này luôn có hệ thống máy lạnh, hệ thống sục khí trong bể nước để đảm bảo đuợc chất lượng thực phẩm. Đặc điểm thứ hai là mức lưu độ chuyển hàng hoá thực phẩm là nhanh, thời gian ngưng đọng hàng là tương đối ngắn. Do hàng thực phẩm có thời gian sử dụng tốt nhất ngắn nên các chủ cửa hàng luôn cố gắng đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá. Một ví dụ cụ thể là cửa hàng bánh Như Lan thường bán bánh vào buổi chiều tối với giá thấp hơn vào buổi sáng để bán hết lượng bánh còn tồn. Đặc điểm thứ ba xuất phát từ tâm lý người tiêu dùng. Rõ dàng là khi chúng ta đi mua đồ ăn, mặc dù đồ ăn được bảo quản tốt nhưng đứng trước cửa hàng là một đống rác, hoặc ruồi muỗi đậu đầy cánh cửa thì chúng ta cũng không muốn mua. Như vậy các cửa hàng phân phối bán lẻ thực phẩm không chỉ chú ý đến không gian bên trong cửa hàng mà môi trường quanh cửa hàng cũng rất sạch sẽ. 1.1.3. Sự cần thiết khách quan của việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm ở nước ta. Trước hết, thực phẩm là một mặt hàng thiết yếu cung cấp các chất dinh dưỡng, vitamin… cho cơ thể. Con người không thể tồn tại và phát triển bình thường nếu như thiếu thực phẩm, chính vì vậy nhu cầu về thưc phẩm trở nên hết sức bức thiết. Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chính vì vậy, các đô thị, các trung tâm công nghiệp được hình thành. Việc sản xuất thực phẩm không thể tiến hành ở đây mà thường tiến hành ở các vùng quê, vùng ngoại thành do đó khoảng cách từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ là xa tương đối. Điều đó đặt ra yêu cầu phải có một hệ thống phân phối cung cấp thực phẩm tới tận tay người tiêu dùng. Lý do thứ ba, do điều kiện tự nhiên và sự chuyên môn hoá sản xuất nên thông thường ở mỗi khu vực nhất định thường chỉ sản xuất ra một số loại thực phẩm nhất định. Một người sống ở khu vực biển miền Trung chỉ sản xuất được cá. Anh ta không thể ăn cá mãi được mà luôn có nhu cầu đa dạng hoá thực phẩm và hệ thống các chợ các cửa hàng thực phẩm đã đáp ứng được nhu cầu đó. Lý do thứ tư, hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm giúp thúc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá. Do đặc điểm riêng của mặt hàng thực phẩm, việc ngưng đọng hay tồn kho hàng hoá là hết sức nguy hại. Một lượng hải sản sau khi đánh bắt sẽ rất có giá trị, sau một thời gian nếu không được bảo quản tốt thì không những mất giá trị mà số hải sản đó còn mang tính nguy hại. Do đó hệ thống phân phối bán lẻ sẽ giúp nhanh chóng tiêu thụ lượng hàng bị ứ đọng. Lý do thứ năm, chúng ta hãy đặt ra câu hỏi: Nếu như chỉ có bán buôn mà không có bán lẻ thì sẽ ra sao? Một người muốn ăn thịt bò thì phải mua cả một con bò. Anh ta sẽ làm gì với con bò đó? Hệ thống phân phối bán lẻ giúp khách hàng mua đúng được chủng loại hàng hoá, số lượng, chất lượng hàng hóa mình cần. Việt Nam nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung, việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đóng góp một lượng đáng kể trong tổng GDP. Không chỉ có vậy, hệ thống này giúp tạo ra một lượng lớn công ăn việc làm giúp giải quyết tình trạng thất nghiệp góp phần ổn định dân sinh. Đây cũng chính là một lý do quan trọng cho việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Từ việc phân tích các lý do trên giúp chúng ta đi đến kết luận: Việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm ở nước ta là một tất yếu khách quan. 1.2. Nội dung phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm bao gồm hai nội dung quan trọng là: Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu. Phát triển theo chiều rộng là sự gia tăng về quy mô và số lượng. Phát triển theo chiều sâu là sự gia tăng về mặt chất lượng trên cơ sở quy mô và số lượng không đổi. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu hai nội dung này trong từng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm cụ thể. 1.2.1. Về các chợ truyền thống 1.2.1.1. Phát triển hệ thống chợ theo chiều rộng Trước hết chúng ta cần mở rộng quy mô các chợ hiện có. Chợ là nơi tập trung rất đông các chủ thương và khách mua hàng, các sản phẩm hàng hoá thường được bày bán ngay tại sạp. Thực tế hiện nay số lượng quy cách chủng loại hàng hàng hoá là rất lớn cho nên các chủ thương luôn mong muốn mở rộng diện tích gian hàng của mình để có thể bày bán được nhiều sản phẩm hàng hoá hơn. Không gian cửa hàng được mở rộng không chỉ giúp cho khách hàng tiện lợi hơn trong việc lựa chọn và sử dụng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ, mà còn tạo điều kiện cho các chủ thương phục vụ khách hàng tốt hơn, đặc biệt là các cửa hàng cung cấp dịch vụ ăn uống trong chợ. Khi tiến hành mở rộng quy mô chợ chúng ta có thể mở rộng diện tích mặt bằng hoặc đầu tư xây dựng thêm các tầng của chợ. Tuy nhiên việc quy hoạch và kinh phí xây dựng cũng là vấn đề lớn đặt ra. Chợ là mô hình kinh doanh truyền thống, hầu hết các chợ đều được quy hoach xây dựng từ rất lâu. Không gian xung quanh chợ gần như đã được lấp kín bởi nhà ở của các hộ dân cho nên việc mở rộng quy mô chợ là khá khó khăn. Bên cạnh việc mở rộng quy mô các chợ hiện có thì chúng ta có thể tăng số lượng bằng cách xây dựng mới thêm các chợ. Ở các trung tâm thành phố thì hệ thống chợ phân phối thực phẩm khá phát triển nhưng ở khu vực ngoại thành, các vùng quê thì hệ thống chợ chưa thực sự phát triển. Chúng ta có thể đầu tư xây dựng thêm các chợ tuy nhiên chợ đặt ở đâu, kinh phí xây dựng chợ huy động từ nguồn nào thì cần phải đuợc cân nhắc kĩ lưỡng. Bên cạnh đó cũng cần có những chính sách hợp lý đối với các chợ cóc, chợ tự phát gây mất trật tự, an toàn giao thông. Có nên dẹp bỏ hay di chuyển đến một địa điểm thuận lợi cũng là một trong những câu hỏi khó chờ những câu trả lời và hành động của các cơ quan chức năng. 1.2.1.2. Phát triển hệ thống chợ theo chiều sâu. Do việc mở rộng quy mô diện tích và tăng số lượng các chợ có thể gặp nhiều khó khăn đặt ra yêu cầu có định hướng phát triển chợ theo chiều sâu. Thực chất đây chính là việc nâng cao chất lượng của các chợ hiện có. Mỗi lần đi chợ mọi người luôn gặp khó khăn trong việc đi lại do các chủ thương lấn chiếm đường đi, không chỉ lối đi bên trong chợ mà còn gây ách tắc ở khu vực ngoài chợ ; mọi người luôn băn khoăn về chỗ gửi xe, khu vệ sinh,…Nội dung phát triển đầu tiên chính là quy hoạch lại không gian chợ. Quy hoạch lại các hàng quán, đường đi, khu để xe, khu vệ sinh…, cần có những nơi đổ giác để tránh tình trạng vứt rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường. Chúng ta cần tiến hành cải tạo và tận dụng thêm những khoảng không gian trước đây chưa sử dụng đến hoặc sử dụng chưa hiệu quả để tiết kiệm diện tích. Thực hiện tốt nội dung này sẽ thay đổi được bộ mặt các chợ hiện nay, biến sự rối den ách tắc, mất vệ sinh trước đây thành nơi gọn gàng, sạch sẽ. Nội dung phát triển thứ hai thể hiện ở việc nâng cao chất lượng hàng hoá dich vụ trong chợ. Chất lượng hàng hoá trong chợ, đặc biệt là mặt hàng thực phẩm liệu có đảm bảo? Khi đoàn kiểm tra của bộ y tế tiến hành kiểm tra đột xuất mặt hàng thực phẩm tại các chợ như: chợ Mơ, chợ Kim Liên thì có rất nhiều hàng thịt không có dấu kiểm dịch, nhiều bánh phở có chưá hàn the… Khách hàng lo lắng về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm là có cơ sở và điều này sẽ ảnh hưởng tới việc phát triển hệ thống chợ. Việc nâng cao chất lượng hàng hoá sẽ tăng niềm tin nơi người tiêu dùng, giúp việc kinh doanh của các chủ thương tốt hơn từ đó tạo điều kiện phát triển hệ thống chợ Nội dung thứ ba là thành lập các ban quản lý chợ, các đội kiểm định chất lượng thực phẩm. Các đội, các ban này sẽ đôn đốc, kiểm tra việc kinh doanh của các chủ thương, buộc họ phải nghiêm chỉnh chấp hành những quy định đặt ra góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, phát triển hệ thống chợ. 1.2.2. Về các trung tâm thương mại, các siêu thị và các chuỗi cửa hàng hiện đại. 1.2.2.1. Phát triển theo chiều rộng Trong những năm gần đây mức sống nhân dân được nâng cao rõ rệt, các trung tâm, các đô thị được xây dựng mới làm phát sinh nhu cầu cần phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại. Vấn đề đầu tiên đặt ra là mở rộng quy mô các siêu thị, các trung tâm thương mại. Siêu thị, trung tâm thương mại giống như tên gọi của nó đây là hình thức kinh doanh hiện đại với đa dạng chủng loại hàng hoá hoặc kinh doanh chuyên sâu một mặt hàng. Để có thể tiến hành kinh doanh hiệu quả thì hệ thống phân phối bán lẻ này đòi hỏi phải có quy mô, diện tích mặt bằng tương đối rộng lớn. Nhưng thực tế các siêu thị Việt Nam có diện tích khá nhỏ. Đa số là các siêu thị loại 2 và loại 3 với quy mô diện tích 500m2 - 2.000m2. khiến cho việc kinh doanh hết sức hạn chế, thiếu gian bày hàng, thiếu kho dự trữ hàng, thiếu chỗ để xe… Và đây cũng chính là tình trạng chung của hệ thống các chuỗi cửa hàng hiện đại. Các chuỗi cửa hàng này đa số có diện tích dưới 500m2 và không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của một hệ thống kinh doanh hiện đại. Chính vì vậy nhà nước cũng như các doanh nghiệp cần có chiến lược mở rộng quy mô diện tích của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại này. Nội dung thứ hai là việc tăng số lượng các trung tâm thương mại, các siêu thị và chuỗi cửa hàng hiện đại. Hiện nay thủ đô Hà Nội đã được mở rộng, khu vực ngoại thành trước kia nay cũng có sự phát triển hết sức nhanh chóng tuy nhiên số lượng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm hiện đại số lượng còn hạn chế. Quận Tây Hồ có sự bứt phá về kinh tế khá nhanh nhưng vào thời điểm năm 2007 thì ở đây không có một trung tâm thương mại nào mà chỉ có vài siêu thị và cửa hàng hiện đại. Điều đó đặt ra yêu cầu xây dựng mới, tăng số lượng hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm hiện đại nhằm thoả mãn nhu cầu nhân dân và góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. 