Đề tài Phân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu: TSC)

Tài liệu Đề tài Phân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu: TSC): TÓM TẮT Trong sự nghiệp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch ngày càng hợp lý, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thì hoạt động của thị trường chứng khoán ngày càng phát triển và vai trò của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ngày càng quan trọng. Tại vì thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế. Do đó việc phân tích và đánh giá cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán là điều cần thiết đối với nhà đầu tư, cổ đông. Mặc khác Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (TSC) là thành viên niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE). Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty này tôi quyết đinh chọn đề tài nghiên cứu là “Phân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu: TSC)”. Đề tài bao gồm 6 chương, nội dung chính của mỗi chương như sau: Chương 1 giới thiệu về đề tài. Chư...

doc71 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu: TSC), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT Trong sự nghiệp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch ngày càng hợp lý, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thì hoạt động của thị trường chứng khoán ngày càng phát triển và vai trò của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ngày càng quan trọng. Tại vì thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế. Do đó việc phân tích và đánh giá cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán là điều cần thiết đối với nhà đầu tư, cổ đông. Mặc khác Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (TSC) là thành viên niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE). Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty này tôi quyết đinh chọn đề tài nghiên cứu là “Phân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu: TSC)”. Đề tài bao gồm 6 chương, nội dung chính của mỗi chương như sau: Chương 1 giới thiệu về đề tài. Chương 2 viết về cơ sơ lý luận cho việc nghiên cứu đề tài. Chương 3 phân tích tình hình tài chính của TSC. Chương 4 phân tích tình hình giao dịch cổ phiếu TSC trên HOSE. Chương 5 đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty. Chương 6 kết luận và kiến nghị. Chương 1 GIỚI THIỆU 1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1 Sự cần thiết nghiên cứu Trên thị trường chứng khoán Việt Nam có hàng trăm cổ phiếu niêm yết nên nhiều nhà đầu tư đôi khi sẽ rất lúng túng trong việc lựa chọn đối tượng để đầu tư. Vấn đề quan trọng đối với họ là “chọn mặt gửi vàng”, nghĩa là phải tìm ra một số loại cổ phiếu thực sự có khả năng sinh lời để đầu tư. Một thực tế hiện nay là rất nhiều nhà đầu tư không biết các công ty được niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đang hoạt động như thế nào và đầu tư vào cổ phiếu của các công ty nào sẽ có lãi? Dưới tác động của “hiệu ứng đám đông”, họ bắt chước nhau, cùng đổ xô đi mua những cổ phiếu đang tăng giá. Nhiều người mua cổ phiếu rồi mà không hề có trong tay những tài liệu và phương pháp cần thiết để tìm hiểu về mức độ sinh lời của cổ phiếu đó. Do đó việc phân tích và đánh giá cổ phiếu của một công ty niêm trước khi đưa ra quyết định đầu tư là việc vô cùng quan trọng. Trong thời gian qua (từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2007) trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã xuất hiện một số cổ phiếu mới lên sàn ở Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) tạo được sự quan tâm đặc biệt đối nhà đầu tư như cổ phiếu Công ty Cổ phần Dệt may Thành Công (TCM), Công ty Cổ phần Phân đạm và Hóa chất Dầu khí (DPM) và đặc biệt là Công ty Cổ phần Vật tư và Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (TSC) chính thức niêm yết trên HoSE vào ngày 04/10/2007. Khi mới niêm yết thì cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ được xem là “hiện tượng TSC”, với sự săn lùn của nhà đầu tư để mua. Từ khi lên sàn HoSE đến nay TSC luôn có sự tăng giảm cùng với thị trường, luôn thể hiện sự quan tâm của nhà đầu tư đối với mã cổ phiếu này. Nó có gì hấp dẫn, tỷ suất lợi nhuận khi đầu tư vào cổ phiếu này như thế nào, tiềm năng ở đâu,…Đó chính là sự cần thiết của việc phân tích và đánh giá cổ phiếu TSC. 1.1.2 Căn cứ khoa học và thực tiễn - Từ vai trò của các công ty đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. - Hoạt động của một công ty có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. - Tình hình giao dịch cổ phiếu TSC trên HoSE. - Hoạt động sản xuất kinh doanh qua các năm. 1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1 Mục tiêu chung Phân tích và đánh giá cổ phiếu Công ty Cổ phần Vật tư và Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (TSC). 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Phân tích tình hình tài chính của TSC. + Tình hình hoạt động kinh doanh. + Các chỉ số tài chính. - Phân tích tình hình giao dịch của cổ phiếu TSC trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE). - Đánh giá cổ phiếu TSC dựa vào việc phân tích. - Phân tích cổ phiếu TSC trên thị trường với mục tiêu là đưa ra dự báo về giá cổ phiếu và xu hướng giá cổ phiếu trong tương lai, tìm khả năng sinh lời. - Kiến nghị khi đầu tư vào cổ phiếu TSC. 1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.3.1 Không gian (địa bàn nghiên cứu) Luận văn được thực hiện tại Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ. Nguồn thông tin được sử dụng cho đề tài này được tổng hợp từ Phòng Kinh doanh và Phòng Kế toán của công ty. 1.3.2 Thời gian (giai đoạn hoặc thời điểm thực hiện nghiên cứu) - Thời gian thực hiện luận văn này bắt đầu từ ngày 31.01.2008 – 25.04.2008. - Số liệu chỉ sử dụng trong luận văn này là số liệu từ năm 2005 đến 2007. 1.3.3 Phạm vi về nội dung - Cơ sở lý luận, kiến thức cơ bản về phân tích cổ phỉếu - Phân tích một số tình hình cơ bản của Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ. - Phân tích thực trạng cổ phiếu TSC khi niêm yết trên HoSE. - Nhận xét và đanh giá cổ phiếu TSC. - Kết luận và kiến nghị khi đầu tư vào cổ phiếu TSC. Chương 2 PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 PHƯƠNG PHÁP LUẬN 2.1.1 Công ty cổ phần 2.1.1.1 Khái niệm Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: - Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công tytrong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; - Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật Doanh nghiệp. 2.1.1.2 Các loại cổ phần - Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. - Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. - Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây: + Cổ phần ưu đãi biểu quyết; + Cổ phần ưu đãi cổ tức; + Cổ phần ưu đãi hoàn lại; + Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định. - Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. - Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. - Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau. - Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. 2.1.2 Cổ phiếu Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu phải có các nội dung chủ yếu sau đây: a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; b) Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; c) Số lượng cổ phần và loại cổ phần; d) Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu; đ) Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của cổ đông là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên; e) Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần; g) Chữ ký mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty; 2.1.3 Chứng khoán Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: - Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; - Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Mệnh giá chứng khoán: Mệnh giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ chào bán lần đầu ra công chúng là mười nghìn đồng Việt Nam. Mệnh giá của trái phiếu chào bán ra công chúng là một trăm nghìn đồng Việt Nam và bội số của một trăm nghìn đồng Việt Nam. 2.1.4 Niêm yết chứng khoán - Tổ chức phát hành khi niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán phải đáp ứng các điều kiện về vốn, hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính, số cổ đông hoặc số người sở hữu chứng khoán. - Tổ chức phát hành nộp hồ sơ niêm yết phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực và đầy đủ của hồ sơ niêm yết. Tổ chức tư vấn niêm yết, tổ chức kiểm toán được chấp thuận, người ký báo cáo kiểm toán và bất cứ tổ chức, cá nhân nào xác nhận hồ sơ niêm yết phải chịu trách nhiệm trong phạm vi liên quan đến hồ sơ niêm yết. - Chính phủ quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán và việc niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài. 2.1.5 Giao dịch chứng khoán 2.1.5.1 Giao dịch chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán - Sở giao dịch chứng khoán tổ chức giao dịch chứng khoán niêm yết theo phương thức khớp lệnh tập trung và phương thức giao dịch khác quy định tại Quy chế giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán. - Chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán không được giao dịch bên ngoài Sở giao dịch chứng khoán, trừ trường hợp quy định tại Quy chế giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán. 2.1.5.2 Giao dịch chứng khoán tại Trung tâm giao dịch chứng khoán - Trung tâm giao dịch chứng khoán tổ chức giao dịch chứng khoán niêm yết theo phương thức thoả thuận và các phương thức giao dịch khác quy định tại Quy chế giao dịch chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán. - Chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán được giao dịch tại công ty chứng khoán là thành viên giao dịch của Trung tâm giao dịch chứng khoán theo Quy chế giao dịch chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán tổ chức giao dịch loại chứng khoán mới, thay đổi và áp dụng phương thức giao dịch mới, đưa vào vận hành hệ thống giao dịch mới phải được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận. 2.1.6 Các chỉ số tài chính dùng để phân tích và định giá cổ phiếu Cùng với quá trình phân tích các báo cáo tài chính, việc phân tích và sử dụng các hệ số tài chính là những nội dung quan trọng để định giá cổ phiếu vào đầu tư chứng khoán. Quá trình phân tích sẽ giúp cho nhà đầu tư thấy được điều kiện tài chính chung của doanh nghiệp, đó là công tyhiện đang ở trong tình trạng rủi ro mất khả năng thanh toán, hay đang làm ăn tốt và có lợi thế trong kinh doanh khi so sánh với các công tycùng ngành hoặc đối thủ cạnh tranh. Việc sử dụng hệ số tài chính trong phân tích đầu tư vốn trên thị trường chứng khoán sẽ tạo ra chi phí thấp mà hiệu quả lại cao hơn, và việc này cũng đúng ngay cả trên thị trường tiền tệ khi các ngân hàng tài trợ vốn cho công tythông qua cấp tín dụng. Đối với những nhà quản lý, việc sử dụng hệ số tài chính để giám sát quá trình kinh doanh, nhằm đảm bảo công ty sử dụng hiệu quả các nguồn vốn sẵn có và tránh lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Thông qua các hệ số tài chính, nhà quản lý thấy được tình trạng tài chính và hoạt động của công ty có được củng cố không và liệu các hệ số nói chung của nó tốt hơn hay tồi tệ hơn so với hệ số của các đối thủ cạnh tranh. Khi các hệ số này thấp hơn các chuẩn mực nhất định, thì có giải pháp kiểm soát, khắc phục trước khi phát sinh các vấn đề nghiêm trọng. Ngoài ra, việc phân tích các hệ số tài chính cũng cho phép nhà đầu tư hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa bảng cân đối tài sản và các báo cáo tài chính (ví dụ như để tính toán thu nhập trên đầu tư của một công ty cần phải lấy số liệu tổng tài sản từ bảng cân đối kế toán và số liệu lợi nhuận ròng từ báo cáo thu nhập). Hệ số tài chính được phân chia thành các nhóm dựa trên các tiêu chí về hoạt động, khả năng thanh toán, nghĩa vụ nợ và khả năng sinh lời của công ty. 2.1.6.1 Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán Tính thanh khoản của tài sản phụ thuộc mức độ dễ dàng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt mà không phát sinh thua lỗ lớn. Việc quản lý khả năng thanh toán bao gồm việc khớp các yêu cầu trả nợ với thời hạn của tài sản và các nguồn tiền mặt khác nhằm tránh mất khả năng thanh toán mang tính chất kỹ thuật. Việc xác định khả năng thanh toán là quan trọng, nó quyết định đến nghĩa vụ nợ của công ty, do vậy sử dụng hệ số thanh toán được xem là cách thử nghiệm tính thanh khoản của công ty. Trong thực tế hệ số thanh toán được sử dụng nhiều nhất là hệ số khả năng thanh toán hiện tại và hệ số khả năng thanh toán nhanh (hay còn gọi là hệ số thử axít). - Hệ số thanh toán ngắn hạn là mối