Đề tài Nội dung, quy định tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội

Tài liệu Đề tài Nội dung, quy định tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội: Lời mở đầu Trong số hàng ngàn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam. Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ lâu đã là một khu di tích lịch sử văn hoá lớn ở trung tâm Thủ đô Hà Nội. Đặc biệt, mỗi khi xuân về, du khách thập phương đến thăm quan, hành hương rất đông. Sự kiện xây dựng Văn Miếu được sách “Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi như sau: “ Năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu tháng Tám dựng Văn Miếu đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến học ở đó”. Ngày 15-2-2003, tức đúng ngày Tết Nguyên tiêu (rằm Tháng Giêng năm Quý Mùi), một lễ hội thơ đầu tiên ở Việt Nam đã được tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội....

doc42 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1011 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nội dung, quy định tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong số hàng ngàn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam. Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ lâu đã là một khu di tích lịch sử văn hoá lớn ở trung tâm Thủ đô Hà Nội. Đặc biệt, mỗi khi xuân về, du khách thập phương đến thăm quan, hành hương rất đông. Sự kiện xây dựng Văn Miếu được sách “Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi như sau: “ Năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu tháng Tám dựng Văn Miếu đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến học ở đó”. Ngày 15-2-2003, tức đúng ngày Tết Nguyên tiêu (rằm Tháng Giêng năm Quý Mùi), một lễ hội thơ đầu tiên ở Việt Nam đã được tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Chọn một nơi như Văn Miếu để khai trương và tôn vinh truyền thống yêu văn thơ của dân tộc ta quả là một việc làm có ý nghĩa. Nếu trở lại cội nguồn lịch sử xa xưa của Văn Miếu, chúng ta sẽ tìm ra khái niệm này còn ẩn tàng nhiều giá trị về văn hóa - tín ngưỡng làm nên bề dày truyền thống tinh hoa dân tộc Việt Nam Văn miếu ngày nay không chỉ là di tích văn hoá - lịch sử, một danh thắng mà còn là nơi nhân dân Thủ đô tổ chức các buổi bình thơ, ngâm thơ của các thời đại. Mùa xuân năm 1962, Bác Hồ đã tới dự một buổi sinh hoạt thơ của các cụ phụ lão tại nhà Đại Bái vào đúng ngày mồng một Tết, Bác đọc tặng các cụ hai câu thơ. Tuổi già nhưng chí không già Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh. Để phát huy tác dụng của di tích trong công cuộc xây dựng Thủ đô, Trung tâm Hoạt động Văn hoá - Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được thành lập tại đây, với các hội thảo, đề tài nghiên cứu, sinh hoạt văn hoá dân gian, trưng bày các hiện vật lịch sử, tác phẩm văn nghệ của Hà Nội cổ là chiếc cầu nối giữa xưa và nay, góp phần làm giàu thêm cho kho tàng văn hoá Thăng Long - Hà Nội.  Giờ đây, sau gần 10 thế kỷ thăng trầm, qua bao năm chiến tranh giặc giã, mặc dù Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã ít nhiều bị mai một, xuống cấp song nơi đây vẫn là một di tích lịch sử văn hóa có một không hai của dân tộc. Nó hàm chứa tất cả những giá trị văn hóa truyền thống của con người Việt Nam từ bao đời nay. Và bây giờ, Văn Miếu trong tâm khảm chúng ta như một biểu trưng mang đậm chất văn hóa được tôn thêm bởi sắc màu tín ngưỡng. Giá trị tinh thần cao quý đến nỗi chúng ta coi đó như một huyền thoại để tôn thờ, là di sản bất diệt của ngàn năm văn hiến. Quả là hai yếu tố văn hóa và tín ngưỡng đã tích hợp, chìm vào trong nhau và lung linh tỏa sáng trong tâm hồn mỗi người Việt Nam, mãi mãi trường tồn cùng lịch sử. Để hiểu rõ hơn về Văn Miếu Quốc Tử Giám trong chuyên đề khảo sát đặc điểm Du lịch Văn Miếu Quốc Tử Giám chúng ta có thể chia làm 5 nội dung sau. Phần 1: Khảo sát điều kiện vận chuyển khách Phần 2: Nội dung, quy định tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội Phần 3: Một số dịch vụ du lịch phục vụ khách trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội Phần 4: Nội dung tham quan Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội Phần 5: Bài thuyết minh Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội Xin chân thành cảm ơn ban quản lý khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, các thầy cô giáo và các anh chị hướng dẫn viên đã giúp đỡ tôi để hoàn thành tiểu luận khảo sát này và hy vọng tiểu luận này sẽ mang lại một đóng góp nhỏ cho các hướng dẫn viên và du khách tham quan khi đến với Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội. Phần 1: KHẢO SÁT ĐIỀU KIỆN VẬN CHUYỂN 1. Vị trí của Văn Miếu – Quốc Tử Giám Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường vây bốn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám có quy mô khá rộng, chiều dài 306m, mặt trước rộng 61m, mặt sau 75m, nằm trong bức tường thành bằng gạch vồ, xây bao quanh năm 1833. Xưa kia, thuộc đất hai làng Cổ Giám và Văn Hương, nay thuộc phường Văn Miếu, quận Đống Đa. 2. Hê Thống phương tiện vận chuyển đường bộ Do Văn Miếu nằm giữa trung tâm thành phố cho nên điều kiện vận chuyển còn gặp nhiều khó khăn. Theo quy định mới của nhà nước thì xe du lịch buổi sang từ 6h-9h không được hoạt động trong nội thành do vậy khách đến Văn Miếu có thể đi xe du lịch nhỏ, xích lô, xe bus, nếu đi city tour thì đi xe đạp, xe máy hoặc xe ô tô du lịch (tránh giờ cấm). Đến Văn Miếu – có rất nhiều đường. Nếu lấy điểm xuất phát là vỉa hề đường Trần Quang Khải có thể đi theo phố Cầu Gỗ - Hàng Gai – Hàng Bông –khu di tích phủ chủ tịch- Nguyễn Thái Học – Văn Miếu, theo tuyến đường này chúng ta có thể kết hợp tham quan quần thể di tích phố