1.2.2.2. Phát triển theo chiều sâu. Không chỉ mở rộng quy mô, gia tăng số lượng mà nội dung phát triển theo chiều sâu cũng hết sức quan trọng. Thứ nhất là quy hoạch phát triển, đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại. Những năm gần đây, số lượng phương tiện giao thông ngày càng gia tăng, lượng xe ôtô tăng nhanh đặt ra yêu cầu phải tạo một khoảng không gian để xe. Chúng ta có thể thiết kế bãi đỗ xe ở ngoài siêu thị hoặc thiết kế để xe dưới tầng hầm hoặc kết hợp cả hai cách tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Bên cạnh đó cần đầu tư hiện đại hoá các gian hàng, các trang thiết bị tạo sự thuận lợi cho khách hàng vd: thang máy, máy thanh toán tiền,… Thứ hai là nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá. Hầu hết khách hàng tới các trung tâm mua sắm có mức thu nhập trung bình khá trở lên. Họ đến đây với mong muốn có dược sự tiện ích và chất lượng hàng hoá tốt hơn bên ngoài. Chính vì vậy nâng cao chất lượng hàng hoá kết hợp với chính sách giá hợp lý sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh phát triển. Trong các hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại thì nhân viên bán hàng hết sức quan trọng.Cần đào tạo cho các nhân viên trong hệ thống không chỉ kiến thức về sản phẩm hàng hoá mà còn nâng cao khả năng giao tiếp. Khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng vì được phục vụ bởi đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, lịch sự và sẽ tiến tới mua hàng nhiều hơn từ đó thúc đẩy hệ thống phát triển. 1.2.3. Về các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong là hệ thống phân phối bán lẻ có nhiều đặc điểm giống với chợ truyền thống. Nội dung phát triển hệ thống này cũng có nhiều điểm tương đối giống với các nội dung phát triển chợ nhưng vẫn có những nét riêng biệt do tính chất nhỏ lẻ và phân tán. 1.2.3.1. Phát triển theo chiều rộng. Trong nền kinh tế thị trường thu nhập người dân tăng lên nhưng thời gian đối với mọi người cũng trở nên quan trọng hơn. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong đã hình thành từ rất lâu nhưng ngày nay vẫn tồn tại và phát triển do tính tiện lợi mà chúng mang lại. Chủ của hệ thống phân phối bán lẻ này thường có số vốn kinh doanh rất hạn chế nên việc mở rộng quy mô cửa hàng là rất khó khăn. Phát triển theo chiều rộng của hệ thống này chủ yếu là việc các chủ thể kinh doanh đầu tư thêm mới các cửa hàng. Như vậy số lượng các cửa hàng và quán bán rong sẽ tăng lên và tăng khả năng đáp úng nhu cầu của nhân dân. Hiện nay do một số quán bán rong lấn chiếm lòng lề đường gây mất trật an toàn giao thông, chính phủ đã có chính sách hạn chế quán bán rong trong một số khu phố cho nên số lượng các quán bán rong có giảm, nhưng số lượng các cửa hàng cố định vẫn gia tăng. 1.2.3.2. Phát triển theo chiều sâu. Thứ nhất là cần đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kĩ thuật cho hệ thống phân phối bán lẻ này. Tuỳ từng điều kiện cụ thể của các chủ thương, của từng loại hình phân phối (cửa hàng cố định hay di động) mà có sự đầu tư khác nhau. Vd: Các cửa hàng bán thực phẩm đông lạnh sẽ đầu tư hệ thống máy lạnh để bảo quản thực phẩm ; quán bán rong đồ ăn nóng sẽ đầu tư dụng cụ giữ nhiệt… Thứ hai là nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực tế cho thấy mặc dù giá của hàng hoá rẻ một cách tương đối nhưng chất lượng sản phẩm không cao. Vì vậy nếu nâng cao được chất lượng sản phẩm và với mức giá hợp lý các chủ thương sẽ vẫn phát triển được hoạt động kinh doanh. Cuối cùng là cung cách cư xử của người bán hàng. Hầu hết những người bán hàng đều rất niềm nở khi khách tới nhưng tỏ thái độ khó chịu khi khách không mua hàng. Chúng ta cần nâng cao nhận thức của họ và từng bước nâng cao văn hoá úng xử trong quá trình mua bán. Có như vậy không những phát triển hệ thống phân phối bán lẻ này mà còn tạo nên môi trường kinh doanh văn minh, lịch sự. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm nhưng chủ yếu nhất bao gồm năm nhóm: + Môi trường chính trị pháp luật + Môi trường kinh tế vĩ mô + Yếu tố văn hoá xã hội + Vấn đề nội tại của từng hệ thống phân phối bán lẻ + Thị trường và các đối thủ cạnh tranh 1.3.1. Môi trường chính trị pháp luật Mỗi nền kinh tế nói chung, mỗi ngành nghề sản xuất kinh doanh nói riêng đều chịu sự tác động của môi trường chính trị. Môi trường chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế. Ngược lại, môi trường chính trị bất ổn sẽ cản trở việc phát triển kinh tế. Vào những năm đầu thập niên 70, nhờ sự ổn định chính trị và những chính sách hợp lý, I Rắc với nguồn tài nguyên dầu mỏ trữ lượng lớn đã có bước phát triển kinh tế mạnh mẽ. I Rắc đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia phát triển của khu vực Trung Đông. Những năm gần đây, sau khi Mỹ tiến hành chiến tranh với I Rắc, tình hình chính trị trong nước hết sức bất ổn. Các cơ sở vật chất kĩ thuật bị bàn phá, các Đảng, phe phái chính trị đối đầu, đất nước thường xuyên bạo loạn khiến cho việc khôi phục và phát triển kinh tế hết sức khó khăn. Chính trị bất ổn, luật pháp thường xuyên thay đổi khiến cho mức độ rủi do tăng cao, các nhà đầu tư không dám bỏ vốn ra. Các hệ thống phân phối lương thực, thực phẩm ở đây rất kém phát triển, khiến cho đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Theo số liệu điều tra của một tổ chức phi chính phủ thì có tới trên 60% dân số I Rắc là thiếu lương thực, thực phẩm. Sự ổn định về chính trị khiến cho tình hình đất nước ít bị xáo trộn. Các chính sách được ban hành sẽ ổn định hơn, ít bị thay đổi. Thị trường sẽ ít rủi do hơn, các nhà đầu tư sẽ yên tâm đầu tư và hệ thống phân phối sẽ phát triển. Việt Nam là một trong những ví dụ điển hình. Nhờ sự ổn định về chính trị, luật pháp và những chính sách hợp lý, Việt Nam đã huy động được hàng chục tỉ đôla đầu tư nước ngoài trong đó có cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Các nhà đầu tư trong nước cũng yên tâm đầu tư vốn xây dựng các nhà máy xí nghiệp, các trung tâm thương mại… Sau hơn hai mươi năm đổi mới kinh tế nước ta đã có bước phát triển vượt bậc trong đó hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm hết sức phát triển đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân. 1.3.2. Môi trường kinh tế vĩ mô. Thương mại thực phẩm là một ngành nghề lĩnh vực kinh doanh trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế của một quốc gia phát triển sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ tăng thu nhập của người dân dẫn đến các nhu cầu mới phát sinh, đồng thời cầu có khả năng thanh toán cũng tăng lên. Trong các nhu cầu đó có nhu cầu về mặt hàng thực phẩm, nhu cầu được hưởng thụ những mặt hàng chất lưọng cao và dịch vụ tiện ích. Trong nền kinh tế thị trường, có cầu ắt có cung. Các nhà đầu tư, các doanh nghiệp sẽ đầu tư phát triển hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm đáp ứng nhu cầu khách hàng và thu lợi nhuận. Các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Chính sách về thuế, về lãi suất … giúp cho doanh nghiệp có thể huy động tối đa được nguồn vốn cần thiết để phát triển hệ thống. Nền kinh tế bao gồm rất nhiều ngành nghề, các ngành nghề lĩnh vực kinh doanh luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Muốn xây dựng được các trung tâm thương mại hiện đại thì ngành xây dựng phải phát triển đáp ứng được các yêu cầu về cơ sở hạ tầng, kĩ thuật hiện đại. Hệ thống phân phối bán lẻ muốn phát triển thì cần có các sản phẩm chất lượng, điều đó được giải quyết bởi việc sản xuất trong nước và nhập khẩu. Do đó ngành sản xuất nông nghiệp và kinh doanh xuất nhập khẩu cũng có vị trí hết sức quan trọng… Như vậy môi trường kinh tế vĩ mô có tác động ảnh hưởng lớn tới việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Nhà nước cần có những chính sách hợp lý để đảm bảo nền kinh tế vĩ mô phát triển nhanh và ổn định từ đó thúc đẩy hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm phát triển. 1.3.3. Yếu tố văn hoá xã hội. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở bất kì đâu doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm tới yếu tố văn hoá xã hội của khu vực đó. Văn hoá, phong tục truyền thống, trình độ dân trí, lứa tuổi, thị hiếu, tâm lý, tâm linh… sẽ quyết định tới hành vi của người tiêu dùng. Ở Indonêxia trên 90% dân số theo đạo Hồi. Những người theo đạo Hồi có đặc điểm là không ăn thịt lợn vì thế thịt lợn và các loại thực phẩm chế biến từ thịt lợn gần như không thể bán được tại đây. Do đó hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm tại Indonexia thì nên có các loại thực phẩm thay thế thịt lợn. Yếu tố tâm lý, tâm linh không chỉ thể hiện ở mặt hàng mà còn thể hiện ở màu sắc. Tại Thái Lan nếu như các cửa hàng thực phẩm có màu vàng hoặc bao bì sản phẩm có màu vàng thì rất khó tiêu thụ. Tại sao lại như vậy ? Lý do là ở Thái Lan đa số dân chúng theo đạo Phật, mà màu vàng là màu linh thiêng của đạo Phật. Theo người dân Thai Lan nếu như tuỳ tiện sử dụng màu vàng là thể hiện sự bất kính và họ sẽ tẩy chay doanh nghiệp của bạn. Mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi khu vực có những đặc điểm văn hoá xã hội khác nhau. Vậy để có thể phát triển hoạt động phân phối bán lẻ thực phẩm các doanh nghiệp cần nghiên cứu kĩ nền văn hoá ở các nơi đó để có các chiến lược, các hành động hợp lý giúp hoạt động kinh doanh trở nên thuận lợi và tiến tới thành công. 1.3.4. Vấn đề nội tại của từng hệ thống. Muốn phát triển hệ thống trước hết phải xem trong hệ thống của mình đang tồn tại những vấn đề gi ? Những điểm mạnh điểm yếu ra sao ? Ví dụ cụ thể đưa ra ở đây là hệ thống các siêu thị phân phối bán lẻ thực phẩm của Việt Nam. Các siêu thị này có điểm mạnh là am hiểu thị trường trong nước. Các doanh nghiệp nắm bắt được dân số, thu nhập, thị hiếu, tâm lý, văn hóa… của người tiêu dùng từ đó có các chiến lược về giá, chiến lược sản phẩm phù hợp. Bên cạnh đó chúng ta chủ động được nguồn hàng thực phẩm trong nước tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kinh doanh. Tuy nhiên nội tại các siêu thị này còn nhiều hạn chế. Tiềm lực về vốn các doanh nghiệp trong nước còn yếu, quy mô các siêu thị còn nhỏ, trang thiết bị chưa thục sự hiện đại, hàng hoá chất lượng chưa cao… Không chỉ hạn chế về điều kiện vật chất, chúng ta còn thua kém các doanh nghiệp nước ngoài ở trình độ, năng lực và kinh nghiệm quản lý, chất lượng độ ngũ nhân viên. Doanh nghiệp muốn phát triển được theo chiều rộng hay chiều sâu đều đòi hỏi yêu cầu về vốn, về nhân lực. Các vấn đề còn tồn tại trong doanh nghiệp sẽ tác động ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển hệ thống. Sau khi nghiên cứu kĩ các vấn đề này sẽ giúp doanh nghiệp có phương hướng, hành động phát huy các điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu để phát triển doanh nghiệp. 