tương quan giữa tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn, hệ số này cho thấy mức độ an toàn của công ty trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tài sản lưu động Hệ số thanh toán ngắn hạn = Nợ ngắn hạn. - Hệ số khả năng thanh toán nhanh là mối tương quan giữa các tài sản lưu hoạt và các khoản nợ ngắn hạn, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh sau khi tài sản đã được loại bỏ bởi các hàng tồn kho và tài sản kém tính thanh khoản. (Tài sản lưu động- Hàng dự trữ) Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn. 2.1.6.2 Nhóm hệ số hoạt động Các hệ số hoạt động xác định tốc độ mà một công ty có thể tạo ra được tiền mặt nếu có nhu cầu phát sinh. Bao gồm các hệ số thu hồi nợ trung bình, hệ số thanh toán trung bình, hệ số hàng lưu kho. - Hệ số thu hồi nợ trung bình biểu thị thông qua kỳ thu hồi nợ trung bình của một công ty sẽ cho biết công ty đó phải mất bao lâu để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt. Các khoản phải thu Kỳ thu hồi nợ trung bình = (Doanh số bán chịu hàng năm /360 ngày). - Hệ số thanh toán trung bình biểu thị thông qua thời hạn thanh toán trung bình, phản ánh mối tương quan giữa các khoản phải trả đối với tiền mua hàng chịu mỗi năm. Các khoản phải trả Thời hạn thanh toán trung bình = (Tiền mua chịu hàng năm/360 ngày). - Hệ số hàng lưu kho biểu thị số lượng hàng đã bán trên số hàng còn lưu kho, hệ số này cho thấy khả năng dùng vốn vào các hàng hoá luân chuyển cao, tránh được lưu kho bởi các mặt hàng kém tính lưu hoạt. Giá trị hàng đã bán tính theo giá mua Hệ số hàng lưu kho = Giá trị hàng lưu kho trung bình. 2.1.6.3 Nhóm hệ số nợ của công ty Phản ánh tình trạng nợ hiện thời của công ty, có tác động đến nguồn vốn hoạt động và luồng thu nhập thông qua chi trả vốn vay và lãi suất khi đáo hạn. Tình trạng nợ của công ty được thể hiện qua các hệ số: hệ số nợ; hệ số thu nhập trả lãi định kỳ; hệ số trang trải chung. - Hệ số nợ hay tỷ lệ nợ trên tài sản cho biết phần trăm tổng tài sản được tài trợ bằng nợ. Hệ số nợ càng thấp thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng ít và ngược lại hệ số nợ càng cao thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng cao. Tổng số nợ Hệ số nợ = Tổng tài sản - Hệ số nợ được phản ánh thông qua hệ số nợ trên vốn cổ phần (D/E) và hệ số nợ dài hạn trên tổng tài sản (LD/TA). Hệ số nợ trên vốn cổ phần biểu thị tương quan giữa nợ dài hạn và vốn cổ phần. Mức cao thấp của hệ số này phụ thuộc vào từng lĩnh vực kinh tế khác nhau. (Nợ dài hạn + Giá trị tài sản đi thuê) Hệ số nợ trên vốn cổ phần (D/E)= Vốn cổ phần. - Hệ số nợ dài hạn trên tổng tài sản (LD/TA) so sánh tương quan nợ với tổng tài sản của một công ty, và có thể cho biết những thông tin hữu ích về mức độ tài trợ cho tài sản bằng nợ dài hạn của một công ty, hệ số này có thể dùng để đánh giá hiệu ứng đòn bẩy tài chính của một công ty. - Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ. Việc tìm xem một công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng rất quan trọng, và người ta đã sử dụng hệ số thu nhập trả lãi định kỳ. Hệ số này đánh giá khả năng sử dụng thu nhập hoạt động (thu nhập trước thuế và lãi- EBIT) để trả lãi của một công ty, hệ số này cho biết công ty có khả năng đáp ứng được các nghĩa vụ trả nợ lãi đến mức nào, thông thường hệ số thu nhập trả lãi định kỳ càng cao thì khả năng thanh toán lãi của công ty cho các chủ nợ càng lớn. EBIT Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ= Chi phí trả lãi hàng năm. 2.6.1.4 Nhóm chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty Trên thực tế người ta thường sử dụng một số hệ số sau để đánh giá hiệu quả sinh lợi của doanh nghiệp: hệ số tổng lợi nhuận; hệ số lợi nhuận hoạt động; hệ số lợi nhuận ròng; hệ số thu nhập trên vốn cổ phần; và hệ số thu nhập trên đầu tư. - Hệ số tổng lợi nhuận cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào (vật tư, lao động) trong một quy trình sản xuất của doanh nghiệp. (Doanh số-Trị giá hàng đã bán tính theo giá mua) Hệ số tổng lợi nhuận = Doanh số bán Trong thực tế khi muốn xem các chi phí này có cao quá hay không là đem so sánh hệ số tổng số lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty cùng ngành, nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn, thì công ty cần có giải pháp tốt hơn trong việc kiểm soát các chi phí đầu vào. Hệ số lợi nhuận hoạt động cho biết việc sử dụng hợp lý các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Mức lãi hoạt động = Thu nhập trước thuế và lãi ( EBIT)/doanh thu Hệ số này là thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà một công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi nhuận hoạt động cho biết một đồng vốn bỏ ra có thể thu về bao nhiêu thu nhập trước thuế. Hệ số lợi nhuận hoạt động cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay có nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động. Hệ số lợi nhuận ròng phản ánh khoản thu nhập ròng (thu nhập sau thuế) của một công ty so với doanh thu của nó. - Hệ số lợi nhuận ròng = Lợi nhuận ròng/Doanh thu. Trên thực tế mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản thân một ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào (vốn, nhân lực..) tốt hơn thì sẽ có hệ số lợi nhuận ròng cao hơn. - Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần (ROE) phản ánh mức thu nhập ròng trên vốn cổ phần của cổ đông. ROE = Lợi nhuận ròng/Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu khác nhau trên thị trường. Thông thường, hệ số thu nhập trên vốn cổ phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn, vì hệ số này cho thấy cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi đem so sánh với hệ số thu nhập trên vốn cổ phần của các công ty khác. - Hệ số giá trên thu nhập (P/E) là một trong những chỉ số phân tích quan trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - PM) và thu nhập của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau: P/E = PM/EPS Trong đó giá thị trường PM của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu đang được mua bán ở thời điểm hiện tại; thu nhập của mỗi cổ phiếu EPS là phần lợi nhuận ròng sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong năm tài chính gần nhất. P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho từng cổ phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường được công bố trên báo chí. Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ suất vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả cổ tức cao. Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ phiếu XYZ không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu đó có giá bao nhiêu là hợp lý? Chúng ta chỉ cần nhìn vào hệ số P/E được công bố đối với nhóm các loại cổ phiếu tương tự với cổ phiếu XYZ, sau đó nhân thu nhập của công ty với hệ số P/E sẽ cho chúng ta giá của loại cổ phiếu XYZ. 2.1.7 Các chỉ báo kỹ thuật dung để phân tích và đánh giá cổ phiếu Phân tích kỹ thuật cổ phiếu nhằm nghiên cứu những diễn biến hay hành vi thị trường - thông qua việc nghiên cứu các mô hình giao dịch và các hành vi hiện tại của thị trường, vốn đã phức tạp - để có thể biết được một cách sâu sắc các hành vi có thể xảy ra trong tương lai của thị trường. Những thông tin về một cổ phiếu, hoặc một ngành, hoặc một thị trường đều có thể được các nhà đầu tư nghiên cứu, xem xét, và do đó, nó phản ánh vào trong giá, cổ tức, lợi nhuận và mô hình giao dịch. Thông thường các chỉ báo kỹ thuậy sau được nhà đầu tư sử dụng: 2.1.7.1 Bollinger Band Ông John Bollinger đã sáng chế ra chỉ báo này, nó thường được sử dụng chung với đường giá nhưng chúng chỉ được xem là một indicator (dụng cụ chỉ báo), nó rất giống đường bao của giá. Đây là chỉ báo độc nhất vì nó có tác dụng là thể hiện chính xác những thay đổi hay giao động của thị trường. Nó là 1 phép toán cộng trừ của 2 lân sự chênh lệch của đường trung bình giá MA. Khi thị trường rung động mạnh nó sẽ phản ánh giao động bằng cách mở rộng các dải (bands). Ngược lại khi sự giao động suy yếu nó phản ánh thị trường trầm lắng thì các dải có khuynh hướng co hẹp lại. Bollinger Band gồm có 3 dải (bands) nằm phủ lên đường giá hoặc những chỉ báo trên đồ thị kỹ thuật. Cách sử dụng  Sử dụng Bollinger Band rất hiệu quả vì nó phản ánh đúng các diễn biến của thị trường, điều này đã được các chuyên gia thống kê thẩm định mức độ tin cậy của chỉ số Bollinger Band là rất cao.             • Bollinger Band giao động ở mức nhỏ nó xác nhận giá ít biến đổi hơn.             • Khi đường giá thóat ra khỏi cái dải (band) thì nó có khuynh hướng sẽ tiếp tục.             • Khi thị trường ở đỉnh hay đáy, đầu tiên đường giá thóat ra khỏi dải và sau đó nó sẽ trở lại vào trong dải. Thị trường lúc đó sẽ đi ngược lại với xu hướng đang tồn tại.             • Sự di chuyển của đường giá nếu bắt đầu từ 1 dải thấp hoặc cao nó sẽ tiếp tục đi đến dải đối diện. Sau đây là ví dụ minh họa: Đồ thị 1: Ví dụ minh họa sử dụng dãy Bollinger Bands Mũi tên thứ 1 trrn đò thị 1 là thị trường đang tiến đến dải trên và tín hiệu mua được phát ra trong giai đọan này. Tín hiệu bán trong được phát ra cho đến khi ở vị trí mũi tên số 3, một cái đỉnh thóat ra khỏi dải ở mũi tên số 2 nhưng sau đó là sự trở vào dải của đường giá. tại mũi tên số 3 là sự di chuyển của giá đến dải thấp ở vị trí mũi tên số 4. 2.1.7.2 Moving Average Convergence Divergence (MACD) MACD là một trong những chỉ số được sử dụng nhiều nhất trong phân tích kĩ thuật. Được tạo ra bởi Gerald Appel, MACD đo sự chênh lệch giữa 2 chỉ số trung bình trượt hàm mũ trong 12 và 26 ngày. Bên cạnh MACD, một chỉ số khác là MACDA được phát triển bằng cách tính trung bình trượt trong 9 ngày của MACD. Chỉ số này được xem như là chỉ số “dấu hiệu”. Đường 1 - MACD, được tính như sau:   MACD = EMA(12) – EMA(26) Đường thứ 2 - MACDA, là đường trung bình trượt hàm mũ của đường 1, được tính như sau:   MACDA(n) = MACD(n-1)+[k*(MACD(n)-MACD(n-1)  Với n là khoảng thời gian hiện tại, k là hằng số làm trơn, và 9 là số điểm mẫu MACD được sử dụng để tính MACDA. Cách sử dụng Cách sử dụng MACD khá đơn giản, tín hiệu giao dịch chủ yếu dựa trên sự giao nhau của đường MACD và MACDA. Trong ví dụ trên, màu xanh là đường MACD và màu đỏ là đường MACDA. Mua vào khi đường xanh cắt và vượt lên trên đường đỏ và bán ra khi đường xanh cắt và ở phía dưới đường đỏ. Đồ thị 2: Ví dụ minh họa sử dụng đường MACD Từ đồ thị trên có thể thấy tín hiệu mua đầu tiên vào đầu tháng 11, sau đó là tín hiệu mua vào tiếp tục xuất hiện vào đầu năm 2007 và tiếp theo là một tín hiệu bán khác vào khoảng giữa tháng tháng 3. Mỗi tín hiệu này được xem như một dấu hiệu cho phép ta chuyển sang một vị thế mới mà không nhất thiết phải dừng hoặc thoát ra khỏi thị trường. MACD là chỉ số xu hướng, nó không có các giới hạn trên và dưới. Nó cũng có thể sẽ tăng mãi chứ không dừng lại như các chỉ số giao động, vì thế chúng ta không nên áp dụng các nguyên tắc của đường bán quá nhiều/mua quá nhiều cho MACD. Thay vì thế, chúng ta nên dùng đường 0 như một đường tham chiếu: khi đường MACD vượt lên trên hoặc xuống dưới đường 0, đó là báo hiệu cho một sự thay đổi xu thế dài hạn. Nếu MACD vượt lên trên đường 0, xu thế thị trường bò tót xuất hiện và nếu dưới 0, đó là xu thế thị trường gấu. Trong ví dụ trên, tất cả các giao điểm đều nằm phía trên đường 0, vì thế rõ ràng chúng đang ở thị trường bò tót. Mặc dù MACD là chỉ số không có giới hạn, nó vẫn có những nét đặc thù riêng của mình. Thường thì các đỉnh của đường MACD xảy ra ở cùng một mức. Vì thế khi chỉ số MACD đạt tới giá trị của đỉnh trước đó, chúng ta có thể xem đó là một sự thay đổi vị thế ngắn hạn. Ngoài ra, cũng rất có thể xảy ra trường hợp nó sẽ tiếp tục tăng trong dài hạn. Đặc tính này của MACD giúp ích rất nhiều cho nhà phân tích vì họ không còn phải quan sát 2 đường trung bình trượt một cách riêng biệt. 2.1.7.3 RSI (Relative Strength Index)  Chỉ số RSI giải quyết vấn đề của những dịch chuyển bất thường và giải quyết nhu cầu về một biên độ giới hạn trên và dưới không đổi. Chỉ số RSI được xác định theo công thức sau:   RSI = 100 - 100/(1+RS)    RS = Trung bình giá đóng cửa tăng của x ngày/Trung bình giá đóng cửa giảm của x ngày  Số ngày được sử dụng trong tính toán là 14 ngày theo đồ thị hàng ngày; sử dụng đồ thị tuần số ngày sẽ là 14 tuần. Để xác định được các giá trị trung bình đi lên, chúng ta cộng tổng số điểm đạt được trong các ngày giá tăng trong 14 ngày và chia tổng số đó cho 14. Để xác định giá trị trung bình đi xuống, chúng ta cộng tổng số điểm bị mất trong 14 ngày giá giảm và chia lại cho 14. Sau đó “cường độ tương đối - RS” được xác định bằng cách chia trung bình giá tăng cho trung bình giá giảm. Giá trị RS này sau đó được đưa vào trong công thức tính RSI. Đồ thị 3: Ví dụ minh họa cách sử dung đường RSI Đường RSI (sử dụng RSI 14 ngày) trong trường hợp này chúng ta có thể lấy 2 mức biên là 80 (overbought) và 20 (eoversold), biểu đồ đã cho thấy RSI đang đi xuống khi gặp mức 80 như vậy giá sẽ không thể vượt hơn mức trước đó và bạn nên mua khi giá rớt xuống tới lúc mà đường RSI chạm mức 30 ( chúng ta nên chọn 30 thay cho 20 trong trường hợp này). Tuy nhiên để rõ hơn thì cần kết hợp với đường Stochastic Oscillator hay ADX. Sử dụng RSI trong hệ thống mua bán (trading system)             • Các mức của RSI: 70% (thường dùng là 80%) là mức mà nhà đầu tư bán quá nhiều (overbought), 30% (thường dùng là 20%) là mức mà nhà đầu tư mua quá nhiều (oversold). Mua khi thị trường ở mức oversold và bán khi thị trường ở overbought lưu ý chỉ áp dụng điều này cho 1 thời kỳ biến động còn khi đang hình thành 1 xu hướng thì sẽ không đúng. • EMA như là vai trò của đường hỗ trợ hay kháng cự (support or resistance). Mua khi RSI tăng lên trên EMA và bán khi RSI rơi xuống dưới EMA. EMA là 1 tính hiệu trễ và thường đưa ra tín hiệu mua khi vượt qua thời kỳ uptrend.             • Bullish divergence (tín hiệu phân kỳ mua): tín hiệu mua khi đường giá đang đi xuống trong khi RSI thì đang tăng, tương tự bearish divergence (tín hiệu phân kỳ bán): tín hiệu bán khi đường giá tăng trong khi đường RSi thì lại giảm. Mặt hạn chế của sự phân kỳ (divergence) là chúng cố gắng báo trước 1 xu hướng đảo chiều thay vì xác định theo 1 xu hướng.             • Dạng đồ thị: xu hướng, kháng cự/hỗ trợ, tam giác (triangles), đầu-vai (head and shoulders) khi áp dụng RSI nó giống như đường dẫn cho giá. Cái dở là dạng đồ thị: xu hướng, tam giá... là quan điểm cá nhân phụ thuộc vào chủ quan của từng traders nên không thể sử dụng trong trading system. 2.1.7.4 Chỉ báo về xung lượng Momentum Chỉ số xung lượng đo tốc độ thay đổi của giá đóng cửa. Nó được sử dụng để nhận diện mức suy yếu của xu thế và các điểm đảo chiều. Chỉ số này thường bị đánh giá thấp do sự đơn giản của nó. Không có nhiều tài liệu nói về chỉ số xung lượng vì các nhà phân tích cho rằng nó không đủ mạnh và hiệu quả để sử dụng cho việc nghiên cứu và đánh giá.   Tôi thì cho rằng có một điều gì đó đằng sau mà chúng ta không nhìn ra. Và cuối cùng tôi cũng đã tìm thấy một điểm khá thú vị, điểm mà tôi rất tâm đắc về chỉ số này.  Đây cũng chính là ý tưởng mấu chốt của chỉ số này. Quá trình cung và cầu của thị trường thường sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lí của người giao dịch: lòng tham và nỗi sợ hãi. Điều đó có thể tạo ra cơn sốt khủng khiếp và những động thái đó sẽ chi phối đến giá cả hiện tại của thị trường. Thường thì việc phân tích xung lượng không được gắn liền với các chiến lược và phương pháp trong giao dịch. Trước nay, các nhà phân tích chỉ sử dụng nó một cách đơn lẻ mà không quan tâm nhiều đến mối quan hệ với khối lượng và động thái của thị trường. Đó có thể là lí do tại sao chỉ số này không thật sự được sử dụng hiệu quả và thường bị coi nhẹ. Tuy nhiên, các đồ thị lại chỉ ra rằng xung lượng của giá khi được sử dụng kết hợp với các chỉ số đủ nhạy sẽ cho ra một kết quả rất quả quan, ngoài sức tưởng tượng.  Cách tính chỉ số xung lượng Mỗi đơn vị xung lượng là sự chênh lệch về giá giữa đơn vị đó và các đơn vị trước đó trong một số giai đoạn  nhất định. Thường thì chúng ta dựa vào giá đóng cửa, tuy nhiên cũng có một số công cụ vẽ đồ thị cho phép ta có những lựa chọn khác. Xung lượng được định nghĩa bằng tỉ số giữa giá hiện tại với giá trước đó N giai đoạn.   Momentum = Close(i)/Close(i-N)*100   Với:  Close(i)     là giá cuối ngày của thanh hiện thời            Close(i-N) là giá cuối ngày của thanh trước đó N thời kì. Cách sử dụng Đường xung lượng đi lên báo hiệu xu thế tăng giá đang mạnh dần và ngược lại đường đi xuống báo hiệu xu thế giảm giá đang yếu dần. Khi chỉ số xung lượng hướng lên, đó là tín hiệu mua vào và khi hướng xuống thì đó là tín hiệu bán ra. Chỉ số này hướng lên hay xuống giúp ích cho việc phát hiện xu hướng, các tín hiệu phân kì và bán quá nhiều/mua quá nhiều. Dưới đây là một trong những cách giao dịch sử dụng kỹ thuật này để bán cổ phiếu:            • Cho dù cả chỉ số xung lượng và RSI đều chỉ ra thời điểm mua quá nhiều trùng nhau, chúng ta vẫn không chắc chắn liệu có thể đó chỉ là một sự dịch chuyển mạnh để sau đó dẫn đến một sự phá vỡ (breakout) trong dài hạn hay không. Vì thế, chúng ta phải đợi cho đến khi 2 chỉ số này bắt đầu giảm. Khi đường giá tiến đến giữa Bollinger band (điểm M), chúng ta bắt đầu đặt lệnh bán trong ngắn hạn.             • Đặt mức dừng thua lỗ (stop loss) ngay sau đỉnh vừa được thiết lập (điểm P), nơi mà RSI cũng chạm đỉnh (điểm R) và sau đó bắt đầu giảm.             • Khi giá chạm đường dưới của Bollinger Band (điểm T1) chúng ta đã có thể thoát khỏi thị trường.  Bạn có thể sử dụng chiến thuật riêng của bạn. Đây chỉ là một phương pháp mà tôi thấy hiệu quả. Dưới đây là một trong những cách giao dịch sử dụng kỹ thuật này để mua cổ phiếu: • Cho dù cả chỉ số xung lượng và RSI đều chỉ ra thời điểm bán quá nhiều trùng nhau, chúng ta vẫn không chắc chắn liệu có thể đó chỉ là một sự dịch chuyển mạnh để sau đó dẫn đến một sự phá vỡ (breakout) trong ngắn hạn hay không. Vì thế, chúng ta phải đợi cho đến khi 2 chỉ số này bắt đầu tăng. Khi giá tiến đến giữa Bollinger band (điểm M), chúng ta bắt đầu đặt lệnh mua với mục đích dài hạn. Một điểm quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là khi RSI đi qua đường 30 lần đầu tiên (điểm X) trong khi chỉ số xung lượng đang đi xuống, liệu đây có phải thời điểm bạn nên mua vào hay không? Tất nhiên là không. Đây chính là điểm cốt lõi mà tôi muốn chỉ ra về hiệu quả của việc sử dụng chỉ số xung lượng trong việc dự đoán xu hướng khi mà những chỉ số khác không chỉ ra được.           • Đặt mức dừng thua lỗ (stop loss) ngay dưới điểm đáy vừa được thiết lập (điểm P), nơi mà RSI cũng chạm đáy (điểm R) và bắt đầu có xu hướng đi lên.             • Khi giá chạm đường trên của BollingerBand (điểm T1) chúng ta có thể thoát khỏi thị trường. 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.2.1. Phương pháp thu thập, xử lý số liệu. Trực tiếp thu thập số liệu thực tế được cung cấp từ Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ về Báo cáo tài chính qua các năm 2005, 2006, 2007 và Bảng cáo bạch. Đồng thời, em còn tham khảo thu thập số liệu, thông tin từ một số Website và một số sách báo, tạp chí chuyên ngành. Phương pháp xử lý số liệu: phương pháp mô tả thông qua bảng biểu thống kê, kết hợp phân tích, so sánh và đưa ra nhận xét, đánh giá kết quả để làm nổi rõ vấn đề nghiên cứu. Áp dụng phương pháp tỷ số, phương pháp số tuyệt đối, số tương đối qua các năm. 2.2.2. Phương pháp phân tích tình hình chung của công ty 2.2.2.1. Phương pháp so sánh - Bằng số tuyệt dối Là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích với kỳ gốc của chỉ tiêu kinh tế. ∆y = y1 - yo Trong đó: yo: chỉ tiêu năm trước; y1: chỉ tiêu năm sau ∆y: là phần chệnh lệch tăng, giảm của các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp này sử dụng để so sánh số liệu năm tính với số liệu năm trước của các chỉ tiêu xem có biến động không và tìm ra nguyên nhân biến động của các chỉ tiêu kinh tế, từ đó đề ra biện pháp khắc phục. - Bằng số tương đối Là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế. y1 ∆y = *100 - 100% yo Trong đó: yo : chỉ tiêu năm trước; y1: chỉ tiêu năm sau. ∆y : biểu hiện tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp dùng để làm rõ tình hình biến động của mức độ của các chỉ tiêu kinh tế trong thời gian nào đó. So sánh tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu giữa các năm và so sánh tốc độ tăng trưởng giữa các chỉ tiêu. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. 2.2.2.2 Phương pháp sơ đồ Dupont và một số phương pháp khác Phương trình Dupont phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận trên vốn đầu tư, sự luân chuyển của tài sản có, mức lợi nhuận trên doanh thu và mức nợ. ROA = Mức lợi nhuận trên doanh thu x Tỷ số luân chuyển tài sản có Lợi nhuận ròng Doanh thu ó ROA = x (1) Doanh thu Tổng tài sản có Phía bên trái của sơ đồ (1) triển khai mức lợi nhuận ròng trên doanh thu nhân với doanh thu trên tổng tài sản có. Nếu mức lợi nhuận thấp hoặc có xu hướng giảm, ta có thể phân tích từng khoản mục chi phí để tìm ra những chi phí bất hợp lý từ đó có những giải pháp xử lý thích hợp. Doanh thu trên tổng tài sản có tìm ra tỷ số luân chuyển tài sản có của một công ty. ROE = ROA x Hệ số vốn tự có Lợi nhuận ròng Tổng tài sản có ó ROE = x (2) Tổng tài sản có Vốn tự có Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có (ROE) được tính bằng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có (ROA) nhân với hệ số vốn tự có, tức là nhân với tỷ số tài sản trên vốn tự có. Ta kết hợp phương trình (1) và (2) để hình thành phương trình Dupont mở rộng: ROE = (Mức lợi nhuận trên doanh thu) x (Tỷ số luân chuyển TSC) x (Hệ số vốn tự có) Lợi nhuận ròng Doanh thu Tổng tài sản có ó ROE = x x (3) Doanh thu Tổng tài sản có Vốn tự có 2.2.2.3 Phương pháp sử dụng biểu đồ Sử dụng phần mềm phân tích kỹ thuật là Metastock để phân tích chứng khoán, sử dụng các đồ thị, hình vẽ kết hợp với công cụ phân tích kỹ thuật để đưa ra nhận định, đánh giá chứng khoán cần đầu tư. Để có thể vẽ biểu đồ và thiết lập các chỉ báo phân tích, dự đoán cho chứng khoán ta phải có dữ liệu. MetaStock có thể sử dụng nguồn dữ liệu được lưu trữ trong máy tính cá nhân (Local Data) hoặc dữ liệu RealTime Online được cung cấp qua Internet. Cách thông thường có thể áp dụng được ở Việt Nam là dùng Local Data. Để có dữ liệu, ta sẽ phải tự cập nhật - convert thông tin theo kết quả giao dịch hàng ngày của các trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc DownLoad dữ liệu đã được convert sẵn từ các website: www.bsc.com.vn, phantichcophieu.com, … Dữ liệu cho MetaStock thường được cập nhật vào file dạng ASCII Text hoặc Excel. Sau đó sẽ được cập nhật - convert vào MetaStock bằng The DownLoader. Về cơ bản, Dữ liệu cho MetaStock được lưu trữ theo từng ngày và từng loại chứng khoán bao gồm các thông tin sau: Ticker, Date, Open, High, Low, Close, Volume, … (Mã chứng khoán, Ngày, Giá mở cửa, Giá khớp lệnh cao nhất , Giá khớp lệnh thấp nhất, Giá đóng cửa, Khối lượng giao dịch,…) Chương 3 PHÂN TÍCH MỘT SỐ TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP CẦN THƠ 3.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP CẦN THƠ 3.1.1 Giới thiệu chung 3.1.1.1 Việc thành lập Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ có lịch sử hình thành và phát triển đến nay đã được trên 30 năm: - Sau giải phóng miền Nam, cuối năm 1976, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Hậu Giang quyết định thành lập Công ty Vật tư nông nghiệp Hậu Giang. - Trên cơ sở Công ty Vật tư nông nghiệp Hậu Giang, năm 1986 Ủy Ban Nhân Dân tỉnh sát nhập Công ty giống cây trồng, xí nghiệp giống và đến ngày 23/04/1986 Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Hậu Giang có quyết định số 12 về việc thành lập Công ty Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Hậu Giang. - Khi đăng ký thành lập lại công ty Nhà nước theo nghị định số 388 ngày 20/11/1991 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính Phủ), Công ty Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ được thành lập theo thông báo số 177/HĐBT/TB ngày 10 tháng 10 năm 1992 của Bộ Trưởng Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn) và quyết định số 1105/QĐ-UBT92 ngày 31/10/1992 của Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Cần Thơ. 3.1.1.2 Chuyển đổi sở hữu thành Công ty Cổ phần và niêm yết cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán Chuyển đổi sở hữu Tích cực hưởng ứng chủ trương Cổ phần hoá Công tyNhà nước, tháng 10 năm 2002 Công ty Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ đã có công văn đến Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Cần Thơ (nay là Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Cần Thơ) xin được cổ phần hoá. Sau một thời gian chuẩn bị, Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ được thành lập theo quyết định số 2500/QĐ-CT.UB ngày 25 tháng 07 năm 2003 của Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Cần Thơ về việc chuyển Công tyNhà nước Công ty Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ thành Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (hình thức cổ phần hoá: giữ nguyên vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn) và chính thức hoạt động theo hình thức Công ty Cổ phần từ ngày 01 tháng 08 năm 2003. Thời điểm trở thành công ty cổ phần đại chúng Theo quy định của Bộ tài chính và Uỷ Ban Chứng khoán Nhà nước, đến ngày 11 tháng 06 năm 2007, Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ đủ điều kiện của một Công ty Đại chúng và chính thức gởi hồ sơ đăng ký Công ty Đại chúng với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào ngày 21 tháng 06 năm 2007. Niêm yết Thực hiện đúng định hướng phát triển ngay từ khi chuyển thành Công ty Cổ phần, ngày 09 tháng 04 năm 2007 Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ ký hợp đồng tư vấn số 01 với đơn vị tư vấn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để thực hiện niêm yết cổ phiếu Công ty tại sàn giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh. Ngày 24 tháng 09 năm 2007, Tổng giám đốc Sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh có quyết định số 113/QĐ-SGDCK chấp thuận niêm yết cổ phiếu của TSC; Ngày 04 tháng 10 năm 2007, Cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ với mã chứng khoán TSC chính thức được niêm yết và giao dịch tại sàn giao dịch của HoSE. 3.1.2. Quá trình phát triển 3.1.2.1 Từ 1976 đến tháng 04 năm 1986 Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty Vật tư Nông nghiệp Hậu Giang là tiếp nhận Vật tư nông nghiệp (phân bón các loại) theo chỉ tiêu được Uỷ Ban kế hoạch Nhà nước cấp cho tỉnh để cung cấp cho các Công ty Vật tư Nông nghiệp các huyện theo kế hoạch phân bổ của tỉnh, sau đó các Công ty Vật tư Nông nghiệp cấp huyện sẽ cung ứng cho các Tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã, các nông, lâm trường quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hậu Giang (bao gồm diện tích của Thành Phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang và tỉnh Sóc Trăng ngày nay). 