cổ.,phủ chủ tịch,bảo tàng Mỹ thuật Có thể đi theo một hướng khác là Trần Quang Khải đi qua bảo tàng Lịch sử- đường Hai Bà Trưng – thẳng Văn Miếu,theo hướng này có the kết hợp tham quan bảo tàng lịch sử, di tich Hoả Lò và khu phố cũ(French Quarter) Phần 2: NỘI QUY, QUY ĐỊNH TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM 1. Giờ mở cửa Mùa hè: Từ 7h30 – 17h30 Mùa đông: Từ 8h – 17h 2. Giá vé vào cửa - Vé vào cửa: 5.000đ/người, áp dụng chung cho cả người Việt và khách nước ngoài. - Vé vào cửa: 2.500đ/người, áp dụng cho học sinh, sinh viên tham quan và học tập. 3. Thời gian tham quan Tất cả các ngày trong tuần kể cả ngày lễ và ngày Tết. 4. Địa chỉ liên hệ Phòng bán vé Văn Miếu – Quốc Tử Giám Số điện thoại: 048433615 Các bạn gọi đến lúc nào cũng có người trực và trả lời. 5. Vị trí đỗ xe của khách Vỉa hè Phố Văn Miếu Phần 3: MỘT SỐ DỊCH VỤ DU LỊCH PHỤC VỤ KHÁCH TRONG VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM 1. Biểu diễn nhạc dân tộc Các cô gái mặc áo tứ thân sẽ biểu diễn nhạc cụ và hát quan họ, hát chèo theo yêu cầu của khách du lịch. Show diễn kéo dài khoảng 15 phút. Chí phí cho một chương trình biểu diễn như vậy: khoảng 100.000 – 200.000đ. 2. Các dịch vụ khác Bán đồ lưu niệm: các nhạc cụ dân tộc, các đồ mỹ nghệ của Việt Nam, các ấn phẩm sách báo, bưu thiếp và giải khát. Đặc biệt còn có các dịch vụ in phiên bản các tấm bia tiến sĩ, nếu các bạn muốn mua bia thì họ sẽ làm cho các bạn. 3. Hương dẫn - Cơ cấu: Gồm 7 hướng dẫn viên trong đó hai huớng dẫn tiếng Anh, 1 tiếng Pháp, 2 tiếng Trung, các hướng dẫn vien nước ngoài kiêm luôn hướng dẫn tiếng Việt. - Có 2 phương án để liên hệ hướng dẫn viên như sau: + Khách sẽ xuống phòng mua vé hướng dãn sau đó nhân viên bán vé sẽ gọi đến phòng hướng dẫn và khách đến, hướng dẫn viên sẽ ra và hướng dẫn các bạn từ cổng vào. + Nếu khách đông có thể đặt vé trước, khách có thể gọi điện thoại trực tiếp đến phòng hướng dẫn và khi khách đến hướng dẫn sẽ ra đón. - Lệ phí hướng dẫn + Số lượng khách dưới 20 người là 30.000đ/lượt + Số lượng khách trên 20 người là 50.000đ/lượt Nếu đoàn có số lượng đông thì sẽ chia nhỏ ra nhiều nhóm nhỏ. - Thời gian hướng dẫn tham quan + Khoảng từ 40 – 45 phút hướng dẫn viên sẽ hướng dẫn cho các bạn từ ngoài vào trong hoặc từ trong ra ngoài. - Địa chỉ liên hệ của Văn Miếu – Quốc Tử Giám + Phòng bán vé: 048433615 các bạn có thể gọi vào tất cả các giờ trong thời gian mở cửa. + Phòng hướng dẫn: 048236601 (gặp Lê Trọng Phúc) Phần 4: NỘI DUNG THAM QUAN VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM Giới thiệu khái quát về Văn Miếu - Quốc Tử Giám Văn Miếu được xây dựng từ "tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.". Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử. Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ Tiến sỹ từ khóa thi 1442 trở đi. Thời Lý, Trần, văn miếu dựng ở thôn Minh-giám, huyện Thọ-xương, phía tây nam phủ Phụng-thiên, trong kinh thành. văn miếu nằm cạnh Thái hồ. Hồ này rộng mênh mông, sau bị lấp chỉ còn phần phía nam trước cổng văn miếu, gọi là Văn hồ. Khu này còn có làng Văn chương vì thời Lê nho sĩ tụ tập ở quốc tử giám để nghe bình văn một tháng hai lần. Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám - cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Khoảng 1771 cái hồ to ở trước mặt nhà Thái học gọi là ao Bích-thủy. Trước kia dân phố phần nhiều dựa lưng vào ao mà làm nhà. Học quan xây bức tường bình phong để che xe ngựa. Khi ấy Nguyễn Hoãn bổ chức Tri quốc tử giám đuổi phố xá đi mà mở rộng ra, trồng cây, lát đường, lập bia Hạ mã ở trước cửa, làm cho quang cảnh nhà Thái học nghiêm trang. Khoảng đầu đời Tự-Đức, phía đông Văn hồ có Nho sinh quán do m ột Hương quan làng Minh-giám lập ra cho học trò nghèo các tỉnh tới trọ. Tương truyền chủ quán ra một vế đối, treo giải thưởng nhưng không ai đối được : Nước Văn hồ tha hồ tắm mát, Rượu Hồ đình thơm ngát đón làng Văn. (Hồ đình là cái đình hóng mát hình hồ rượu dựng trên một đảo nhỏ của Văn hồ). 1865 Văn hồ đình bi ký :"Trước văn miếu có hồ lớn, giữa hồ có bãi Kim-châu. Khoảng năm Cảnh-trị (1663-71) Tham tụng Phạm tiên sinh (Phạm Công Trứ) từng sáng tác chùm thơ "Phân thủy thập vịnh" tả cảnh đẹp nơi đây. Thời gian lâu xa, cỏ mọc um tùm quanh hồ, lòng hồ tắc ứ ngày một cạn. Năm 1863, Bố chính Lê Hữu Thanh và Án sát Đặng Tá dựng Bi đình. Năm 1865, Đặng Án sát mua ngói lợp đình, đặt tên là Văn hồ đình. Trong đình khắc mười bài thơ "Phân thủy" của Phạm Công Trứ". Năm 1785 đổi thành nhà Thái học. Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu - Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu thế kỷ XX Pháp xây lại Hà nội, phá hủy làng Văn hồ để mở đường, xây nhà. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại. Mùa xuan năm 1962, Bác Hồ đã tới dự một buổi sinh hoạt thơ của các cụ phụ lão tại nhà Đại Bái vào đúng ngày mồng một Tết, Bác đọc tặng các cụ hai câu thơ. Tuổi già nhưng chí không già Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm trên một khu đất khá rộng, có diện tích 54.331m2 bao –gồm Hồ Văn, Văn Miếu – Quốc Tử Giám và kiến trúc chủ đạo là khu Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám được xây dựng trên khu đất cáo diện tích 300m2, chiều rộng phía Bắc là 75m2, phía Nàm là 61m2 , hướng Nam bắc theo quan niệm (thánh nhân nam diện nhi trị) (thánh nhân hướng về phía nam để cai trị) chia thành 5 khu tương ứng với ngũ hành, với dãy tường gạch bao quanh (gạch này được đem xây thành cổ Hà Nội) chia khu Văn Miếu thành 5 khu nhỏ được thông nhau bởi các cổng. Văn Miếu cũng như nhiều kiến trúc cổ còn lại đã trải qua nhièu lần trùng tu và thăng trầm, đến thăm Văn Miếu, chúng ta sẽ hiểu biết thêm về cha ông ta chọn người