Đề tài Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam: MỤC LỤC DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT adb Ngân hàng phát triển Châu á dnnn Doanh nghiệp nhà nước fdi Đầu tư trực tiếp nước ngoài fpi Đầu tư gián tiếp nước ngoài- đầu tư danh mục chứng khoán gdp Tổng sản phẩm quốc nội imf Quỹ tiền tệ quốc tế nhtm Ngân hàng thương mại oda Hỗ trợ phát triển chính thức ttck Thị trường chứng khoán ttgdck Trung tâm giao dịch chứng khoán ubcknn Uỷ ban chứng khoán Nhà nước usd Đô la Mỹ WB Ngân hàng thế giới LỜI NÓI ĐẦU Một trong những mục tiêu chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta khi xây dựng thị trường chứng khoán là nhằm tạo ra một kệnh huy động vốn trung và dài hạn mới nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, trong mục tiêu đó bao gồm cả việc huy động vốn từ bên ngoài. Kinh nghiệm ở nhiều nước đang phát triển cho thấy thị trường chứng khoán đã đóng góp một vai trò lớn trong việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, góp một phần quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam v...

doc81 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1007 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT adb Ngân hàng phát triển Châu á dnnn Doanh nghiệp nhà nước fdi Đầu tư trực tiếp nước ngoài fpi Đầu tư gián tiếp nước ngoài- đầu tư danh mục chứng khoán gdp Tổng sản phẩm quốc nội imf Quỹ tiền tệ quốc tế nhtm Ngân hàng thương mại oda Hỗ trợ phát triển chính thức ttck Thị trường chứng khoán ttgdck Trung tâm giao dịch chứng khoán ubcknn Uỷ ban chứng khoán Nhà nước usd Đô la Mỹ WB Ngân hàng thế giới LỜI NÓI ĐẦU Một trong những mục tiêu chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta khi xây dựng thị trường chứng khoán là nhằm tạo ra một kệnh huy động vốn trung và dài hạn mới nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, trong mục tiêu đó bao gồm cả việc huy động vốn từ bên ngoài. Kinh nghiệm ở nhiều nước đang phát triển cho thấy thị trường chứng khoán đã đóng góp một vai trò lớn trong việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, góp một phần quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam vừa mới được thành lập, quy mô còn nhỏ bé, cơ chế vận hành và việc công bố thông tin còn nhiều bất cập, mức độ quan tâm và hiểu biết của người đầu tư nước ngoài cũng như trong nước còn nhiều hạn chế. Thực trạng đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong hơn 3 năm qua cho thấy nguồn vốn và số lượng người đầu tư nước ngoài chưa nhiều, chưa có có tác động thực sự tới sự phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy cần phải có các giải pháp thu hút được nhiều hơn nữa nguồn vốn này. Cùng với các biện pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán cũng là một việc làm quan trọng, nó có ý nghĩa lớn trong chiến lược tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài: " Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam". Do kiến thức tích luỹ được còn hạn chế, khoá luận không tránh khỏi nhiều sai sót, rất mong sẽ nhận được ý kiến và đánh giá của các thầy cô. Em cũng xin chân thành cảm ơn Cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận này. Nội dung của khoá luận gồm ba chương: Chương I : Lý luận về vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Chương II: Thực trạng đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam Chương III: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I.LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN NƯỚC NGOÀI 1.Khái niệm về vốn nước ngoài Trong lịch sử giao lưu kinh tế giữa các vùng kinh tế khác nhau đã diễn ra nhiều hình thức trao đổi và di chuyển các nguồn lực. Ban đầu hình thức tương đối đơn giản - đơn giản cả về đối tượng và hình thức di chuyển. Trong thời kỳ nô lệ, hình thức di chuyển sức lao động của nông lô là điển hình. Do nhu cầu về sức lao động rất lớn ở các vùng có nền nông nghiệp phát triển nên nô tì được mua về từ các vùng khác nhau để làm việc tại các vùng này. Trong thời kỳ phong kiến, hiện tượng di chuyển các nguồn lực vẫn diễn ra. Thời kỳ này đối tượng di chuyển không chỉ còn là sức lao động mà còn kèm theo sự di chuyển về nguyên vật liệu cho sản xuất. Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, các hình thức di chuyển và trao đổi các nguồn lực được thực hiện một cách đa dạng và phong phú hơn. Thời kỳ đầu, xu hướng di chuyển các nguồn lực được thực hiện một chiều từ các nước bị đô hộ tới các nước đi đô hộ. Các nước đi đô hộ vơ vét, tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của các nước bị đô hộ để thực hiện công cuộc phát triển của chính mình. Trong thời kỳ này, đối tượng di chuyển chủ yếu là tài nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất và đời sống, hình thức di chuyển hầu hết mang tính “ bóc lột”. Khi chủ nghĩa đế quốc sụp đổ, sự đô hộ của các nước đế quốc đối với các nước thuộc địa không còn nữa, hình thức và đối tượng di chuyển của các nguồn lực cũng có sự thay đổi. Nguồn lực di chuyển ở đây cũng phong phú hơn, nó không chỉ dừng lại ở sức lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn có công cụ sản xuất và kĩ thuật sản xuất. Hình thức di chuyển các nguồn lực chủ yếu dưới dạng đầu tư nước ngoài - đầu tư giữa các quốc gia, khu vực với nhau. Xu hướng di chuyển các nguồn lực cũng không còn theo một chiều từ các nước bị đô hộ sang các nước đô hộ nữa mà đã xuất hiện chiều ngược lại từ các nước tư bản phát triển sang các nước trước đây là thuộc địa, giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Sự di chuyển nguồn lực phục vụ cho sản xuất kinh doanh nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung diễn ra ngày càng sâu sắc; đa dạng về hình thức di chuyển, phong phú về đối tượng di chuyển và đa phương về xu hướng di chuyển. Các hình thức di chuyển được thực hiện thông qua đầu tư quốc tế, viện trợ và hỗ trợ quốc tế, liên kết kinh doanh. Đối tượng di chuyển là sức lao động, nguồn lực tài chính và đặc biệt là kĩ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh. Xu hướng di chuyển được thực hiện giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển và ngược lại, giữa các nước phát triển và phát triển, giữa các nước đang phát triển với nhau. Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử phát triển kinh tế của loài người luôn diễn ra hiện tượng di chuyển nguồn lực giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Xét trên phương diện một quốc gia, thì sự di chuyển các nguồn lực từ bên ngoài vào quốc gia đó gọi là nguồn lực bên ngoài hay nguồn vốn nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể hiểu nguồn lực bên ngoài hay nguồn vốn nước ngoài là tất cả những nguồn lực nằm bên ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia được huy động vào quốc gia đó. Do có sự phát triển của sản xuất, nguồn vốn nước ngoài cũng phong phú dần lên. Ban đầu, do nền sản xuất chủ yếu là chăn nuôi và trồng chọt do vậy chỉ xuất hiện nhu cầu về sức lao động, hơn nữa, do có sự thiếu hụt và dư thừa sức lao động ở các vùng khác nhau nên nguồn vốn nước ngoài được di chuyển chỉ đơn thuần là sức lao động. Khi nền sản xuất phát triển hơn, nhu cầu không chỉ dừng lại ở sức lao động mà còn có thêm nhu cầu về nguyên nhiên liệu, mặt khác, do sự phân bố tài nguyên ở các vùng khác nhau là khác nhau dẫn đến sự thiếu hụt và dư thừa nguyên nhiên vật liệu sản xuất, do vậy nguồn vốn nước ngoài lúc này bao gồm sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, kèm theo nó là sự phát triển rất nhanh của khoa học kĩ thuật làm cho nền sản xuất phát triển đạt đến trình độ cao hơn. Khoa học kĩ thuật được áp dụng nhiều hơn vào sản xuất. Nhiều công nghệ sản xuất, quản lý mới ra đời và nó trở thành yếu tố không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh. Lúc này, nguồn lực bên ngoài không chỉ gồm sức lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn có thêm cả yếu tố kĩ thuật, công nghệ, nguồn lực tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Sản xuất càng phát triển, nguồn vốn nước ngoài di chuyển giữa các nước, các khu vực khác nhau ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Hầu hết các yếu tố phục vụ cho sản xuất đều có thể trở thành yếu tố được di chuyển trên thế giới. Và nó trở thành nguồn vốn nước ngoài cho quốc gia tiếp nhận nó. Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không chỉ bao gồm các yếu tố hữu hình như vốn, máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu,... mà còn bao gồm cả yếu tố vô hình như công nghệ; kĩ thuật; bí quyết; danh tiếng, tác phong kinh doanh... . Nguồn vốn nước ngoài tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau. Do vậy, để có những phân tích sâu hơn về đặc điểm và vai trò của nó chúng ta sẽ phân chia nguồn vốn nước ngoài ra thành từng loại khác nhau. 2.Phân loại vốn nước ngoài 2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn Theo hình thức tồn tại nguồn vốn nước ngoài bao gồm hai loại chính: hữu hình và vô hình. a) Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình là tất cả các nguồn lực hữu hình bên ngoài được huy động vào một quốc gia. Bao gồm: - Vốn nước ngoài là các nguồn lực tài chính tồn tại dưới dạng các loại tín dụng ( bao gồm tín dụng bằng tiền, hoặc tín dụng thương mại, lại vốn này có thể là tiền mặt hoặc có thể là hàng hoá). - Vốn nước ngoài là máy móc thiết bị và các công cụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh. - Vốn nước ngoài là nguyên, nhiên liệu phụ cho sản xuất: b) Nguồn vốn nước ngoài tồn tại vô hình Nguồn vốn nước ngoài tồn tại vô hình là tất cả các nguồn lực vô hình bên ngoài huy động vào một quốc gia. Bao gồm: - Vốn nước ngoài là công nghệ sản xuất, quản lý, khoa học kĩ thuật, bí quyết sản xuất kinh doanh. - Danh tiếng, nhãn mác thương mại, uy tín kinh doanh ... : là các yếu tố đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá của mình thông qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển. - Vốn nước ngoài dưới dạng sức lao động, chất xám được huy động từ bên ngoài vào công cuộc phát triển của một quốc gia: Kèm theo các dự án sản xuất kinh doanh, kèm theo các chương trình phát triển của nước cung cấp vốn nước ngoài là một đội ngũ chuyên gia, công nhân kĩ thuật cao ... sang làm việc trực tiếp tại nước nhận, nước tiếp nhận nó có thể sử dụng nguồn lực này cho công cuộc phát triển của mình. 2.2 Phân loại vốn theo hình thức di chuyển Nguồn vốn nước ngoài có thể chảy vào một quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau và có xu hướng tạo ra những ảnh hưởng khác nhau tới nền kinh tế. Căn cứ theo hình thức di chuyển và tác động đến nền kinh tế của từng loại, hiện nay có nhiều cách phân loại vốn nước ngoài khác nhau. Ví dụ như theo IMF, họ sử dụng khái niệm “các nguồn tài chính bên ngoài ” đối với các nước đang phát triển (external financial resources to developing countries) và chia thành hai loại: - Các khoản viện trợ, giúp đỡ : bao gồm các khoản viện trợ song phương, các khoản viện trợ đa phương (bao gồm cả các tổ chức tình nguyện tư nhân) và các khoản hỗ trợ phát triển chính thức khác.. - Dòng vốn đầu tư tư nhân: bao gồm đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng khoán, tín dụng xuất khẩu tư nhân, vay ngân hàng. Căn cứ theo cách phân chia của các nhà kinh tế Việt Nam và để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, trong phạm vi khoá luận này xin phân chia nguồn vốn nước ngoài thành các loại chính sau : - Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư trực tiếp là tất cả các nguồn lực được đầu tư vào một quốc gia và chịu sự chi phối và quản lý trực tiếp từ các chủ đầu tư nước ngoài. Đây là loại vốn nước ngoài được đầu tư trực tiếp từ bên ngoài vào nước nhận vốn. Nó thường tồn tại dưới dạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào nước tiếp nhận. Các nguồn vốn nước ngoài được sử dụng trực tiếp tại nước tiếp nhận dưới sự quản lý của chủ đầu tư. Đây là bộ phận quan trọng trong các luồng vốn vào, nó có tính chất dài hạn, không rằng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận, thường đi kèm với chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, … - Tín dụng thương mại: Đây là hình thức bên nước ngoài cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay, bên nước ngoài chủ yếu các ngân hàng nước ngoài nên nguồn vốn này còn được gọi là vốn vay ngân hàng. Ngoài ra còn có một phần nhỏ khác là tín dụng xuất khẩu tư nhân (bên nước ngoài khi xuất khẩu cho chịu tiền hàng một thời gian). Đối với loại vốn này, bên nước ngoài không tham gia vào hoạt động của bên đi vay và bên vay vốn có toàn quyền sử dụng khoản vốn này, bên chủ đầu tư nước ngoài chỉ thu lợi nhuận qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế ước vay độc lập với kết quả kinh doanh. - Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) Là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và khoản tài trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn với một số số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như Ngân hàng thế giới WB, Ngân hàng phát