3.1.2.2 Từ tháng 04 năm 1986 đến tháng 10 năm 1992 Đây là giai đoạn từng bước chuyển đổi cơ chế quản lý, từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong quyết định số 12 ngày 23 tháng 04 năm 1986 của Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Hậu Giang về việc thành lập Công ty Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Hậu Giang có ghi rõ nhiệm vụ của Công ty là: cung ứng vật tư, giống cho huyện theo hợp đồng kinh tế giữa tỉnh và huyện; thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình sâu bệnh, kịp thời có kế hoạch và hướng phòng trừ phổ biến cho huyện, nghiên cứu và giúp đỡ huyện ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, tổ chức chỉ đạo kinh doanh các đơn vị trực thuộc, tổ chức thực hiện chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao. 3.1.2.3 Từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 07 năm 2003 Trong quyết định số 1105/QĐ-UBT 92 ngày 31 tháng 10 năm 1992 của Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Cần Thơ về việc thành lập Công ty Vật tư nông nghiệp Cần Thơ, ghi rõ ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Công ty là: kinh doanh phân bón, thuốc trừ sâu, nhập khẩu phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản xuất khẩu. Sau khi đăng ký thành lập lại công tytheo Nghị định 388/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng, Công ty Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ tổ chức gia công kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật, xuất khẩu gạo, nhập khẩu, kinh doanh phân bón và thí điểm chế biến nông sản xuất khẩu. Công ty có xí nghiệp thuốc sát trùng Cần Thơ là đơn vị hạch toán báo sổ. Tháng 05 năm 2002, thực hiện chủ trương cổ phần hoá Công tyNhà nước, Công ty đã xin cổ phần hoá Xí nghiệp thuốc sát trùng Cần Thơ và TSC giữ 30% vốn điều lệ tại Xí nghiệp này. Đến cuối tháng 07 năm 2003, Công ty hoàn tất việc cổ phần hoá, chính thức chuyển sang hoạt động dưới hình thức Công ty Cổ phần. Lúc này, nguồn vốn Công ty tham gia góp vốn tại Xí nghiệp thuốc sát trùng Cần Thơ được chuyển về cho Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Cần Thơ (nay là Uỷ Ban Nhân dân TP. Cần Thơ) quản lý. 3.1.2.4 Từ tháng 08 năm 2003 đến nay Chuyển hoạt động dưới hình thức Công ty Cổ phần từ ngày 01 tháng 08 năm 2003 theo quyết định số 2500/QĐ-UBT ngày 25 tháng 07 năm 2007 của Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Cần Thơ với vốn điều lệ 60 tỷ đồng. Trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty Cổ phần số: 5703000049 đăng ký lần đầu ngày 25 tháng 07 năm 2003 ngành nghề kinh doanh của TSC là: Nhập khẩu kinh doanh phân bón các loại. Thu mua, gia công, chế biến, cung ứng xuất khẩu gạo và các loại nông sản. Nhập khẩu kinh doanh máy móc thiết bị và tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp. Đại lý cung ứng các loại tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Để thực hiện định hướng phát triển, Công ty đã tiến hành tăng vốn điều lệ từ 60 tỷ đồng lên 83,12915 tỷ đồng vào tháng 04 năm 2007. Ngày 13 tháng 09 năm 2007 Công ty tiến hành đăng ký kinh doanh bổ sung lần thứ 03; Ngoài các ngành nghề đã đăng ký lần 1, trong lần đăng ký này Công ty bổ sung các ngành, lĩnh vực sau: nhập khẩu, kinh doanh nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc, thức ăn thuỷ sản; Sản xuất thức ăn gia súc, thức ăn thuỷ sản. Nhập khẩu, kinh doanh nguyên liệu, phụ liệu sản xuất thuốc bảo vệ thực vật và các chế phẩm phân bón. Nhập khẩu, kinh doanh hạt giống phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Kinh doanh địa ốc, bất động sản và văn phòng cho thuê. Các ngành nghề đăng ký kinh doanh bổ sung nằm trong định hướng mở rộng hoạt động của Công ty; tuy nhiên việc triển khai các ngành nghề lĩnh vực mới được cân nhắc 1 cách thận trọng sau khi phân tích tất cả các yếu tố có liên quan, chỉ triển khai khi thời cơ thuận lợi trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh tế. 3.1.3 Phân tich điểm mạnh, yếu, cơ hội, đe dọa của TSC 3.1.3.1 Điểm mạnh của TSC Trong suốt thời gian qua, Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ luôn là đơn vị kinh doanh có hiệu quả, dẫn đầu về hiệu quả sản xuất kinh doanh và luôn nằm 1 trong 5 vị trí các công ty có doanh số nhập khẩu phân bón lớn nhất Việt Nam. Như vậy, với vị thế là 01 trong 05 công ty nhập khẩu kinh doanh phân bón hàng đầu Việt Nam lại có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao và ổn định trong nhiều năm liền, rõ ràng Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ có ưu thế vượt trội so với các công ty khác trong ngành. Doanh thu hàng nhập khẩu của Công ty (kể cả trực tiếp nhập khẩu và mua lại hàng nhập khẩu của các đơn vị khác để tiêu thụ) hiện chiếm khoảng 10% thị phần tiêu thụ phân bón nhập khẩu trong cả nước. Hệ thống phân phối của Công ty là những đại lý lớn, có quan hệ với Công ty từ hơn 15 năm nay, có kinh nghiệm trong kinh doanh phân bón, vật tư nông nghiệp và đặc biệt đa số các đại lý này là cổ đông tương đối lớn của Công ty ngay từ khi Công ty thực hiện cổ phần hóa. Hệ thống đại lý này nằm rải rác ở khắp các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Đây là điểm mạnh nổi trội của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ so với các công tykhác trong cùng ngành. Với phương châm giao dịch “Ch+ính xác – Trung thực – Uy tín – Kịp thời – Đúng thông lệ quốc tế”, Công ty có uy tín rất cao với các nhà cung cấp, tạo thuận lợi cho Công ty trong ký kết và thực hiện các hợp đồng nhập khẩu. Trụ sở chính của Công ty đặt tại thành phố Cần Thơ – trung tâm của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long – vùng có tỷ trọng gạo xuất khẩu chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu của cả nước và tiêu thụ trên 60% lượng phân bón và vật tư nông nghiệp. Từ hơn 10 năm nay, thương hiệu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ đã trở nên quen thuộc, thân thiết và có uy tín với nông dân cả nước, đặc biệt là bà con nông dân ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Trong lĩnh vực vật tư nông nghiệp, thương hiệu TSC là một trong số ít thương hiệu 03 năm liền được bà con nông dân, các nhà khoa học và các cơ quan quản lý bình chọn là “Bạn nhà nông Việt Nam”. Trong suốt thời gian qua, thương hiệu TSC trên tất cả các sản phẩm (nông sản chế biến, thuốc bảo vệ thực vât, phân bón v.v…) được người tiêu dùng biết đến và có uy tín với người tiêu dùng trên các tiêu chí “Chất lượng sản phẩm tốt – Giá cả cạnh tranh – Dịch vụ chu đáo”. Chính điều này tạo tiền đề cho Công ty không chỉ tiếp tục phát triển kinh doanh các mặt hàng đã có mà còn giúp Công ty nhanh chóng mở rộng kinh doanh sang những lĩnh vực mới. Trong kinh doanh, chất lượng sản phẩm luôn luôn được Công ty đặt lên hàng đầu, vì thế trong suốt thời gian qua không có bất kỳ một sự khiếu nại nào từ khách hàng về các sản phẩm mà TSC hoặc WFC cung cấp: + Đối với phân bón: các loại phân bón Công ty nhập khẩu đều có xuất xứ từ các tập đoàn, nhà máy nổi tiếng trên thế giới. + Đối với gạo xuất khẩu: cho dù lượng gạo xuất khẩu của Công ty chưa nhiều nhưng hơn 15 năm qua gạo xuất khẩu của Công ty luôn đảm bảo chất lượng và hiện tại được khách hàng đánh giá là đơn vị có chất lượng gạo xuất khẩu tốt và ổn định nhất ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. + Đối với nông sản xuất khẩu: điều đặc biệt là Công ty Cổ phần Chế biến thực phẩm xuất khẩu miền Tây không xuất khẩu bán thành phẩm mà xuất khẩu sản phẩm tinh chế (đóng lon) với các tiêu chuẩn đã đạt được (ISO 9001-2000, HACCP, được FDA cho phép xuất khẩu sản phẩm trực tiếp vào thị trường Hoa Kỳ). Qua hơn 10 năm giữ được uy tín tuyệt đối trong các hợp đồng tín dụng, Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ giành được sự tín nhiệm rất cao từ các ngân hàng thương mại. Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ xây dựng được nếp văn hóa trong môi trường làm việc, tạo được sự đoàn kết, tương thân tương ái, phát huy tính năng động, sáng tạo trong công việc, từ đó giáo dục cho cán bộ nhân viên trong Công ty về phong cách sống làm việc và quan hệ cộng đồng. Nhiều năm liền Công ty được công nhận là cơ quan có đời sống văn hóa tốt. 3.1.3.2 Cơ hội của TSC Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đến năm 2010 diện tích gieo trồng của cả nước là 12.285.000 ha, trong đó cây lâu năm là 2.431.000 ha, cây hàng năm là 9.854.000 ha. Với diện tích gieo trồng này, nhu cầu phân bón của Việt Nam cho năm 2010 sẽ là: 2,1 triệu tấn Urê, từ 550 – 650.000 tấn DAP, từ 600 – 650.000 tấn Kali và khoảng 2,2 – 2,5 triệu tấn NPK (tính đến 31/05/2007, công suất phối trộn NPK của các nhà máy trong nước là trên 3 triệu tấn). Vấn đề đặt ra đối với các đơn vị nhập khẩu phân bón là phải tận dụng tốt các cơ hội nhập khẩu khi còn có thể kết hợp với kinh doanh phân bón nội địa và phải mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực ngành nghề khác. Đối với gạo xuất khẩu, trong nhiều năm tới xuất khẩu gạo vẫn là một trong những thế mạnh của Việt Nam, tuy nhiên trong quá trình hội nhập WTO tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt và hy vọng tìm kiếm lợi nhuận cao từ hoạt động thu mua, chế biến và xuất khẩu gạo là rất khó khăn. 3.1.3.3 Điểm yếu của TSC Tỷ trọng vốn của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) trong vốn chủ sở hữu Công ty quá cao (cuối năm 2006 là 67,3%, đến ngày 16/07/2007 là 56,88% và sẽ tiếp tục giảm khi Công ty thực hiện thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng để tăng vốn bởi vì Công ty không thuộc đối tượng Nhà Nước giữ cổ phần chi phối), điều này chỉ thuận lợi cho hoạt động của Công ty trong thời gian đầu thành lập. Qua 02 năm trở lại đây, thị trường ngành hàng kinh doanh của Công ty ngày càng biến động, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao thì tính chủ động nhạy bén hết sức cần thiết, nhưng bị hạn chế bởi Công ty còn phải thường xuyên tiếp xúc với cơ chế “xin – cho”. 3.1.3.4 Đe dọa của TSC Đối với phân bón: trong kinh doanh phân bón, mặt hàng có khả năng đem lại lợi nhuận cao là Urê. Nhưng kể từ năm 2005 trở lại đây, tập quán sử dụng phân bón của bà con nông dân, nhất là nông dân vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, đã thay đổi, lượng Urê sử dụng càng ít đi (qua theo dõi Công ty nhận thấy nhu cầu Urê năm 2006 giảm khoảng trên 30%), mà thay vào đó nông dân sử dụng phân hỗn hợp và phân vi sinh. Đạm Phú Mỹ với lợi thế được Nhà Nước bù lỗ khi đồng hành đầu vào gần như chiếm lĩnh thị trường làm cho Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh mặt hàng này. Một yếu tố nữa trong kinh doanh phân bón là từ năm 2006 giá cả trên thị trường thế giới biến động liên tục, khoảng cách giữa giá thế giới và giá tiêu thụ nội địa không theo quy luật thuận chiều. Đối với xuất khẩu gạo: đây là mặt hàng có rủi ro cao do gạo được xuất khẩu theo quy định riêng của Nhà nước. Nguyên tắc hàng đầu trong điều hành là an ninh lương thực và hầu như năm nào cũng có sự thay đổi trong chính sách, như: hạn chế, tạm ngưng, cấm xuất khẩu. Sự thay đổi chính sách trong điều hành xuất khẩu lương thực luôn ảnh hưởng đến giá lương thực trong nước, tồn đọng hàng hóa, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động, kết quả kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, gạo Việt Nam chưa có thương hiệu, hàng giá trị gia tăng còn ít nên tuy số lượng xuất khẩu nhiều nhưng giá trị không cao. Nhu cầu sử dụng phân bón của bà con nông dân giảm, sản xuất phân bón trong nước ngày càng phát triển, số công ty tham gia nhập khẩu và kinh doanh phân bón ngày càng nhiều làm cho tính chất cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. 