tài ra làm sao và thấy rõ ảnh hưởng của Khổng giáo với dân tộc Việt Nam như thế nào. Trước khi vào Văn Miếu Môn cửa chính của Văn Miếu chúng ta hãy đi thăm Hồ Văn. 1. Văn Hồ - Thái Hồ (Nằm ở trước Văn Miếu, bên kia đường) Thời Lý, Trần, văn miếu dựng ở thôn Minh-giám, huyện Thọ-xương, phía tây nam phủ Phụng-thiên, trong kinh thành. văn miếu nằm cạnh Thái hồ. Hồ này rộng mênh mông, sau bị lấp chỉ còn phần phía nam trước cổng văn miếu, gọi là Văn hồ. Khu này còn có làng Văn chương vì thời Lê nho sĩ tụ tập ở quốc tử giám để nghe bình văn một tháng hai lần Văn Hồ có diện tích 12,297m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên hồ có Phán Thuỷ Đình do Phạm Công Trừ dựng dưới thời Lê Cảnh Hưng (1668 – 1671) là nơi diễn ra các buổi bình thơ của nho sĩ kinh thành xưa. Nhà phán thuỷ cũ đã bị phá huỷ, những tấm bia ghi lại xây dựng vẫn còn, các nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng, bên cảnh giá trị về cảnh du ngoạn đẹp còn có triết học về giá trị tâm linh theo lối kiến trúc “Thượng gia hạ trì” - (trên nhà dưới ao) mà theo quan niệm nho giáo, nước thuỷ là nguồn gốc của sự sống. Phần Tiền án là từ Tứ trụ cho đến tường ngoài bao quanh các kiến trúc bên trong. Thật ra, trước đây, Tứ trụ được nối liền về phía trước với một bối cảnh thiên nhiên là Thái hồ và gò Kim Châu ở giữa. Nhưng về sau, vì nhu cầu giao thông, người ta không để ý đến việc duy trì di tích văn hóa, đã phóng một con đường, tách Thái hồ với toàn cục của Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau : Khu thứ nhất : bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đại Tài Môn. Khu thứ hai : từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (xây năm 1802). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85 cm x 85 cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú cua bầu trời toả xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ. Khu thứ ba : gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia Tiến sỹ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sỹ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Khu thứ tư : là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toà trong là Thượng cung. Khu thứ năm : là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ khổng Tử, liên hệ với khu vực thứ 4 qua Khải Thành môn. Khu này mới được xây dựng lại. Sau khi tham quan xong Văn Hồ, qua bên đường là Tứ trụ. Sau Tứ trụ là đến cổng Tam quan với chữ "Văn Miếu Môn" kiểu chữ Hán cổ xưa. Cổng Tam quan có một cấu trúc bề thế, gồm hai tầng, cửa cuốn tròn cùng cửa thông gió hình chữ thọ, kết hợp với lan can và các hoa văn tạo nên một giá trị nghệ thuật cao. Đứng đối diện với cổng Tam Quan, cách khoảng 10m ở mỗi bên phải và bên trái có một cái miếng nhỏ trên miếu nhỏ có đề: Hạ - Mã có nghĩa là mọi người đi qua đây phải xuống ngựa, xuống xe… để tỏ lòng với nơi trang nghiêm. 2. Nhà Tam Quan Nếu đứng từ ngoài nhìn vào, ta thấy trước cổng của nhà Tam Quan có những câu đối tiếng hán 4 cột trước trụ. Công Công Thánh Khổng Đạo Đạo Đông Vũ Khanh Khanh Túc Tử Nhược Khổng Tây Trụ Phu Phu Thiên Là Lộ Như Nam Đều Sĩ Sĩ Giá Trời Thiên Con Bắc Đạo Xuất Đều Bất Vậy Đắc Đường Do Này Thử Con Khả Không Kỳ Cửa Như Mà Lộ Đường Giai Thể Môn Này Đạo Ra Này Nhi Leo Nghi Mà Mà Thăng Thang Nhập Vậy Ra Lên Đạo Được Khi bước vào Tam Quan, từ trong nhìn ra, cũng trên bốn cột đó, ở phía trong có 2 câu đối. Niết Nhuộm Ngương Càng Nhi Vào Nhi Nhìn Bất Bùn Chi Càng Truy Mà Cao Cao Ma Không Toàn Càng Nhi Đen Chi Đào Bất Nhi Càng Luận Kiên Vững 3. Cổng Văn Miếu Qua khỏi cổng Tam Quan, ta sẽ đững đối diện với cổng Văn Miếu, các câu đối được ghi trên cổng như sau: Ngô Các Yếu Và Đại Nước Diệc Không Nho Nhà Thức Lấy Quốc Lớn Tin Thay Yếu Nho Thời Lời Bất Không Tư Đổi Thông Phải Câu Dạy Dịch Thay Văn Phong Kinh Thông Giá Của Giáo Đổi Nguyên Tục Thượng Kinh Thánh Thánh Sự Hữu Thánh Sử Nhân Giáo Dụng Huấn Tức Làm Hoá Vĩnh Thời Tiêu Đơn Chí Cho Ngàn Đời Ngay ở cổng vào, ta thấy hai con rồng thuộc cách Lê (thế kỷ 15), hay còn gọi là Long Vân, cổng bằng gỗ vẽ chim phượng ngậm thư, phía bên trên cổng được vẽ hình trang trí bằng những con dơi đó là biểu hiện của phúc và trên cùng của cổng có đắp tượng năm tướng nhà trời, được làm từ thời Nguyễn. Qua Văn Miếu Môn, từ đây chia làm năm khu nhỏ, mỗi khu cách nhau một bức tường có cửa thông thẳng sang khu sau. Du khách có thể đi bằng đường to lát đá nằm ở giữa (trước đây chỉ dành cho Vua), hoặc hai đường nhỏ (trước đây dành cho quan lại, thí sinh…) 4. Cổng Đại Trung Cổng “Đại Trung Môn” bắt đầu khu thứ hai. Du khách có thể đi bằng cổng chính hoặc cổng phụ nằm ở hai bên. Nóc cổng chính có hình ảnh cá chép chầu bình ống rượu ở giữa. Bình đựng khí thiên của đất trời – tinh hoa trí thức, tượng trưng cho trí tuệ. Cá chép tượng trưng cho thí sinh đi thi (tích cá chép vượt vũ môn) muốn đỗ phải tích cóp học tập, nắm vững trí tuệ, trí thức nhân loại mới thành đạt. Hai bên Đại Trung môn có hai cổng nhỏ đề chữ "Thành Đức" và "Đại Tài". Đức và Tài là hai tiêu chuẩn không thể thiếu đối với người thi đỗ đạt ra làm quan 5.Khuê Văn Các Đời nhà Nguyễn, năm 1802, vua Gia Long bãi quốc tử giám Thăng-long,ấn định đây là Văn Miếu - Hà Nội, đem lập lại Quốc Tử Giám ở Phú-xuân-Huế. Và để đền bù cho dân Hà-thành đã cho dựng Khuê Văn Các trong văn miếu, trước hồ Thiền-quang, kế bên những tấm bia đề danh Tiến sĩ các khoa nhà Lê và Nguyễn sơ. Hà-nội ngày nay tuy không còn quốc tử giám nhưng vẫn giữ cái tên "nhà Giám" để trỏ văn miếu.Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85 cm x 85 cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỏ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú cua bầu trời toả xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Khuê Tú (tiếng Hán: 奎宿) hay Sao Khuê là một trong hai mươi tám chòm sao Trung Quốc cổ đại. Nghĩa đen của nó là chân và con vật tượng trưng là chó sói (Khuê Mộc Lang). Nó là một trong 7 chòm sao thuộc về Bạch Hổ ở phương Tây, tượng trưng cho Kim của Ngũ hành và mùa thu. Ngày nay, người ta xác định được nó bao gồm mười sáu ngôi sao, trong đó chín ngôi sao của chòm sao Tiên Nữ là η Andromedae, ζ Andromedae, ι Andromedae, ε Andromedae, δ Andromedae, π Andromedae, ν Andromedae, μ Andromedae, β Andromedae và bảy ngôi sao của chòm Song Ngư là 76 Piscium??, τ Piscium, ι Piscium, ν Piscium, φ Piscium, χ Piscium, ψ1 Piscium. Trong văn hóa Đông Á và Việt Nam, sao Khuê là biểu tượng của văn chương, học thuật. Khuê Văn Các được xây dựng tại Quốc Tử Giám, trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, mang biểu tượng này. Những bậc bác học lỗi lạc trong lịch sử được ví là sáng như sao Khuê; một trong số đó là Nguyễn Trãi, đã được Lê Thánh Tông cho tạc bia: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (tấm lòng ức Trai sáng tựa sao Khuê). Từ năm 2003, Hiệp hội Phần mềm Việt Nam tổ chức giải sao Khuê, một giải thưởng tôn vinh đơn vị, cá nhân tiêu biểu ngành công nghệ thông tin ở Việt Nam. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ. Bi Văn Môn (Văn chương trau chuốt sáng sủa) Súc Văn Môn (Văn chương hàm ý súc tích) 6.Thiên Quang Tỉnh Tiếp đến là "Thiên Quang Tỉnh" (Giếng trời trong sáng). Thiên Quang Tỉnh là một chiếc giếng gạch hình vuông, mỗi cạnh 28m. Hồ lộng bóng Khuê Văn Các với các cửa sổ tròn, nói lên quan niệm trời tròn, đất vuông, âm dương hòa hợp của người xưa. Tương truyền nếu mang mực mài với nước giếng này thi se thi cử đỗ đạt Hai bên hồ là khu vườn bia đá tiến sĩ. Những bia này được dựng dưới thời nhà Lê, để biểu dương những người thi đậu. Tất cả bia đều dựng trên lưng rùa, tượng trưng cho sự vĩnh cửu, trường tồn. Mỗi tấm bia là một công trình chạm trổ tinh vi trên một phiến đá lớn.Đây là những di vật quý giá nhất của khu Văn Miếu-Quốc Tử Giám. Hiện nay còn 82 bia ghi tên các tiến sĩ thời Lê từ năm 1442 đến 1779 (về sau, nhà Nguyễn cho xây Văn Miếu tại Huế, nằm gần chùa Thiên Mụ). 82 tấm bia ghi tên 1305 nhân vật, trong đó có 17 trạng nguyên, 19 bảng nhãn, 47 thám hoa, 284 hoàng giáp và 938 tiến sĩ. Các tấm bia, được khắc lần lượt theo năm tháng suốt từ đầu đời Lê (1428 - 1458), qua đời Mạc (1528 - 1529), đến thời Trịnh Nguyễn (1600 - 1771) là một chứng liệu quý báu của lịch sử. Trong 82 bia còn lại của Văn Miếu thì 72 bia ghi lý do tổ chức thi, quan điểm của triều đình đối với việc thi cử, ca ngợi vua, triều đình và vinh quang của người thi đỗ đồng thời cũng răn đe những người thi đỗ phải giữ gìn thanh danh cho mình và cho cả đời sau. Trên bia khắc tên tuổi và nơi sinh của người thi đỗ, số lượng người thi đỗ và tên người khắc bia. Trong số những người đỗ, có những người chìm đắm vào quan trường, sống (vinh không phi gia) và lại có những người đỗ cao rồi về ẩn làm nghề dạy học, đào tạo nên thế hệ hậu sinh yêu nước, thương dân, phải kể đến những danh nhân cống hiến lớn lao đối với dân tộc như là nhà toán học Lương Thế Vinh (1441 - ?), nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1784), nhà sử học Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803). Hiện còn lại 82 bia, chia ra để trong hai khu, mỗi khu 41 bia. Có 3 loại bia chính: a) Bia loại 1 (1484 – 1536) gồm 14 bia - Bia: bia trán bằng, mỏng, thấp có hình hoa lá mây trắng không có hình rồng, có sự ảnh hưởng của tam giáo đồng môn, ảnh hưởng của Phật giáo rõ nét nhất là có trang trí hoa sen. Đạo giáo: bia có sừng tê giác, có đồng tiền đồng. - Rùa: đầu hình chim mắt có lông mày, mồm như mỏ chim, đầu ngẩng cao, đôi khi có răng, mai trơn chân rụt lại. b) Bia loại 2 (1653……) gồm 25 bia - Bia: xuất hiện sừng tê, ngưu bá bảo (biểu tượng của Đạo giáo) bia có hình mặt nguyệt, rồng chầu kích thước to cao, hoa văn phong phú có hình động vật. - Rùa: mặt tròn chân rụt, mặt bẹp, cổ rụt, đầu hơi chúc, sống mũi cao. c) Bia loại 3 (1717 – 1780) gồm 43 bia - Bia: to, cao trang trí cách điệu, về nghệ thuật thì thô cứng, duy nhất có một bia khắc hình người và trâu. - Rùa: đầu giống rùa loại 1, cổ có ngấn, mai cong vòng lên có gò sống lưng chạm hình 6 cạnh. Ngoài ra, còn có một bia ngoại lệ, không phụ thuộc phong cách nào cả, một vài bia bị đục tên vì như một quy luật, triều đại sau mới lên bao giờ cũng ít nhiều phủ định lại triều đại trước đó. Đặc biệt là khi có những cá nhân là quan lại triều trước đã có những hành động phản kháng hay chống lại triều đại sau. Năm 1484 Bắt đầu dựng bia Tiến sĩ ở văn miếu, dựng ngược lại từ khoa thi năm 1442. Bia đầu tiên nằm một mình ở giữa hai dãy bia đầu tiên bên phải từ ngoài cổng đi vào có mái che, bia cuối cùng được khắc năm 1779, được dặt cạnh bên phải bia thứ 2. Ngoài ra, ta còn thấy hai con rùa mất bia được tìm thấy khi vét hồ, được đặt cạnh Khuê Văn Các. Theo quan niệm của người Việt Nam con rùa sống lâu là tượng trương cho sự trừong tồn. Bia đặt lên lưng rùa là nhằm khẳng định sự trường tồn của trí tuệ, biểu trưng và giữ gìn thành tích của những nhân tài đời trước làm tấm gương cho muôn đời sau, còn thể hiện truyền thống hiếu học trọng nhân tài của dân tộc. 7. Cổng Đại Thành Khi bước vào cổng này ta thấy nơi đây thời nay vào dịp Tết Nguyên Đán thường diễn ra các cuộc bình thơ. Trên cốc nhà Đại Bái có hai con rồng chầu mặt trăng (Lưỡng Long Chầu Nguyệt) thể thiện sự hài hoà âm dương, trên bia cũng có hình ảnh này. Nho giá tính theo âm lịch (tuần trăng), mặt trăng phản chiếu ánh sang mặt trời xuống trái đất. Lưỡng Long Chầu Nguyệt nhằm ca tụng Nho giáo, đứng trước nhà Đại Bái ta thấy các câu đối trang trí như sau. Vạn Thế Sự Biểu (Khổng Tử là thầy của muôn đời) 1 2 3 4 5 6 7 8 Chú giải: Vạn Thế Sự Biểu: chữ của vua Khanh Hy thế kỷ 17 1 Phúc Tư Văn Văn chương là hạnh phúc 2 Đạo Quán Cổ Kim Đạo của ngài trùm xưa nay 3 Đức Tam Thiên Địa Đức trùm của cả trời đất 4 Tập Đại Thành Thâu tóm cả mọi hiểu biết 5 Khai Nguyên Thiên Vạn Thế Khai nguồn cho nghièn vạn đời 6 Tổ Nghiêu Thuấn Chi Đạo Theo đạo vua Nghiêu Thuấn 7 Cổ Kim Nhật Nguyệt Khổng Tử xưa cũng như nay là mặt trăng mặt trời 8 Cũng tại nhà Đại Bái, này xưa còn có một chiếc cột bê tong đứng giữa các cột bằng gỗ, cột này trước đây cũng bằng gỗ, nhưng trong chiến tranh chống Pháp đã bị phá huỷ. Tại nơi đặt bàn thờ ta thấy có con hạc rất lớn đứng trên lưng con rùa: đó là biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất, khi úng, khi cạn….