1.3.5. Thị trường và các đối thủ cạnh tranh. Khi nói tới thị trường và đối thủ cạnh tranh chúng ta chủ yếu đề cập tới các doanh nghiệp, các chủ thương bởi vì bản chất chợ được hình thành từ nhiều cửa hàng nhỏ và trong nội bộ chợ cũng có sự cạnh tranh lẫn nhau. Thị trường là nơi diễn ra hoạt động trao đổi hàng hoá, và mỗi doanh nghiệp có một thị trường mục tiêu riêng. Đặc điểm thị trường sẽ ảnh hưởng tới các quyết định của doanh nghiệp. Thị trường có quy mô rộng lớn trong đó các khách hàng có thu nhập trung bình thì hệ thống phân phối sẽ cung cấp các sản phẩm chất lượng trung bình và có mức giá bình dân. Ngược lại số lượng khách hàng có thu nhập cao chiếm tỉ lệ lớn sẽ gợi cho các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm hàng hoá chất lượng cao và giá cả giúp thể hiện một phần cái “tôi” của khách hàng. Bên cạnh thị trường thị các đối thủ cạnh tranh cũng có tác động lớn tới việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ. Các doanh nghiệp sẽ phải tính toán làm sao cho các hệ thống phát triển có hiệu quả để có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác trên thị trường. 1-1-2009 là thời hạn Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ theo cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới như: Wall-mart, Lotte, Parkson…. Các tập đoàn này có tiềm lực về vốn, có kinh nghiệm và trình độ quản lý cao. Chắc chắn cạnh tranh trên thị trường phân phối bán lẻ nói chung và phân phối bán lẻ thực phẩm nói riêng sẽ trở nên hết sức khốc liệt. Các doanh nghiệp cần có những chiến lựơc, hành động đúng đắn, kết hợp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ theo cả chiều rộng và chiều sâu để có thể tồn tại và phát triển. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ MẶT HÀNG THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 2.1. Khái quát chung về tình hình kinh tế - thương mại Hà Nội những năm qua. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá phát triển kinh tế, thủ đô Hà Nội luôn là đầu tàu kinh tế của khu vực phía Bắc. Tốc độ tăng trưởng bình quân các năm đều rất cao trung bình khoảng 11,35% ( giai đoạn 2001-2008), mức sông nhân dân được nâng cao. Các nhà cao tầng, trung tâm thương mại, các khu đô thị mới được xây dựng đã làm thay đổi diện mạo thủ đô. Các công viên, khu vui chơi giải trí, nhà hàng hình thành nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Bảng 2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2001-2008 Đơn vị % 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Bình quân 2001-2008 Tốc độ tăng trưởng chung 10,03 12,04 11,43 11,58 11,6 11,53 12,0 10,62 11,35 Tăng trưởng công nghiệp 9,23 13,44 17,19 13,85 12,94 13,0 13,50 12,57 12,23 Tăng trưởng nông nghiệp 1,16 7,39 2,02 -1,74 1,54 1,10 1,90 1,73 1,88 Tăng trưởng dịch vụ 11,07 11,50 8,53 10,82 10,43 11,00 12,0 10,87 10,77 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội Cùng với sự tăng trưởng cao, nền kinh tế thủ đô đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Đồng thời cơ cấu nội bộ các ngành cũng chuyển dịch hết sức tích cực. Các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ phát triển mạnh. Các ngành dịch vụ rất phát triển trong đó các dịch vụ tiện ích, dịch vụ chất lượng cao có đóng góp rất lớn. Sản xuất nông nghiệp giảm để tăng diện tích đất xây dựng các nhà máy và khu đô thị. Bảng 2.2. Cơ cấu kinh tế Hà Nội giai đoạn 2001-2008 Đơn vị % 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Công nghiệp 36,8 37,8 40,5 40,6 40,8 40,8 41,2 40,9 Nông nghiệp 2,7 2,5 2,3 1,9 1,6 1,5 1,3 1,5 Dịch vụ 60,5 59,7 57,2 57,5 57,6 57,7 57,5 57,6 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội Hoạt động kinh tế thương mại tại Hà Nội diễn ra hết sức sôi động. Các doanh nghiệp thương mạị tăng lên nhanh chóng, năm 2001 có khoảng 3000 doanh nghiệp thì đã tăng lên hơn 9000 doanh nghiệp vào năm 2007 giải quyết công ăn việc làm cho hơn 165.000 lao động thủ đô và lao động các tỉnh. Cùng với đó, hoạt động bán lẻ hàng hoá cũng có bước phát triển nhanh chóng. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của Hà Nội đã tăng từ 4.203 tỷ đồng (năm 2001) lên 68.554 tỷ đồng(năm 2007) trong đó mặt hàng thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn ( khoảng trên 40%). Giai đoạn 2001-2007 nền kinh tế đang phát triển mạnh thì giai đoạn 2008 đến quý đầu năm 2009 tình hình kinh tế có những diễn biến xấu. Trong năm 2008 tình hình giá cả hết sức biến động, lạm phát tăng cao. Theo tính toán thì lạm phát đã lên tới trên 25%/năm, nền kinh tế bị tác động lớn do giá xăng dầu, giá nguyên liệu tăng cao. Cuối năm 2008, Hà Tây và một số địa phương lân cận được sát nhập vào Hà Nội. Thủ đô đã được mở rộng địa giới hành chính tạo ra các điều kiện để phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong giai đoạn cuối 2008 đầu 2009 kinh tế thế giới lâm vào đại suy thoái đã tác động xấu đến kinh tế nước ta. Xuất khẩu giảm mạnh, hàng hoá sản xuất ra không bán được. Các nhà máy bị phá sản làm cho thất nghiệp gia tăng, đời sống một bộ phận lớn người dân gặp nhiều khó khăn. Cũng trong xu thế đó thì ngành kinh doanh bán lẻ cũng bị ảnh hưởng lớn, tốc độ tăng trưởng giảm mạnh. Thực phẩm là một mặt hàng thiết yếu nên dù kinh tế suy thoái thì mọi người cũng vẫn phải tiêu dùng. Tuy nhiên sức tiêu thụ đã giảm mạnh, nhân dân thắt chặt chi tiêu để tiết kiệm vì lo lắng cho một tương lai không mấy sáng sủa. Trước tình hình đó chính phủ đã có nhiều biện pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong đó có gói kích cầu trị giá 1tỉ dola. Nền kinh tế cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng đang từng bước khắc phục khó khăn, cố gắng nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng. 2.2. Thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội. 2.2.1. Chợ truyền thống. Chợ là một hình thức phân phối bán lẻ có lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển từ rất lâu. Có các chợ kinh doanh tổng hợp, có các chợ chuyên doanh một loại hàng hoá trong đó mặt hàng thực phẩm là một trong những mặt hàng kinh doanh hết sức phổ biến. Hoà chung nhịp phát triển kinh tế đất nước thì hệ thống chợ Hà Nội cũng đã đạt được các kết quả rất đáng ghi nhận: + Hệ thống chợ đã phát triển mạng lưới rộng khắp các khu vực trên địa bàn Hà Nội cung cấp hàng hoá phục vụ nhu cầu của nhân dân. Trên địa bàn Hà Nội khi chưa mở rộng có khoảng 135 chợ trong đó trên 90% các chợ có phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Hàng hoá trong chợ hết sức dồi dào, phong phú đáp ứng đầy đủ và đa dạng nhu cầu nhân dân thủ đô. Các chợ phân bố không đồng đều, phần lớn các quận nội thành ít chợ hơn khu vực ngoại thành. Nguyên nhân là do các quận nội thành diện tích chật hẹp, quỹ đất để mở rộng hệ thống chợ không còn, phần lớn các chợ đều được xây dựng từ lâu và không xây thêm chợ mới. Bảng 2.3. Tình hình phân bố các chợ trên địa bàn Hà Nội Quận, huyện Số Chợ Hoàn Kiếm 6 Hai Bà Trưng 9 Đống Đa 12 Ba Đình 7 Tây Hồ 7 Cầu Giấy 9 Thanh Xuân 4 Hoàng Mai 8 Long Biên 7 Gia Lâm 14 Đông Anh 21 Sóc Sơn 13 Thanh Trì 5 Từ Liêm 13 Tổng 135 Nguồn: Sở thương mại Hà Nội + Hệ thống chợ góp phần vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chợ giúp lưu thông hàng hóa, là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Thực phẩm sản xuất ra muốn tiêu thụ đựợc thì phải thông qua các hệ thống phân phối mà chợ là một trong những hình thức điển hình. Bên cạnh đó chợ Hà Nội đã tạo nguồn thu nhập, tạo công ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động góp phần giải quyết vấn đề an sinh xã hội. + Chợ là hình thức kinh doanh bán lẻ truyền thống không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn mang những giá trị văn hoá, lịch sử. Một số chợ ở Hà Nội chính là các di tích lịch sử, các di tích văn hóa như chợ Đồng Xuân, Chợ Mơ, chợ 19-12,… Giá trị văn hoá, lịch sử của chợ đã góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Không một du khách quốc tế nào đến Hà Nội mà không tới các chợ. Họ tới chợ không chỉ để mua hàng hoá mà còn để tìm hiểu các nét đẹp văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy văn hoá chợ đã góp phần giới thiệu quảng bá các nét văn hoá truyền thống của đất nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hệ thống chợ trên địa bàn Hà Nội còn tồn tại một số hạn chế: + Thực trạng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng của các chợ hiện này còn rất yếu kém. Hầu hết các chợ có