3.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUA CÁC NĂM 2005, 2006, 2007 Trong suốt thời gian qua, Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ luôn là đơn vị kinh doanh có hiệu quả, dẫn đầu về hiệu quả sản xuất kinh doanh và luôn nằm 1 trong 5 vị trí các công ty có doanh số nhập khẩu phân bón lớn nhất Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan, trong năm 2006 tổng lượng phân bón nhập khẩu vào nước ta là 3.118.785 tấn các loại, với tổng trị giá là 687.419.217 USD. Năm 2006 có tới 310 công ty thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia nhập khẩu phân bón (năm 2005 là 256 doanh nghiệp) nhưng chỉ có 142 công ty có kim ngạch nhập khẩu từ 100 ngàn USD trở lên. Trong năm 2006, tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của TSC là 36.224.222 USD, chiếm 7,68% kim ngạch của nhóm 21 doanh nghiệp có kim ngạch nhập khẩu cao và bằng 5,27% tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón năm 2006 của cả nước. Công ty luôn luôn hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước giao (khi còn là DNNN) và khi chuyển sang Công ty cổ phần, Công ty vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, hoàn thành vượt mức kế hoạch do Đại hội đồng cổ đông giao cho, dưới đây là những chỉ tiêu chủ yếu của Công ty thực hiện được trong 3 năm qua. Bảng 1: Tình hình hoạt động kinh doanh qua các năm 2005, 2006, 2007 ĐVT: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007   Tổng doanh thu    879.702  1.138.957  1.376.645   Các khoản giảm trừ   - -  1.555    Doanh thu thuần    879.702   1.138.957   1.375.090    Giá vốn hàng bán    854.703   1.098.513   1.252.296    Lợi nhuận gộp    24.999  40.444  122.794   Thu nhập hoạt động tài chính    10.650   13.664   9.853    Chi phí hoạt động tài chính    15.768   18.091   17.720       Trong đó: lãi vay phải trả    14.181   15.966   17.632    Chi phí bán hàng    13.885   23.114   27.471    Chi phí quản lý công ty   6.494   4.819   9.056    Lợi nhuận thuần từ HĐKD    (498)  8.084  78.399   Thu nhập khác    14.098   6.369   2.332    Chi phí khác    291   767   760    Lợi nhuận khác    13.807   5.602   1.572    Tổng lợi nhuận trước thuế    13.309  13.686  79.971   Thuế TNDN phải nộp    452  1.238  11.329   Lợi nhuận sau thuế    12.857   12.448   68.642  (Nguồn: Báo cáo kết quả Hoạt động kinh doanh của TSC qua 3 năm) Doanh thu của công ty có sự tăng trưởng khá, năm 2006 tăng 29,5% so năm 2005. Theo đó, trong năm 2007 Công ty đã đạt 1.375,09 tỷ đồng doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh, bằng 105,78% kế hoạch do HĐQT đã đề ra, tăng 20,8% so với năm 2006 tương đương tăng 236,493 tỷ đồng. Nếu tính riêng năm 2006 Công ty đã thực hiện mua vào 225.871,112 tấn phân bón và 38.198,222 tấn gạo, bán ra 233.877,5 tấn phân bón và 38.198,222 tấn gạo, đạt doanh thu thuần về hoạt động kinh doanh là 1.138,957 tỷ đồng. Với lực lượng cán bộ nhân viên của Công ty là 40 người, điều này đã chứng minh cho thấy TSC đã bố trí lao động hợp lý và sử dụng lao động có hiệu quả. Bên cạnh đó, có thể khẳng định rằng Công ty có chi phí kinh doanh thấp nhất so với các công ty kinh doanh khác cùng ngành hàng, chính điều đó đã làm cho hoạt động của Công ty có tính cạnh tranh cao. Chẳng hạn năm 2006, với doanh số 1.138.957.424.523 đồng, Công ty đã thu về lợi nhuận trước thuế là 13.686.268.974 đồng, bằng 1,2% doanh thu thuần và bằng 19,93% vốn điều lệ; trong khi đó một đơn vị khác kinh doanh cùng ngành hàng với doanh thu thuần đạt được trên 2.100 tỷ đồng nhưng chỉ thu về lợi nhuận trước thuế gần 1,9 tỷ đồng bằng 0,088% trên doanh thu và bằng 5,56% vốn chủ sở hữu. Tương tự năm 2007 tổng lợi nhuận sau thuế năm 2007 Công ty đạt 71,051 tỷ đồng, bằng 202,7% kế hoạch lợi nhuận năm 2007, tăng 422,05% so với năm 2006 tương đương tăng 57,441 tỷ đồng. Qua bảng số liệu ta thấy được rằng tổng lợi nhuận trước thuế ngoài việc được hình thành từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh, còn có một khoản lợi nhuận khác góp vào đó là lợi nhuận của hoạt động bất thường ngoài hoạt động kinh doanh của công ty, tuy nhiên khoản thu nhập này giảm qua các năm, thấy rằng hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả dựa vào ngành nghề kinh doanh chính. Lợi nhuận Công ty tăng không điều trong 3 năm, tăng cao nhất trong năm 2007, thấp nhất năm 2005. Nhất là lợi nhuận góp tăng mạnh trong năm 2006 và năm 2007, năm 2006 thì tăng lên 61,8% so với năm 2005, năm 2007 thì tăng lên gấp 3 lần so với năm 2006, cho thấy tình hình kinh doanh của công ty ngày càng tốt lên. Tổng lợi nhuận sau thuế năm 2007 Công ty đạt 71,051 tỷ đồng, bằng 202,7% kế hoạch lợi nhuận năm 2007, tăng 422,05% so với năm 2006 tương đương tăng 57,441 tỷ đồng. Công ty phân phối lợi nhuận năm 2007 như sau: trích lập quỹ dự trữ 15% số tiền là 10,658 tỷ đồng; trích quỹ khen thưởng phúc lợi 2,333 tỷ đồng; chi trả cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 40% số tiền là 33,252 tỷ đồng; thưởng cho Tổng Giám đốc 5% lợi nhuận sau thuế do TSC vượt kế hoạch số tiền là 1,814 tỷ đồng; số còn lại trích lập quỹ đầu tư phát triển là 22,994 tỷ đồng. Từ kết quả trên ta thấy công ty luôn quan tâm đến các khu vực sản xuất, kinh doanh. Thời gian qua công ty thường xuyên tổ chức lại cơ sở sản xuất, đội ngũ nhân viên, nâng cao chất lượng quản ký điều hành đối với xí nghiệp và đơn vị trực thuộc, cải tiến cơ chế khoán chi phí, tiền lương, tiền thưởng trên doanh thu, để kích thích tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên và có chính sách ưu đãi đối với công nhân viên chức có năng lực.Qua khái quát kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh TSC trong 3 năm 2005, 2006, 2007 ta nhận thấy xí nghiệp không ngừng cố gắng phấn đấu trong sản xuất kinh doanh, hướng mạnh ra thị trường nhằm tăng lợi nhuận. Biểu hiện cho việc kinh doanh ngày càng tiến triển thuận lợi là sự tăng nhanh về tổng doanh thu, lợi nhuận, tổng quỹ lương và số thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên. Nhận xét: Qua phân tích ta thấy tuy ở năm 2005 tuy lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bị âm nhưng lợi nhuận này lại đạt dương rất cao ở năm 2006 và năm 2007. Đây là dấu hiệu cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty có xu hướng phát triển tốt. Nhìn một cách tổng quát, ta thấy trong cả 3 năm chi phí tài chính đều lớn, nguyên nhân chính là do chi phí lãi vay quá lớn dẫn đến chi phí tài chính lớn. Sở dĩ như vậy là do chưa xử lý xong công nợ tồn đọng cũ, công ty bị chiếm dụng vốn kéo dài dẫn đến tình trạng thiếu vốn trong kinh doanh nên công ty phải vay ngân hàng một khoản vốn lớn để đảm bảo cung cấp đủ vốn đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Cũng chính điều này đã dẫn đến lợi nhuận chung của toàn công ty thấp vào năm 2005 và năm 2006 . Tuy nhiên, công ty đã khắc phục dần tình trạng này ở năm 2007. Đây là kết quả của sự cố gắng rất lớn của toàn thể công ty dù trong kinh doanh công ty đã gặp không ít khó khăn nhưng Ban Giám đốc đã chỉ đạo tập thể cán bộ công nhân viên công ty ra sức phấn đấu tìm mọi biện pháp tiết kiệm chi phí để đem lại doanh thu cao nhất cho đơn vị. Bên cạnh đó, các hoạt động khác ngoài hoạt động kinh doanh cũng đem lại cho công ty những khoản lợi nhuận khá cao trong 3 năm qua. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh của công ty trong 3 năm qua là có hiệu quả ngày càng cao. Vì vậy, để tiếp tục nâng cao hiệu quả trong kinh doanh thì công ty cần có nhiều biện pháp tích cực hơn nữa trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn trong kinh doanh để có thể khắc phục tình trạng thiếu vốn, hạn chế bớt việc vay vốn ngân hàng. Đồng thời công ty cần phải tăng cường kiểm soát chặt chẽ các loại chi phí, mạnh dạn cắt giảm đối với những chi phí không cần thiết để tiết kiệm chi phí, bên cạnh đó công ty cũng phải tích cực thực hiện các biện pháp làm tăng doanh thu nhằm đưa hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng có hiệu quả hơn 3.3. PHÂN TÍCH CÁC CHỈ SỐ TÀI CHÍNH CỦA TSC 3.3.1 Chỉ tiêu hiệu quả Bảng 2: Các chỉ số tài chinh dùng để phân tích hiệu quả kinh doanh Đơn vị tính: % Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Lợi nhuận gộp/ Doanh thu 2,8 3,6 8,9 EBIT / Doanh thu 3,1 2,6 7,1 Lợi nhuận trước thuế/ Doanh thu 1,5 1,2 5,8 Lợi nhuận sau thuế/ Doanh thu 1,5 1,1 5,0 ROA 3,6 3,9 15,0 ROE 16,1 15,0 43,8 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt kinh doanh TSC qua 3 năm) * Đối với tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu: Năm 2004 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,5 đồng lợi nhuận trước thuế, năm 2006 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,2 đồng là lợi nhuận trước thuế (giảm so với năm 2003 là 0,3 đồng), và năm 2007 trong 100 đồng doanh thu có 5,8 đồng lợi nhuận trước thuế (tăng 4,6 đồng so với năm 2006) * Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu: Năm 2005 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,5 đồng là lợi nhuận sau thuế, năm 2006 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,1 đồng lợi nhuận sau thuế (giảm 0,4 đồng so với năm 2005) và năm 2007 trong 100 đồng doanh thu thì có 5 đồng lợi nhuận sau thuế (tăng 3,9 đồng so với năm 2006). Xét khoản doanh thu thuần qua 3 năm đều tăng nhưng giá vốn cũng tăng theo làm cho các tỷ lệ biến động phức tạp. Nguyên nhân là do năm 2006, năm 2007 giá cả phân bón thế giới tăng đột biến. Đồng thời chi phí sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng,…cũng đồng loạt tăng. Về phần công ty thì liên tục đầu tư máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng và những thiết bị mới đưa vào sử dụng chưa tạo hiệu quả cao nên làm cho tỷ lệ này có chiều hướng giảm xuống. * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA): Tương tự như tỷ suất trên ta thấy được cứ 100 đồng tài sản sinh ra 3,6 đồng lợi nhuận sau thuế vào năm 2005; 3,9 đồng vào năm 2006 và sinh ra 15 đồng lợi nhuận vào năm 2007. Các tỷ số vừa tính được đã thể hiện các kết quả rất khả quan. Cả lợi nhuận trước và sau thuế đều tăng trưởng cao qua các năm trong khi giá trị tài sản năm sau giảm thấp hơn năm trước. Điều này cho thấy việc sử dụng vốn của xí nghiệp đã mang lại hiệu quả cao và cần phát huy hơn nữa để có thể bù đắp cho những vấn đề khác. * Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Với kết quả tính toán trên ta thấy rằng các tỷ suất qua các năm đều tăng. Năm 2005 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu thì tạo ra 16,1 đồng lợi nhuận, năm 2006 cứ 100 đồng tạo ra 15 đồng lợi nhuận và năm 2007 trong 100 đồng vốn bỏ ra thì thu được 43,8 đồng lợi nhuận. Đây là biểu hiện tốt của công ty cho thấy hiệu quả sử dụng vốn ngày một tăng. 3.3.2. Phân tích Dupont Phân tích khả năng sinh lời qua chỉ số Dupont thực chất chính là phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, đây là tiêu chuẩn phổ biến nhất người ta dùng để đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích dựa vào chỉ số Dupont sẽ giúp ta kết hợp đánh giá tổng hợp khả năng sinh lời của doanh nghiệp, đồng thời giúp ta đề xuất những biện pháp để gia tăng suất sinh lời của vốn chủ sở hữu. Sử dụng phương trình Dupont ở mục 2.2.2.2 ta có kết quả bảng tính như sau: Bảng 3: Phân tích mô hình phương trình Dupont Đơn vị tính : % Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Mức lợi nhuận trên doanh thu (a) 1,5 1,1 5,0 Tỷ số luân chuyển tài sản có (b) 244,3 359,6 301,3 Hệ số vốn tự có (c) 450,6 381,9 291,5 ROE = (a) x (b) x (c) 16,1 15,0 43,8 Trong năm 2007 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu có thể tạo ra 43,8 đồng lợi nhuận, so với năm 2006 thì đã tăng 28,8 đồng. Nguyên nhân tăng là do tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng, công tysử dụng vốn hiệu quả hơn và giảm sử dụng nợ. Giai đoạn từ 2005 – 2006 tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có chiều hướng giảm, cụ thể là năm 2005 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu thì đem lại 16,1 đồng lợi nhuận, năm 2006 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu đem lại 15 đồng lợi nhuận (giảm 1,1 đồng so với năm 2005). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm, đồng thời hệ số quay vòng vốn cũng giảm. Như vậy, qua quá trình phân tích ta thấy các năm 2005, 2007 hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của công ty tốt hơn nhiều so với năm 2006 và tốt nhất là vào năm 2007. Tuy nhiên từ sau năm 2006 hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu có chiều hướng giảm, do đó trong những năm tới công ty cần phải nâng dần hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu lên bằng cách nâng số vòng quay vốn và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Chỉ tiêu quản lý Bảng 4: Các chỉ tiêu quản lý Đơn vị tính: vòng Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Vòng quay khoản phải thu - - 9.0 Vòng quay hàng tồn kho 4,5 8,1 6,2 Chu kỳ tiền mặt 80,5 44,8 98,9 Vòng quay tổng tài sản 2,4 3,6 3,0 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán qua 3 năm) Kết quả bảng số liệu trên cho thấy vòng quay khoản phải thu là khá cao ở năm 2007. Năm 2007 số vòng quay khoản phải thu là 9 vòng điều này thể hiện khả năng thu hồi các khoản phải thu của công ty là khá nhanh. Đây là biểu hiện tốt cho thấy công ty đã cố gắng thu hồi các khoản nợ, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vòng quay hàng tồn kho: chỉ tiêu này chỉ rõ hàng hóa tồn kho được thanh toán trong kỳ phân tích và sự luân chuyển này thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng hóa đã bán với khối lượng hàng hóa còn tồn trong kho. Năm 2005 vòng luân chuyển là 4,5 đồng nghĩa là trung bình hàng tòn kho mua về bán ra được 4,5 lần trong một năm. Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho năm 2007 lớn hơn năm 2005 là 1,7 vòng và nhỏ hơn năm 2006 là 1,9 vòng. Nghĩa là tốc độ quay vòng hàng tồn kho ngày càng cao, nhưng không điều qua các năm, cụ thể: + Công ty hoạt động đạt hiệu quả trong việc nhập khẩu, sản xuất, sự trữ hàng tồn kho và bán hàng. + Công ty đã giảm được lượng vốn đầu tư cho hàng dự trữ. + Rút ngắn được chu kỳ liên quan đến việc chuyển đổi hàng tồn kho thành tiền mặt. + Giảm bớt nguy cơ để hàng dự trữ trở thành hàng ứ đọng. Vòng quay tổng tài sản: Việc sử dụng tài sản có hiệu quả hay không cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Chỉ tiêu số vòng quay tài sản phản ánh một đồng vốn tài trong kỳ tham gia tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Từ bảng số liệu ta thấy vòng quay tài sản có tốc độ tăng liên tục qua 3 năm nhưng không đồng đều, chẳng những thế mà số vòng quay còn rất cao. Nếu năm 2005 số vòng quay tài sán vốn là 2,4 vòng thì đến năm 2006 đã tăng lên 3,6 vòng. Qua đó ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều này có nghĩa là công tác quản lý, sử dụng tài sản cố định của công ty ngày càng hợp lý và có hiệu quả hơn. Đây là kết quả rất đáng phấn khởi. Hệ số thanh toán Bảng 5: Các hệ số thanh toán Đơn vị tính: lần Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Thanh toán hiện tại 1,2 1,3 1,4 Thanh toán nhanh 0,5 0,7 0,7 (Nguồn: Bảng Cân đối kế tóan TSC qua 3 năm) Tỷ lệ thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ so sánh giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn, thể hiện khả năng chuyển đổi thành tiền của vốn lưu động. Hệ số thanh toán được cải thiện qua các năm, Trong năm 2005, hệ số thanh toán là 1,2 nhưng sang năm 2006 là 1,3 và đến năm 2007 hệ số này là 1,4. Điều này chứng tỏ công ty cải thiện được tình hình sản xuất kinh doanh giảm tình trạng bị chiếm dụng vốn, chủ động hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh Tỷ số khả năng thanh toán nhanh sẽ cho biết khả năng thanh toán thật sự của xí nghiệp và được tính toán trên các tài sản lưu động có thể chuyển đổi nhanh thành tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán cần thiết. Theo số liệu tính toán bên trên ta nhận thấy rằng 3 năm qua công ty TSC có khả năng thanh toán nhanh rất tốt và qua các năm khả năng thanh toán của xí nghiệp có dấu hiệu tăng lên. 3.3.5 Chỉ tiêu trên cổ phần Bảng 6: Các chỉ tiêu trên vốn cổ phần Năm Chỉ tiêu Đơn vị tính 2005 2006 2007 P/E Lần - - 11,3(*) EPS Đồng 1.947,5 1.812,7 8.257,3 Doanh Thu/ cổ phiếu Đồng 133.251,8 165.859,5 165.416,1 Book Value Đồng 12.076,3 12.075 18.836,3 Cổ phiếu lưu hành Cổ phiếu 6.601.800 6.867.000 8.312.915 Cổ tức % 19,21% 18,84% 40% Mệnh giá Đồng 10.000 10.000 10.000 Ghi chú: (*) Số liệu lấy ngày 31/12/2007, giá thị trường của TSC là 54.000 đồng - P/E (Price/Earnings Ratio) là hệ số giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập mà nó mang lại. Đây là một trong những chỉ số phổ biến được niêm yết trên thị trường chứng khoán, trước hết biểu hiện mức giá nhà đầu tư sẵn sàng bỏ ra cho một đồng lời thu được từ cổ phiếu đó. Ở mã cổ phiếu TSC thì là P/E = 11,3 có nghĩa nhà đầu tư chịu bỏ ra 11,3 đồng để thu được 1 đồng lãi từ cổ phiếu này. Tuy nhiên, ý nghĩa quan trọng của P/E là phản ánh kỳ vọng của thị trường về sự tăng trưởng cổ phiếu trong tương lai hơn là kết quả làm ăn đã qua. Người ta so sánh P/E của các công ty cùng ngành, nếu chỉ số P/E của một công ty nào cao hơn mức bình quân, có nghĩa thị trường kỳ vọng công ty này sẽ ăn nên làm ra trong thời gian tới. Một công ty có chỉ số P/E càng cao thì kỳ vọng của thị trường vào lợi nhuận của công ty càng cao, do đó thu hút được càng nhiều các nhà đầu tư. Còn ngược lại khi họ ít hoặc không kỳ vọng vào khả năng sinh lời lớn của công ty thì mức giá họ sẵn sàng bỏ ra khi mua cổ phiếu thấp, dẫn đến chỉ số P/E thấp, biểu hiện giá cổ phiếu này đang trên xu hướng giảm. Chỉ số P/E nên dùng để quyết định mua hay không mua một loại cổ phiếu chỉ sau khi đã đối chiếu giữa các công ty cùng ngành và quan trọng là sau khi đã theo dõi xu hướng chỉ số này trong một thời gian tương đối dài. Quay lại với TSC ta thấy P/E = 11,3 vào ngày 31/12/2007 là rất thấp và hấp dẫn với tỷ lệ cổ tức được trả cho kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 là 40%. Theo đó là kế hoạch chi trả cổ tức trong các năm tới cũng rất cao. - Theo Nghị quyết Đại hội cổ đông thường niên của Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông Nghiệp Cần Thơ (Mã CK: TSC), lợi nhuận được phân phối của Công ty trong năm 2007 ở mức hơn 71 tỷ đồng. Trong đó, hơn 33,2 tỷ được dùng để chia cổ tức bằng tiền mặt cho các cổ đông với tỷ lệ 4.000 đồng/mệnh giá. Trong năm 2008, Công ty phấn đấu đạt doanh thu thuần ở mức 1.500 tỷ đồng và lợi nhuận được phân phối đạt mức hơn 75,2 tỷ đồng. Ta thấy tỷ lệ chi trả cổ tức của TSC là hấp dẫn so với các cổ phiếu niêm yết trên sàn HoSE. Chương 4 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CỔ PHIẾU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP CẦN THƠ 4.1 TÌNH HÌNH GIAO DỊCH CỔ PHIẾU TSC KỂ TỪ KHI NIÊM YẾT TRÊN HOSE 4.1.1 Khối lượng khớp lệnh giao dịch Dựa vào số liệu thống kê ở Phụ lục 1 và việc xử lý số liệu do phần mềm Metastock thực hiện sẽ cho ta những kết quả phân tích được thể hiện ở các biểu đồ sau đây: Khi đề cập đến một số phương pháp phân tích phổ biến dựa trên giá cả của cổ phiếu qua các phiên, ta có nhiều phương pháp và chỉ số phân tích khác nhau. Tuy nhiên sự phỏng đoán và xác nhận về giá cả trong tương lai không chỉ phụ thuộc vào giá của cổ phiếu tại mỗi phiên mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đó có khối lượng giao dịch trong ngày. Do đó vấn đề về phân tích khối lượng giao dịch trên thị trường của cổ phiếu TSC sẽ được đề cập trong phần này. Đồ thị 4: Khối lượng giao dịch TSC qua các phiên Ngày 04/10/2007, Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã chứng khoán TSC) đã chính thức đưa 8.312.915 cổ phiếu, tương đương với tổng giá trị chứng khoán niêm yết là 83.129.150.000 đồng, lên niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE). Đây là cổ phiếu thứ 116 có mặt tại sàn HoSE. Tại ngày giao dịch đầu tiên trên HoSE, cơ cấu sở hữu tại TSC chỉ có 20,89% (1,73 triệu cổ phiếu) thuộc sở hữu của các cổ đông ngoài công ty; 1,85 triệu cổ phiếu thuộc cán bộ công nhân viên và một số cổ đông đặc biệt; 4,73 triệu cổ phiếu còn lại (chiếm gần 57%) do Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) nắm giữ. Đây hứa hẹn là cổ phiếu thuộc loại “hàng hiếm" trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Quả thật như vậy, nhìn vào đồ thị 4 và Phụ lục số 1 ta thấy, ngay trong phiên giao dịch đầu tiên, chỉ có 9.890 cổ phiếu TSC được chuyển nhượng ở mức giá kịch trần 48.000 đồng/cổ phiếu (theo như tính toán HOSE trước đó, giá tham chiếu trong ngày giao dịch đầu tiên của TSC là 40.000 đồng, biên độ dao động giá trong ngày giao dịch đầu tiên là 20% so với giá tham chiếu). Nhận thấy trong thời qua khối lượng giao dịch có hai thời điểm rất đặc biệt tại điểm số (1) và (2) ở đồ thị 4. Tại hai điểm này tên đồ thị đã nói lên khi giá đang ở đỉnh điểm thì những người nắm giữ cổ phiếu TSC trước khi lên sàn HOSE thì họ bắt đầu bán ra để hiện thực hóa lợi nhuận của mình (ngoại trừ những đối tượng không được phép bán theo quy định của Luật Chứng khoán). Khối lượng giao dịch các phiên khá lớn và không đều đặn trong các tháng qua kể từ ngày khi niêm yết. Như vậy có thể thấy mặc dù cổ phiếu này giảm giá khá mạnh trong thời gian gần đây do tác động chung của thị trường nhưng khối lượng bán ra không ồ ạt mà khá đều đặn chứng tỏ nhiều người muốn bán nhưng không phải là bán tống bán tháo mà họ bán nhưng vẫn với hy vọng giá sẽ hồi phục nên bán ra với khối lượng vừa phải. Trong tình hình như vậy nếu cổ phiếu này hồi phục thì nhừng người đã bán cổ phiếu này sẽ tìm cách mua lại để gỡ lại khoản thua lỗ những người khác cũng sẽ rất muốn mua cổ phiếu này vì nghĩ là nó đã giảm giá khá nhiều nên có lẽ nó khá rẻ để mua. Như vậy nếu TSC tăng giá trở lại thì nó sẽ tăng rất nhanh và có thể khôi phục lại ở một mức giá khá cao. Hiện tại nhà đầu tư vẫn cầm chừng đối với cổ phiếu này chưa giám khẳng định về xu hướng sắp tới của nó. Tóm lại theo phân tích tại các thời điểm giá cổ phiếu đang ở đỉnh điểm thì khối luợng giao dịch cũng rất lớn như ở điểm số (1) và (2) trên đồ thị 4, do đó đây cũng là một dấu hiệu để nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu TSC có thể phản ứng kịp thời với thị trường để hiện thực hóa lợi nhuận của mình. Theo nhận định thì cổ phiếu TSC sẽ ngừng giảm giá và đảo chiều tăng giá trong thời gian không xa sắp tới và khi tăng giá nó sẽ tăng giá rất nhanh và đạt mức hồi phục khá cao. Trong điều kiện thị trường như hiện nay thì sự hồi phục của TSC sẽ không nhanh và được mặc dù xét riêng nó thì hoàn toàn có thể nhưng phải luôn nhớ là thị xu thế chung của thị trường luôn có tác động mạnh đến từng cổ phiếu trên thị trường. Giá khớp lệnh qua các phiên giao dịch Ý nghĩa của việc phân tích giá và khối luợng giao dịch cổ phiếu qua các phiên như sau: - Khi giá cả đang tăng, khối lượng giao dịch ít, phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường khan hiếm. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, khi những người nắm giữ cổ phiếu cảm thấy được giá thì họ sẽ tìm cách bán ra, sự bán ra của họ gặp đúng nhu cầu hàng của phe mua khiến cho khối lượng giao dịch thành công tăng cao, tốc độ tăng giá sẽ hãm lãi hoặc giảm giá. Một trường hợp khác là phe mua vào cảm thấy nếu tiếp tục mua vào với giá cao sẽ nguy hiểm nên họ chấm dứt việc mua vào, lượng cầu giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột biến. - Khi giá cả đang giảm, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường bị coi rẻ. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, một số nhà đầu tư cảm thấy được giá hời và muốn mua vào. Nhu cầu của họ gặp lượng cung bán ra lớn trên thị trường khiến cho khối lượng khớp thành công tăng cao, tốc độ giảm giá chậm lại hoặc tăng giá. Một trường hợp khác là phe bán ra cảm thấy nếu tiếp tục bán ra sẽ bị hớ nên họ chấm dứt bán ra, lượng cung giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột biến. - Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch nhỏ, thị trường ở trạng thái đóng băng. Lúc này không dễ đoán trước được điều gì. - Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch lớn tiềm ẩn một khả năng về sự thay đổi xu thế trong tương lai gần nhưng khó dự đoán. Trong trạng thái này cần theo dõi liên tục và thường xuyên các biến động trạng thái của thị trường dựa trên sự kết hợp với các phương pháp phân tích khác. Đồ thị 5: Giá khớp lệnh của TSC qua các phiên giao dịch Trở lại với cổ phiếu TSC, trong 2 phiên giao dịch đầu tiên, có nhiều nhà đầu tư quyết tâm mua cổ phiếu mới lên sàn là TSC nhưng không được. Ngày đầu tiên giao dịch (4/10/2007), khối lượng đặt mua TSC lên tới 6,5 triệu đơn vị cổ phiếu, trong khi khối lượng bán chỉ 9.890 cổ phiếu, khớp lệnh với giá 48.000 đồng, tăng trần 20% so với giá tham chiếu. Trong ngày 5-10, các nhà đầu tư đặt mua TSC với khối lượng lên đến 12,5 triệu cổ phiếu, nhưng số bán ra chỉ 3.200 cổ phiếu. Do cung cầu mất cân đối lớn nên TSC tiếp tục tăng kịch trần. TSC có vốn điều lệ 83 tỉ đồng, hoạt động chế biến nông sản có quy mô lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2007 (thời điểm bắt đầu lên sàn) là 35 tỉ đồng. Do thấy TSC đạt mức lợi nhuận khá cao, giá lại đang rẻ nên nhà đầu tư quyết săn lùng mua TSC cho bằng được và kỳ vọng cổ phiếu này sẽ tăng giá mạnh trong thời gian khá dài. Thực sự đều đó đã xảy ra khi giá cổ phiếu TSC tăng trần 16 phiên liên tiếp kể từ ngày giao dịch đầu tiên. Nhìn vào đồ thị 5 phân tích cho ta thấy giá cổ phiếu TSC có bốn điểm đặc biệt (1), (2), (3) và (4). TSC có giá đạt đỉnh điểm vào ngày 05/11/2007 với giá 116.000 đồng, và đạt đỉnh lần hai vào ngày 13/02/2008 với giá 105.000 đồng. Đợt điều chỉnh giá khá mạnh và đạt đáy vào ngày 26/03/2008. Tại vị trí số (4) giá cổ phiếu TSC bắt đầu hồi phục trở lại. Nếu có những thông tin hỗ trợ tích cực từ chính sách kinh tế vĩ mô thì xu hương tăng giá sẽ vững chắc hơn. 4.2 PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ VÀ DẤU HIỆU KỸ THUẬT TÁC ĐỘNG ĐẾN CỔ PHIẾU TSC 4.2.1 Relative Strength Index (RSI) Cũng dựa vào số liệu ở phụ lục 1 kết hợp với phần mềm Metastock và phần cơ sở lý luận được trình bày ở mục 2.1.7.3 cho ra kết quả ở đồ thị 6. Đây là đồ thị TSC với chỉ báo là RSI tìm điểm vượt mua và vượt bán được sử dụng rất phổ biến, đây là tín hiệu thường đến sớm hơn các tín hiệu khác nhưng kết quả của nó thì rất ấn tượng đối với các nhà đầu tư mới bước vào phân tích kỹ thuật. Các tín đồ theo trường phái này thường thận trọng hơn hay kết hợp với các chỉ báo khác để xác định buy signal (tín hiệu mua) thích hợp. Lựa chọn điểm vào thị trường dựa vào RSI là chưa đủ tuy nhiên như đã nói RSI là tín hiệu đến rất sớm nên phân tích trước. Đồ thị 6: Đường chỉ báo RSI của TSC Các tín hiệu mua ở các điểm số (2), (4) là rất rõ ràng trên đồ thị 6. Vào ngày 5/11/2007, vị trí số (1) ở đồ thị 6, RSI đang nằm ở khoảng 90, đây là vùng bán rất mạnh overbought (vượt bán) và khó xác định các tín hiệu mua vào thị trường. Đường RSI đây là tín hiệu bán nhưng nhìn kỹ thì giá cổ phiếu đang giảm trong khoảng (1) và (2) nhưng mua vào giai đoạn này thì rõ ràng lợi nhuận cũng không lớn lắm nhưng rũi ro lại rất cao nếu không có nhiều tín hiệu khác đủ mạnh để hổ trợ thì không nên nhảy vào ở điểm (2). Nhưng để ý trước đó đường RSI giao động rất ổn định ở khoảng 50 đủ dài và sau đó tiến lên ngưỡng oversold (vượt mua) cho thấy cổ phiếu này đang được nhà đầu tư mua mạnh sau khi chạm vào đường overbought lần thứ nhất. Tại vị trí số (1) RSI đạt gần giá trị 90 vào ngày 05/11/2007 tín hiệu vượt bán quá rõ ràng, rút khỏi thị trường tại thời điểm này là điều nên làm cho dù các tín hiệu khác vẫn còn khá mạnh đi chăng nữa vì nếu tiếp tục ghìm giá vào tình huống này là quá mạo hiểm. Rất may là vào cuối tháng 1 lực lượng đầu tư mới tham gia thị trường tăng mạnh đã cứu giá cổ phiếu tại giai đoạn này và giá cổ phiếu đi ngang gần 2,5 tháng. Nhưng điều chắc chắn rằng nếu vẫn giữ cổ phiếu tại điểm (3) trong khi không thu thêm được một khoảng lợi nhuận nào mà lại rơi vào tình huống rũi ro rất cao là điều không nên. Đường RSI sau khi từ điểm (1) tiến lên và chạm đường overbought lần 2 vào ngày 13/02/2008 ở vị trí số (3) trên đồ thị 4 và vẫn giao động đều đặn ở khoảng 80 sau đó bất ngờ cắt đường overbought là tiến đến giảm rất mạnh. Vẫn là phải nhìn lại trước đó đường RSI cũng như đường giá giao động rất mạnh và xu thế giảm trong khoảng thời gian đến ngày 26/03/2008 điều này cho thấy cổ phiếu đã có thời gian tích lũy đủ mạnh và khi đường RSI cắt qua đường oversold (30) vào ngày 26/03/2008 thì giá cổ phiếu bắt đầu tăng tại vị trí số (4). Khoảng thời gian tăng giá này diễn ra rất ngắn việc chớp được thời cơ này là điều không dể dàng. Tóm lại, từ vị trí (3) đường RSI đổ ngược trở xuống và giá cổ phiếu giảm là một điều đáng lưu ý. Đến ngày 26/03/2008 đường RSI lại có dấu hiệu đi lên và tiếp tục cắt đường oversold ở vị trí số (4) cũng là lúc nên mua cổ phiếu mà cần phải kết hợp các tín hiệu khác cũng như tình hình thị trường thế nào nếu không sẽ vuột mất cơ hội thu lợi nhuận trong khi đã chờ đợi khá lâu có người nói đùa nhưng rất chua chát là đến khi mình mất hết hi vọng và bán ra thì cổ phiếu lại tăng rất mạnh và rất là tiếc nuối. Tín hiệu mua (2) và (4) nếu nhìn kỹ là rất tương đồng sau khi giá cổ phiếu tích lũy (đi ngang) trong một khoảng thời gian đủ dài và sau đó đường RSI tiến lên phía trên rất mạnh cho thấy cổ phiếu đang được giới đầu tư quan tâm và khát khao để sở hữu. 4.2.2 Moving Average Convergence Divergence (MACD) MACD là một trong những chỉ số được sử dụng nhiều nhất trong phân tích kĩ thuật. Được tạo ra bởi Gerald Appel, MACD đo sự chênh lệch giữa 2 chỉ số trung bình trượt hàm mũ trong 12 và 26 ngày. Chỉ số này được xem như là chỉ số “dấu hiệu”. Cần có sự kết hợp của các indicator khác mới có thể xác định được thời điểm mua bán 1 cổ phiếu. Chỉ số RSI là chỉ số xung lượng thường thì đến chậm hơn các chỉ số xu hướng. Phần này xin đề cập đến chỉ số có thể xác định khả năng đảo chiều của xu hướng hiện tại MACD. Đồ thị 7: Đường chỉ báo MACD của TSC Số liệu ở phụ lục 1 kết hợp với phần mềm Metastock và phần cơ sở lý luận được trình bày ở mục 2.1.7.2 cho ra kết quả ở đồ thị 7. Nhìn đường chỉ báo có thể thấy rằng đường MACD có dấu hiệu cắt đường tín hiệu trong thời điểm hiện tại vị trí số (4) trên đò thị 7, cần phải xem xét diễn biến thị trường mới có thể xác định được xu hướng mau hay lâu hơn. Sau ngày giao dịch không hưởng quyền chia chia cổ tức ngày 25/12/2007 có thể thấy rõ đường MACD đã cắt đường tín hiệu và cả 2 đều đi xuống rất nhanh cho thấy một sự trượt giá rất mạnh các tín hiệu phân tích kỹ thuật cho thấy đầu tư ngắn hạn theo chỉ số có khả năng đã thấy trước được và rút khỏi thị trường, tạm ngừng mua cổ phiếu TSC tại thời điểm số (3) trên đồ thị 7. Cả 2 đường MACD tiếp tục cắt qua đường zero (0) đến tại thời điểm sau đó (4) trên đồ thị 7 cho thấy cổ phiếu dần tăng giá trở lại, đây là dấu hiệu quay lại với cổ phiếu TSC, có thể bắt đầu mua vào. Tuy nhiên để xác định chính xác xu hướng cần phải kết hợp với các yếu tố khác. Như đã nói ở phần RSI chỉ số xung lượng tìm điểm overbought (vượt mua) hay oversold (vượt bán) đã rơi xuống điểm oversold khá lâu rồi. Tại sao không kết luận đây là trường hợp bán quá mứt tự nhiên diễn ra như các số liệu về qui mô giao dịch hàng ngày sau ngày chia cổ tức bởi vì qui mô trên một lệnh bán là rất lớn cho thấy có sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức và của công ty niêm yết thường thì khi có dấu hiệu trượt giá mạnh các nhà đầu tư tổ chức và của công ty niêm yết sẽ thường mua lại để hổ trợ giá và từ từ phân phối vì họ nắm số lượng cổ phiếu rất nhiều nên việc giá giảm quá mứt thì không có lợi gì cho họ nhưng nếu để ý thời điểm này các thông tin tốt hổ trợ rất yếu các thông tin xấu đến đột ngột và rất nhiều họ đành chấp nhận bán ra cùng lúc với việc dìm giá hi sinh để có thời cơ thu gom lại cổ phiếu với giá rất rẻ để thu lợi nhiều hơn vào thời điểm cuối năm. Theo lý thuyết phân tích chứng khoán thì khi chỉ số xung lượng thể hiện khả năng bán quá mứt - oversold (đường RSI nằm dưới ngưỡng 30) mà đường MACD lại lệch rất nhiều so với đường zero(0) các tín hiệu phân tích kỹ thuật thường tìm cơ hội mua cổ phiếu ở thời điểm này vì cho rằng có khả năng giá cổ phiếu đã nằm gần đáy. Nếu không có sự kết hợp với các chỉ báo khác thì có thể nói nếu họ mua ở thời điểm này thì họ đã chấp nhận một mứt độ rủi ro cao hơn khi mua ở thời điểm mà mọi tín hiệu khác đã khá rõ ràng. Khả năng đường MACD có cắt đường tín hiệu và cả 2 cùng quay ngược lên đường zero (0) hay không. Phân tích kỹ thuật cũng chỉ có tính tương đối mà thôi thường cũng cần phải có sự may mắn một chút mới có thể thành công được. 4.2.3 Chỉ báo về xung lượng Momentum Ở các chỉ báo trước trong các phần viết về chỉ số phân kỳ và hội tụ của đường trung bình động MACD (Moving Average Convergence Divergence) và chỉ số sức mạnh tương đổi Relative Strength Index (RSI) đã cho thấy giao động giá của cổ phiếu TSC đang nằm trong vùng bán quá mứt (overbought) nên đã cho thấy một dấu hiệu tuy mờ nhưng cũng đảm bảo một cơ hội mua cổ phiếu TSC với giá có thể chấp nhận được. Như đã nói cần phải kết hợp với các chỉ báo khác, lúc này xin chọn chỉ số xung lượng momentum để lắp ghép thành một bức tranh chi tiết hơn. Đồ thị 8: Đường chỉ báo xung lượng Momentum của TSC Cũng từ các chỉ số trên cho thấy giá TSC đã đi theo xu hướng giảm là chủ đạo trong thời gian từ cuối năm 2007 đến nay, điều chúng ta mong đợi là khi nào thì xu hướng này dừng lại và đến lúc nào thì có một sự đảo ngược xu hướng. Mặt dù có nhiều người thường đánh giá rất thấp chỉ số xung lượng Momentum nhưng nếu có sự kết hợp của các chỉ số khác thì nó cũng đưa ra một số thông tin rất là bổ ích. Chỉ số xung lượng Momentum thường dùng để đo đà tăng trưởng của một cổ phiếu. nếu nhìn lại thời điểm gần ngày 05/11/2007, vị trí số (1) trên đồ thị 7, đường momentum đổ xuống rất nhanh với một góc rất hẹp cho thấy giá cổ phiếu đang tuột dốc không phanh. Vấn đề đâu là điểm dừng hãy nhìn kỹ chỉ báo một lần nữa, đường momentum đang bị khựng lại và không còn dốc xuống như trước nhưng bật lên được một chút xíu lại quay đầu lại cho thấy tình hình rất nhạy cảm của cuộc đấu sức của bò và gấu đang ở giai đoạn rất quyết liệt ở vị trí số (2) và (3) trên đồ thị số 8. Theo lý thuyết của đường momemtum thì nó hay khựng lại trong khi xu hướng giá hiện tại vẫn còn đang hiệu lực, nhưng nó sẽ bắt đầu dịch chuyển theo hướng ngược lại khi giá bắt đầu khựng lại. Quan sát đường momentum có thể khẳng định nhận định bên trên một lần nữa là xu thế tăng giá vẫn chưa đủ mạnh do quán tính quá lớn của đợt giảm giá mạnh cách đây không lâu. Nhưng qua phân tích các chỉ số trước cũng đã xuất hiện xu hướng tăng giá nhẹ sau thời giảm mạnh cùng với sự xuống dốc chung của thị trường. Đây là dấu hiệu cần chú ý vì đà giảm giá đã khựng lại, có xuất hiện một số tín hiệu tăng giá. Dãy băng Bollinger Ông John Bollinger đã sáng chế ra chỉ báo này, nó thường được sử dụng chung với đường giá nhưng chúng chỉ được xem là một indicator (dụng cụ chỉ báo), nó rất giống đường bao của giá. Đây là chỉ báo độc nhất vì nó có tác dụng là thể hiện chính xác những thay đổi hay giao động của thị trường. Nó là 1 phép toán cộng trừ của 2 lân sự chênh lệch của đường trung bình giá MA. Khi thị trường rung động mạnh nó sẽ phản ánh giao động bằng cách mở rộng các dải (bands). Ngược lại khi sự giao động suy yếu nó phản ánh thị trường trầm lắng thì các dải có khuynh hướng co hẹp lại. Đồ thị 9: Dãy Bollinger của TSC Nhìn về quá khứ ở các vị trí (2), (4) và (6) trên đò thị 6 vào các ngày 23/11/2007, 10/01/2008 và 26/03/2008 là tín hiệu mua rất mạnh nhưng không dễ nhận ra khi mà đường giá cổ phiếu liên tục bám rất gần dãy Bollinger phía trên. Thông thường đối với các tính hiệu này hoặc là các nhà đầu tư tâm lý yếu hay bán ra khi cổ phiếu tiến gần đến đường băng bên trên do lo sợ việc giá cổ phiếu đang tiến tới mứt cản (Resistance) và bỏ qua những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận rất đáng tiếc. Chúng ta cần nhìn nhận ở đây là kể từ khi cổ phiếu TSC niêm yết 2 đường băng giao động khi rộng, khi hẹp cho thấy có một sự đột biến về giá và gần đến điểm (1) thì đường giá có xu hướng tiệm cận đường băng bên trên khi tới điểm (1) trên đồ thị 9 dãi băng được mở rộng điều này cho thấy sắp có một sự đột biến về giá nhưng sẽ là theo chiều hướng giảm. Thật sự như vậy, tại thời điểm này nhiều người cho rằng đường giá khi chạm băng bên trên sẽ quay ngược về dãi băng đối diện ở phía dưới và giá cổ phiếu sẽ giảm. Theo lý thuyết về đường bao Bollinger thì khi đường giá cắt qua một đường băng và tiếp tục thoát ra ngoài cho thấy xu hướng đó sẽ vẫn còn tiếp tục. Hãy nhìn lại chỉ báo trong giai đoạn tăng giá bắt đầu từ vị trí (1) và (5) trên đồ thị 9 thì đều thấy đường giá vượt ra khỏi đường băng bên trên và có dấu hiệu quay ngược trở lại. Nếu dùng hỗ trợ và kháng cự để phân tích thì có thể kết luận là sau khi vượt ngưỡng hỗ trợ thì ngưỡng này sẽ trở thành ngưỡng kháng cự và một ngưỡng kháng cự thấp hơn đã được thiết lập. Tín hiệu bán ở vị trí số (1) và (5) trên đồ thị 9 là rất rõ ràng trong khi đường giá đi từ vị trí số (2) lên, 2 lần chạm băng bên trên mà không thể vượt qua được cho thấy giá cổ phiếu đang cố vượt qua đường kháng cự mà không được. Lần này thì lý thuyết khi đường giá chạm băng bên trên mà không thể vượt qua được thì sẽ có xu hường đi xuống đường băng ở phía dưới là rất chính xác. Sau khi đường giá đi xuống bắt đầu từ vị trí số (3) thì chạm vào dãy băng bên dưới ở vị trí số (4) trên đồ thị 9 ngày 10/01/2008 và không thể đâm qua đường băng này thì việc nó quay lại đường băng bên trên là điều dễ nhận ra đây cũng là tín hiệu mua rất rõ ràng. Từ vị trí số (5) đồ thị 9 đường giá lại tiến lên cho đến lúc chạm đường băng bên trên một lần nữa và cũng không thể vượt qua được. Nó có xuyên