triển châu Á – ADB, Quỹ tiền tệ quốc tế – IMF…) dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát triển nêu trên được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài. Hình thức này luôn được các chính phủ quan tâm vì tính chất của nó: cho không, cho vay ưu đãi, thời gian ân hạn và đáo hạn dài, có cả chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý. Hạn chế của hình thức này là các điều kiện áp đặt của các nhà tài trợ, tính hiệu quả và bền vững của khoản vốn, có thể gây gánh nặng nợ nần cho tương lai nếu không sử dụng có hiệu quả, có thể kèm các yếu tố chính trị, hối lộ… Các hình thức chủ yếu của nguồn vốn ODA gồm hỗ trợ dự án, hỗ trợ phi dự án, hỗ trợ cán cân thanh toán và tín dụng thương mại (là những khoản tín dụng dành cho chính phủ các nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi suất, thời gian ấn hạn, thời hạn trả dài nhưng có những rằng buộc nhất định). - Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư danh mục chứng khoán (FPI) Đây là dạng đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài bỏ tiền ra mua chứng khoán (gồm cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng từ phái sinh) để thu lợi nhuận thông qua cổ tức, trái tức hoặc chênh lệch giá nhờ đầu cơ chứng khoán. Nguồn vốn này đã và đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong hầu khắp các nền kinh tế, trên thực tế nhiều các quốc gia đã sử dụng kênh này để huy động nguồn tài trợ từ bên ngoài một cách có hiệu quả. Ngoài ra vốn nước ngoài còn có các nguồn vốn khác như kiều hối, các khoản quà tặng, quà biếu, thừa kế, chuyển tiền từ nước ngoài … cũng đáng lưu tâm, đặc biệt là các quốc gia có số lượng công dân sống và làm việc ở nước ngoài lớn. Tuy nhiên nếu xét về tổng thể thì các nguồn này thường là nhỏ và không có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vĩ mô. Ta có thể bỏ qua các khoản này. Để phục vụ mục đích nghiên cứu của khoá luận, ta có thể khái quát cơ cấu nguồn vốn vào một quốc gia thành 4 nguồn vốn nước ngoài chính: - Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) - Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) - Tín dụng thương mại - Đầu tư danh mục chứng khoán (FPI) II. LÝ LUẬN VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (FPI) 1. Khái niệm Như đã nói ở trên, đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một trong những nguồn vốn nước ngoài chính và nó ngày càng trở nên quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu vốn nước ngoài. Thị trường chứng khoán đã ra đời từ rất sớm, bản thân nó là một kênh huy động vốn trực tiếp trong nền kinh tế quốc dân. Đó là nơi mà các nhà đầu tư tìm kiếm, thay đổi cơ hội và lĩnh vực đầu tư của mình. Nếu khung pháp lý cho hoạt động này chỉ bó hẹp đối với các nhà đầu tư trong nước thì thị trường chứng khoán chỉ đơn thuần là một kênh huy động vốn trong nước. Nhưng nếu khung pháp lý mở rộng ra cho các nhà đầu tư nước ngoài thì đây lại là một kênh huy động vốn nước ngoài cho nền kinh tế. Trên thực tế, do những ưu điểm nổi bật của thị trường chứng khoán, do xu hướng tự do hoá tài chính, hầu hết các quốc gia có thị trường chứng khoán đều cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia vào thị trường chứng khoán. Những nước này, ở một chừng mực nào đó, đã thành công trong việc thu hút vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán. Đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là việc nhà đầu tư nước ngoài (có thể là cá nhân hoặc tổ chức) bỏ tiền ra mua chứng khoán của một tổ chức hay của nhà nước được phát hành trên thị trường chứng khoán nhằm kiếm lời từ thu nhập cổ tức hay trái tức hoặc từ chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem lại. 2. Đặc điểm Đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán hay đầu tư danh mục chứng khoán (FPI) là một bộ phận cấu thành của tổng luồng vốn chu chuyển chu chuyển vào và ra một quốc gia. Xét về mặt bản chất, đầu tư danh mục chứng khoán FPI rất gần với đầu tư trực tiếp FDI, vì nó đều là những khoản đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp và trực tiếp hưởng lợi từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều khác nhau lớn nhất giữa FDI và FPI chính là ở chỗ nhà đầu tư nước ngoài có hay không tham gia quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy mà tại nhiều nước FDI và FPI được điều chỉnh chung trong một bộ luật và thường lấy một tỷ lệ nhất định về nắm giữa của bên nước ngoài để phân định giữa FDI và FPI (ví dụ Nhật là 10%, New Zealand là 25%). Đây là một đặc điểm đáng lưu ý trong quan niệm về FDI và FPI. Thứ nhất: FPI là loại hình đầu tư không tham gia quản lý, không chuyển giao công nghệ và dễ đột biến, nhưng khi “lượng” FPI đạt đến một mức độ nhất định thì sẽ biến về “chất”: tham gia quản lý, chuyển giao công nghệ và ít đột biến hớn. Thứ hai: điểm để lượng FPI biến thành FDI có thể khác nhau do các nhà hoạch định chính sách ở từng nước ấn định, dựa vào điều kiện cụ thể về kinh tế, trình độ quản lý, tập quán kinh doanh ở nước đó. Các quốc gia huy động vốn nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán thường thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty và cổ phiếu của các doanh nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do tính chất của trái phiếu và cổ phiếu rất khác nhau do vậy vốn nước ngoài huy động bằng trái phiếu và cổ phiếu cũng rất khác nhau. Ngoài đặc điểm chung là đầu tư với mục đích lợi nhuận và có tính đầu cơ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán còn có các đặc điểm khác nhau tuỳ thuộc vào việc nó là vốn huy động từ cổ phiếu hay trái phiếu. a) Đặc điểm về vốn đầu tư nước ngoài huy động thông qua việc phát hành trái phiếu. Chính phủ và hầu hết các công ty phát hành trái phiếu đều với mục đích thu được nguồn vốn sử dụng cho mục tiêu dài hạn vì vậy nguồn vốn dạng này có một số đặc điểm sau: - Thời hạn sử dụng khá dài, thời hạn của nguồn vốn thu từ việc bán trái phiếu chính phủ thường dài hơn so với doanh nghiệp. Không chỉ các quốc gia đang phát triển mà ngay cả các quốc gia phát triển cũng có lúc cần phải huy động nguồn vốn nước ngoài bằng việc phát hành trái phiếu. Khoản vốn này được dùng cho các chương trình, dự án hoặc để bù đắp tạm thời ngân sách bị thiếu hụt. Thời hạn của các khoản vay này thường rất dài vì mục đích sử dụng nguồn vốn này hầu hết dành cho các dự án lớn, lâu dài của chính phủ. Đối với các công ty, khi cần mở rộng kinh doanh, nâng cao trình độ kĩ thuật công nghệ hoặc thực hiện chiến lược đầu tư lâu dài của mình cũng cần phải có một lượng vốn khá lớn trong khoảng thời gian dài. - Lãi suất của loại này thường cao hơn so với lãi suất vay bằng ODA. Vì mục đích của nhà đầu tư là thu lợi nhuận thông qua khoản lãi suất được hưởng từ việc mua trái phiếu, nên các nhà đầu tư luôn đặt yêu cầu lãi suất lên hàng đầu. Do vậy, công ty hoặc chính phủ khi phát hành trái phiếu luôn phải định ra mức lãi suất đủ cao để thu hút nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí lãi suất loại này còn cao hơn cả lãi suất trung bình trên thế giới bởi vì lãi suất loại này còn tính đến cả yếu tố rủi ro lạm phát và một số rủi ro khác. - Không kèm theo bất kỳ một điều kiện gì hay một sự rằng buộc nào từ phía bên cung cấp vốn. Đây là một ưu điểm nổi bật so với vốn ODA của loại vốn này, nó rất có lợi cho bên tiếp nhận vốn vì sẽ không phải chịu các điều kiện bất lợi khác từ phía bên cung cấp. - Không bị hạn chế về mục đích sử dụng và chịu sự giám sát trong việc sử dụng vốn. Đây là một ưu điểm nữa so với nguồn vốn ODA, vì nền kinh tế không phải chịu sự chi phối về mục đích sử dụng của nhà đầu tư. Chính vì vậy mà nền kinh tế có thể tận dụng tối đa tác dụng của vốn, sử dụng phục vụ cho đúng mục đích phát triển của mình. - Phát sinh nợ cho bên tiếp nhận. Thực chất đây là một khoản vốn vay dài hạn của bên phát hành trái phiếu với nhà đầu tư, trái phiếu luôn có một khoảng thời gian nợ xác định trước và việc trả nợ được đảm bảo bằng cam kết của chính phủ và các doanh nghiệp. b) Đặc điểm về vốn đầu tư nước ngoài huy động thông qua việc phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào khung pháp lý của nước huy động qui định về tính chất của cổ phiếu mà nguồn vốn nước ngoài huy động từ cổ phiếu có khác nhau. Nhưng chủ yếu là có các đặc điểm sau: - Thời hạn sử dụng dài và phụ thuộc vào (tại Việt Nam) doanh nghiệp nhận vốn . - Lãi suất rất cao, nó tương đương với mức lợi nhuận được chia mà các doanh nghiệp trong nước tạo ra. Đặc điểm của cổ phiếu là: các nhà đầu tư sở hữu hợp pháp cổ phiếu đó sẽ được hưởng một khoản lãi suất tính trên cơ sở kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Mặt khác, kết quả kinh doanh thường cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiền gửi thông thường. Do vậy lãi suất của cổ phiếu thường cao hơn lãi suất thông thường. - Việc sử dụng nguồn vốn này có thể hoặc không phụ thuộc vào bên cung cấp vốn tuỳ theo qui định pháp lý về việc tỷ lệ mua cổ phiếu của bên nước ngoài đối với doanh nghiệp trong nước. Khi cho ra đời thị trường chứng khoán, các nước đang phát triển có nền kinh tế đang cần được bảo hộ ở mức cao luôn phải cân nhắc vấn đề nên hay không nên cho phép bên nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty trong nước, và nếu cho phép thì tỷ lệ mua này là bao nhiêu. Thường thì các nước này luôn chọn giải pháp cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty trong nước nhưng với tỷ lệ không quá một mức độ nào đó để họ không có quyền thâu tóm công ty. Và như vậy, nước tiếp nhận vốn vẫn có thể huy động được nguồn vốn nước ngoài mà không bị lệ thuộc vào nhà đầu tư ở mức cao. - Không làm phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. - Không bị rằng buộc bởi bất cứ điều kiện nào từ phía cung cấp vốn. Đặc điểm này có được là vì khi quyết định đầu tư bằng việc mua cổ phiếu, các nhà đầu tư nước ngoài luôn phải tính toán cân nhắc rất kỹ lưỡng, và khi đã đầu tư vào thì không được phép nêu ra bất kỳ một rằng buộc hay điều kiện gì. Như vậy, việc đầu tư hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, không được phép có thêm một điều kiện gì. 3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Thu hút nguồn vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán để bổ sung cho các nguồn vốn khác trong và ngoài nước nhằm phát triển kinh tế là một chủ trương lớn của Đảng và chính phủ. 3.1. Vai trò chung của nguồn vốn nước ngoài: Các nước đang phát triển là những nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách toàn diện và sâu sắc. Nhu cầu về vốn trong giai đoạn này là rất lớn; vốn phục vụ cho việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, vốn cho việc xây dựng và cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, vốn cho việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp mới mang tính chủ đạo, vốn cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi như thất nghiệp, trình độ lao động…, vốn cho việc nhập khẩu công nghệ máy móc hiện đại đáp ứng yêu cầu đổi mới và cạnh trên trường quốc tế.Chính vì vậy việc huy động thêm các nguồn lực từ bên ngoài trong giai đoạn này là thực sự cần thiết. Trong tình trạng nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và công nghiệp chế biến thô sơ, tích luỹ từ bản thân nền kinh tế còn quá thấp. Hơn nữa, cũng từ việc sản xuất kém phát triển dẫn đến thu nhập của người dân thấp từ đó làm cho tiết kiệm trong dân rất ít. Tích luỹ (mức độ tái đầu tư trích từ lợi nhuận) của nền kinh tế thấp, tiết kiệm trong dân thấp dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho đổi mới. Vì vậy nguồn vốn nước ngoài có vai trò bổ sung nguồn vốn đầu tư, tăng tốc độ tái đầu tư, cần thiết cho một tiến trình tăng tốc nhanh. 