quy mô nhỏ hẹp, theo số liệu của sở thương mại Hà Nội năm 2007 thì có tới 74% các chợ có diện tích dưới 5000m2. Đường giao thông đi đi vào các chợ cũng như đường đi trong chợ thường xuyên bị ách tắc. Khách hàng khi đi chợ cũng gặp rất nhiều khó khăn về nơi để xe, có nơi khách phải để xe trên vỉa hè hoặc dưới lòng lề đường khiến cho tình trạng tắc nghẽn giao thông càng xảy trầm trọng hơn. Các điều kiện đảm bảo an toàn cháy nổ còn rất thiếu dẫn tới tình trạng nguy hiểm khi có tai nạn xảy ra. Vụ cháy chợ Đồng Xuân vài năm trước là một minh chứng cụ thể. Do các trang thiết bị cứu hoả không được trang bị đầy đủ, một số có dụng cụ nhưng không sử dụng được kết quả là lửa bắt nguồn từ một gian hàng và lan ra toàn thể khu chợ. Thiệt hại lúc đó ước tính hàng chục tỉ đồng, đời sống các chủ thương trong chợ gặp rất nhiều khó khăn. Không chỉ hoả hoạn mà nước cũng chính là một thực trạng đáng báo động. trong các chợ hiện nay thì hệ thống thoát nước cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Sau mỗi một trận mưa thì tình trạng nước ứ đọng, ngập lụt thường xuyên xảy ra. Các chất thải, thực phẩm hỏng, đồ ăn thừa… trôi nổi, phân huỷ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong trận mưa lụt lich sử năm 2008 vừa qua thì hầu hết các chợ đều bị ngập lụt, rác thải lênh láng. Môi trường chợ và môi trường sống của các hộ dân xung quanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng. + Chất lượng thực phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là một thực trạng đang tồn tại trong các chợ hiện nay. Hệ thống các lò giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn Hà Nội với điều kiện vệ sinh kém đã không được đảm bảo đựoc yêu cầu vệ sinh đối với mặt hàng thực phẩm. Tình trạng thực phẩm tươi sống, các loại rau củ… từ các nơi đưa về mà không qua kiểm soát, không có dấu xác nhận của cơ quan kiểm dịch vẫn được bày bán công khai chính là nguồn gốc lây lan bệnh dịch và ngộ độc thực phẩm. Không chỉ mặt hàng thực phẩm chưa qua chế biến mà các thực phẩm chín chất lượng cũng rất kém thậm chí gây nguy hiểm cho người tiêu dùng. Khi bộ y tế đưa các đoàn kiểm tra về chất lượng thực phẩm thì đã phát hiện trong các loại thực phẩm đã qua chế biến có chứa các chất phụ gia độc hại như : Phoóc môn, hàn the… Theo nghiên cứu khoa học thì khi con người ăn phải các chất này sẽ có khả năng mắc bệnh ung thư, các bệnh về gan, tim mạch… Do chưa quy hoạch đựơc chỗ đổ rác và ý thức của một bộ phận người dân còn kém nên rác và các chất thải từ thực phẩm được đổ, vứt lung tung, bừa bãi gây ô nhiễm môi trưòng. Trong điều kiện như vậy thì dù các loại thực phẩm có được chế biến đảm bảo nhưng vẫn nhiễm các vi khuẩn gây hại cho cơ thể. + Thực trạng kinh doanh của các chợ vẫn còn chưa tốt. Việc tiến hành mua bán hàng hoá của các chủ thương mang tính tự phát. Các chợ cóc, chợ tạm hình thành nên mặc dù mang lại một số tiện ích cho người dân nhưng gây ùn tắc giao thông nghiêm trọng. Các chủ thương thường xuyên lấn chiếm lòng lề đường gây mất trật tự an toàn giao thông. Do thực trạng kinh doanh tự phát nên cũng không thể quy hoạch được nơi vệ sinh, đổ rác gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Không chỉ có vậy khi tiến hành kinh doanh trong chợ, các chủ thương không có một mức giá hoặc một khung giá cố định gây khó khăn cho khách hàng. Khi có một sự kiện gì đó họ đã lấy cớ đẩy giá lên cao. Cụ thể là trong trận mưa lụt năm 2008, cả thành phố Hà Nội ngập trong nước, diện tích hoa màu, các hộ nuôi trồng thực phẩm từ tôm cá, gia cầm, rau quả … bị thiệt hại nặng nề, nguồn cung thực phẩm bị hạn chế. Trước thưc trạng đó các hộ kinh doanh đã tăng giá lên cao quá mức gây nên khó khăn cho đời sống nhân dân. + Công tác tổ chức, quản lý hệ thống chợ cũng chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn. Sự phân bố và mật độ chợ trên địa bàn đều do nhu cầu trao đổi mua bán mà hình thành nên. Rất nhiều các chợ đang hoạt động đều tự phát hình thành rồi mới được đưa vào quản lý. Hiện nay có 3 mô hình cơ bản quản lý các chợ đó là mô hình ban quản lý chợ, doanh nghiệp quản lý chợ và hợp tác xã. Mô hình doanh nghiệp quản lý chợ là mô hình mới mang tính năng động, linh hoạt. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vừa có chức năng quản lý lại vừa có chức năng kinh doanh sẽ gây sự lẫn lộn, thiết tính khách quan, minh bạch. Mô hình hợp tác xã ít phổ biến mà chủ yếu là các ban quản lý chợ. Các ban quản lý này thời gian qua vẫn chưa hoạt động tốt như mong muốn và để thất thoát trong việc thu thuế của nhà nước. Không chỉ có vậy công tác giữ gìn an ninh trật tự trong khu vực chợ cũng cần lưu tâm. Thực tế đã có những tranh chấp, ẩu đả nảy sinh gây rối loạn, ảnh hưởng tới việc kinh doanh của các chủ thương và đời sống nhân dân. 2.2.2. Trung tâm thương mại, siêu thị và các chuỗi cửa hàng hiện đại Các trung tâm thương mại, siêu thị, các chuỗi cửa hàng tiện ích … là hệ thống thống phân phối bán lẻ hiện đại đã xuất hiện tại Việt Nam và phát triển mạnh trong những năm gần đây. Hệ thống này ở Hà Nội phân phối bán lẻ nhiều loại hàng hóa trong đó mặt hàng thực phẩm chiếm tỉ trọng lớn. Trong quá trình hoạt động hệ thống này đã đạt được một số kết quả rất tốt. + Các trung tâm thương mại, siêu thị, các cửa hàng tiện ích… đã phát triển nhanh chóng, số lượng tăng nhanh, mạng lưới phân bố rộng khắp các quận nội thành. Theo số liệu của Hội siêu thị Hà Nội thì số lượng các siêu thị , cửa hàng tiện ích năm 2000 chỉ là 26 thì con số này đã tăng lên thành hơn 150 vào năm 2008. Các siêu thị này cung cấp hết sức đa dạng chủng loại hàng hoá đặc biệt đã đáp ứng được nhu cầu về thực phẩm và hàng tiêu dùng của nhân dân. Bảng 2.4. Hàng hoá kinh doanh chủ yếu trong các siêu thị ở Hà Nội. Đơn vị : Mặt hàng Nhóm hàng 2004 2005 2006 2007 2008 1. Thực phẩm 9695 10550 12886 13157 13336 TP đông lạnh 2326 2550 3221 3283 3315 Đồ hộp 2132 2360 2834 2897 2922 TP chế biến 2035 2290 2845 2901 2953 Đồ uống 1075 1100 1418 1450 1478 Bánh mứt kẹo 1260 1370 1675 1725 1746 Rau quả tươi 867 880 893 901 922 2. Phi thực phẩm 5221 5367 6347 6532 6804 Đồ gia dụng 2140 2252 2665 2715 2820 Hoá mĩ phẩm 998 1000 1182 1211 1275 Đồ dùng trong bếp 835 850 1015 1034 1048 Gốm sứ_thuỷ tinh 627 650 761 790 801 Các mặt hàng khác 621 615 724 782 860 Tổng 14916 15917 19233 19689 20140 Nguồn: Sở thương mại Hà Nội + Hàng hoá trong siêu thị không những đa dạng phong phú mà còn đảm bảo chất lượng tốt, giá cả ổn định. Tất cả các sản phẩm hàng hoá trong siêu thị đều có nguồn gốc xuất sứ rõ ràng. Đặc biệt đối với mặt hàng thực phẩm thì các loại thịt gia súc, gia cầm, cá… đều có dấu xác nhận của cơ quan kiểm dịch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Trong siêu thị có cung cấp các sản phẩm hàng hoá chất lượng tốt, hàng hoá đáp ứng nhu cầu của các khách hàng có thu nhập cao. Giá cả trong siêu thị ổn định hơn ngoài chợ. Ví dụ điển hình là vào thời gian mưa lụt năm 2008 khi Hà Nội bị khan hiếm thực phẩm. Các hộ chủ thương nhỏ lẻ đã lợi dụng và đồng loạt tăng giá lên cao bất thường khiến cho đời sống nhân dân vốn đã khó khăn do ngập lụt lại càng khó khăn hơn do giá cả tăng cao. Thế nhưng trong hoàn cảnh đó các siêu thị vẫn không tăng giá hoặc tăng ở một mức độ nhất định góp phần bình ổn giá cả và giúp đỡ người dân. Đó là một nỗ lực hết sức đáng khen. + Hệ thống các trung tâm thương mại, siêu thị và các chuỗi cửa hàng hiện đại đã góp phần thúc đẩy kinh tế Hà Nội phát triển. Hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại này giúp đẩy nhanh việc tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá sản xuất ra, kích kích sản xuất phát triển. Trong những năm gần đây mức bán lẻ hàng hóa trong các siêu thị tại Hà Nội tăng khá nhanh, trong giai đoạn 2005-2008 trung bình đạt gần 27%. Trong năm 2008 mặc dù nền kinh tế có nhiều biến động lớn, tốc độ có giảm mạnh nhưng vẫn đạt mức khá cao khoảng trên 23%. Các doanh nghiệp đạt mức lợi nhuận cao và có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. Các siêu thị hiện đại được xây dựng lên đã làm thay đổi diện mạo thủ đô, thúc đẩy các khu vực xung quanh phát triển. Bên cạnh đó các hệ thống phân phối bán lẻ này đã tạo ra một số lượng lớn việc làm giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Bảng 2.5. Tốc độ tăng mức bán lẻ hàng hoá của các siêu thị trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2005-2008 Đơn vị : % 2005 2006 2007 2008 Bình quân 2005-2008 Tốc độ tăng 25,73 28,52 30,07 23,57 26,97 Nguồn: Hội siêu thị Hà Nội Mặc dù các siêu thị đã phát triển khá nhanh trong những năm gần đây nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế. + Hầu hết các siêu thị của chúng ta quy mô vừa và nhỏ. Do tiềm lực về vốn của các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị còn rất yếu nên các doanh nghiệp không thể đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, các siêu thị lớn mà chủ yếu là các siêu thị vừa và nhỏ. Số lưọng quy cách chủng loại hàng hoá còn hạn chế và giá còn tương đối cao so với các hình thức phân phối bán lẻ truyền thống. Với năng lực tài chính còn hạn chế thì các doanh nghiệp này không thể đầu tư phát triển mạng lưới, nâng cao chất lượng dẫn tới khả năng cạnh tranh kém hơn so với các siêu thị được đầu tư của nước ngoài. + Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu. Các siêu thị Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu về nhà kho, khu vận chuyển nội bộ, các phương tiện vận chuyển chuyên dùng… Đời sống người dân thủ đô những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể. Thu nhập tăng cao khiến cho số lượng phương tiện giao thông tăng vọt đặc biệt là ôtô và xe máy. Do hạ tầng còn yếu kém nên các chỗ để xe của các siêu