điều này đi từ truyền thuyết về đôi bạn rùa và hạc rất thân nhau, rùa tượng trưng cho nhưng con vật sống dưới nước, hạc trượng trưng cho những con vật sống trên cạn, khi trời làm mưa lũ làm ngập cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp bạn mình vượt biển cả đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc đưa đến vùng có nước.Điều đó nói lên lßng chung thuỷ và sự trương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt, sự hài hoà giữa hai thái cực trong vũ trụ. Hạc ngậm ngọc là hạc linh thiêng còn hạc không ngậm ngọc là hạc ăn thịt. Đằng trước nhà Đại Bái, giữa hai khoảng sân rộng là Tả Vu và Hữu Vu. Trước đây là nhà thờ 72 vị học trò suất sắc của Khổng Tử. Năm 1946 hai nhà này bị phá huỷ bởi chiến tranh. Sau đó mới được xây lại. Ngày nay nhà Tả Vu dành làm nơi trưng bày và bán tranh ảnh. Nhà Hữu Vu trở thành một bảo tàng nhỏ, trưng bày hiện vật, hình ảnh về thi cử của Văn Miếu. 8. Nhà Tổ (Điện Đại Thành) Bước qua nhà Đại Bái, chúng ta sẽ dừng chân trước nhà Tổ, nơi thờ Khổng Tử và hậu duệ của ông. Khu này mới được sơn sửa lại. Tượng Khổng Tử ở Việt Nam được làm năm 1729 cũng đã phác thảo được phần nào hình ảnh của Khổng Tử ở Trung Quốc. Nhưng tại đây ta thấy chỉ còn răng lộ, tại lộ (Hình ảnh nguyên thuỷ của Khổng Tử: mắt lộ, tai lộ, răng lộ, hầu lộ). Thế tay của Khổng Tử là thế tay của người khoan thai lắng nghe người dưới trình bày tâu bổng một vấn đề gì đó. Tay được đặt ngay chính giữa, không trái quá, không phải quá, không cao quá, không thấp quá. Điều đó thể hiện tư tượng Trung Dung của Khổng Tử. Khổng Tử Tăng Tử Nhan Tử Mạnh Tử Tử Tư Sơ đồ bố trí tượng của Khổng Tử và Tứ Phối Khổng Tử được mệnh danh là Chí Thánh Mạnh Tử được mệnh danh là Á Thánh Nhan Tử được mệnh danh là Phục Thánh Tăng Tử được mệnh danh là Tông Thánh 10 bia nhỏ nằm đằng sau 4 bức tượng dùng để thờ 10 vị thập Hiền. Hai bên Khổng Tử có 10 chiếc giáo. + Trên chuôi giáo phía trái của Khổng Tử đề chữ đại ý là “tránh ra”. + Trên chuôi giáo phía phải của Khổng Tử đề chữ đại ý “mọi người nghiêm túc”. Hình tượng hạc: ngựa của đạo sĩ để lên trời, biểu tượng của sự trường sinh bất tử. Khổng Tử (551 – 479 BC Tiểu sử Khổng Tử Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni , sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước công nguyên, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình mà ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quí tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha Khổng Khâu là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử , hay gọi gọn hơn là Khổng Tử , có nghĩa là "Thày Khổng". Khi dạy, ông luôn đòi hỏi học trò phải suy nghĩ. Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, dèm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa. Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Ông mất tháng 4 năm 479 trước công nguyên, thọ 73 tuổi. Mộ Khổng Tử tại Khúc Phụ, quê hương ông. Khổng miếu, mộ Khổng Tử và khu nhà thờ của họ Khổng nay là một di sản thế giới do UNESCO công nhận. Khổng Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trên cuộc sống và tư tưởng Đông Á. Triết học của ông nhấn mạnh trên cá nhân và cai trị bằng đạo đức, sự chính xác của những mối quan hệ xã hội, sự công bằng và sự ngay thẳng. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Lão giáo ở thời nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời. Các nhà sử học hiện đại cho rằng bất kỳ một tài liệu nào cũng không thể được coi là do ông viết ra, nhưng trong gần 2,000 năm ông từng được cho là tác giả của Ngũ Kinh, Lễ Ký, và Biên niên sử Xuân Thu. Các môn đồ Khổng Tử Môn đồ và là người cháu duy nhất của ông, Tử Tư, tiếp tục duy trì trường phái triết học Khổng Tử sau khi ông qua đời. Trong khi vẫn dựa chủ yếu vào hệ thống đức trị của Khổng Tử, hai trong số những môn đồ nổi tiếng nhất của ông nhấn mạnh trên những khía cạnh khác biệt trong giáo lý của ông. Mạnh Tử tin vào tính thiện vốn có của con người, trong khi Tuân Tử đề cao sự thực tế và những khía cạnh vật chất trong tư tưởng Khổng Tử. Khổng Tử dạy học Ở thời Nhà Tống, học giả Chu Hi đã thêm các ý tưởng từ Đạo giáo và Phật giáo vào Khổng giáo. Trong suốt cuộc đời mình, Chu Hi không được mọi người biết tới, nhưng không lâu sau khi ông mất, những ý tưởng đó trở thành một quan điểm chính thống mới về những ý nghĩa thực sự của tư tưởng Khổng Tử. Các nhà sử học hiện đại coi Chu Hi là người đã tạo ra một thứ gì đó khác biệt và gọi tư tưởng của ông là Tân Khổng giáo. Ở thời hiện đại, vẫn có một số học giả nho giáo (xem Tân Khổng giáo) nhưng trong thời Cách mạng Văn hoá, Khổng giáo thường bị những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc lên án. Nho giáo Việt Nam Việt Nam là một nước bé nhỏ bên cạnh một nước vĩ đại Trung Hoa, dân Việt Nam lại kém văn minh, nên Việt Nam bị Trung hoa đô hộ 4 lần kéo dài đến hơn 1000 năm. Trong