3.2.Vai trò riêng nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có những đặc điểm riêng do vậy nó cũng có những vai trò riêng đối với sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận. - Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có vai trò cung cấp, bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp mở rộng qui mô sản xuất. Trong bối cảnh việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn trong nước còn nhiều khó khăn, nhất là ở Việt Nam phải sử dụng cả các khoản tiền gửi ngắn hạn tại các ngân hàng để tài trợ, thì việc thu hút sử dụng vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán là cần thiết. - Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán chủ yếu là dưới dạng tiền tệ, do vậy nó cũng giúp chính phủ bù đắp phần nào cán cân thanh toán, từ đó giảm bớt áp lực về cầu ngoại tệ. Các nước đang phát triển đều ra sức thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế, cần phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, công nghệ… và các yếu tố sản xuất khác từ bên ngoài, do vậy rất cần ngoại tệ để có thể nhập khẩu. Các nước này thường xảy ra tình trạng thiếu ngoại tệ, ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán. Thu hút vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán cũng là một biện pháp để điều chỉnh sự thiếu hụt của cán cân thanh toán. - Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán còn có vai trò tăng khả năng thanh toán và hiệu suất của thị trường vốn nội địa. Và một thị trường vốn với khả năng thanh toán và hiệu suất cao sẽ cho phép các nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Khi có một lượng vốn gián tiếp chảy vào theo hình thức đầu tư qua Thị trường chứng khoán, dung lượng vốn của thị trường chứng khoán sẽ cao hơn, khả năng thanh khoản sẽ cao hơn, thúc đẩy các nhà đầu tư tiến hành nghiên cứu, rót thêm vốn vào nền kinh tế, làm cho thị trường vốn phát triển. Khi thị trường vốn phát triển, tính thanh khoản tăng, rủi ro thanh toán cũng giảm xuống, các khoản đầu tư dài hạn cũng hấp dẫn hơn, cho phép các nhà đầu tư lựa chọn đầu tư chứng khoán như là một hình thức hấp dẫn hơn gửi tiết kiệm ở ngân hàng, từ đó vốn cho nền kinh tế được tăng cường với mức chi phí thấp hơn và năng lực sản xuất theo đó cũng được phát triển. Đó là chưa kể các tác động khác khi Thị trường chứng khoán phát triển như: tăng cường tính minh bạch và khả năng quản trị của công ty, cung cấp các phương tiện bảo hiểm cho các tổ chức tài chính, giảm tính bất ổn định của ngoại hối… - Dòng vốn vượt qua biên giới này cũng đạt ra yêu cầu tạo điều kiện tăng cường chất lượng hoạt động của các trung gian tài chính. Các định chế tài chính nước ngoài có thể mang các kỹ thuật quản lý, các giáo trình đào tạo, công nghệ, sản phẩm mới vào thị trường trong nước. Sức ép cạnh tranh mà các định chế tài chính nước ngoài tạo ra buộc các tổ chức trong nước phải cải cách hoạt động hiệu quả hơn, linh hoạt hơn với chi phí thấp hơn. Nó cũng thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức phụ trợ trên thị trường như định mức tín nhiệm, kế toán, kiểm toán, các đơn vị chuyên thu thập và cung cấp tin tức. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán cũng yêu cầu nền kinh tế phát triển lành mạnh, duy trì một hệ thống chính sách tốt, có khả năng kiểm soát dự đoán trước, minh bạch, công bằng. tạo tâm lý tin cậy cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vì nguồn vốn này có tính dễ đột biến, nếu không tạo được tâm lý tin cậy cho các nhà đầu tư, rất dễ xảy ra tình trạng đào tháo vốn là một trong nguyên nhân gây nên khủng hoảng. III. KINH NGHIỆM THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỘT SỐ NƯỚC Trong kỷ nguyên toàn cầu hoá các nền kinh tế hiện nay, nền kinh tế của một quốc gia nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng không thể tồn tại như một ốc đảo riêng biệt. Sự tham gia, thâm nhập của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức) vào thị trường chứng khoán của một nước là điều đương nhiên và hiện nay trên thế giới thậm chí đang có xu hướng nhất thể hoá thị trường chứng khoán của nhiều quốc gia trong khu vực. Mô hình phân tích nguồn FPI hiện đang được các nhà kinh tế và hoạch định chính sách của các nước sử dụng là mô hình đầu tư- hay mô hình “kéo”. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn đánh giá các cơ hội đầu tư trong nước cũng như ngoài nước, và khi họ thấy rằng cơ hội của các nước đang phát triển tạo ra lợi tức cao hơn thì họ sẽ quyết định đầu tư. Yếu tố thu hút các nhà đầu tư là các yếu tố cơ bản của thị trường nước tiếp nhận, hay triển vọng tăng trưởng cao là tiền đề và dẫn tới đầu tư vốn. Muốn thu hút và giữ lại vốn đầu tư nước ngoài thì phải tiến hành cải cách nền kinh tế nhằm cải thiện cơ cấu, tăng khả năng tăng trưởng cao, giảm các rủi ro trong môi trường đầu tư. Một số biện pháp để thực hiện chính sách trên như : tự do hoá thị trường, cải tổ hệ thống ngân hàng, tài chính, thuế, quản trị doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư và hội nhập kinh tế, tư nhân hoá. Trong suốt mấy thập kỷ trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, các nước Đông Nam Á nhờ những chính sách mở cửa, duy trì được mức tăng trưởng cao, đã tạo ra được các yếu tố “kéo” đầy hấp dẫn, thu hút được một khối lượng vốn khổng lồ, góp phần không nhỏ vào sự phát triển nhanh chóng của các nước này. Tuy nhiên, FPI là nguồn vốn có độ nhạy cảm cao, trong giai đoạn đầu, để đảm bảo tính ổn định và bền vững của thị trường, tránh được những tác động tiêu cực từ bên ngoài, hầu hết các nước đều có chính sách quản lý và hạn chế sự tham gia của nước ngoài vào thị trường chứng khoán. Sau đó khi thị trường phát triển, các quy định hạn chế này sẽ được dần nới lỏng hoặc bãi bỏ. Dưới đây là kinh nghiệm của Indonesisa và Hàn Quốc, những nước mà thị trường chứng khoán đã phát triển trước Việt Nam và đã trải qua các điều kiện kinh tế giống Việt Nam ngày nay. 1. Kinh nghiệm của Indonesia Indonesisa đã đạt được mức tăng tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn 1970- 1997 trước khi khủng hoảng bùng nổ, trong thời gian đó tăng trưởng GDP của Indonesia trung bình đạt 6,8% năm, tình trạng nghèo đói giảm và lạm phát được giữ ở mức vừa phải. Trong giai đoạn phát triển ban đầu, Indonesia tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng của đất nước, đây là quá trình được đầu tư dài hạn. Trong khi tiết kiệm trong nước còn ít, nguồn đầu tư được lấy từ các tổ chức quốc tế đa phương, các chính phủ nước ngoài và các nhà cho vay tư nhân quốc tế. Tăng trưởng nhanh trong hoạt động của khu vực tư nhân cũng làm tăng dòng vốn đổ vào. Đầu tư vào khu vực tư nhân có thời gian đáo hạn ngắn hơn, dẫn đến nợ ngắn hạn tăng nhanh,. Sự tăng vọt của các khoản đầu tư ngắn hạn làm tăng rủi ro các dòng vốn đổ vào, góp phần gây nên cuộc khủng hoảng 1997. Vào khoảng thập kỷ 70 và 80, hầu hết dòng vốn vào dưới hình thức ODA. Từ cuối những năm 80 đến nay, cơ cấu dòng vốn đã chuyển theo hướng tỷ trọng vốn tư nhân ngày càng tăng tương ứng với vai trò ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong nền kinh tế Indonesia. Dòng vốn đổ vào Indonesia đã tăng nhanh trong giai đoạn từ 1990 đến 1996, do xuất hiện những khoản vay không chính thức trên cơ sở nới lỏng xoá bỏ những hạn chế đối với các khoản vay thương mại, được sử dụng công cụ swap và lãi suất trong nước tăng cao so với lãi xuất bên ngoài. Số dư các khoản vay tư nhân đã thay đổi từ mức cho vay 0,1 tỷ USD năm 1989 sang mức đi vay 0,5 tỷ USD năm 1990, và con số này tăng lên đến 2,6 tỷ USD vào năm 1996. Đầu tư gián tiếp FPI tăng từ 0,4 tỷ USD trong 2 năm 1989 lên mức 2 tỷ đô la năm 1990, nhưng sau đó giảm xuống 1 tỷ USD trong hai năm 1991 và 1992. Đầu tư gián tiếp có xu hương gia tăng nhờ những biện pháp chính sách khuyến khích của chính phủ đối với thị trường vốn và nhờ có lãi suất tăng lên. Trong giai đoạn đầu, đầu tư gián tiếp tăng lên vào năm 1990 chủ yếu là nhờ sự điều chỉnh các văn bản pháp quy thị trường vốn. Sau năm 1992 dòng vốn gián tiếp vào Indonesia không ngừng tăng lên đạt mức tối đa vào cuối năm 1996 trước khi đi xuống vào năm 1997. Năm 1997, sau những biến động lớn trên Sở giao dịch chứng khoán Jakarta, dòng vốn đầu tư gián tiếp đã suy giảm hết sức nhanh chóng do các nhà đầu tư nước ngoài đã bán tống bán tháo các tài sản của mình. Có thể rút ra kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997 của Indonesia, cuộc khủng hoảng có một nguyên nhân quan trọng là do không quản lý được nguồn vốn đầu tư gián tiếp FPI. Việc phân bổ nguồn vốn này kém hiệu quả do sự yếu kém của hệ thống giám sát các công ty niêm yết, quản trị công ty kém, các thông tin sai lệch ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Indonesia. Chính phủ Indonesia lại không duy trì được cơ cấu hợp lý các nguồn vốn, tỷ trọng nguồn vốn vay ngắn hạn và nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán FPI chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn vào, đây là hai dòng vốn có nguy cơ rủi ro cao nhất nên khi khủng hoảng xảy ra đã dẫn đến tình trạng dào thoát nhanh chóng của các nguồn vốn này. Trong điều kiện nền kinh tế Indonesia đã mở cửa tương đối thông thoáng và ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài, nguồn vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn đầu tư, tác động của cuộc khủng hoảng lại càng trầm trọng hơn. 2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy, trong thời gian đầu chỉ cho phép người đầu tư nước ngoài đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư, quỹ tín thác, sau đó mới cho phép đầu tư trực tiếp nhưng dưới một mức trần nhất định. Mức trần này có thể được nâng lên, hoặc bãi bỏ trừ đối với một số ngành kinh tế quan trọng như bưu chính viễn thông, điện lực, hàng không... Các quy định về quản lý đầu tư nước ngoài ở Hàn Quốc được thay đổi gắn liền với tiến trình phát triển của thị trường và thông qua những quyết sách của Chính phủ đối với nền kinh tế qua các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau: - 1981: Chính phủ cho phép đầu tư nước ngoài thông qua các quỹ. - 1985: Chính phủ cho phép phát hành trái phiếu chuyển đổi ra nước ngoài; - 1990: Chính phủ cho phép phát hành chứng chỉ lưu ký ra nước ngoài; - 1991: Chính phủ cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài mở chi nhánh tại Hàn Quốc và cho phép một số công ty chứng khoán nước ngoài trở thành thành viên của Sở giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc; - 1992: Chính phủ cho phép đầu tư trực tiếp nhưng với mức trần là 10%, tỷ lệ này được nâng dần lên 55%; 1998: bãi bỏ mức trần này (do Chính phủ Hàn Quốc muốn tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu á). Mức trần đối với cá nhân nước ngoài ở Hàn Quốc tăng chậm, từ 3% lên 6%. Đối với tổ chức nước ngoài thì mức này tăng nhanh hơn từ 10% lên 26%. Tuy nhiên trong thực tế, giới hạn trần đối với từng cá nhân đầu tư nước ngoài có thể bị phá vỡ trong trường hợp các quỹ đầu tư thông nhau. 3. Kinh nghiệm một số nước khác ở Đài Loan, luật pháp quy định nhà đầu tư là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài có đủ năng lực để có thể mua tới 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của bất kỳ một công ty niêm yết nào. Nhưng tổng số vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ không quá 30% vốn cổ phần của một công ty. ở Thái Lan, các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài có thể sở hữu tổng cộng không quá 49% cổ phiếu của một công ty và 25% cổ phiếu của một tổ chức tài chính. Riêng với Trung Quốc thì chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một loại cổ phiếu riêng biệt (cổ phiếu B) để dễ bề quản lý. Ngay tại Mỹ, không phải chứng khoán của công ty bất kỳ nào cũng có thể tham gia vào bảng định giá của NYSE. Đối với các công ty nước ngoài, điều kiện còn chặt chẽ hơn. Các công ty này phải có một số các chỉ tiêu về số lượng tiền mặt đáng kể. Hơn nữa, ngoài việc trả lệ phí bước đầu và các khoản tiền khác, công ty phải có nghĩa vụ cung cấp bảng thông báo có đăng ký về tình hình tài chính 3 tháng một lần, phải chấp nhận việc không được bán cổ phần nếu không được sự cho phép của thị trường chứng khoán New York, duy trì đại lý chuyển giao để xử lý các văn bản của các cổ đông... Đây là những tiêu chuẩn căn bản mà nếu không đáp ứng được, công ty có thể bị loại ra khỏi danh sách. Riêng Luật chứng khoán Thái Lan có quy định rất rộng rãi với phía nước ngoài. Người nước ngoài có thể sở hữu 49% vốn của một Công ty, ngành ngân hàng, tài chính là 25%. Một phần nào đó vì lý do này mà khi cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á nổ ra, các nhà đầu tư gián tiếp ồ ạt rút vốn khỏi thị trường làm thị trường chứng khoán Thái Lan sụp đổ, càng làm cho tốc độ khủng hoảng nền kinh tế tăng cao. Như vậy, việc quản lý và hạn chế sự tham gia của nước ngoài vào thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển là hết sức cần thiết nhằm tránh khả năng thao túng và gây rối loạn thị trường trong khi kinh nghiệm quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, mặc dù nó sẽ làm giảm mức hấp dẫn của thị trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1.Tình hình kinh tế vĩ mô 1.1. Các thành tựu 1.1.1.Lạm phát kiềm chế dưới một con số Trong suốt một thập kỷ trước khi cuộc khủng hoảng Chấu Á xảy ra, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát triển kinh tế. Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân một năm trong giai đoạn 1989-1996 là 8,2%. Lạm phát giảm từ mức độ 3 con số trong những năm 80 xuống còn 1 con số trong gần hết các năm thập kỷ 90. Biểu đồ 1: Tình hình kinh tế vĩ mô Nguồn: Báo cáo của GSO(1999, trang 31) và IMF (200, trang 3) về tình hình kinh tế Việt Nam. 1.1.2. GDP tăng trưởng ở mức cao Bức tranh nền kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện đang kể trong vòng 5 năm qua, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Sự cải thiện này là nhờ một loạt các chính sách và quy chế đưa nền kinh tế vào một quỹ đạo tăng trưởng trung hạn ở tầm cao hơn, kể cả trong điều kiện môi trường bên ngoài còn chưa thuận lợi. Niềm tin trong khu vực tư nhân được củng cố do chương trình cải cách theo giai đoạn chi tiết đã được thông qua vào năm 2001, số doanh nghiệp tư nhân mới tăng rất nhanh. Năm 2002, tăng trưởng GDP thực tế là 7%. Những nền tảng căn bản tốt trong ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách cơ cấu, đi kèm với niềm tin ngày càng được nâng cao trong nền kinh tế, đó chính là những lý do căn bản dẫn đến tăng trưởng GDP nhanh hơn. 1.1.2. Mức tiêu dùng tăng Mức tăng trưởng được duy trì ở con số cao như vậy là do có sự gia tăng về tổng cầu trong nước. Tỷ lệ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá đã được phục hồi trở lại mức chưa từng có kể từ khi nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1997. Sản xuất hàng tiêu dùng lâu bền như vật liệu xây dựng nhà, ô tô, xe máy, và ti-vi khẳng định rằng mức tiêu dùng đã tăng nhanh trong giai đoạn này. Biểu đồ 2: Tỷ lệ tổng mức bán lẻ Nguồn : Tổng cục thống kê (2002) và ước tính của Ngân hàng thế giới (WB). 