thị này chưa đáp ứng được yêu cầu, có chăng chỉ đáp ứng được chỗ để xe máy còn chỗ để ôtô thì còn thiếu. Câu hỏi đặt ra là nếu khách hàng đi ôtô tới siêu thị mua hàng thì làm thế nào? Chính điều này đã gây nên phiền toái cho khách hàng từ đó dẫn tới việc khách hàng sẽ lựa chọn những nơi có cơ sở hạ tầng tốt hơn. Các siêu thị có vốn đầu tư nước ngoài như Big C, Metro có ưu thế hơn hẳn về cơ sở vật chất kĩ thuật và đang gây ra áp lực cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. + Chất lượng đội ngũ nhân viên của chúng ta còn thấp, chưa đáp úng được yêu cầu của hình thức kinh doanh hiện đại. Hầu hết các nhân viên bán hàng trong các siêu thị nội chưa qua đào tạo hoặc đào tạo chưa đạt yêu cầu. Đội ngũ nhân viên này thiếu tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh và giao tiếp với khách hàng. Các cán bộ quản lý chưa có trình độ cao, chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại hiện đại. + Các trung tâm thương mại và siêu thị của chúng ta phân bố không đồng đều, chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực nội thành nên chưa khai thác hết tiềm năng thị trường. Có khoảng 2/3 số siêu thị tập trung ở các quận Đống Đa, Hai Bà Trưng, Cầu giấy, Hoàn Kiếm, Ba Đình còn lại phân bố giải rác. Quận Tây Hồ trong những năm gần đây có sự phát triển kinh tế tương đối nhanh, mức sống người dân tăng cao nhưng ở đây không có một trung tâm thương mại nào và cũng chỉ có một vài siêu thị và cửa hàng tiện ích. + Các doanh nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh yếu nhưng lại thiếu sự liên kết để tạo sức mạnh. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp mới chỉ chú trọng tới việc phát triển hệ thống của doanh nghiệp mình mà chưa tiến hành liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác. Thời hạn 1-1-2009 đã qua và các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới sẽ đầu tư vào thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước với tiềm lực còn hạn chế sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn. Cần có những hướng đi, những hành động đúng đắn để phát triển hệ thống. 2.2.3. Các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. Mặc dù hệ thống chợ và hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm hiện đại Có bước phát triển mạnh nhưng do những thói quen và tiện ích đem lại mà các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong vẫn tồn tại và phát triển. Hệ thống này đã đạt được một số kết quả sau: + Các hộ kinh doanh cá thể đã tăng lên với số lượng lớn trong các năm qua. Theo số liệu của tổng cục thống kê thì tính đến năm 2007 Hà Nội có khoảng 111.452 hộ kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ cá thể trong đó khoảng 77,5% là các hộ kinh doanh bán lẻ. Đến năm 2008 sau khi Hà Tây và một số địa phương được sát nhập vào Hà Nội thì số cơ sở kinh doanh đã tăng vọt lên khoảng 187.741. Các cửa hàng này đã đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán của nhân dân góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá. Các cửa hàng kinh doanh mặt hàng thực phẩm chiếm tỉ trọng lớn khoảng 75% đã cung cấp thực phẩm và các dịch vụ ăn uống cho nhân dân thủ đô. Bảng 2.6. Cơ sở kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ cá thể tại Hà Nội 2001-2008 2001 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng số cơ sở 63.162 76.836 79.438 88.422 101.357 111.452 187.741 Cơ cấu theo ngành nghề (%) Thương nghiệp 67,64 67,60 67,88 65,49 65,10 64,04 67,33 Khách sạn, nhà hàng 21,67 18,88 18,02 18,76 18,86 18,96 17,58 Dịch vụ 10,60 13,52 14,10 15,75 16,04 17 15,09 Nguồn : Niên giám thống kê Hà Nội + Các cửa hàng phân bố đều và rộng khắp đặc biệt một số tập trung thành các phố chuyên kinh doanh một loại mặt hàng; các quán bán rong len lỏi vào khắp các ngõ ngách đã làm tăng tính tiện ích cho nhân dân. Trong cơ chế thị trường, mức sống nhân dân tăng lên đồng thời thì thời gian nhàn rỗi giảm xuống vì thế khách hàng muốn tăng tính tiện ích, tiết kiệm thời gian. Khi muốn mua một sản phẩm nhỏ lẻ nào đó mà phải lấy xe, đi tới vài trăm mét trong tình trạng giao thông ở Hà Nội thì thời gian, công sức và chi phí tăng lên rất nhiều. Hệ thống hàng quán này phát triển đã giúp cho nhân dân tiết kiệm thời gian và chi phí. Nếu muốn mua một sản phẩm nào đó bạn chỉ cần ra đầu ngõ, thậm chí ngay tai cửa nhà cũng có thể mua được. Nhiều cửa hàng cung cấp dịch vụ đưa hàng tại nhà khiến cho khách hàng ngày càng cảm thấy được chăm sóc tốt hơn. + Hệ thống các cửa hàng, các quầy sạp, các quán rong đã góp phần phát triển kinh tế thủ đô. Hệ thống đã đẩy nhanh quá trình lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Không chỉ có vậy các cửa hàng, sạp quán đã tạo ra trên 80ngàn việc làm góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm cho lao động thủ đô và các tỉnh thành khác. + Không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, các hàng quán này còn là một nét đẹp văn hoá riêng của Hà Nội. Đối với các du khách thì đến với Hà Nội là đến với ba mươi sáu phố phường, cảnh đẹp, ngắm cảnh đẹp và thưởng thức các món ăn ngon. Hàng ngày trên các con đường, trong các ngõ ngách xuất hiện những sạp, những gánh hàng với tiếng giao “ai mua dưa di… hay bánh mì nóng đây…” thật thú vị biết bao. Bên cạnh những kết quả đạt được thị hệ thống này vẫn còn nhiều hạn chế tồn tại : + Các hàng quán này quy mô nhỏ bé, các sản phẩm còn hạn chế về chủng loại và chất lượng. Thực tế các cửa hàng chủ yếu là tận dụng diện tích mặt đường của các hộ kinh doanh nên diện tích rất chật trội. Quy mô nhỏ nên số lượng các quy cách chủng lọai hàng hoá cũng bị hạn chế. Bên cạnh đó mặc dù giá cả thực phẩm tại các hàng quán này có rẻ hơn trong siêu thị nhưng chất lượng không được đảm bảo. Khi mua hàng chúng ta không biết rõ được nguồn gốc xuất xứ hay chất lượng sản phẩm. Thực trạng hiện nay các nhà hàng cung cấp thực phẩm tươi sống bày bán cả những loại thực phẩm chưa qua kiểm dịch là nguy cơ gây bùng phát các dịch bệnh như: cúm gia cầm, lợn tai xanh… Không chỉ thực phẩm tươi sống mà các sản phẩm thực phẩm đã qua chế biến cũng vi phạm nghiêm trọng. Các thực phẩm này chứa các chất độc hại như hàn the, đất đèn… Tình trạng gian lận trong kinh doanh thường xuyên xảy ra như : cân thiếu trọng lượng, pha trộn các chất, trộn thạch cao vào trong đậu phụ… + Việc kinh doanh của các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong thường xuyên gây mất trật tự an toàn giao thông. Các cửa hàng luôn lấn chiếm hành lang an toàn giao thông để tiến hành kinh doanh. Một số cửa hàng đông khách nhưng diện tích chật hẹp nên khách hàng phải để xe tràn hết ra đường gây nguy hiểm cho các phương tiện tham gia giao thông. Các quán bán rong cũng là một trong những nguyên nhân gây ách tắc giao thông ở Hà Nội. Khi có khách mua hàng thì các quán rong này dừng đứng ngay tại lòng lề đường gây cản trở cho người đi đường và dẫn tới tình trạng ách tắc. + Không chỉ vấn đề về chất lượng hàng hoá mà văn hoá bán hàng của các chủ hàng quán cũng chưa được văn minh, lịch sự. Các chủ hàng quán rất niềm nở khi khách xem hàng, nhưng nếu khách không mua hàng thì sẽ càu nhàu thậm chí buông ra những lời lẽ thô tục. Ví dụ cụ thể là nếu vào ngày mồng 1 đầu tháng hoặc vào đầu buổi sáng bạn đi vào một quán xem hàng hoá, mặc cả nhưng không mua thì chắc chắn bạn sẽ bị “đốt vía”. 2.3. Đánh giá chung về hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội 2.3.1. Những thành tựu đạt được. Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu góp phần thúc đẩy kinh tế thủ đô phát triển. Các hệ thống phân phối bán lẻ đã cung cấp một lượng lớn thực phẩm đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân. Theo số liệu thống kê thì trong một tháng lượng thực phẩm cung cấp cho thị trường Hà Nội khoảng hơn 10.000 tấn thịt lợn, 3000 tấn thịt gia cầm, trên 60.000 tấn rau củ quả các loại … Hệ thống chợ đã được đã quy hoạch và xây dựng hiện đại hơn trên cơ sở mô hình cũ. Cơ sở hạ tầng các chợ mới đã có sự nâng cấp đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán hàng hoá của nhân dân. Hàng hóa trong các chợ rất phong phú, đa dạng, giá cả phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng. Các cửa hàng nhỏ lẻ, các quán rong phát triển rộng khắp làm tăng tính tiện ích cho người tiêu dùng. Nhiều cửa hàng cung cấp dịch vụ mang đồ ăn, thực phẩm … tới tận nhà giúp tiết kiệm thời gian và công sức cho khách hàng. Các cơ quan chức năng tăng cường công tác quản lý các chợ, các hàng quán nên hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống này hoạt động có nề nếp, giảm thiểu tình trạng lấn chiếm lòng lề đường gây mất trật tự an toàn giao thông. Thực tế hiện nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm được đặc biệt quan tâm, các đoàn thanh tra của bộ y tế thường xuyên kiểm tra chất lượng thực phẩm để đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng. Không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống còn mang những nét đẹp văn hoá riêng. Hệ thống này góp phần giữ gìn truyền thống văn hóa, quảng bá hình ảnh và phát triển du lịch. Các trung tâm thương mại, siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện ích… cũng phát triển nhanh chóng. Hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm hiện đại này phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng thoả mãn nhu cầu của nhân dân thủ đô. Các cửa hàng tiện ích gia tăng nhanh chóng với 40 cửa hàng của tổng công ty thương mại Hà Nội Hapro Mart, 10 cửa hàng của công ty thực phẩm Hà Nội, Thái Hà Mart… Hàng hoá trong các siêu thị hết sức đa dạng phong phú, chất lượng đảm bảo, đặc biệt có các mặt hàng cao cấp phục vụ các khách hàng có thu nhập