khoảng thời gian bị đô hộ đó, người Tàu có ý đồng hóa dân Việt Nam với dân Tàu, biến Việt Nam thành một châu quận của nước Tàu. Người Tàu đã di dân sang Việt Nam, làm ăn buôn bán với người Việt Nam, cưới gả với người Việt Nam, truyền qua Việt Nam các phong tục tạp quán của Tàu, các nghề nghiệp và các tín ngưỡng. Tuy nhiên, người Việt Nam có một tinh thần dân tộc rất mạnh, luôn luôn quật khởi chống lại sự đồng hóa của người Tàu. Việt Nam lại có tinh thần cầu tiến, luôn luôn học hỏi cái hay của người để được khôn ngoan và tiến bộ cho bằng người Tàu, để đủ sức bảo tồn nói giống Việt Nam. Về phương diện tín ngưỡng tôn giáo, người Tàu truyền qua Việt Nam ba nền tôn giáo (Tam giáo) : Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo. Người Việt Nam thu nạp và tôn sùng 3 nền tôn giáo đó, đồng thời lại dung hợp 3 tôn giáo ấy thành một tín ngưỡng có sắc thái riêng biệt của người Việt Nam. Riêng về Nho giáo, người Tàu truyền qua Việt Nam sớm hơn Phật giáo và Lão giáo, qua các vị quan sang làm Thái Thú cai trị Việt Nam. Theo Sử Ký, vào thế kỷ thứ 1, đời nhà Tây Hán bên Tàu, Thái Thú cai trị Giao Chỉ (nước Việt Nam) là Tích Quang, hết lòng lo việc khai hóa dân Giao Chỉ, dạy dân điều Lễ Nghĩa, làm lễ Cưới Hỏi trong việc vợ chồng. Dân Giao Chỉ rất mang ơn và kính trọng. Đến đầu thế kỷ thứ III, Việt Nam vẫn còn nội thuộc nhà Tây Hán, Giao Chỉ được đổi lại là Giao Châu, và Thái Thú cai trị là Sĩ Nhiếp. Sĩ Nhiếp trị dân rất có phép tắc, chăm lo việc dạy dân học chữ Nho và các kinh sách của Nho giáo, tạo thành một nền đạo đức luân lý cho dân Việt Nam. Người Việt Nam cảm mộ cái công đức đó, tôn Sĩ Nhiếp là Sĩ Vương và tôn là Học Tổ của Việt Nam. Trong hơn 1000 năm đô hộ của người Tàu, người Việt Nam chịu sự cai trị và giáo hóa của người Tàu, nên sự học vấn, luân lý, phong tục, tín ngưỡng, đều hoàn toàn theo người Tàu. Tuy vậy, người Tàu không đồng hóa được người Việt Nam vì người Việt Nam có một đức tin mạnh mẽ về nguồn gốc thiêng liêng của nòi giống dân tộc mình là con Rồng cháu Tiên, nên luôn luôn quật khởi chống lại sự đô hộ của người Tàu. Sau đây, chúng ta xem sự biến thiên của Nho giáo Việt Nam kể từ thời Tự chủ, vua Ngô Quyền (939-965) đến ngày nay. 1) Nho giáo Việt Nam dưới thời : Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành và nhà Lý : Trong các triều đại nầy, Tam giáo đều được thạnh hành cả. Nho giáo theo cái học của nhà Đường, và cái học của Nho giáo là cái học Khoa cử để tuyển lựa nhân tài. Đến đời vua Lý Thánh Tông (1034-1072), Văn Miếu được lập ra để thờ Đức Khổng Tử, Châu Công Đán và Thất thập nhị Hiền. Lý Nhân Tông (1072-1127) mở khoa thi Tam Trường (1075) để tuyển người văn học Nho giáo ra làm quan, ông Lê văn Thịnh đỗ đầu. Sau đó, vua Nhân Tông lập Quốc Tử Giám, là nhà dạy học, đào tạo nhân tài; mở Hàn Lâm Viện, có Nho gia là Mạc Hiển Tích làm Hàn Lâm Học Sĩ. Nho giáo đời Nhà Lý thạnh hơn các triều đại trước, và nhờ vậy, sản xuất được nhiều vị hiền lương, trung nghĩa, tiết tháo. Những người Nho học có danh tiếng lớn dưới thời nhà Lý là : Lý Đạo Thành, Trương Bá Ngọc, Tô Hiến Thành. Những vị nầy, tuy không phải là những học giả chuyên nghề luận đạo làm văn, nhưng biết dùng cái tinh hoa của Nho học mà thi thố trong việc làm, xứng đáng là những danh Nho. 2) Nho giáo Việt Nam dưới thời nhà Trần, nhà Hồ : Đến đời nhà Trần, Nho giáo thịnh hơn trước, có nhiều nhà Nho chân chính như : Mạc Đỉnh Chi, Trương Hán Siêu, Chu văn An, Lê văn Hưu, Nguyễn Phi Khanh, Hàn Thuyên, … Đặc biệt trong thời nhà Trần, ngoài Nho học còn có Lão học và Phật học cũng rất được tôn trọng. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Tam giáo, chọn những người tài giỏi về Nho học, hay Lão học, Phật học. Ai theo cái học nào mà tinh thâm đạo lý thì được vua dùng, không nhất thiết phải là Nho học. Như thế, Tam giáo bấy giờ được xem trọng như nhau. Nhà Hồ soán ngôi nhà Trần. Nhà Minh bên Tàu có cớ đem quân sang đánh chiếm và đô hộ nước ta, đặt ra các học quan, đem cái học của Tống Nho dạy cho dân, lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư của họ Trình, họ Chu đã chú thích mà dạy. Cái học của Trình của Chu càng ngày càng thịnh. 3) Nho giáo dưới thời nhà Lê, nhà Mạc : Vua Lê Thái Tổ (1428-1433) hết lòng mở mang việc học, đặt riêng các Học quan để lo việc giáo hóa. Vua bắt các quan từ Tứ phẩm trở xuống phải đi thi Minh Kinh, nghĩa là quan văn thì phải thi Kinh Sử, quan võ thì phải thi Võ Kinh. Đến đời Lê Thánh Tông (1460-1497), văn học nước ta cực thạnh. Những người thi đậu Tiến Sĩ được khắc tên lên bia đá dựng trong Văn Miếu. Những danh Nho thời nhà Lê là : Nguyễn Trãi, Lương thế Vinh, Lương Đắc Bằng, và thời Lê Trung Hưng là : Phùng khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Phạm Đình Trọng. Đặc biệt trong thời nhà Mạc, trước Lê Trung Hưng, xuất hiện một đại danh Nho là Nguyễn Bỉnh Khiêm, tinh thông Lý số và Dịch Kinh, làm cho người Tàu phải kính phục. Trong thời nhà Lê nói chung, Nho giáo rất thạnh, nhưng các Nho gia chỉ chú trọng cái học khoa cử, vụ lấy văn chương cầu sự đỗ đạt ra làm quan, chớ không có ai đạt được chỗ uyên thâm của Nho giáo, tìm được đạo lý cao siêu mà đề xướng các học thuyết có giá trị như bên Tàu. Đó là chỗ yếu kém của Nho học nước ta. 4) Nho giáo dưới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn Gia Long : Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Nho học ít được các vua chúa quan tâm, mà chỉ lo việc võ bị để đánh nhau. Sự học hành thi cử đại khái giống như thời nhà Lê, luôn luôn lấy Nho học làm trọng. Một việc quan trọng là Chúa Trịnh Giang ra lịnh in sách. Trước đây, các sách Nho như Ngũ Kinh, Tứ Thư đều mua từ bên Tàu, nay Chúa Trịnh Giang ra lịnh khắc bản in tại Thăng Long và