1.1.4. Đầu tư phát triển tăng Việc nhiều doanh nghiệp mới được thành lập và niềm tin vững chắc của các nhà đầu tư đã thúc đẩy việc đầu tư vốn và đưa con số những doanh nghiệp đăng ký mới lên trên 50.000 trong vòng 2 năm qua. Đến tháng 7-2002, vốn đầu tư từ những doanh nghiệp mới đã tăng 45% so với cùng kỳ năm trước. Riêng đầu tư của những doanh nghiệp mới vừa và nhỏ trong khu vực kinh tế chính thức đạt 40 nghìn tỷ đồng ( tương đương với khoảng 2,7 tỷ USD) trong năm 2003, tức là gần 9% GDP. Tổng đầu tư của khu vực nhà nước, kể cả từ nguồn ngân sách và vốn của doanh nghiệp vào khoảng mức 18% GDP năm 2002. 1.1.5. Cơ cấu nền kinh tế dịch chuyển theo hướng kinh tế thị trường Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng. Ngành chế biến tiếp tục tăng mạnh với khu vực tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài đạt tỷ lệ tăng sản lượng lần lượt là 19% và 15%. Nguyên nhân của xu hướng này là tỷ lệ doanh nghiệp mới được thành lập đạt mức cao trong năm 2002. Với mức tăng sản lượng 12% năm sau so với năm trước, sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước có khiêm tốn hơn. Điều này phản ánh sự chuyển dịch dần dần của Việt Nam sang kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp nhà nước ngày càng phải đứng trước áp lực cạnh tranh và việc hạn chế ngân sách cứng rắn hơn. Giá trị gia tăng trong khu vực tư nhân đã vượt khu vực nhà nước, ít nhất kể từ năm 1997. 1.2.Một số tồn tại Tóm lại là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam có giảm nhưng đã hồi phục trở lại kể từ năm 2000. Tuy nhiên, về lâu về dài thì nền kinh tế của Việt Nam cũng còn có những vấn đề tồn tại cần phải được quan tâm: 1.2.1. Tỷ lệ chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư còn khá lớn Điều này cho thấy nền kinh tế phát triển phụ thuộc khá nhiều vào vốn vay nước ngoài. Tỷ lệ tiết kiệm dù có gia tăng nhanh chóng nhưng còn thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ tiết kiệm tại một số quốc gia láng giềng trong khu vực (xem biểu đồ 4). Mức tăng trưởng tiết kiệm quốc gia tăng kỷ lục trong năm 1999 có thể sẽ không duy trì được. Lý do là sự lo lắng về mức tăng trưởng kinh tế sau cuộc khủng hoảng Châu Á khiến cho người dân tiết kiệm nhiều hơn trong năm 1999; nhưng những dự đoán về khả năng hồi phục mạnh từ năm 2000 sẽ khiến mức tiết kiệm của dân chúng giảm đi. Hơn nữa, các số liệu về tiết kiệm trong năm 1999 cũng chỉ là số liệu sơ bộ và có thể còn được điều chỉnh. Theo số liệu của ADB thì tỷ lệ tiết kiệm của Việt Nam năm 1999 là 22%. Mặc dầu vậy, để duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao bền vững trong dài hạn thì mức đầu tư trong nền kinh tế cần phải tăng cao. Biểu đồ 3: Tiết kiệm và đầu tư của Việt Nam Nguồn : Báo cáo của GSO (1999) và IMF(2000). Biểu đồ 4: Tiết kiệm và tăng trưởng năm 1997 một số nước trong khu vực. Nguồn : Báo cáo của ADB (2000). 1.2.2. Các luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam không ổn định Hình thức chính của các luồng vốn nước ngoàI này là FDI đã giảm đáng kể sau khi cuộc hủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, do đó làm giảm đáng kể tổng mức đầu tư của Việt Nam từ 29% GDP năm 1997 xuống còn 27% GDP năm 1999. Cho tới trước 1997, vốn đầu tư nước ngoài trung bình hàng năm đạt 2 tỷ USD thì năm 1998 giảm xuống còn 800 triệu USD và còn 600 triệu USD năm 1999. 1.2.3. Các doanh nghiệp còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng Nguyên nhân chủ yếu là do Thị trường chứng khoán còn hoạt động chưa có hiệu quả. Khu vực ngân hàng phải đáp ứng cả nhu cầu cho vay trung và dài hạn cho các doanh nghiệp trong khi phần lớn nguồn huy động của các ngân hàng lại là ngắn hạn. Chính vì vậy trên bảng cân đối luôn có nợ quá hạn, và đây chính là một yếu tố làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế chung (Xem biểu đồ 5). Biểu đồ 5: Nợ quá hạn ngân hàng trên tổng dư nợ. Nguồn: Báo cáo ADB (2000) 1.2.4. Quá trình cổ phẩn hoá đã diễn ra quá chậm chạm, Điều này một phần là do chưa có một thị trường cổ phiếu hiệu quả. Chính phủ đã có kế hoạch cổ phần hoá được khoảng 2500 Doanh nghiệp nhà nước đến hết hết năm 2000 nhưng đến nay mới chỉ có khoảng 900 doanh nghiệp hoàn tất cổ phần hoá. Kết quả là khối Doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khá lớn và gặp nhiều khó khăn. 2.Tình hình cải cách cơ cấu nền kinh tế 2.1. Tình hình cải cách doanh nghiệp nhà nước- cổ phần hoá 2.1.1. Gánh nặng doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân Doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn đóng góp khoảng 38% vào tổng GDP của Việt Nam. Do các Doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động trong những ngành sử dụng nhiều vốn nên chiếm một tỷ trọng lớn khác thường trong tổng các yếu tố sản xuất của đất nước. Với 1,7 triệu lao động , những doanh nghiệp này chỉ thu hút khoảng 4-5% tổng lực lượng lao động. Con số này chỉ tương đương số người mới gia nhập thị trường lao động trong vòng một năm rưỡi. Do trình độ giáo dục liên tục tăng nên không phải tất cả 1,7 triệu người lao động này có tay nghề cao hơn những người lao động mới. Xét từ góc độ này, các Doanh nghiệp nhà nước quả là gánh nặng lớn cho nền kinh tế. Mặt khác, tỷ trọng sử dụng vốn của khu vực nhà nước là khá lớn. Khó có thể có được một ước tính chính xác vì việc tính toán lượng vốn trong một nền kinh tế đang chuyển đổi không phải là dễ thực hiện. Một cách đánh giá gián tiếp tỷ trọng vốn mà khu vực nhà nước thu nhận là xem xét tỷ trọng tín dụng trong nước của khu vực này. Nợ ngân hàng tồn đọng của các doanh nghiệp nhà nước lên đến 90 nghìn tỷ đồng, tức là khoảng 6 tỷ USD. Con số này tương đương với 40% tổng tín dụng trong nước. Nhiều khoản vay mà các Ngân hàng thương mại quốc doanh cấp cho các doanh nghiệp nhà nước có thể sẽ không bao giờ thu hồi được. Trong khi khó có thể ước tính được chính xác giá trị của các khoản vay không sinh lời này, thực trạng này sẽ ảnh hưởng đến việc tích luỹ vốn sau này của khu vực nhà nước. Tuy tỷ trọng tín dụng dành cho các doanh nghiệp nhà nước đang giảm nhưng vẫn chiếm 25% số cho vay mới trong năm 2002. 2.1.2. Các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước Cải cách doanh nghiệp nhà nước mà công cụ chính của nó là cổ phần hoá đã được áp dụng vào năm 1992 và sau đó được điều chỉnh vào năm 1996, được lập luận là không hoàn toàn giống với tư nhân hoá. Cổ phần hoá là một quá trình trong đó một phần hoặc toàn bộ vốn của nhà nước trong doanh nghiệp được bán dưới hình thức cổ phiếu với giá dựa trên giá trị sổ sách. Lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp được ưu đãi mua cổ phần và thường mua hết. Cá nhân có thể mua tối đa 30% cổ phần. Cổ phiếu không được phép mua bán trong giai đoạn 3 năm đầu, trừ khi có giấy phép đặc biệt. Trên thực tế, cổ phần hoá sẽ khó thực hiện nếu không có sự nhất trí của lãnh đạo và đa số người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phần hoá sẽ đưa doanh nghiệp sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Ngoài cổ phần hó, các cơ chế khác cũng được dùng để cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ có thể đem bán, cho thuê hoặc khoán cho người lao động theo mức giá thoả thuận, hoặc thậm chí cho không. Những doanh nghiệp không có khả năng tồn tại sẽ được giải thể. Những doanh nghiệp khác có thể được sát nhập với những đơn vị lớn hơn. Toàn bộ kế hoạch cải cách dự tính khoảng 17000 doanh nghiệp sẽ được chuyển thể cho đến năm 2005. Mặt khác những doanh nghiệp nằm trong danh sách của những ngành được coi là “chiến lược” sẽ được cơ cấu lại nhưng vẫn giữ trong tay nhà nước. Toàn bộ quá trình được thực hiện theo cách tương đối phân cấp, do một doanh nghiệp trực thuộc các bộ chủ quản, một số khác lại trực thuộc chính quyền các tỉnh và địa phương, và một số thuộc vào Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91. 2.1.2. Kết quả cải cách doanh nghiệp nhà nước Quy mô của khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn tương đối lớn mặc dù đã giảm. Xu hướng giảm là rất rõ rệt, khi xem xét tỷ trọng của nó trong sản lượng công nghiệp. Xong theo tỷ trọng trong GDP thì vẫn còn đáng kể. Một biểu hiện nổi bật trong quá trình cải cách là tổng số Doanh nghiệp nhà nước. Sau khi dã giảm từ trên 12.000 doanh nghiệp năm 1990 xuống còn 6.300 doanh nghiệp năm 1992, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, đã có lúc từ năm 1993 đến 1997, quá trình cải cách đã gần như dừng lại. Từ năm 1997 trở đi, với việc áp dụng cơ chế cổ phần hoá, quá trình này đã lấy lại được đà. Nhưng đến nay lại có xu hướng chững lại. Vài trăm Doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi hoặc giải thể trong vòng 5 năm trước khi diễn ra Đại hội Đảng IX năm 2001. Sau một sự khởi đầu khiêm tốn, chỉ có 10 doanh nghiệp được được cổ phần hoá năm 1992, con số này đã tăng lên tới hàng trăm và mục tiêu đặt ra là chuyển thể 400 doanh nghiệp trong năm đầu của kế hoạch hành động. Những doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh/ thành phố quản lý được đặt vào trọng tâm của quá trình này, chiếm 57% tổng số doanh nghiệp được chuyển đổi. Từ đầu năm 2001, khoảng 70% số doanh nghiệp cổ phần hoá đã bán trên 65% cổ phần cho các cổ đông thuộc khu vực nhà nước. (Xem bảng 1) Bảng 1: Tình hình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước (Đơn vị: số doanh nghiệp) Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số chuyển đổi 288 139 Theo loại hình chuyển đổi Cổ phần hoá 102 242 211 200 116 Bán 17 5 Khoán 41 13 Giải thể 30 5 Theo cơ quan chủ quản Bộ chủ quản 25 30 Tỉnh/thành phố 255 96 Tổng công ty 8 13 Tổng số DNNN mới thành lập 87 94 74 43 8 Theo cơ quan chủ quản Bộ chủ quản 14 28 35 19 Tỉnh/thành phố 66 52 31 45 Tổng công ty 7 14 8 9 Nguồn: Tổng hợp từ Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Viện Quản lí kinh tế trung ương. Qui mô của những Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá và chuyển đổi lại tương đối nhỏ. Số lao động trung bình khoảng 250 công nhân và vốn điều lệ khoảng 5,7 tỷ đồng tương đương với 380.000 USD. Tính trung bình, nợ của mỗi doanh nghiệp này khoảng 5,6 tỷ đồng (gần 380.000 USD) . Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận rằng việc chuyển đổi này đã làm giảm bớt một gánh nợ đáng kể cho khu vực nhà nước nói chung. Mặt khác, một số lượng đáng kể Doanh nghiệp nhà nước được thành lập mới trong cùng một thời gian. Không phải mọi doanh nghiệp mới đều hình thành từ vốn đầu tư mới. Việc đăng ký những đơn vị hiện đang hoạt động – chủ yếu là trong các ngành công ích – thành doanh nghiệp nhà nước đã làm cho số liệu về doanh nghiệp mới thành lập là khá lớn và thu hút nhiều dư luận xã hội. Tương tự, một số doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đã thành lập một công ty theo Luật Doanh nghiệp từ Doanh nghiệp nhà nước trước đây và hiện vẫn còn hoạt động. Ước tính chỉ có hoảng từ 30% đến 40% số Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập trong những năm 1998 –2001 là triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh mới. Phần lớn các Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập có quy mô rất nhỏ. Quá trình thành lập Doanh nghiệp nhà nước mới gần như đã bị đình lại vào giữa năm 2001. Từ thời điểm này việc thành lập mới các Doanh nghiệp nhà nước phải được Thủ tướng phê duyệt. Hiện nay, việc thành lập mới các Doanh nghiệp nhà nước được kiểm soát nghiêm ngặt. Việc giảm số Doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ và phát triển những doanh nghiệp lớn và thành đạt hơn có nghĩa là quy mô tuyệt đối của khu vực nhà nước đã tăng lên. Tuy nhiên việc cải cách này diễn ra song song với việc tăng trưởng nhanh của khu vực tư nhân, điều này giải thích tại sao quy mô tương đối khu vực nhà nước, tức là tỷ trọng của nó trong nền kinh tế Việt Nam, lại đang giảm dần. 2.2. Cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính Kể từ cuối những năm 80, những thay đổi quan trọng đã được tiến hành trong cơ cấu, quy chế và hoạt động của khu vực ngân hàng Việt Nam. Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn vẫn chiếm 70% tổng tài sản của toàn hệ thông. Nhưng hiện đã có thêm một số ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài. Trong thập kỷ qua, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã phát triển từ những kênh cho váy chính sách chuyên biệt sang thành những trung gian tài chính định hướng thương mại nhiều hơn. (theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 2002). Thập kỷ qua cũng đã chứng khiến sự phát triển nhanh chóng về mức độ tiền tệ hoá của nền kinh tế Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng được thể hiện ở chỉ số tín dụng ngân hàng trên GDP, chỉ số này đã tăng 13% năm 1990 lên 27% năm 1995 và 44% năm 2000. Sự tăng trưởng của khu vực tài chính phi ngân hàng cũng rất đáng ghi nhân, đặc biệt là sự hoạt động kinh doanh bảo hiểm mặc dù quy mô còn nhỏ. II. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. Sự ra đời của Thị trường chứng khoán Việt Nam Ngay từ ban đầu khi thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có chính sách về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Trên cơ sở về mặt pháp lý này, đã có nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu được phát hành trên thị trường thu hút được khá nhiều nguồn vốn nhàn rỗi từ dân chúng. Đây chính là hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên vào thời điểm này, cổ phiếu và trái phiếu mới chỉ dừng lại ở thị trường phát hành, hầu hết là loại chứng khoán ngắn hạn và trung hạn. Các tổ chức môi giới và kinh doanh chứng khoán chưa tồn tại, hệ thống các văn bản pháp lý còn thiếu, chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Thị trường vốn Việt Nam lúc này còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế. Vì vậy việc phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta là một nhu cầu cấp thiết. Đến tháng 4 năm 1997 Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đi vào hoạt động trên cơ sở Nghị định số 7/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước, chủ động thúc đẩy việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam và đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của nó ngay từ khi mới thành lập. Sau một thời gian chuẩn bị, nghị định số 58/1998/NĐCP ngày 11/7/1998 của chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán được ban hành, làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Đến tháng 7/2002, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh khai trương và hoạt động theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 127/1998/QĐ-Ttg ngày 11/7/1998. Thị trường Chứng khoán Việt Nam chính thức mở của. Việc thị trường chứng khoán Việt Nam ra đã tạo thêm một kênh dẫn vốn mới thu hút vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển đất nước, góp phần hoàn thiện hệ thống các thị trường tài chính và tạo lập đồng bộ các yếu tố của một nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời, ngoài việc phát huy nội lực tạo thêm một kênh huy động vốn trung và dài hạn để bổ sung vào thị trường vốn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước; nó còn giúp các doanh nghiệp xây dựng chiến lược tài chính , có điều kiện tạo vốn và sử dụng vốn thông qua kênh phát hành các loại chứng khoán trên thị trường, tạo thói quen công khai hoá thông tin và báo cáo tài chính, cải tiến đổi mới phương thức quản lý, tự lành mạnh hoá tình hình tài chính của mình. Thị trường chứng khoán ra đời tạo cơ hội cho người đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư qua chứng khoán thay vì gửi tiền tiết kiệm qua ngân hàng, mua ngoại tệ, vàng, bất động sản. Thị trường chứng khoán cũng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy và hỗ trợ tích cực cho tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và hoạt động cũng là một bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đóng góp tích cực cho việc cải thiện môi trường đầu tư, tăng khả năng thu hút vốn và điều hoà nguồn vốn đầu tư cho quá trình phát triển của đất nước. Sự góp mặt của Trung tâm Giao dịch chứng khoán còn là sự bổ sung hoàn chỉnh cho một cơ cấu Thị trường tài chính theo hướng phát triển nền tài chính phù hợp với chính sách xây dựng nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, và thêm một lần nữa khẳng định sự nhất quán đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế và đưa nền kinh tế hội nhập khu vực và thế giới. 2. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam - Quan điểm, mục tiêu cơ bản của TTCK Việt Nam Quan điểm về Thị trường chứng khoán của Việt Nam là phải phục vụ cho chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam - phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đồng thời TTCK Việt Nam cũng phải tuân thủ theo các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về TTCK, được thế giới công nhận và tham gia. TTCK phải thúc đẩy công cuộc "chứng khoán hoá vốn kinh doanh" của nền kinh tế, huy động vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. TTCK Việt Nam phải đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Xuất phát từ quan điểm trên mà TTCK Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với TTCK các nước khác. - Người quản lý, sở hữu Thị trường Chứng khoán Việt Nam TTCK Việt Nam hoạt động dựa trên một cơ chế là: Có một cơ quan của Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về TTCK, thống nhất việc ban hành các văn bản pháp luật và giám sát hoạt động của TTCK. Sở giao dịch có thẩm quyền quy chế hoá hoạt động của Sở trên cơ sở luật pháp chung và sự phê chuẩn của cơ quan Chính phủ. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan duy nhất thực hiện việc tổ chức và quản lý Nhà nước về Chứng khoán và TTCK. Tất nhiên cơ quan này nằm dưới sự quản lý của Chính phủ để Nhà nước có thể kiểm tra hoạt động và định hướng phát triển cho TTCK nhưng nhìn chung UBCKNN gần như có toàn quyền thực hiện quản lý Nhà nước về TTCK. Sở hữu TTCK Việt Nam hay cụ thể là sở hữu Sở giao dịch chứng khoán thuộc về Nhà nước (theo mô hình của Trung Quốc). Do nền kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển đổi, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động cần có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ của chính phủ để tránh có thể đổ vỡ ( như trường hợp của Hàn Quốc), TTCK nước ta lại là TTCK của một nước XHCN nên cần có sự kiểm soát của chính phủ để định hướng phát triển thị trường. Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP, Việt Nam qui định “Sở GD Việt Nam là một tổ chức tài chính đặc biệt thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước thành lập, trực tiếp quản lý và điều hành”. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch mua bán tại SGD do các CTCK thành viên thực hiện. Giá chứng khoán do thị trường quyết định, hình thành qua quan hệ cung cầu, Nhà nước không độc quyền can thiệp. Các CTCK là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước cấp giấy phép hoạt động. Nếu sau một thời gian mà SGD hoạt động tốt thì Nhà nước sẽ đa dạng hoá quyền sở hữu SGD cho các CTCK thành viên. Và rồi đến một lúc nào đó, Nhà nước sẽ rút lui khỏi vị trí là người tham gia sở hữu SGD, trao toàn bộ quyền sở hữu SGD cho các CTCK thành viên, Nhà nước chỉ đứng vị trí là người quản lý, giám sát và bảo trợ cho TTCK phát triển. - Hệ thống pháp lý về CK và TTCK Giống như Trung Quốc hiện chúng ta chưa có luật về CK và TTCK. Văn bản pháp lý có giá trị cao nhất điều tiết hoạt động này hiện nay là Nghị định số 48/1998 NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về CK và TTCK. Phạm vi điều chỉnh của Nghị định này giới hạn trong quy định việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch CK và các dịch vụ liên quan đến CK và TTCK trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam. Trong tương lai, chúng ta cần thiết phải xây dựng luật về CK và TTCK. Dưới nghị định này còn có một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành như và các văn bản khác quy định cụ thể về những vấn đề liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán như các qui định về các hành vi bị cấm trong kinh doanh, quy định sử phạt vi phạm trên TTCK,... Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật khác liên quan đến sự phát triển TTCK như Luật doanh nghiệp (trước đây là luật Công ty), hệ thống các văn bản điều tiết hoạt động CPH DNNN,... - Hệ thống giao dịch Thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm, còn đang trong giai đoạn xây dựng nên tổ chức vẫn chưa hoàn thiện đầy đủ, chúng ta vẫn phải tiếp tục xây dựng dần dần. Theo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tổ chức của TTCK Việt Nam và các định chế tài chính liên quan sẽ được xây dựng theo mô hình thể hiện ở sơ đồ sau. Mô hình tổ chức TTTCK tập trung Việt Nam và các định chế tài chính liên quan ỦY BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Trung tâm Phân tích Chứng khoán Trung tâm Lưu ký CK & Thanh toán Bù trừ Công ty Kiểm Toán Ngân hàng & Công ty Tài Chính Quỹ bảo hiểm Quỹ xã hội Chính phủ & Chính quyền địa phương Doanh nghiệp Quỹ đầu tư Nhà đầu tư nước ngoài Công chúng + Sở giao dịch chứng khoán Trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, Việt Nam chưa tổ chức ngay SGDCK mà sẽ phát triển SGDCK từ các Trung tâm giao dịch Chứng khoán. Hiện nay chúng ta đã xây dựng được hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, một là TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh (khai trương vào tháng 7/2000) nơi giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp lớn được niêm yết chính thức, trái phiếu Nhà nước, trái phiếu các ngân hàng, hai là TTGDCK Hà Nội (vừa được thành lập giữa năm nay) là nơi giao dịch cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến khi TTCK đạt đến một mức độ phát triển nhất định chúng ta sẽ xây dựng một SGDCK với hai sàn giao dịch trong cả nước. Trung tâm giao dịch chứng khoán của chúng ta hiện nay khác với một Sở giao dịch chứng khoán hoàn chỉnh, nó vừa là TTCK sơ cấp (thị trường phát hành) vừa là TTCK thứ cấp (thị trường mua đi bán lại), các công cụ giao dịch tại TTGDCK của ta rất đơn giản, đơn thuần chỉ là cổ phiếu, trái phiếu thông thường. UBCKNN chưa cho phép giao dịch hợp đồng quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai, bán khống hoặc mua bảo chứng như ở các SGDCK hoàn thiện khác. + Thành viên SGDCK Số thành viên của TTGDCK TP Hồ Chí Minh hiện nay là 12 Công ty chứng khoán. Hầu hết các nước trong khu vực trong giai đoạn đầu phát triển TTCK đều không cho phép thành viên là các Công ty chứng khoán nước ngoài nhằm giảm thiểu rủi ro cho thị trường. Tuy nhiên, do rất cần kỹ thuật công nghệ chứng khoán của thế giới trong hoạt động của TTCK cũng như của Công ty CK, chúng ta vẫn chấp nhận cho phép các Công ty CK nước ngoài liên doanh với Công ty CK Việt Nam làm thành viên. Song cho đến nay vẫn chưa có thành viên nào thuộc dạng này. Một Công ty CK thành viên được phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh gồm: - Môi giới. - Tự doanh. - Bảo lãnh phát hành. - Quản lý danh mục đầu tư. - Tư vấn đầu tư CK. +Phương thức giao dịch Mặc dù trong giai đoạn đầu hoạt động của TTCK còn đơn giản, chứng khoán chưa nhiều (cả về số lượng và chủng loại), số lượng công ty môi giới ít nhưng trình độ phát triển công nghệ tin học ở nước ta cũng khá cao do đó chúng ta tổ chức hệ thống giao dịch được vi tính hoá luôn, bỏ qua giai đoạn thủ công (bảng và phấn viết tay) như nhiều nước trước kia trải qua trước khi vi tính hoá. TTGDCK của chúng ta có sàn giao dịch tập trung các nhà môi giới thành viên; giao dịch thông qua hệ thống máy tính nối mạng tại sàn giao dịch, có hệ thống mạng vi tính giữa máy của người giao dịch tại sàn với máy của Công ty của họ ở bên ngoài sàn và thực hiện phương thức phối kết lệnh theo tập hợp lệnh đặt hàng (order driven). + Hệ thống thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán. Hệ thống thanh toán cho các giao dịch CK của Việt Nam hiện nay chưa được thành lập thành một trung tâm mà mới chỉ dừng ở mức phòng thanh toán bù trừ trực thuộc TTGDCK. Hiện chúng ta có một phòng này ở thành phố Hồ Chí Minh. Sau này khi TTGDCK thứ hai được mở ở Hà Nội thì đã có thêm một phòng nữa. Trong tương lai, khi hai TTGDCK phát triển thành một SGD tập trung của cả nước chúng ta sẽ có Trung tâm thanh toán, bù trừ CK chuyên trách về lĩnh vực này và là thống nhất trong cả nước. Ngày thanh toán hiện nay của Phòng lưu ký và thanh toán bù trừ ban đầu la T + 4, từ đầu tháng 1/2002, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã rút ngắn thời hạn thanh toán xuống còn T+3. Hiện nay chúng ta đã có 5 ngân hàng lưu ký (2 ngân hàng trong nước, 3 ngân hàng nước ngoài) và 11 Công ty Chứng khoán được cấp giấy phép thực hiện dịch vụ lưu ký, và có một ngân hàng chỉ định thanh toán (Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam). - Thị trường phi tập trung OTC (over - the - counter) Hiện nay Việt Nam chưa xây dựng được một thị trường OTC để thực hiện các giao dịch ngoài sàn. Trong tương lai Việt Nam sẽ có các biện pháp cần thiết chuẩn bị về khung pháp lý cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật cho thị trường này. Theo chiến lược phát triển TTCK của Việt Nam, thì chúng ta sẽ nâng cấp Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 đưa TTGDCK Hà Nội trở thành thị trường phi tập trung (OTC). Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cũng cho thấy hầu như không nước nào phát triển thị trường OTC cùng lúc với TTCK tập trung. ở Hàn Quốc TTCK tập trung chính thức ra đời năm 1956; sau đó 31 năm (1987) thị trường OTC mới đi vào hoạt động. Thái Lan cũng sau 20 năm (1975-1995) mới cho ra đời thị trường OTC. Cho nên chúng ta trong giai đoạn đầu chỉ tập trung nguồn lực cho phát triển thị trường chính thức là hoàn toàn đúng đắn. 3. Hoạt động giao dịch chứng khoán: Thị trường chứng khoán Việt Nam dù mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã có đủ các biểu hiện của một thị trường phát triển, khi thì rất sôi động, khi thì trầm lắng, đóng băng.... Căn cứ vào hoạt động thực tế trên thị trường, có thể chia sự hoạt động của thị trường ra làm 3 giai đoạn: 3.1. Từ 7/2000 đến 7/2001 Đây là giai đoạn TTCK Việt Nam giá cổ phiếu liên tục tăng, giao dịch trái phiếu gần như đóng băng (có rất ít giao dịch). - Diễn biến thị trường: Ngày 20/7/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán ra đời từ đây. Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được dư luận đánh giá là một trong mười sự kiện kinh tế, chính trị nổi bật của năm 2000. Khuynh hướng chủ đạo trên thị trường trong thời gian này là : Giá cổ phiếu tăng liên tục: do mất cân đối lớn về cung, cầu chứng khoán, cung cổ phiếu luôn rất thấp so với cầu, và việc số lượng công ty cổ phần tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường rất ít (đến cuối năm 2000 mới chỉ có 5 cổ phiếu được niêm yết là REE, SAM, HAP, TMS và LAF) đã khiến cho giá của cả 5 loại cổ đều liên tục tăng cao gấp nhiều lần mệnh giá của các cổ phiếu. Do đó, chỉ số VNindex (chỉ số tổng hợp về giá cổ phiếu) liên tục gia tăng mạnh. Ta sẽ thấy rõ xu hướng giá cổ phiếu tăng mạnh đến mức nào khi so sánh kết quả của 2 ngày giao dịch tiêu biểu thể hiện ở hai biểu đồ dưới (một ngày đại diện cho kết quả những ngày giao dịch đầu, một ngày đại diện cho kết quả những ngày giao dịch cuối của giai đoạn này). Bảng 2: Kết quả giao dịch ngày 25/9/2000 Mã chứngkhoán Giá thực hiện(đ/cp) Khối lượng giao dịch(cp) REE SAM HAP TMS 18.100 20.800 21.800 17.400 7.300 41.200 8.000 100 (Nguồn: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh). Bảng 3: Kết quả giao dịch ngày 11/6/2001 Mã chứng khoán Giá thực hiện(đ/cp) Khối lượng giao dịch (cp) REE SAM HAP TMS 65.000 61.500 116.000 101.000 102.100 222.500 25.300 68.200 (Nguồn: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh). Căn cứ vào hai bảng số liệu trên, có thể thấy rõ giá cổ phiếu của tất cả các công ty niêm yết đều tăng rất nhanh, đặc biệt là cổ phiếu của Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (cổ phiếu HAP) lên đến mức 116.000đ/cp có nghĩa là cao gấp 10 lần mệnh giá của nó. Giao dịch trái phiếu gần như đóng băng: mặc dù đây là loại chứng khoán có khối lượng niêm yết rất lớn(1.100 tỷ đồng) chiếm khoảng 73% giá trị toàn bộ chứng khoán niêm yết, nhưng lượng giao dịch chi chiếm 1,46% tổng giá trị thị trường. - Nhận định nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng giá cổ phiếu tăng liên tục như trên, tuy nhiên các nguyên nhân chính gồm có : +Biên độ giao dịch thấp: đây là nguyên nhân chính. Biên độ dao động nhỏ(+/-2%) đã tạo ra một rào bảo vệ vô hình cho nhà đầu tư, khi đó mua cổ phiếu sẽ có độ rủi ro thấp (giá cổ phiếu có giảm thì cũng chỉ giảm trong một vài phiên) trong khi đó giá cổ phiếu liên tục tăng khiến cho nhà đầu tư ngày càng “mê muội” trong việc nhìn đúng vào giá trị đích thực của cổ phiếu. +Đầu tư theo trào lưu: do thị trường chứng khoán là một hình thức kinh doanh mới mẻ ở Việt Nam, phần đông nhà đầu tư chưa có đầy đủ kinh nghiệm và kiến thức về thị trường này nên chỉ đầu tư theo kiểu thấy người khác làm thế nào thì cứ làm theo như vậy. Do đó có khi lượng đặt mua cổ phiếu rất lớn và có khi bỗng dưng lại bán ào ạt cổ phiếu mặc dù công ty vẫn làm ăn tốt. +Số lượng công ty niêm yết cổ phiếu ít: điều này khiến cho sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cổ phiếu là rất lớn. Khi một cổ phiếu xuống gia thì thường kéo theo sự xuống giá của toàn bộ thị trường, điều này gần như là luôn đúng với hai loại cổ phiếu là SAM và REE. Về việc giao dịch trái phiếu hạn chế là do: lãi suất của trái phiếu thấp (7-8%/năm) khiến cho các nhà đầu tư không hào hứng đối với loại chứng khoán này. Mặt khác, trong quá trình phát hành trái phiếu đã không chú trọng đến việc tạo ra tính đại chúng cho loại chứng khoán này, các loại trái phiếu chỉ tập trung chủ yếu ở các tổ chức, ngân hàng trong khi với điều kiện phát triển của nền kinh tế thì mức lãi suất nói trên là có thể chấp nhận được và do đó các tổ chức nắm giữ không có nhu cầu bán ra và cũng không có nhu cầu mua thêm vào. 3.2.Từ 7/2001 đến 3/2002 Đây là giai đoạn “đen tối” của TTCK Việt Nam, giá cổ phiếu liên tục giảm mạnh, giao dịch trái phiếu vẫn ở tình trạng đóng băng. - Diễn biến thị trường Ngày 8/6/2001, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã có công văn số 262/TTGD8 thông báo về việc mở rộng biên độ giao động giá từ (+/-2%) lên (+/-7%) và được áp dụng từ ngày13/6/2001. Ngay sau khi áp dụng, giá chứng khoán vẫn tiếp tục tăng kịch trần 3 phiên liên tiếp với biên độ giao động mới khiến cho các nhà đầu tư hết sức phấn khích nhưng họ không biết được rằng đây là thời điểm bắt đầu một thời kỳ “đen tối” trên thị trường chứng khoán Việt Nam!!! Từ đây, cổ phiếu liên tục rớt giá khiến cho hầu hết các nhà đầu tư đều hoang mang, không biết có nên tiếp tục đầu tư vào thị trường nữa không??? Nếu như giá cao nhất của cổ phiếu HAP được giao dịch trên thị trường là 146.000đ/cổ phiếu thì sau một thời gian ngắn giảm giá, giá cổ phiếu này chỉ còn ở mức trên dưới 40.000đ/cổ phiếu. Do sự sụt giảm nghiêm trọng của giá cổ phiếu khiến cho chỉ số VNindex sụt giảm nghiêm trọng. Có thể nhận rõ điều này khi xem biểu đồ chỉ số VNindex ở dưới. Từ mức đỉnh là 571,04 điểm tại thời điểm 25/6/2001 và dao động ở mức trên dưới 200 điểm ở thời điểm đầu năm 2002 (như vậy, chỉ sau 4 tháng chỉ số chứng khoán đã giảm tới trên 300 điểm) Một điều đặc biệt là trong khi thị trường đang thiếu hàng trầm trọng (ở giai đoạn trước) thì các cơ quan quản lý thị trường mà cụ thể là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh lại loay hoay, không tìm cách nào để tăng được số lượng công ty niêm yết trên thị trường. Ngược lại, đến thời điểm giá cổ phiếu rớt giá liên tục, các nhà đầu tư bán tống bán tháo cổ phiếu ra thì các nhà quản lý không hiểu vì lý do gì lại đưa thêm một lượng lớn hàng vào thị trường khiến cho giá các cổ phiếu lại càng xuống mạnh hơn. Việc làm nêu trên chẳng khác nào hình ảnh mùa hè thì không cho uống nước còn mùa đông thì lại dội cả gáo nước lạnh vào người (nguyên văn lời bình luận trên VTV1 Đài truyền hình Việt Nam 12/2001). Giao dịch trái phiếu trên thị trường vẫn ở trong tình trạng đóng băng. - Nhận định nguyên nhân: Sự can thiệp quá sâu vào thị trường bằng các biện pháp hành chính của cơ quan quản lý là nguyên nhân chính khiến giá cổ phiếu liên tục sụt giảm. Điều đáng nói ở đây là hai cơ quan trên đã sử dụng hàng loạt các biện pháp hành chính để can thiệp vào thị trường (giới hạn khối lượng đặt mua...). Chính các biện pháp hành chính đó đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư, họ không còn tin vào sự lãnh đạo của các cơ quan quản lý và đồng loạt rút khỏi thị trường. Giá cổ phiếu đã lên quá cao trong thời kỳ trước: đây cũng là nguyên nhân quan trọng khiến giá cổ phiếu sụt giảm mạnh. Ngoài ra, biên độ dao động +/-7% càng khiến cho giá cổ phiếu giảm nhanh. Hệ thống cung cấp thông tin chưa đáp ứng được với yêu cầu của nhà đầu tư: đây cũng là một trong những vấn đề nổi cộm trên thị trường chứng khoán Việt Nam. ở nước ta, cho đến nay vẫn chưa có hệ thống cung cấp thông tin một cách cách chính thống. Các thông tin mà nhà đầu tư nhận được chủ yếu là thông tin tự thu thập từ báo trí và thông tin truyền miệng. Chính vì vậy tính chính xác và hợp lệ không được đảm bảo. Vì lẽ đó, ngay sau khi phong phanh có tin về việc Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về việc quy định thời hạn nắm giữ cổ phiếu để được bán ra (trên thực tế việc này đã không được thực hiện ) thì giá các cổ phiếu đã đồng loạt sụt giảm. 3.3. Từ tháng 3/2002 đến nay Đây là giai đoạn giá cổ phiếu không còn giao động một chiều như trước, giá lúc lên lúc xuống. - Diễn biến trên thị trường: Thị trường chứng khoán Việt Nam đang có bước phát triển tích cực, tạo được niềm tin của đông đảo nhà đầu tư tham gia thị trường. Một số biểu hiện cụ thể, tiêu biểu là: Về giá giao dịch: Biểu hiện rõ nét của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian gần đây là giá cổ phiếu không còn dao động một chiều như trước nữa, giá cổ phiếu lúc lên, lúc xuống rất khó đoán, giá có tăng (giảm) thì cũng không luôn tăng(giảm) ở mức giá trần(sàn) như thời kỳ trước mà thường được giao dịch ở các mức giá trung gian. Khối lượng hàng của thị trường: Số lượng công ty tham gia niêm yết tăng nhanh, chỉ trong một tháng qua đã có thêm 5 công ty lên ‘sàn’, tới thời điểm ngày 01/03/2003 đã có 21 công ty niêm yết cổ phiếu trên thị trường khiến cho cơ hội lựa chọn của nhà đầu tư trở nên phong phú hơn. Giá trị niêm yết của toàn bộ các công ty tham gia niêm yết vào khoảng 610 tỷ đồng. Nhà đầu tư tin tưởng hơn và thị trường: Một biểu hiện mới, mang tính tích cực là hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam, ngày càng xuất hiện nhiều hơn sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, điều này cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam đã trở nên hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài. - Nhận định nguyên nhân: Đến thời điểm này, có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam đang có bước phát triển tốt, đi đúng hướng đề ra ban đầu. Có một số nguyên nhân đưa đến bước phát triển của thị trường, đó là: Giá cổ phiếu đã xuống thấp: Sau một thời gian dài xuống giá, giá các cổ phiếu đã trở lại gần đúng với giá trị thực của chúng, trong khi các công ty niêm yết vẫn làm ăn có hiệu quả và có mức tăng trưởng cao, do đó nhà đầu tư hoàn toàn an tâm khi mua cổ phiếu. Số lượng công ty tham gia niêm yết lớn: việc tăng số lượng công ty tham gia niêm yết đã khiến cho các cổ phiếu không còn ảnh hưởng trực tiếp đến nhau nữa. Trong các giai đoạn trước, do số lượng công ty tham gia niêm yết ít nên khi một cổ phiếu xuống giá thì thường kéo theo sự xuống giá của toàn bộ thị trường. Đến nay số lượng công ty tham gia đã nhiều hơn, sự ảnh hưởng qua lại về giá giữa các chứng khoán không còn lớn như trước nữa. Quản lý thị trường: gần đây sau khi gặp phải sự phản ứng gay gắt của công chúng đầu tư và các cơ quan ngôn luận, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã hạn chế việc quản lý thị trường bằng các biện pháp hành chính. Ngoài ra việc tăng số lượng phiên giao dịch từ 3 lên 5 phiên/ tuần đã rút ngắn chu kỳ quay của vốn, tăng tính thanh khoản cho chứng khoán đã làm tăng thêm niềm tin cho nhà đầu tư . 4. Đánh giá hoạt động của TTCK Việt Nam 4.1.Những ưu điểm Qua hơn 3 năm hoạt động TTCK đã đạt được một số kết quả: - Chúng ta đã mở ra được một TTCK theo mô hình tập trung với qui mô nhỏ. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình mở cửa và hội nhập, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực, TTCK Việt Nam vẫn ra đời và đi vào hoạt động. Hoạt động của TTCK mặc dù chưa phát triển như mong muốn song bước đầu đã triển khai khá suôn sẻ, không gây ra những biến động lớn hoặc tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế-xã hội của đất nước. - TTCK Việt Nam đã bước đầu hình thành một hệ thống các tổ chức niêm yết với tổng giá trị niêm yết là 6.657 tỷ đồng và tổng giá trị thị trường là 8.763 tỷ đồng; đã huy động được một khối lượng vốn đáng kể cho ngân sách nhà nước thông qua đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quĩ hỗ trợ phát triển để niêm yết trên thị trường (trên 4.000 tỷ đồng). Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện phát hành cổ phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng giá trị tăng thêm là 155,4 tỷ đồng (tính đến thời điểm tháng 7 năm 2003). - Xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian tham gia hoạt động trên TTCK, bao gồm 12 công ty chứng khoán, 5 ngân hàng lưu ký và 1 ngân hàng chỉ định thanh toán. Các trung gian tài chính đã thể hiện được vai trò của mình trong việc triển khai các nghiệp vụ môi giới, bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, thực hiện tốt các giao dịch chứng khoán trên thị trường. - Xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn về hoạt động và quản lý thị trường, bước đầu đảm bao cho sự vận hành của thị trường diễn ra suôn sẻ, không gây những biến động lớn. - Hoạt động quản lý, vận hành thị trường của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch chứng khoán đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. Đã có các giải pháp kịp thời, đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công khai, công bằng và hiệu quả, không để xảy ra những hậu quả bất ổn đáng tiếc. - Các chủ thể tham gia TTCK và công chúng đầu tư đã dần làm với một phương thức đầu tư mới với khoảng 14.500 nhà đầu tư, trong đó co hơn 90 nhà đầu tư có tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài, ngày càng tham gia thị trường tích cực và hiệu quả hơn. Thông qua hoạt động của thị trường, các công ty niêm yết, công ty chứng khoán tận dụng được những lợi thế mà thị trường đem lại. Các công ty đã cải tiên phương thức hoạt động, công khai hoá thông tin, nâng cao vai trò quản trị công ty, nhờ vậy mà vị thế và uy tín của công ty được nâng lên. - Đã đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán và thị trường cho đội ngũ cán bộ quản lý, vận hành thị trường. Thực hiện đào tạo và cấp giấy phép hành nghề cho các nhân viên kinh doanh của các Công ty chứng khoán và tổ chức lưu ký. Ngoài ra, công tác đào tạo và tuyên truyền, phổ biến kiến thức về TTCK đã luôn được chú trọng và đóng góp đáng kể trong việc cung cấp kiến thức cơ bản cũng như hiểu biết pháp luật về chứng khoán và TTCK cho công chúng. - Hoạt động của TTCk cũng đã góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, gắn quá trình cổ phần hoá với niêm yết chứng khoán trên TTCK. Từng bước hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng điều lệ mẫu và sử dụng những thông lệ tốt nhất trong quản trị công ty, tạo ra nét văn hoá mới trong quản trị kinh doanh. 4.2. Những hạn chế - Khung pháp lý cho vận hành thị trường chưa được hoàn thiện, văn bản pháp lý cao nhất của thị trường hiện nay là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ được soạn thảo và ban hành trong điều kiện TTCK ở Việt Nam chưa đi vào hoạt động, do vậy, qua một thời gian hoạt động một số nội dung không còn phù hợp với hoạt động của thị trường hiện tại cũng như với nội dung mới của Luật Doanh nghiệp. Khi Dự thảo nghị định thay thế Nghị định 48/NĐ-CP vẫn trong quá trình thẩm định để ban hành, làm cho nhiều văn bản hướng dẫn rất khó thực hiện. - Hàng hoá trên TTCK tuy đã tăng về số lượng nhưng thực sự là chưa nhiều và chưa đa dạng về chủng loại, trong đó khối lượng trái phiếu niêm yết chiếm tỷ trọng lớn, nhưng giao dịch chứng khoán trên thị trường chủ yếu tập trung vào cổ phiếu. Cổ phiếu niêm yết phần lớn cổ phiếu của các DNNN CPH (21/22 doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường- tính đến thời điểm hiện nay) là những doanh nghiệp có tình hình tài chính tương đối lành mạnh, hoạt động có hiệu quả nhưng đa phần vồn kinh doanh nhỏ. - Về hoạt động kinh doanh và quản trị của các Công ty niêm yết. Hiện tại, các công ty có tỷ lệ doanh thu cao nhưng phần lớn các công ty có qui mô vốn nhỏ; sản phẩm của các công ty này có khả năng cạnh tranh còn khiêm tốn trên thị trường, đặc biệt là trên thị trường nước ngoài; cơ chế quản trị công ty, chế độ kế toán, kiểm toán có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Bước đầu tham gia thị trường các tổ chức niêm yết chưa thấy hết được tầm quan trọng của công việc công khai thông tin. Do đó chưa chủ động, tự giác cung cấp thông tin cho công chúng đầu tư, chính điều này phần nào ảnh hưởng đến lòng tin và quyết định tham gia thị trường của người đầu tư. - Hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, còn hạn chế về mô hình tổ chức và trình độ kỹ thuật. Do TTGDCK là một đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc UBCKNN kiêm thêm chức năng lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chỉ phù hợp trong giai đoạn đầu của thị trường. Về lâu dài, Trung tâm giao dịch cần phải được tổ chức lại theo hướng nâng cao tính tự chủ trong việc tổ chức vận hành hoạt động của thị trường. Bộ phận lưu ký, đăng ký, thanh toán cần hải được tách biệt thành một trung tâm độc lập, có chức năng chuyên trách để có thể phát triển theo hướng chuyên sâu và mở rộng qui mô hoạt động. Về năng lực kỹ thuật, hệ thống giao dịch hiện nay của TTGDCK chỉ là hệ thống bán tự động với mạng cục bộ, năng lực hoạt động còn hạn chế, mức độ tự động hoá của các hệ thống còn thấp dẫn đến công suất và hiệu quả chưa cao và khó khăn trong việc thực hiện chức năng giám sát thị trường. Hệ thống công bố thông tin thị trường hiện nay tuy đã cung cấp được một số thông tin về giá, khối lượng chứng khoán giao dịch hàng ngày, tuy nhiên lượng thông tin cung cấp một mặt chưa đáp ứng nhu cầu của các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các thông tin về Công ty niêm yết, thông tin về quản lý thị trường. - Hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế. Qua gần 3 năm hoạt động các Công ty chứng khoán đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên còn nhiều mặt hạn chế, như: Thứ nhất, đội ngũ cán bộ nhân viên kinh doanh còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp, chưa thực sự phát huy vai trò trung gian, kích hoạt thị trường; Thứ hai, các Công ty chứng khoán mới chủ yếu triển khai được nghiệp vụ môi giới và tự doanh, chỉ một vài công ty triển khai thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và chủ yếu là bảo lãnh phát hành trái phiếu; Thứ ba, chát lượng dịch vụ Công ty chứng khoán cung cấp cho khách hàng chưa cao, qui trình nghiệp vụ của Công ty chứng khoán đôi lúc còn chưa làm người đầu tư thực sự tin tưởng. - Về vấn đề thông tin TTCK. Qua thực tiễn hoạt động thị trường cho thấy, vấn đề nổi cộm hiện nay là việc cung cấp thông tin của các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt tổ chức niêm yết. Nhận thức về nghĩa vụ công bố thông tin của các doanh nghiệp chưa cao, công ty chậm công bố thông tin hoặc chỉ công bố những thông tin có lợi cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã lúng túng về công bố thông tin khi gặp phải các sự cố liên quan đến kế hoạch sản xuất kinh doanh, chi trả cổ tức, gây tâm lý hoang mang cho công chúng đầu tư. - Công tác quản lý thị trường còn lúng túng và chưa thực sự đồng bộ. Bên cạnh những vấn đề tồn tại liên quan đến tổ chức bộ máy, nhân sự quản lý, các chính sách, biện pháp quản lý TTCK thời gian qua cnf thể hiện sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý thị trường. Việc quản lý giám sát thị trường chưa có kinh nghiệm nên chưa kịp thời xử lý các tình huống, đặc biệt là lúc thị trường lên xuống thất thường; quản lý công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, giám sát hoạt động của các Công ty chứng khoán còn hạn chế. - Chưa có thị trường giao dịch chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặc dù các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp hiện có. Việc giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp này diễn ra trên thị trường tư do, chưa đưa vào quỹ đạo quản lý của nhà nước, nên chứa đựng nhiều nguy cơ bất ổn, cần sớm tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - TTCK Việt Nam vẫn chưa thực sự thu hút được đông đảo các nhà đầu tư, đặc biệt là sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức, điều này dẫn đến hệ quả là thị trường dễ biến động do tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp; chưa huy động tiềm năng đầu tư lớn của các tổ chức. III. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1.Hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam hiện nay Luật pháp là một công cụ rất quan trọng và hữu hiệu để có thể giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài. Hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán bao gồm một loạt các văn bản luật về chứng khoán ( các loại công ty,vốn điều lệ và vốn cổ phần, cổ phần được phép mua, đầu tư nước ngoài, việc bán cổ phần cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài…) Năm 1999, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp - một luật phù hợp các thông lệ quốc tế. Luật Doanh nghiệp đã đưa ra được một khung pháp lý toàn diện về các vấn đề thành lập, kinh doanh, tổ chức lại và thanh lý các công ty tư nhân và các qui định về trách nhiệm của người giám đốc và người quản lý công ty. Cùng với Luật Doanh nghiệp là sự ra đời của Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường Chứng khoán ngày 11/7/1998. Nghị định 48 qui định việc chào bán ra công chúng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quĩ đầu tư và các loại chứng khoán khác. Theo nghị định này thì các công ty và cá nhân nước ngoài được phép mua bán chứng khoán của các công ty trong nước tại Việt Nam trong một số trường hợp nhất định. Một văn bản pháp lý quan trọng nữa là Quyết định 146 của Chính phủ ngày 17/7/2003 về Tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào Thị trường chứng khoán Việt Nam, giới hạn tỷ lệ đầu tư nước ngoài trong các công ty trong nước được niêm yết trên TTCK Việt Nam. Quyết định 146 này thay thế cho Quyết định 139/1999/QĐ-TTg trước đây. Ngoài ra, hành lang pháp lý về chứng khoán được bổ sung thêm Quyết định 36 của Chính phủ ngày 11/3/2003 ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà Đầu tư nước ngoài trong các Doanh nghiệp Việt Nam. Quyết định 36 quy định cả trường hợp góp vốn nước ngoài vào các Công ty trách nhiệm hữu hạn (và các loại công ty khác) lẫn vốn góp của bên ngước ngoài trong các Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và các công ty cổ phần. Quyết định này có phạm vi rộng hơn Quyết định 146, áp dụng cho tất cả các công ty trong nước chứ không chỉ những công ty được niêm yết trên TTCK. ( Qui chế ban hành kèm theo Quyết định 36 này thay thế cho Qui chế về Bán Cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và các Công ty cổ phần Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định 145/199/QĐ-TTg ngày 26/6/1999 của Thủ tướng chính phủ). 1.1.Các loại công ty được phép đầu tư Các công ty trong nước hoạt động tại Việt Nam gồm nhiều loại, trong đó có Doanh nghiệp nhà nước (gồm cả những doanh nghiệp đang trong quá trình cổ phần hoá thành Công ty cổ phần), Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Văn bản luật mới ban hành Nghị định 38/2003/NĐ-CP của chính phủ ngày 14/4/2003 cho phép thành lập một loại công ty có vốn ĐTNN mới kết hợp giữa loại hình công ty trong nước và công ty có vốn nước ngoài. Các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hiện tại có thể chuyển đổi thành “Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài” (FISC). Các FISC sẽ tuân thủ các quy định của pháp luật về công ty trong Luật doanh nghiệp và được phép niêm yết trên TTCK, nhưng giấy phép đầu tư và các hoạt động được phép vẫn sẽ được điểu chỉnh theo Luật Đầu tư nước ngoài. Có 2 loại công ty trong nước tại Việt Nam được phép phát hành chứng khoán. Các công ty niêm yết là những công ty đáp ứng được các tiêu chí theo qui định của pháp luật về chứng khoán, quyết định niêm yết, tuân thủ các qui chế trong Nghị định 48 và chịu sự kiểm soát của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Đến hết 11 năm 2003 Việt Nam có 22 công ty được niêm yết. Những công ty cổ phần trong nước còn lại tại Việt Nam có thể coi là các công ty “chưa niêm yết”. Trong khi các nhà Đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ vốn cổ phần trong các công ty “chưa niêm yết” thì các doanh nghiệp này lại không phải tuân thủ khung pháp lý của UBCKNN. Trừ một số yêu cầu nhỏ áp dụng cho tất cả các Công ty cổ phần, các Công ty cổ phần “chưa niêm yết” có thể phát hành cổ phiếu mà không bị hạn chế về số lượng nhà đầu tư và không cần phải đáp ứng yêu cầu nào khác về cung cấp thông tin hay quản lý công ty. Sự khác biệt này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vì nó dẫn đến các điểu kiện, thuận lợi và bất lợi khác nhau. Đáng tiếc là chưa có văn bản luật nào quy định về mối quan hệ tương tác giữa hai chế độ tham gia của người nước ngoài vào các Công ty cổ phần chưa niêm yết và các Công ty cổ phần niêm yết của Việt Nam. Do đó, để tìm cách thu hút thêm Đầu tư nước ngoài vào TTCK cần phải xem xét các qui định của pháp luật về các Công ty niêm yết lẫn các công ty chưa niêm yết. 1.2. Vốn điều lệ và vốn cổ phần Theo quy định của pháp luật, một công ty Việt Nam được định giá theo “vốn điều lệ” của công ty đó. Thuật ngữ này được định nghĩa trong Luật doanh nghiệp là vốn do tất cả các thành viên của công ty đóng góp theo quy định trong điều lệ công ty (Điều 3- Luật doanh nghiệp). Tuy nhiên, vốn điều lệ là một con số tương đối, thường dựa trên giá trị cổ phiếu của công ty tại thời điểm cổ phiếu được phát hành cho các cổ đông sáng lập. Trên thực tế, nhiều công ty có số vốn góp của cổ đông (hay còn gọi là “vốn cổ phần”) cao hơn số vốn điều lệ nhiều do thu nhập giữ lại và vốn thực đóng góp ngoài vốn điều lệ. 1.3. Cổ phần Nhà Đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần trong các Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và Công ty cổ phần. Khi một nhà Đầu tư nước ngoài mua một “cổ phần” của một công ty tức là mua một phần quyền sở hữu tài sản của chính công ty đó và quyền bỏ phiếu với tư cách là cổ đông về những vấn đề quy định trong Luật doanh nghiệp. 