cao. Hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội phát triển giúp tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra công ăn việc làm cho số lượng lớn lao động. Như vậy hệ thống phát triển vừa góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển vừa giải quyết vấn đề an sinh xã hội. 2.3.2. Những mặt hạn chế. Mặc dù hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm trên địa bàn Hà Nội phát triển nhanh chóng nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Hạ tầng cơ sở của các chợ còn rất yếu kém, thiếu nơi vệ sinh, nơi đổ rác, chỗ để xe…Hệ thống chợ tuy được đầu tư sửa chữa, xây dựng mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển văn minh thương mại. Tốc độ sửa chữa, xây dựng còn chậm. Các cửa hàng, quán bán rong phát triển một cách tự phát, thường xuyên lấn chiếm lòng lề đường gây mất trật tự an toàn giao thông. Công tác quản lý của các ban quản lý, các cơ quan chức năng chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đặc biệt vấn đề chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm tại các hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống hết sức đáng lo ngại. Thực phẩm tại đây được giết mổ, chế biến không đảm bảo vệ sinh, nhiều loại chưa qua kiểm dịch tiềm ẩn nguy cơ bùng phát các dịch bệnh như: cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng… Nguy hiểm hơn là sự vô tâm của các chủ cửa hàng đã pha trộn các chất độc hại như phoóc môn, hàn the… gây hại cho sức khoẻ người tiêu dùng. Bên cạnh đó thì văn hóa ứng sử của một bộ phận chủ thương cũng chưa văn minh lịch sự gây khó chịu cho khách hàng. Mặc dù các trung tâm thương mại, siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện ích phát triển nhưng cơ sở vật chất còn kém so với các siêu thị của nước ngoài. Quy mô các siêu thị của ta còn nhỏ hẹp, số lượng quy cách chủng loại hàng hoá còn hạn chế. Các doanh nghiệp trong nước có lượng vốn nhỏ nên không thể đầu tư phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng các siêu thị. Giá cả hàng hóa trong siêu thị còn cao so với các hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống. Mặt khác khi nói về chất lượng nguồn nhân lực trong các siêu thị trong nước thì chúng ta vẫn còn thua kém các doanh nghiệp của nước ngoài. Các nhà quản lý có trình độ chuyên môn chưa thực sự cao, đội ngũ nhân viên thiếu tính chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế về vốn, trình độ ,kinh nghiệm sẽ có ưu thế trong việc giành giật thị trường phân phối bán lẻ thực phẩm trong nước. Mặc dù kém hơn về nhiều mặt so với các doanh nghiệp của nước ngoài nhưng các doanh nghiệp trong nước vẫn không có sự liên kết để tạo sức mạnh. Chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian tới. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ MẶT HÀNG THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 3.1. Dự báo thị trường thực phẩm Hà Nội. Vào tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế nhưng cũng xuất hiện thêm nhiều thách thức mới. Nhờ những chính sách hợp lý, tận dụng tốt những điều kiện thuận lợi trong nước và quốc tê, nền kinh tế nước ta trong 2 năm 2006 và 2007 đã tăng trưởng với tốc độ nhanh. Hoà chung nhịp phát triển của đất nước, thủ đô Hà Nội cũng có bước phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng trên 11%. Tuy nhiên vào những tháng cuối năm 2008, đầu 2009 tình hình kinh tế có nhiều biến động theo chiều hướng xấu. Các nước trên thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế mà khởi đầu là Mỹ. Việt Nam cũng đã chịu tác động ảnh hưởng lớn, hàng hoá không thể xuất khẩu, các nhà máy xí nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, người lao động mất việc làm. Theo dự báo của chính phủ thì tốc độ tăng trưởng cả nước trong năm 2009 chỉ đạt khoảng 5% thậm chí có thể thấp hơn. Kinh tế thủ đô Hà Nội đã bị sụt giảm nghiêm trọng khiến cho thu nhập của người lao động giảm, đời sống gặp nhiều khó khăn. Suy thoái kinh tế đã tác động rất lớn đến thị trường hàng hóa và đặc biệt là mặt hàng thực phẩm. Xu hướng tiêu dùng của đại bộ phận người dân là tiết kiệm. Các mặt hàng thực phẩm được tiêu thụ mạnh là các loại hàng bình dân, giá rẻ, các mặt hàng cao cấp có sức tiêu thụ giảm mạnh. Suy thoái kinh tế đã tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm nhất là các hệ thống bán lẻ hiện đại do giá của các hệ thống này thường cao hơn so với chợ và các hàng quán nhỏ lẻ. Doanh thu bị giảm mạnh và hàng hoá tồn kho không bán được buộc các doanh nghiệp phải có chiến lược giảm giá, khuyến mại, kích cầu mua sắm. Trước tình hình suy thoái kinh tế trầm trọng, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, nhiều biện pháp để thúc đẩy kinh tế phát triển đặc biệt là gói kích cầu 1tỷ dola. Hàng loạt các hành động được thực hiện như: giảm lãi suất, tăng lương…nhằm vực dậy nền kinh tế. Nhờ những hành động của chính phủ, nền kinh tế cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng đang có dấu hiệu phục hồi. Tuy nhiên theo dự báo của nhiều chuyên gia thì người tiêu dùng vẫn còn tâm lý e ngại và tiết kiệm. Từ đó có thể dự đoán rằng đa số người dân thủ đô sẽ tiêu dùng các sản phẩm bình dân, giá cả vừa phải. Mặt khác 1-1-2009 là thời điểm Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ. Các doanh nghiệp của ta sẽ phải cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới có tiềm lực về vốn và trình độ quản lý cao. Chính vì vậy thị trường phân phối bán lẻ hàng hoá nói chung và mặt hàng thực phẩm nói riêng sẽ diễn ra sự cạnh tranh hết sức khốc liệt. 3.2. Giải pháp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội. Trong những năm vừa qua hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm đã phát triển nhanh chóng và đạt được một số kết quả đáng mừng. Song bên cạnh việc phát triển thì hệ thống này còn tồn tại một số hạn chế. Sau khi phân tích những thực trạng của hệ thống trong phần viết dưới đây em xin đề xuất giải pháp phát triển cho từng hệ thống cụ thể và đưa ra một số kiến nghị mang tính vĩ mô. 3.2.1. Phát triển các chợ truyền thống. Thứ nhất là thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức của các hộ kinh doanh trong chợ. Mọi công tác cải tạo các chợ hiện tại chỉ có thể thực hiện được khi có sự đồng thuận của người dân. Khi nhân dân đã hiểu được công tác cải tạo, công tác quản lý phục vụ lợi ích cho chính bản thân họ thì nhân dân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển và quản lý chợ. Mặt khác khi nâng cao đựợc nhận thức người dân sẽ làm cho họ suy nghĩ kĩ hơn trước khi hành động và có trách nhiệm đối với hành động của mình. Một chị bán hàng cá sẽ cảm thấy xấu hổ khi vứt rác bừa bãi, một cô bán thịt lợn sẽ cảm thấy áy náy vì bán thịt không rõ nguồn gốc, gây hại cho người tiêu dùng … Bên cạnh đó khi thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục sẽ làm cho môi trường giao tiếp, giao dịch ở chợ trở nên văn minh, lịch sự. Ngôn ngữ trong giao tiếp không còn mang nặng tính “chợ”, văn hoá ứng sử, văn hoá bán hàng được nâng cao. Thứ hai là cải tạo,nâng cấp và đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật trong chợ. Thực trạng cho thấy quy mô diện tích các chợ còn nhỏ bé, chưa đáp úng được nhu cầu trao đổi mua bán của nhân dân, đường đi trong chợ hết sức chật hẹp, dễ gây ách tắc cục bộ. Quy mô chợ được mở rộng sẽ giúp tăng diện tích kinh doanh của các chủ thương, giúp tăng số lượng và tăng quy cách chủng loại hàng hoá trao đổi trong chợ. Bên cạnh việc mở rộng quy mô thì cần quy hoạch không gian trong chợ, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Khi vào trong chợ khách hàng gặp nhiều khó khăn về nơi vệ sinh, chỗ để xe, tại nhiều chợ đã xảy ra tình trạng khách đi chợ bị mất xe gây mất an ninh trật tự và thiệt hại về tài sản của người dân. Các chợ chưa được quy hoạch cụ thể nơi đổ rác khiến tình trạng rác thải bị vứt bừa bãi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện thuận lời cho cả chủ thương lẫn khách hàng đồng góp phần làm trong sạch môi trường. Chúng ta cũng đồng thời cần đầu tư các trang thiết bị vật chất kĩ thuật cho các chợ. Các bài học đắt giá từ các vụ cháy nổ xảy ra trong các chợ trong những năm qua đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về an toàn phòng chống cháy nổ. Cần đầu tư các trang thiết bị như: còi báo động, các bình cứu hoả… để phòng chống cháy nổ. Thứ ba là nâng cao chất lượng thực phẩm trong các chợ. Nâng cao chất lượng sẽ giúp cho các chủ thương kinh doanh tốt hơn đồng thời đảm bảo được sức khoẻ người tiêu dùng. Các đoàn thanh tra, đoàn kiểm dịch của bộ y tế cần thường xuyên tiến hành kiểm tra, xét nghiệm các sản phẩm bày bán tại chợ để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Cần nghiêm khắc xử phạt các chủ cửa hàng kinh doanh mặt hàng thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất sứ, các sản phẩm có pha chế các chất độc hại gây nguy hiểm cho người tiêu dùng. Cuối cùng là cần thực hiện tốt công tác quy hoạch, quản lý các chợ trên địa bàn thành phố. Cần xem xét các chợ cóc, chợ tạm tự phát để có những kế hoạch hành động cụ thể. Có thể sẽ giải tán các chợ này hoặc quy hoạch xây dựng vào một vị trí thích hợp. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lấn chiếm hành lang an toàn giao thông kéo dài gây ách tắc và nguy hiểm cho các phương tiện tham gia giao thông. Ban quản lý các chợ cần thống kê đầy đủ, chính xác số hộ kinh doanh để tránh việc thất thu thuế của nhà nước. Bên cạnh đó cần nắm vững tình hình kinh doanh của các cửa hàng trong chợ. Khi có hiện tượng tăng giá bất thường hoặc phao tin đồn nhảm gây hoang mang dư luận nhằm đầu cơ kiếm lời thì cần báo cáo với các cơ quan chức năng có thẩm quyền để có hướng xử lý. Đồng thời cần nâng cao công tác bảo vệ an ninh trật tự trong các chợ taọ điều kiện thuận lợi cho khách hàng và các chủ thương. 