qua đường băng trên một chốc lát nhưng lại quay ngược vào trong cho thấy một sự đảo ngược xu hướng đang xảy ra ở vị trí số (6) đồ thị 9 được thiết lập vào ngày 26/03/2008. Sau đợt trượt giá mạnh chưa từng xảy ra của cổ phiếu TSC ở vị trí số (6) đến bây giờ thì đường giá đã bắt đầu chạm đường băng bên dưới. Vấn đề ở đây là giá cổ phiếu đang ở xu hướng giảm và đường giá đang chạm dãi băng bên dưới vậy thì điều chúng ta mong đợi là khi nào thì có sự đảo chiều của xu hướng hiện tại để tìm được một tín hiệu mua tối ưu. Nhưng nếu phân vân và không quyết đoán thì chúng ta lại phải đối diện với khả năng vuột mất cơ hội nhảy vào để tìm kiếm lợi nhuận và khi các tín hiệu khác đủ mạnh thì lại quá trể. Nhìn đường chỉ báo với đường Bollinger đã thấy một sự đảo ngược về xu hướng hay chưa và giá cổ phiếu đã là đáy chưa. Câu trả lời vẫn là 50/50, phải chờ xem tình hình thị trường và các tín hiệu khác thì mới cho thấy cổ phiếu TSC sẽ có tăng giá mạnh hay không. Nhưng đã có dấu hiệu hồi phục trở lại và xu hương vẫn chưa chắc chắn lắm. Chương 5 ĐÁNH GIÁ VÀ DỰ BÁO XU HƯỚNG CỔ PHIẾU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP CẦN THƠ 5.1 ĐÁNH GIÁ CỔ PHIẾU TSC DỰA VÀO KẾT QUẢ PHÂN TÍCH 5.1.1 Từ việc phân tích tình hình tài chính của công ty TSC Nhìn chung qua 3 năm từ năm 2005 – 2007 qui mô của công ty ngày càng được mở rộng, trong đó: Về hiệu quả hoạt động kinh doanh: Doanh thu của công ty có sự tăng trưởng tương đối nhanh, trong đó tăng cao nhất là vào năm 2007 đạt 1.375.090 triệu đồng, tương ứng là tăng 20,8 % so với năm 2006. Đặc biệt doanh thu do xuất khẩu tăng mạnh, chứng tỏ công ty đã không ngừng đàm phán, tích cực tìm kiếm mở rộng các mối quan hệ kinh tế nhằm gia tăng xuất khẩu, đồng thời cũng thể hiện chất lượng sản phẩm của công ty ngày càng được nâng cao, tạo được uy tín trên thương trường. Hiệu quả sử dụng chi phí của công ty ngày càng tốt hơn góp phần nâng cao lợi nhuận cho công ty. Lợi nhuận của công ty cũng có chiều hướng tăng mặc dù chịu sự tác động tương đối lớn của hoạt động tài chính. Điều này chứng tỏ công ty hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn, tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vẫn còn thấp, do đó trong những năm tới công ty cần có những biện pháp giúp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành nhằm góp phần nâng cao lợi nhuận. Về hiệu quả quản lý tài sản: Dựa vào việc phân tích vòng quay khoản phải thu, vòng quay hàng tồn kho kết hợp với các chỉ tiêu trên vốn cổ phần ta thấy hiệu quả sử dụng vốn, quản lý tài sản của công ty có xu hướng tăng, thời hạn thu tiền của doanh nghiệp ngày càng ngắn, chứng tỏ khả năng thu hồi vốn nhanh, công tác quản lý hàng tồn kho của công ty rất tốt giúp công ty tiết kiệm được tương đối vốn dự trữ hàng tồn kho, giải phóng vốn dự trữ để đưa vốn vào sản xuất kinh doanh góp phần tăng lợi nhuận của công ty khi đang hoạt động có lãi. Về tình hình thanh toán và khả năng thanh toán: Tình hình thanh toán của công ty rất khả quan. Công ty cố gắng trong việc thu hồi nợ, khả năng thanh toán của công ty cũng có chiều hướng tốt, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán bằng tiền, mức độ đảm bảo nợ vay bằng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp rất tốt. 5.1.2 Từ việc phân tích tình hình giao dịch cổ phiếu TSC trên HoSE Để đưa ra quyết định mua hoặc bán một chứng khoán các nhà đầu tư thường tiến hành phân tích theo các cách riêng của mình. Tuy nhiên, trong đầu tư chứng khoán, người ta gom lại thành hai cách chính là phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Trong phân tích tình hình tài chính (phân tích cơ bản) nhằm tiềm ra cổ phiếu tốt, có tỷ suất lợi nhuận cao, rủi ro ít khi đầu tư, nói tóm lại là tìm được cổ phiếu cần đầu tư. Phân tích tình hình giao dịch của cổ phiếu kết hợp với các chỉ báo phân tích giúp xác định hợp lý thời điểm mua bán một cổ phiếu. Trở lại cổ phiếu TSC, kể từ ngày niêm yết chính thức trên HoSE ngày 04/10/2007 cho đến hiện nay cổ phiếu TSC đã trải qua một giai đoạn tăng giảm ngoạn mục. Tại lúc mới niêm yết giá tham chiếu là 40.000 đồng, các tín hiệu mua được hình thành dữ dội khi mà đường RSI đang lưng chừng ở khoảng overbought cũng đảm bảo một giá mua có thể chấp nhận được. Như đã nói nếu các tín hiệu khác chưa thật sự rõ ràng thì nếu nhảy vào phải chấp nhận một mứt độ rủi ro nào đó. Nếu đợi đến lúc đường RSI chạm mứt 30 khi giá cổ phiếu là 75.000 đồng thì người mua nhảy vào thị trường và khi RSI chạm mức 70 thì giá lúc này là 105.000 đồng. Hiện tại thì các tín hiệu mua đã mạnh hơn rất nhiều nếu không có ảnh hưởng tiêu cực bất ngờ trong thời gian sắp tới thì khả năng cổ phiếu đang chuyển sang một xu thế mới là có thể. Đồ thị 10: Tổng hợp các chỉ báo phân tích kỹ thuật của cổ phiếu TSC Trước khi bàn luận về các tín hiệu mua sắp tới xin được phép quay lại bàn luận về một số điểm đáng chú ý và sự phân phối lớn của của nhà đầu tư được nhắc lại nhiều lần ở các phần trước. Ở đây dùng đồ thị 10 tổng hợp các chỉ báo đã phân tích để tiện quan sát. Điều gì đã xảy ra khi vào ngày 05/11/2007 vị trí số (1) trên đồ thị 10 khi cổ phiếu đạt giá 116.000 đồng rồi bắt đầu một cuộc trượt giá xuống 75.000 – 85.000 đồng vào khoảng thời gian từ 05/11/2007 đến ngày 15/01/2008 trước khi tăng trở lại lên 105.000 đồng vào ngày 13/02/2008. Và điều gì đã xảy ra khi kể từ đó cổ phiếu đã trượt dốc không phanh đến 26/03/2008 tại vị trí số 3 trên đồ thị 10 khi mà có lúc giá thấp nhất là 53.500 đồng. Câu trả lời là hãy nhìn vào các vị trí (1), (2), (3) trên đồ thị 10 nằm ở vùng biểu diễn khối lượng giao dịch. Vào ngày 05/11/2007 cũng như ngày 13/02/2008 khi cổ phiếu leo lên tới giá tới đỉnh và khối lượng giao dịch tăng vọt hơn bao giờ hết đây là một điều cảnh báo vì có thể đó đã là đỉnh cực đại khi giá một cổ phiếu đang băng băng về đích tăng giá với tỉ lệ lớn hơn trước đó rất nhiều cộng với khối lượng giao dịch tăng vọt mà chưa từng xảy ra trước đó thì hãy coi chừng. Đó có thể là đỉnh cực đại hoặc cũng là sự cảnh báo cổ phiếu đã rất tới đỉnh. Các tổ chức lớn thường tiến hành phân phối khi mà họ cảm thấy đã đạt đượt lợi nhuận tương đối và cổ phiếu đang tăng giá và đang được sự quan tâm của nhiều người. Hành động phân phối có thể thấy được qua vị trí số (1) và (2). Các nhà đầu tư cá nhân mua vào khi giá ở đỉnh 116.000 và 105.000 đồng có thể bị lừa vì cảm giác giác cổ phiếu đang tăng cộng với khối lượng giao dịch tăng vọt có thể vì họ cho rằng cổ phiếu có thể sẽ đạt được một nền tảng mới và đang tiến đến một đỉnh giá mới thì không thể chấp nhận được. Nhưng nếu mua vào vị trí số (3) khi khối lượng giao dịch gần bằng bằng nhau của các ngày giao dịch và kết hợp với các chỉ số khác thì có thể đánh trong ngắn – trung hạn được. Hãy nhìn lại tại vị trí (1) và (2) một lần nửa một sự cảnh báo khi mà các tổ chức lớn đang tiến hành phân phối và thoát ra khỏi thị trường. Khi các tổ chức đã rút ra và yên vị thì các nhà đầu tư cá nhân sẽ phải chìm trong cơn lũ bán cổ phiếu ngay sau đó không lâu. Nếu bạn không phải là nhà đầu tư dài hạn thì nên bán cổ phiếu khi mà các nguồn vốn khôn ngoan của các tổ chức lớn đang rút ra khỏi thị trường. Hành động phân phối của nhá đầu tư lớn đã diễn ra rất lộ liễu và chắc điều này chỉ có thể xảy ra với một thị trường non trẻ như Việt Nam. Ở lần phân phối thứ 2 có thể thấy thêm một ngày tăng giá với khối lượng lớn như 2 ngày trước đó là một dẩo chiều rất rõ ràng. Hiện tại thì giá cổ phiếu đã có vẽ rất tốt nếu đầu tư theo giá trị nhưng sức mua vẫn còn rất yếu nhưng dù sao đi nữa thì nếu đầu tư theo trường phái giá trị vào các cổ phiếu tốt khi mà giá cổ phiếu đã rớt xuống tới giá mong đợi lại là an toàn hơn đối với thị trường biến động thất thường như TTCK VN. Có trường phái đầu tư chỉ đợi điểm mua khi mà cổ phiếu đang hình thành nền tảng mới mua khi cổ phiếu bắt đầu lên đỉnh giá mới cũng rất hay nhưng nếu không cẩn thận thì sẽ biến thành những kẻ mua giá ở đỉnh và nếu không tuân thủ nguyển tắt stop loss (cắt lỗ) 8-10% thì có thể bị mất kẹt lại. Nhưng nếu chờ đợi đến khi cổ phiếu đã gần đáy mới sợ hãi bán ra thì sẽ trở thành kẻ mua đỉnh bán đáy, còn nếu sau đó mà cổ phiếu tăng giá trở lại thì lại tiếc mà phải bán rẽ mua đắt 5.2 CÁC NHÂN TỐ RỦI RO TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ CỔ PHIẾU TSC 5.2.1 Rủi ro kinh tế Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của một công ty là căn cứ cơ bản và khá phổ biến cho quyết định của nhà đầu tư. Xem xét sự biến động tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty là gián tiếp dự đoán giá cả của chứng khoán công ty. Các nhà đầu tư có thể nhận định tình hình sản xuất kinh doanh thông qua các nhân tố kinh tế sau: tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái... - Tốc độ tăng trưởng kinh tế: nền kinh tế ổn định và tăng trưởng làm gia tăng nhu cầu đầu tư của xã hội và có thể sẽ làm gia tăng giá chứng khoán trên thị trường. Ngược lại, trong nền kinh tế bất ổn định hoặc chậm phát triển thì giá chứng khoán có thể giảm do nhu cầu đầu tư thấp và rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán sẽ tăng. Những năm gần đây, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao và ổn định: năm 2002 đạt 7,1%, năm 2003 đạt 7,23%, năm 2004 đạt 7,7%, năm 2005 đạt 8,4%, năm 2006 đạt 8,17% và năm 2007 là 8,5%. Theo các chuyên gia kinh tế phân tích thì tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam duy trì ở mức 7 – 8%/năm trong các năm tới trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, cùng với môi trường chính trị vững vàng và ổn định nên tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty sẽ thuận lợi hơn là rủi ro. - Lãi suất: tính đến thời điểm 31/12/2006, theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán, vốn vay của Công ty chiếm 276,36% vốn chủ sở hữu, trong đó hoàn toàn là vay ngắn hạn. Vì vậy, lãi vay có tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. - Tỷ giá hối đoái: tình hình xuất nhập khẩu sản phẩm của Công ty chiếm tỷ trọng khá lớn, do đó sự điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như tỷ giá hối đoái trên thị trường sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Công ty. Chẳng hạn, khi tỷ giá tăng dẫn đến doanh thu theo tiền đồng tăng lên và ngược lại. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát, bên cạnh đó với tình hình tăng trưởng ổn định, dự báo năm 2007 nền kinh tế vẫn tiếp tục có dư cung ngoại tệ tạo điều kiện cho việc tăng dự trữ ngoại hối nên tỷ giá sẽ tiếp tục ổn định. Do đó, rủi ro tỷ giá ảnh hưởng không lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. - Giá cả thế giới: những biến đổi bất thường của giá cả phân bón trên thị trường thế giới thời gian gần đây cũng có sự ảnh hưởng nhất định đến kết quả kinh doanh của Công ty. 5.2.2 Rủi ro luật pháp Từ công ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, hoạt động của Công ty chịu ảnh hưởng của các văn bản pháp luật về cổ phần hóa, chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các văn bản dưới luật trong lĩnh vực này hiện đang trong quá trình hoàn thiện, sự thay đổi về mặt chính sách luôn có thể xảy ra và khi xảy ra thì sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động quản trị, kinh doanh của công ty. Việt Nam đã là thành viên của WTO và ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực cung ứng vật tư nông nghiệp. Kể từ năm 2008, các nhà đầu tư nước ngoài được mở một điểm cung ứng vật tư nông nghiệp tại Việt Nam (muốn mở điểm thứ hai phải xin phép) điều này sẽ có ảnh hưởng một phần đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. 5.2.3 Rủi ro đặc thù - Đối với các loại phân bón: hiện tại, Việt Nam đã sản xuất được khoảng 40% nhu cầu Urê (tại Nhà máy Đạm Phú Mỹ và Nhà máy Đạm Hà Bắc), còn toàn bộ DAP và Kali đều phải nhập khẩu. Tuy nhiên, sang Quý II năm 2008, Nhà máy DAP Đình Vũ của Tổng Công ty Hóa Chất sẽ sản xuất và cung ứng ra thị trường khoảng 350.000 tấn DAP (chiếm 50% nhu cầu của cả nước). Bên cạnh đó, từ nay đến năm 2010, nếu Nhà máy Phân đạm Ninh Bình (trực thuộc Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam) và Nhà máy Phân đạm Cà Mau (trực thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam) đi vào hoạt động và cho ra sản phẩm thì Việt Nam sẽ sản xuất đủ nhu cầu tiêu thụ Urê. Tình hình này làm cho lợi thế của Công ty trong việc nhập khẩu phân bón ngày càng giảm dần và đặt ra cho Công ty một đòi hỏi khách quan: muốn tồn tại và phát triển phải đẩy nhanh việc mở rộng hoạt động sang các ngành khác, lĩnh vực khác. - Đối với hoạt động xuất khẩu gạo: vì nhu cầu an ninh lương thực quốc gia cho nên hiện nay, cơ chế quản lý xuất khẩu gạo còn bó buộc, chưa thực sự tạo sự chủ động cho công tytrong hoạt động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnew-Chungkhoan22.doc