1.4. Đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài dưới hình thức mua cổ phần là hoạt động được phép nhưng phải chịu một số giới hạn. Mặc dù có thể mua cổ phiếu khi một Doanh nghiệp nhà nước mới cổ phần hoá phát hành cổ phiếu đợt đầu, nhưng các nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể mua cổ phiếu của các Công ty cổ phần trong các đợt phát hành sau hoặc mua cổ phiếu hiện có từ các cổ đông khác hoặc từ công ty. Nhà Đầu tư nước ngoài không được phép trở thành cổ đông sáng lập. Một quy định quan trọng khác là các công ty và cá nhân nước ngoài chỉ được nắm giữ số cổ phiếu tối đa là 30% vốn điều lệ trong một công ty trong nước chưa niêm yết ở Việt Nam (Điều 4, Quyết định 36/2003/QĐ-TTg ngày 11/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ). Đối với các Công ty niêm yết, mức trần là 30% tổng số cổ phiếu được niêm yết của công ty (Điều 1 QĐ 146/2003/QĐ-TTg). Như đã nêu trên, vốn điều lệ có thể không bằng vốn cổ phần của các cổ đông trong công ty, do đó trên thực tế tỉ lệ tham gia của nước ngoài có thể còn thấp hơn nưa. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép mua cổ phiếu trong các công ty thuộc các lĩnh vực được pháp luật quy định (Quyết định 260/2002/QĐ-BKH ngày 10/4/2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 1.5. Bán cổ phần cho nhà Đầu tư nước ngoài Để bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, công ty Việt Nam phải có sự phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền (đối với Doanh nghiệp nhà nước là cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch cổ phần của doanh nghiệp; đối với Công ty cổ phần là đại hội cổ đông hoặc hội đồng quản trị tuỳ từng công ty). Sau khi được phê chuẩn và trước khi bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài, công ty phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và công bố công khai những thông tin chủ yếu về công ty cho nhà đầu tư nước ngoài. Nếu có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần với tổng giá trị vượt 30% vốn điều lệ (là mức đầu tư nước ngoài tối đa được phép) thì công ty có thể tự lựa chọn nhà đầu tư hoặc thực hiện bán đấu giá cổ phần. Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần bằng tiền mặt, dưới hình thức tài sản là máy móc thiết bị, nguyên liệu, hàng hoá, chuyên giao công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ, chứng khoáng có giá hoặc các tài sản (chưa được định nghĩa) khác. 2. Qui mô nguồn vốn ĐTNN qua TTCK (FPI) trong tổng nguồn vốn vào Việt Nam Trong vòng nhiều năm trước khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á và trước khi Việt Nam mở cửa thị trường chứng khoán, nguồn vốn nước ngoài nói chung đổ vào Việt Nam ở mức độ tương đối cao. Qui mô nguồn vốn vào tương đối cao do Việt Nam có được những điểm khá hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài (các yếu tố kéo), trong đó đặc biệt là những thành công của công cuộc đổi mới chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, cải cách cơ cấu mạnh mẽ… Cơ cấu nguồn vốn chủ yếu là FDI, nguồn vay thương mại ngắn và dài hạn ở mức thấp hơn và nguồn FPI (nguồn vốn ĐTNN qua TTCK) rất nhỏ và chưa có trong danh mục thống kê của chính phủ. (Xem biểu đồ 6) Biểu đồ 6: Cơ cấu nguồn vốn ròng vào Việt Nam. (Đơn vị: Triệu đô la). Nguồn: IMF (2000) Ngoại trừ thực tế là Việt Nam chưa có nguồn FPI, cơ cấu nguồn vốn vào Việt Nam có thể được coi là tương đối lý tưởng vì nguồn FDI ít biến động. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng châu Á nổ ra thì nguồn vốn vào Việt Nam cũng đã giảm một cách đáng kể. Biểu đồ 6 cho thấy ngay sau khi khủng hoảng nổ ra, nguồn vốn vay thương mại ngắn hạn bị rút ra khỏi Việt Nam với qui mô lớn trong các năm 1997-1999. Nguồn vốn vay dài hạn vẫn giữ mức tăng trưởng tương đối cao nhờ chủ yếu vào nguồn ODA. Nguồn FDI cũng sụt giảm tương đối mạnh một phần do các đối tác chính trong khu vực cũng bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng nên từ bỏ dự án hoặc chậm giải ngân, đồng thời các yếu tố kéo của Việt Nam cũng không còn được hấp dẫn như trước. Kịch bản về chu chuyển vốn vào Việt Nam có nhiều tương đồng với các nước trong khu vực. Thứ nhất, trong giai đoạn kinh tế phát triển, nguồn vốn nước ngoài vào nhiều và đã góp phần không nhỏ giúp tăng trưỏng kinh tế trong nước. Tuy nhiên, nguồn vốn vào cũng rất dễ bị tổn thương bởi những cú sốc cả bên trong lẫn bên ngoài. Khi nền kinh tế có biểu hiện rơi vào tình trạng khó khăn hoặc khủng hoảng thì khả năng đào thoát vốn có thể diễn ra rất nhanh, đặt nước tiếp nhận vào tình trạng khó khăn về vốn đầu tư. Trên thực tế, tổng mức đầu tư toàn xã hội của Việt Nam đã chững lại trong năm 1998 và sụt giảm trong năm 1999 chủ yếu là do tác động của tình trạng đào thoát vốn. Nếu Việt Nam đã có một thị trường chứng khoán phát triển và nguồn FPI tương đối lớn trong cơ cấu tổng nguồn vốn thì khả năng đào thoát vốn trong những năm 1998-1999 sẽ lớn hơn và do đó tổng mức đầu tư toàn xã hội với nền kinh tế nói chung sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Thực tế trên cũng cho thấy thu hút nguồn nước ngoài để phát triển kinh tế là quan trọng, nhưng cũng phải đi kèm với những biện pháp giám sát và quản lý thích hợp nhằm hạn chế những rủi ro tiềm tàng. Việc điều chỉnh tổng mức nguồn vốn vào và đạt được một cơ cấu hợp lý là rất quan trọng, và điều đó chỉ có thể đạt được khi các nhà lập chính sách có cách nhìn tổng thể và phối hợp chặt chẽ với nhau trong điều tiết vĩ mô. 3. Tình hình nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài Như đã nói ở trên, người nước ngoài được phép đầu tư mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam trước khi TTCK Việt Nam đi vào hoạt động và được phép nắm giữ tối đa là 30% cổ phiếu lưu hành của một công ty. Khi chưa có TTCK thì thông tin về hoạt động của các doanh nghiệp rất hạn chế và do đó cơ hội đầu tư giành cho các nhà đầu tư cá nhân là rất hiếm hoi. Hoạt động đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là thông qua các tổ chức đầu tư. Cho đến nay chúng ta vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác về tổng mức đầu tư của người nước ngoài vào các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên nhìn vào thực trạng của các công ty niêm yết trên TTCK ta có thể thấy các nhà đầu tư nước ngoài đã nắm giữ cổ phần của 6/19 công ty niêm yết trước khi các công ty này chính thức “lên sàn” (tính đến cuối năm 2002, xem bảng 4). Mức nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài tại các công ty này tương đối cao, hầu hết từ 20%-30% tức là cao hơn nhiều so với qui định về mức tối đa về nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài được qui định trong Nghị định 139/1999/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam tức là 20%. Xét về tổng thể thì các nhà đầu tư nước ngoài đã nắm giữ khoảng 7,17% tổng số cổ phiếu của các công ty niêm yết, một tỷ lệ tương đối thấp nếu so sánh với các nước khác. Bảng 4: Tình hình nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài tại thời điểm niêm yết (Đơn vị: cổ phiếu). STT Mã CP Số CP niêm yết Nước ngoài nắm Tỷ lệ 01 REE 15000000 3750000 25.00% 02 SAM 12000000 0 0.00% 03 HAP 1008000 0 0.00% 04 TMS 2200000 110000 5.00% 05 LAF 1909840 579246 30.00% 06 SGH 1766300 0 0.00% 07 CAN 3500000 894950 25.57% 08 DPC 1587280 0 0.00% 09 BBC 5600000 0 0.00% 10 TRI 3790300 0 0.00% 11 GIL 1700000 0 0.00% 12 BTC 1261345 0 0.00% 13 BPC 3800000 0 0.00% 14 BT6 5882690 0 0.00% 15 GMD 17178455 0 0.00% 16 AGF 4179130 835826 20.00% 17 SAV 4500000 0 0.00% 18 TS4 1500000 300000 20.00% 19 KHA 1900000 0 0.00% Tổng 90263340 6470022 7.17% (Nguồn: TTGDCK Tp.Hồ chí Minh, 2002) Trước khi quyết định 146/2003/QĐ-TTg ban hành ngày 17/7/2003 thay thế cho nghị định 139/1999/QĐ-TTg thì tỷ lệ tối đa mức cổ phần của người nước ngoài được nắm giữ là 20%, do vậy có sự hạn chế trong việc đầu tư của người nước ngoài vào TTCK Việt Nam trong các công ty mà tỷ lệ nắm giữ đã vượt quá 20%. Tại các công ty này người nước ngoài chỉ được phép bán chứng khoán đi chứ không được mua thêm chứng khoán, cụ thể là người nước ngoài không được mua 5/21 công ty niêm yết là REE, TMS, LAF, CAN, TS4, và cho tới tháng 10/2003 thì tỷ lệ sở hữu hiện tại vẫn ở mức cao nhất được qui định theo nghị định 139 là 20%. Tuy nhiên Nghị định 146 ban hành thay thế cho nghị định 139 đã qui định tăng tỷ lệ nắm giữ tối đa lên 30%, việc này sẽ làm thay đổi tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài theo hướng tăng lên. (tuy nhiên đến hết tháng 10 năm nay thì nghị định này vẫn chưa có thông tư hướng dẫn thi hành, và số liệu tổng mức đầu tư người nước ngoài đến hết tháng 11 vẫn chưa có). Bảng 5: Tình hình sở hữu cổ phiếu của người nước ngoài (đến hết năm 2002). (Đơn vị : cổ phiếu). STT Mã CK Tổng số CP được phép nắm giữ Số CP nắm giữ hiện tại Tỷ lệ sở hữu hiện tại Tỷ lệ sở hữu khi niêm yết 01 REE 4,500,000 4,583,070 20.37% 25.00% 02 SAM 2,400,000 1,170,800 9.76% 00.00% 03 HAP 401,600 73,000 3.64% 00.00% 04 TMS 440,000 438,500 19.93% 5.00% 05 LAF 381,968 579,254 30.33% 30.00% 06 SGH 353,260 63,700 3.61% 00.00% 07 CAN 700,000 777,420 22.21% 25.57% 08 DPC 317,456 79,800 5.03% 00.00% 09 BBC 1,120,000 900,260 16.08% 00.00% 10 TRI 758,060 604,800 15.96% 00.00% 11 GIL 340,000 220,000 12.94% 00.00% 12 BTC 252,269 73,200 5.80% 00.00% 13 BPC 760,000 0 0.00% 00.00% 14 BT6 1,176,538 21,000 0.36% 00.00% 15 GMD 3,435,691 44,800 0.26% 00.00% 16 AGF 836,826 782,100 18.71% 20.00% 17 SAV 900,000 22,700 0.50% 00.00% 18 TS4 300,000 300,000 20.00% 20.00% 19 KHA 380,000 56,300 2.96% 00.00% Tổng 19,753,668 10,790,704 10.93% 7.17% (Nguồn : Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, 2002). Nhìn vào bảng 5 ta có thể thấy rõ tình hình sở hữu của người nước ngoài sau khi các công ty niêm tham gia giao dịch trên TTCK đến cuối năm 2002 so với tỷ lệ sở khi bắt đầu niêm yết đã tăng một cách rõ rệt, từ 7,17% tăng lên 10.93%. Mặc dù tỷ lệ sở hữu ở 5 công ty trước khi niêm yết vượt quá 20% đã phải điểu chỉnh giảm đi, nhưng với các công ty niêm yết khác chưa có sự tham gia của người nước ngoài thì tỷ lệ sở hữu tăng lên, làm cho tổng tỷ lệ sở hữu đối với tất cả các công ty niêm yết trên TTCK tăng lên (tăng lên hơn 150%). Có thể nhận thấy là tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các tổ chức niêm yết của nhà đầu tư nước ngoài cho đến nay vẫn không có nhiều thay đổi và biến động lớn, vẫn ở mức khoảng 11%. Đến hết tháng 2 năm 2003 thì tỷ lệ này là 11,11%, và tỷ lệ sở hữu ở cả 5 công ty có tỷ lệ sở hữu vượt quá 20% trước khi niêm yết cũng đều được điều chỉnh giảm xuống theo đúng tỷ lệ không chế là 20%, tỷ lệ sở hữu ở các công ty khác tăng lên đối chút, song nhìn chung vẫn không có nhiều biến động. Theo số liệu thống kê được gần đây nhất, đến tháng cuối tháng 7 năm 2003, thì số công ty niêm yết đã tăng lên thêm 2 công ty là HAS và VTC, tổng số phiếu niêm yết cũng đã tăng lên nhưng tỷ lệ không đáng kể và mức sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam vẫn là 11.03%, không có sự thay đổi lớn. Bảng 6: Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (đến 20/7/2003) (Đơn vị : cổ phiếu). Mã CK Khối lượng CP đang lưu hành Tổng khối lượng được phép nắm giữ Khối lượng nắm giữ hiện thời Tỷ lệ sở hữu REE 22,500,000 4,500,000 0 20.00% SAM 18,000,000 3,600,000 1,746,050 10.30% HAP 2,003,700 401,600 318,430 4.14% TMS 2,191,000 440,000 0 20.00% LAF 1,782,340 381,968 0 20.00% SGH 1,766,300 353,260 289,460 3.61% CAN 3,499,880 700,000 0 20.00% DPC 1,587,280 317,456 219,156 6.19% BBC 5,250,000 1,120,000 169,240 16.98% TRI 3,776,500 758,060 132,360 16.51% GIL 2,524,270 510,000 149,800 14.13% BTC 1,261,345 252,269 164,569 6.95% BPC 3,600,000 760,000 759,500 0.01% BT6 5,882,690 1,176,538 1,149,038 0.47% GMD 14,984,020 3,435,691 3,007,951 2.49% AGF 4,029,130 835,826 47,736 18.86% SAV 4,350,000 900,000 881,100 0.42% TS4 1,500,000 300,000 0 20.00% KHA 1,900,000 380,000 309,000 3.74% HAS 1,200,000 240,000 239,500 0.04% VTC 1,786,440 359,548 338,548 1.17% Tổng 105,374,895 21,722,216 9,921,438 11.03% (Nguồn: TTGDCK Tp.Hồ chí Minh, 2003) 4. Tình hình giao dịch của người nước ngoài trên TTCK Trước khi đi vào phân tích tình hình giao dịch của người nước ngoài trên TTCK Việt Nam chúng ta cần phải lưu ý một thực tế quan trọng là: theo qui định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ thì tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành, trong đó một tổ chức đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 7% và một cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 3%. Qui định mới này thu hẹp phạm vi và mức độ người nước ngoài được đầu tư mua cổ phiếu của doanh nghiệp Việt Nam so với các qui định về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (cho phép người nước ngoài được mua tối đa 30%). Trong số 21 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán thì có tới 5 công ty người nước n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChungkhoan25.doc