3.2.2. Phát triển các trung tâm thương mại, các siêu thị và chuỗi hệ thống các cửa hàng hiện đại. Giải pháp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại này có nội dung quan trọng nhất chính là việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước. Thứ nhất là việc lựa chọn địa điểm xây dựng, hình thức siêu thị, cửa hàng sao cho phù hợp. Hà Nội có điều kiện giao thông vận tải tương đối phát triển, mật độ dân cư đông đúc, thu nhập cao so với trung bình cả nước. Các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu thị trường, xem xét các khách hàng mục tiêu của mình là những ai? Ở khu vực nào? Để lựa chọn vị trí và hình thức siêu thị sẽ xây dựng. Bên cạnh đó quyết định đưa ra còn phải được căn cứ vào khả năng tài chính của doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. Nếu như tiềm lực tài chính còn nhỏ yếu mà chi phí mặt bằng ở các khu vực trung tâm quá cao thì có thể xem xét xây dựng ở khu vực xa trung tâm hơn để giảm chi phí. Nếu như trên một địa bàn nhỏ mà có nhiều hệ thống phân phối của các doanh nghiệp khác thì cần cân nhắc và có thể chuyển sang một khu vực khác hoặc một hình thức khác phù hợp. Thứ hai là mở rộng quy mô và mạng lưới, đầu tư cơ sở hạ tầng các siêu thị, các cửa hàng tiện ích. Thực tế hiện nay quy mô các siêu thị của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế chủ yếu là các siêu thị loại vừa và nhỏ chưa đáp ứng được các yêu cầu. Cần có sự quy hoạch và mở rộng khu vực để xe, nhà kho, khu vận chuyển hàng hoá nội bộ…. Bên cạnh đó cần phát triển mạng lưới phân phối rộng khắp. Hiện nay các siêu thị lớn, các cửa hàng tiện ích chủ yếu tập trung ở khu vực nội thành, hệ thống siêu thị ở ngoại thành chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và việc đô thị hoá diễn ra nhanh chóng khiến khu vực ngoại thành trở nên rất có tiềm năng phát triển hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm hiện đại. Các doanh nghiệp cần có chiến lược cụ thể để khai thác thị trường tiềm năng này. Thứ ba là cần đầu tư các trang thiết bị hiện đại, áp dụng các phương thức kinh doanh mới đồng thời có chiến lược về sản phẩm. Là một hình thức phân phối bán lẻ hiện đại đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư các trang thiết bị hiện đại nhằm tăng tính chuyên nghiệp và tạo thuận lợi trong quá trình kinh doanh. Ví dụ như: thang máy, các máy thanh toán điện tử… Các sản phẩm cũng cần được nâng cao chất lượng nhằm đáp úng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Số lượng quy cách chủng loại hàng hoá cần dồi dào, phong phú để tăng thêm sự lựa chọn cho khách hàng. Thực tế hiện nay giá cả thực phẩm trong các siêu thị thường cao hơn giá ngoài chợ do đó cần có chiến lược giá phù hợp với thị trường và thu nhập người dân. Bên cạnh chiến lược sản phẩm doanh nghiệp cần áp dụng các hình thức kinh doanh, hình thức phân phối mới như: Tiến hành thương mại điện tử hoặc cung cấp dịch vụ mang thực phẩm tới tận nhà sẽ giúp tăng tính tiện ích, tiết kiệm thời gian và công sức của khách hàng. Thứ tư là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao hiệu quả quản lý, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ các ngoại lực để phát triển hoạt động kinh doanh. Trong các siêu thị của Việt Nam thì đội ngũ nhân viên bán hàng trực tiếp phần lớn là chưa qua đào tạo hoặc đào tạo thiếu bài bản. Trong quá trình bán hàng không chỉ đơn thuần cần các kiến thức về nghiệp vụ, về sản phẩm mà cần có kĩ năng giao tiếp ứng sử với khách hàng. Chúng ta cần đào tạo đội ngũ nhân viên để nâng cao trình độ, tính chuyên nghiệp của họ. Không chỉ các nhân viên mà các nhà quản lý cũng cần học hỏi, trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm để tổ chức quản lý tốt hơn hệ thống của mình. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cần phát huy tối đa các nguồn lực hiện có, tranh thủ các ngoại lực để phát triển. Do tình trạng suy thoái kinh tế thế giới hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến hoạt động phát triển kinh tế đất nước, chính phủ đã đưa ra gói kích cầu trị giá 1tỷ dola. Các doanh nghiệp cần tranh thủ nguồn vốn vay ưu đãi, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để phát triển hoạt động kinh doanh. Thứ năm là phát triển các dịch vụ logistics phục vụ cho các hoạt động bán lẻ. Thực tế tại Việt Nam hoạt động hậu cần cho hệ thống phân phối của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ chưa phát triển hoặc phát triển chưa đồng bộ. Các kho bảo quản, các phưong tiện vận chuyển… chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Các doanh nghiệp cần đầu tư phát triển các kho bãi để dự trữ hàng hoá, các phương tiện vận chuyển nhằm tạo thuận lợi cho quá trình phân phối sản phẩm. Bên cạnh việc phát triển các kho vận thì các doanh nghiệp cần chú trọng đến việc tạo nguồn cung cấp thực phẩm ổn định và có chất lượng tốt. Thứ sáu là cần phát triển thương hiệu nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Hoạt động phát triển thương hiệu đã được các doanh nghiệp nước ngoài chú trọng từ lâu nhưng tại Việt Nam các doanh nghiệp thực hiện vẫn chưa thực sự tốt, chưa định vị được trong tâm trí khách hàng. Các doanh nghiệp cần tăng cường hoạt động quảng cáo, thực hiện các biện pháp quan hệ công chúng (PR) nhắm đến các khách hàng mục tiêu và các nhóm khác có quyền lợi liên quan như các nhà cung cấp, các tổ chức chính trị xã hội… Đồng thời cần tăng cường quảng bá thương hiệu nhằm tạo ra sự nhận thức hiểu biết của khách hàng về doanh nghiệp từ đó đưa tới quyết định mua hàng. Giải pháp cuối cùng đưa ra là tiến hành liên doanh, liên kết để tạo sức mạnh. 1-1-2009 là thời hạn nước ta mở cửa thị trường bán lẻ hàng hóa. Hiện tại Việt Nam đã có một số doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thành lập hệ thống siêu thị như Big C, Metro. Các siêu thị này có quy mô lớn này đã đạt được nhiều thành công và thị phần của các doanh nghiệp trong nước bị giảm. Trong thời gian tới chúng ta còn phải cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới như Wall Mart, Lotte.. có tiềm lực về vốn và có kinh nghiệm, trình độ quản lý cao. Các doanh nghiệp trong nứớc cần liên kết thành một hệ thống các siêu thị rộng khắp, mở rộng quy mô, tăng tiềm lực về vốn nâng cao khả năng cạnh tranh. Có thể thành lập các hiệp hội doanh nghiệp hay hiệp hội siêu thị. Bên cạnh đó chúng ta cũng có thể liên doanh với các tập đoàn của nước ngoài , chia sẻ một phần thị trường để cùng phát triển. 3.2.3. Phát triển các cửa hàng nhỏ lẻ và các quán bán rong. Các giải pháp phát triển hệ thống này tương đối giống các giải pháp phát triển hệ thống chợ do có nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên vẫn có sự khác nhau do đặc điểm phân tán rộng khắp của các hàng quán này. Thứ nhất là tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Các hàng quán thường có quy mô nhỏ hẹp nên số lượng hàng hoá bày bán là không nhiều, quy cánh chủng loại ít. Do tiềm lực về vốn rất yếu nên việc mở rộng quy mô cửa hàng là hết sức khó khăn. Giải pháp đưa ra là các cửa hàng có thể kí gửi tại kho của nhà cung cấp, chỉ trưng bày một số sản phẩm, khi nào khách mua gần hết hàng thì lại đến kho của nhà cung cấp để lấy. Các mặt hàng thực phẩm tại đây thường có giá rẻ tương đối nhưng có chất lượng không cao. Vì vậy cần nâng cao chất lượng sản phẩm để đẩy mạnh tiêu thụ. Các cửa hàng cần phải đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Các chủ thương cần bán các sản phẩm có chất lượng, kiên quyết không kinh doanh các loại thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, chưa qua kiểm dịch. Việc nâng cao chất lượng không chỉ là nhập các sản phẩm có chất lượng để bán mà còn phải có biện pháp bảo quản tốt các sản phẩm hàng hoá. Các cửa hàng tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà đầu tư các trang thiết bị, các dụng cụ để bảo quản thực phẩm. Ví dụ như các quán bán hải sản tươi sống cần có hệ thống bể nước, hệ thống sục khí; các quán thực phẩm đông lạnh, thực phẩm chin cần đầu tư tốt cho hệ thống tủ lạnh … Thứ hai là vấn đề về văn hóa kịnh doanh, đạo đức kinh doanh. Ông cha ta có câu “một sự bất tín, vạn sự bất tin” Thực trạng cân thiếu trọng lượng, thực phẩm bị pha trộn, ngâm tẩm… đang rất phổ biến. Có khi 1kg thực ra chỉ có 0,9 ; nhiều khi trong đậu phụ lại có thạch cao… Các cửa hàng cần trung thực và có đạo đức trong kinh doanh. Có như vậy thì khách hàng mới tin tưởng và mua hàng tại cửa hàng của mình. Bên cạnh đó văn hóa ứng sử trong giao tiếp, trong giao dịch mua bán cần được chú trọng : “ vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi ” thì lần sau khách hàng mới quay lại từ đó việc kinh doanh mới thành công. Thứ ba là các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác quản lý các hàng quán này. Các cửa hàng, quán rong phát triển hết sức tự phát, phân bố rộng khắp nên hết sức khó khăn trong công tác quản lý. Một cửa hàng có thể hôm nay mở cửa nhưng ngày mai đóng cửa, một chị bán rong có thể hôm nay đi bán, ngày mai đi về quê… Các cơ quan chức năng cần tăng cường lực lượng, phân bố rộng khắp các nơi để quản lý hệ thống này. Thường xuyên kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm tra việc chấp hành an toàn giao thông của các cửa hàng hạn chế và nghiêm khắc sử phạt các đối tượng cố tình vi phạm. Cuối cùng là việc gìn giữ những nét đẹp văn hoá của thủ đô. Do các hàng quán bán rong thường xuyên lấn chiếm lòng lề đường gây cản trở giao thông nên chính phủ đã ban hành một số quy định hạn chế các quán rong trên một số tuyến phố. Thực tế thì số lượng các quán rong đã giảm tuy nhiên cũng không nên xoá bỏ hình thức kinh doanh truyền thống này. Chúng ta cần có biện pháp phát triển theo hướng giữ gìn những nét đẹp văn hoá truyền thống từ đó phát triển du lịch. Ví dụ như : ban hành các quy định về điều kiện vật chất kĩ thuật của quán rong, quy định không được dừng đỗ quá 10 phút … 3.2.4. Một số kiến nghị vĩ mô. Thứ nhất là nhà nước cần tiếp tục giữ vững sự ổn định chính trị, an ninh trật tự. Nếu như tình hình chính trị bất ổn, an ninh không đảm bảo thì các doanh nghiệp không thể yên tâm tiến hành kinh doanh. Thái Lan là một trong những ví dụ điển hình. Trong thời gian gần đây tình hình Thái Lan hết sức bất ổn. Các đảng phái chính trị tiến hành các hoạt động nhằn lật đổ đối thủ giành chính quyền. Các cuộc biểu tình thường xuyên nổ ra khiến hoạt động kinh doanh hàng hoá và dich vụ gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là ngành du lịch. Các hệ thống phân phối ở nhiều nơi phải đóng cửa vì lo ngại bị dòng người biểu tình đập phá. Các nhà đầu tư không dám đầu tư vào Thái Lan, nền kinh tế bị thiệt hại rất lớn. Thực tế đất nước ta nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mà tình hình chính trị trong nước luôn ổn định, an ninh được giữ vững tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt mức cao và thu hút được lượng vốn đầu tư rất lớn. Cùng với đó hoạt động kinh tế thương mại diễn ra sôi động đã tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống phân phối bán lẻ phát triển mạnh trong đó mặt hàng thực phẩm chiếm tỉ trọng lớn. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thứ hai là xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh của hệ thống phân phối bán lẻ. Luật doanh nghiệp 2005 đã tao điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thành lập và tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh đó thì trong hệ thống luật của chúng ta vẫn có sự chồng chéo, nhiều văn bản luật không thống nhất và thiếu tính chặt chẽ đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. Các thủ tục hành chính còn phiền hà, rắc rối gây phiền hà, mất thời gian trong việc cấp phép các dự án lớn. Điều này không những mất thời gian của doanh nghiệp mà còn làm tăng chi phí, mất đi cơ hội kinh doanh. Đặc biệt khi đã là thành viên của WTO thì các luật ban hành ra phải phù hợp với luật quốc tế và cam kết khi gia nhập WTO. Chính phủ cần rà soát lại các luật cũ ,chỉnh sửa hoặc ban hành mới các điều luật tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước phát triển mà không vi phạm cam kết trong tiến trình hội nhập. Thứ ba là cần xây dựng các cơ chế chính sách khuyến khích , hỗ trợ phát triển hệ thống phân phối bán lẻ đặc biệt là hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại. Thực tế giá đất ở Hà Nội rất cao và chi phí cho việc đầu tư diện tích mặt bằng để có thể tiến hành kinh doanh là rất lớn. Thành phố cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trong nước tiếp cận nhanh, ít chi phí với đất đai. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp làm ăn lâu dài trên diện tích đất mà họ đang sử dụng để họ có thể yên tâm đầu tư phát triển kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện công bằng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, không phân biệt đối sử. Chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế, về lãi suất… nhằm khuyến khích đầu tư phát triển đặc biệt trong tình trạng suy thoái kinh tế như hiện nay. Chính phủ đã quyết định chi ra 1tỷ dola để kích cầu, thúc đẩy kinh tế phát triển và đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp có khoản nợ trước đó và cụ thể là vào năm 2008, lãi suất lên tới 20%/năm thì vẫn chưa được tiếp cận nguồn vốn này. Nguyên nhân là do quy định phải trả hết nợ cũ thì doanh nghiệp mới được vay mới gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cùng với thành phố, nhà nước cần ban hành những chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng phân phối bán lẻ. Chính phủ cần hỗ trợ xây dựng hạ tầng giao thông thuận lợi như việc san lấp mặt bằng, làm đường, cầu cống để khuyến khích doanh nghiệp mở rộng mạng lưới ra khu vực ngoại thành, tạo sự phát triển đồng đều giữa các khu vực trên địa bàn thủ đô. Bên cạnh đó chính phủ cần hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp. Thực trạng đội ngũ nhân viên trong các hệ thống phân phối bán lẻ phần lớn là chưa qua đào tạo hoặc được đào tạo chưa bài bản, thiếu tính chuyên nghiệp. Chính phủ có thể hỗ trợ học phí đào tạo cho đội ngũ nhân viên này góp phần giảm bớt khó khăn về chi phí cho các doanh nghiệp. Thứ tư là chính phủ cần có biện pháp phát triển ngành nông nghiệp để tạo ra nguồn cung về thực phẩm đặc biệt là các sản phẩm có chất lượng. Thực phẩm bán trong các hệ thống phân phối bao gồm các sản phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu trong đó các sản phẩm sản xuất trong nước chiếm tỉ lệ lớn. Nhà nước cần đầu tư phát triển các vùng sản xuất thực phẩm có chất lượng, trồng rau an toàn … đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Thực tế hiện nay chất lượng thực phẩm, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đặt ra hết sức cấp bách. Chúng ta cần thực hiện tốt công tác kiểm định chất lượng, kiểm dịch ngay tại nguồn để tránh lây lan các dịch bệnh nguy hiểm. Cần có sự phối hợp giữa 4 nhà đó là : Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân. Cần đầu tư nguồn giống tốt, các sản phẩm thức ăn chăn nuôi, phân bón đạt tiêu chuẩn… để tăng năng suất và chất lượng thực phẩm. Nghiêm cấm các hành vi sử dụng các hoá chất độc hại, các loại thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc kích thích gây nguy hiểm cho người tiêu dùng. Thực hiện tốt các biện pháp này không những phát triển ngành nông nghiệp theo chiều sâu, tăng thu nhập cho nhân dân mà còn đảm bảo nguồn cung thực phẩm ổn định, có chất lượng cho các hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm. Kiến nghị cuối cùng đưa ra là cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành, cơ quan chức năng. Chính phủ nên có sự tham khảo bài học kinh nghiệm phát triển hệ thống phân phối bán lẻ từ các nước phát triển như Mỹ, Pháp… Hay từ các nước đang phát triển và mới nổi như Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia… Để từ đó đưa ra các hành động cụ thể. Thực tế tại các nước này thì chính phủ luôn tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển thông qua các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ… Trong đó luôn có sự đồng bộ giữa các hoạt động của các cơ quan. Sau khi tham khảo và xem xét tình hình cụ thể cụ thể của Việt Nam, chúng ta sẽ có những kế hoạch hành động đúng đắn. Sở kế hoạch và đầu tư đẩy nhanh quá trình thẩm định và cấp phép cho các dự án, Bộ giao thông vận tải , bộ xây dựng đầu tư cơ sở hạ tầng, bộ giáo dục nâng cao trình độ cho người lao động … Nền kinh tế nói chung và hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm trên địa bàn Hà Nội nói riêng chỉ có thể thực sự phát triển khi có sự cố gắng từ cả hai phía là nhà nước và doanh nghiệp. KẾT LUẬN Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nước ta đã tận dụng được nhiều cơ hội mới, nền kinh tế đã có bước tăng trưởng khá trong nhiều năm. Hệ thống phân phối bán lẻ trên cả nước đã có bước phát triển nhanh chóng đặc biệt là hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…. Bên cạnh những thuận lợi là những khó khăn mà các doanh nghiệp bán lẻ trong nước đang và sẽ gặp phải. Theo cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì 1-1-2009 là thời hạn chúng ta phải mở cửa thị trường bán lẻ trong nước. Các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới như Wall Mart, Lotte… với tiềm lực mạnh về vốn, giỏi về trình độ quản lý sẽ tham gia vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Tình hình cạnh tranh sẽ trở nên vô cùng gay gắt đòi hỏi hệ thống phân phối bán lẻ phải có hướng đi và hành động đúng đắn. Trong đề tài em đã tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản về hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm, phân tích các thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ thực phẩm trên địa bàn Hà Nội cũ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển hệ thống này. Hiện nay tình trạng suy thoái kinh tế đang xảy ra đã tác động xấu tới nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp để sớm đưa nền kinh tế thoát ra khỏi suy thoái. Tuy nhiên việc phát triển nền kinh tế không thể chỉ dựa vào chỉ dựa vào ý muốn chủ quan, hành động đơn lẻ của nhà nước hay doanh nghiệp mà cần có sự kết hợp nỗ lực từ cả hai phía. Hy vọng rằng hệ thống phân phối bán lẻ mặt hàng thực phẩm trên địa bàn Hà Nội nói riêng, các doanh nghiệp kinh doanh nói chung sẽ tận dụng những cơ hội, giảm thiểu nguy cơ, vượt qua khó khăn thách thức để góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Giáo trình kinh tế thương mại. Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân (2008) , GS.TS. Phạm Đình Đào ; GS.TS. Hoàng Đức Thân 2. Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại. Nxb Lao động - xã hội (2005), PGS.TS. Hoàng Minh Đường; PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc Đề tài nghiên cứu khoa học: “Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO” Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Phan Tố Uyên 4. “Siêu thị phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam” ; Nxb Lao động – xã hội (2006) , TS. Nguyễn Thị Nhiễu 5. Niên giám thống kê Hà Nội 2007 Nxb Thống kê. 6. Tạp chí Kinh tế phát triển Số 135 Tháng 5/2008 7. Báo cáo kinh tế xã hội cục thống kê Hà Nội 2008 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA9309.DOC
Tài liệu liên quan