phát ra mọi nơi. Ở Bắc Hà có các danh Nho như : Lê Quí Đôn, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Du. Ở phía Nam, Chúa Nguyễn bận lo việc mở mang bờ cõi xuống phương Nam nên ít quan tâm đến Nho học, làm cho Nho học ở phía Nam kém xa phía Bắc, nhưng cũng sản xuất được một vài danh Nho tài kiêm văn võ như : Đào duy Từ, Nguyễn hữu Dật, Nguyễn hữu Tiến, Nguyễn hữu Hào với truyện Song Tinh Bất Dạ. Thời nhà Tây Sơn (1788-1802) kéo dài 14 năm, bị chiến tranh liên miên, nên Nho học không được chú trọng. Có một sự kiện đặc biệt, vua Quang Trung ra lịnh chánh thức dùng chữ Nôm trong văn tự, để gây thành một tinh thần dân tộc mạnh mẽ của người Việt Nam. Một nền văn học chữ Nôm đã được các Nho gia ủng hộ từ trước nhưng không được các vua chánh thức công nhận và phát huy, mãi đến đời vua Quang Trung mới được mở ra thay thế nền văn học chữ Hán. Chữ Nôm đã được Hàn Thuyên chế ra từ đời nhà Trần, hình thức giống như chữ Hán, nhưng đọc thành tiếng nước Nam. Điều nầy chứng tỏ ý thức dân tộc của người Việt Nam muốn thoát khỏi sự lệ thuộc hoàn toàn vào văn tự Trung quốc. Những tác phẩm chữ Nôm rất có giá trị tiêu biểu nền văn học Việt Nam như : Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Hoa Tiên của Nguyễn huy Tự, Truyện Song Tinh Bất Dạ của Nguyễn hữu Hào, vv . . . Trong thời kỳ này, có những bậc Nho học uyên thâm, khí tiết cao thượng, ẩn dật chốn sơn lâm, không chịu ra làm quan, như các ông : Ngô thế Lân, Đặng thái Phương, Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử), đặc biệt ông Đặng thái Phương đem sách Chu Dịch ra diễn Nôm theo lối văn vần, gọi là Chu Dịch Quốc Âm quyết. Vua Gia Long đánh đuổi Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn, rất chú trọng việc học. Vua cho lập Văn miếu ở các Doanh, các Trấn để thờ Đức Khổng Tử, tỏ lòng tôn trọng Nho học, mở trường Quốc Tử Giám để dạy Nho học. Văn chương chữ Nôm rất thịnh, nhưng nhà vua vẫn dùng chữ Hán làm chánh. Các vua triều Nguyễn rất tôn trọng Nho học, sửa sang việc thi cử để chọn những người Nho học tài giỏi ra giúp nước. Nhiều Nho sĩ nổi tiếng như : Lý văn Phức, Nguyễn công Trứ, Phan huy Chú, Nguyễn Khuyến, v.v… Vua Gia Long phục quốc thành công nhờ sự viện trợ của nước Pháp ở Âu Châu, nên phải cho các Giáo sĩ người Pháp vào Việt Nam truyền đạo Thiên Chúa. Thiên Chúa giáo đã làm cho Nho học lung lay mạnh mẽ. Vua Minh Mạng nói : “Đạo phương Tây là Tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, nên phải nghiêm cấm để khiến cho dân theo Chánh đạo.” Việc cấm đạo Thiên Chúa bắt đầu từ thời vua Minh Mạng. Đây chính là nguyên do để người Pháp xâm chiếm nước ta, đặt nền thống trị lên dân tộc ta gần một thế kỷ. Thiên Chúa giáo và Triết học Tây phương du nhập vào Việt Nam làm cho Nho giáo mất hẳn độc tôn trong xã hội Việt Nam. 5) Nho giáo dưới thời Pháp thuộc : Sự suy tàn của Nho giáo Việt Nam : Tầng lớp Nho sĩ đang lãnh đạo xã hội Việt Nam, khi phải đương đầu với nền văn hóa Âu Tây, thấy người ta hùng mạnh văn minh, còn mình thì yếu hèn hủ lậu, nên tưởng lầm cái nguyên nhân gây ra sự hùng mạnh kia là do máy móc cùng đầu óc khoa học cơ giới. Thế rồi một số sĩ phu chủ trương rủ sạch quá khứ, bài bác Đạo học cổ truyền, cho đó là nguyên nhân gây ra yếu hèn và thất bại. Họ chủ trương hoàn toàn theo Tân học. Người Pháp đem đạo Thiên Chúa truyền bá trong nước Việt Nam, dành cho người theo đạo nhiều quyền lợi vật chất. Các Giáo sĩ Thiên Chúa giáo, vì nhu cầu truyền đạo, nên phiên âm tiếng Việt Nam bằng cách dùng các mẫu tự của chữ Pháp để tạo thành chữ quốc ngữ ngày nay. Đó là công trình của 2 Giáo sĩ : Alexandre de Rhode (Đắc Lộ) và Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc). Chữ quốc ngữ rất dễ học hơn chữ Hán hay chữ Nôm, nên được phái Tân học ủng hộ triệt để và dần dần thay thế hoàn toàn chữ Hán trong việc giáo dục. Năm 1918, triều đình Huế, dưới sự bảo hộ của nước Pháp, đã ra lịnh bãi bỏ việc thi cử bằng chữ Hán. Nhờ vậy, chữ quốc ngữ mới trở nên quan trọng và thiết yếu cho sự tiến hóa của Việt Nam. Chữ Hán là một lợi khí của Nho giáo, mà ngày nay đã bị bãi bỏ thì Nho học cũng không còn được trọng dụng và tồn tại nữa. Cái học từ chương, xa rời thực tế của Nho giáo thực sự chấm dứt, nhường chỗ cho Tân học với chữ quốc ngữ. Tóm lại, đường lối học thuật và tư tưởng của Nho giáo Việt Nam từng thời kỳ đều biến đổi giống như Nho giáo Trung hoa. Những Nho gia Việt Nam cho rằng những tư tưởng mà Thánh Hiền đã nói trong các Kinh, Thư, Truyện. đều đầy đủ hết cả, không còn ai biết hơn được nữa, nên Nho gia chỉ chăm chăm học cho làu thuộc những điều ấy và cố gắng đem ra thực hành. Do đó, không có Nho gia nào đạt được cái uyên thâm cao viễn của Nho giáo mà phát minh ra một học thuyết mới mẻ nào. Nho giáo Việt Nam chỉ nằm trong phạm vi Hình Nhi Hạ học mà thôi. 9. Nhà Thái Học Nhà Thái Học sinh đời Lý - Trần quy mô thế nào, hiện chưa khảo được, vì các tư liệu lịch sử đã bị giặc Minh đốt hoặc đưa hết về Yên Kinh, tức Bắc Kinh ngày nay. Tuy nhiên, nhà Thái học sinh thời nhà Lê đã được Lê Quý Đôn miêu tả trong "Kiến văn tiểu lục" thì : "Nhà Thái học có ba gian, có tường ngang, lợp bằng ngói đồng. Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người". Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng. Trải qua bao biến cố của thời gian, chiến tranh tàn phá, Văn Miếu - Quốc Tử Giám được trùng tu và xây dựng lại nhiều hạng mục. Đặc biệt nhân dịp Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, ba toà nhà lớn với kiến trúc cổ trên nền khu Thái học, Khải Thánh xưa đã được khánh thành. Trong khu nhà Thái học mới có đặt 4 bức tượng đồng của các danh nhân : Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Chu Văn An, Lầu Chuông, Lầu Trống được đặt trang trọng hai. Ngày 2-4-2003, Lễ yểm tâm tượng Vua Lý Thánh Tông và Vua Lý Nhân Tông đã được tổ chức trọng thể tại Chùa Lý Triều Quốc Sư. Trước đó, ngày 11-3-2003, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội đã tổ chức lễ khởi công đúc và lễ yểm tâm hai pho tượng Vua Lê Thánh Tông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Vua Lý Nhân Tông và Lý Thánh Tông đều có công sáng lập, duy trì Văn Miếu - Quốc Tử Giám, góp phần quan trọng mở mang nền đạo học nước nhà. Tượng hai Vua đều được đúc bằng đồng nguyên chất có kích thước giống nhau: cao 1,45 m, nặng hơn 1 tấn bao gồm cả bệ tượng, ngai rồng. Như vậy, cả bốn pho tượng thờ trong nhà Thái học, gồm tượng Vua: Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An đều đã được các nghệ nhân đúc đồng Ngũ Xã đúc thành công. Sau khi hoàn thành những công đoạn cuối của quy trình đúc đồng, bốn pho tượng đã được tổ chức nghênh rước làm Lễ Yên vị tượng tại nhà Thái học vào dịp 19-5-2003 - kỷ niệm 103 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiểu sử 3 vị vua và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An được thờ tại nhà Thái học Lý Thánh Tông (1054- 1072) Vua Lý Thánh Tông, tên thực là Nhật Tôn, đã 40 tuổi mà không có con, nên hết sức lo lắng cho việc kế vị sau này. Ỷ Lan - có thuyết cho rằng tên thật của bà là Lê Thị Yến Loan - là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở ngoại thành Thăng Long thời Lý. Ỷ Lan ra đời ở làng Thổ Lỗi (làng Sủi sau đổi là Siêu Loại, nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm - Hà Nội) - năm nào không rõ, sử sách chỉ ghi lờ mờ: bà mất ở kinh thành Thăng Long vào năm 1117 - trên dưới 70 tuổi - thời Lý Nhân Tông. Sách Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt có chép "Nhật Tôn (tức Lý Thánh Tông) mất, Càn Đức (Lý Nhân Tông) lên, dùng quan là Lý Thượng Cát (Lý Thường Kiệt) và mẹ là thái phi Lê Thị Yến Loan cùng coi việc nước". Câu chuyện Yến Loan vào cung vua Lý, đó là một giai thoại người người đều nghe, đều biết. Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063) Lý Thánh Tông đã đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con trai để truyền ngôi báu, đêm ngày triều thần lo ngại. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, Lý Thánh Tông lo lắng cho triều đình nhà Lý và xã tắc Đại Việt. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng hòa vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua. Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Cô gái vẫn miệt mài bên bãi dâu, mặc cho đoàn ngự diễu qua. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Vua ngồi trên kiệu trông thấy lấy làm lạ, truyền gọi lại hỏi, người con gái ứng đối trôi chảy mạch lạc, không có vẻ gì là luống cuống sợ hãi. Qua câu chuyện, Vua Lý hết sức chú ý đến giọng nói thanh thoát như tiếng chuông của cô ta, và khi Vua tỏ lời khen, thì nàng mỉm cười mà hát một câu hát như sau: Người thanh thì tiếng cũng thanh Chuông kêu đánh ở góc đình cũng kêu. Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua đã từng gặp. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Cô gái làng quê được đón về cung vua ấy là Yến Cô Nương xinh đẹp, nết na của làng Siêu-Loại (Sủi). Nhưng Lý Thánh Tông là ông vua chăm việc nước, luôn luôn thân chinh dẹp giặc. Vua ít nhàn rỗi để ngự tới cung Ỷ Lan. Đương lúc cung Ỷ Lan vắng tiếng đàn, tiếng sáo, thì bỗng một hôm sau khi Thánh Tông đi trảy hội chùa Thổ Lỗi, cung Ỷ Lan lại nhộn nhịp hơn xưa. Yến Cô Nương nhờ "thông minh vốn sẵn tư trời" được học tập, trau dồi đã trở thành một cung phi "nổi danh tài sắc một thời" kinh sử làu thông, văn chương uyên bác. Lý Thánh Tông đem lòng yêu mến, phong làm Ỷ Lan phu nhân, lấy tên cung Ỷ Lan và cũng có ý kỷ niệm cô gái đứng tựa bên gốc lan, khi tuân lệnh đến bệ kiến buổi đầu ở làng Sủi (Siêu Loại). Sau đó (1066), Ỷ Lan sinh hạ được một hoàng tử lấy tên là Kiền Đức (Càn Ðức). Càn Đức trán cao, tay dài quá gối, thông minh, tuấn tú, vua càng yêu dấu hơn, Yến Loan được tôn là Ỷ Lan nguyên phi - đứng đầu các cung phi, sau thái hậu; con trai được lập làm thái tử. Năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh giặc ngoại xâm. Trong khi vua cùng Lý Thường Kiệt ở ngoài biên cương, Ỷ Lan nguyên phi đảm đang, chăm lo quốc sự, trị nước điều khiển có kỷ cương khiến thần dân thán phục, cõi nước được yên vui. Lý Thánh Tông từ ngoài biên ải đánh trận lâu ngày không thắng, chán nản rút quân quay về. Về chưa đến nơi, nghe dân chúng Châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng) ca ngợi nguyên phi Ỷ Lan ở nhà trị nước rất giỏi, lòng dân cảm hóa, được suy tôn là bà Quan Âm, vua Thánh Tông tự trách mình: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là đàn ông há thua sao! Vua lại tiếp tục trở ra đánh giặc, lần này thắng trận. Năm đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải hoàn, đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát tiền lụa, thóc cho dân nghèo. Ỷ Lan rất nhân từ dạy con ngoan, đào tạo con trở thành một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân giàu nước mạnh, yêu thương nhân dân được mọi người kính phục. Năm Nhâm Tý (1072) tháng giêng mùa xuân, Lý Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên. Hoàng thái tử Kiền Đức lên ngôi vua, tức vua Lý Nhân Tông. Khi ấy vua mới lên bảy, tôn mẹ là ỶLan nguyên phi lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Ỷ Lan vừa giúp coi triều chính, vừa làm nhiệm vụ bà mẹ dạy dỗ con. Trong khi vua còn thơ ấu, Ỷ Lan điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống đến (1075, 1077) vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Trong lúc Tổ quốc lâm nguy Ỷ Lan đã cùng Lý Thường Kiệt giữ vững giang sơn, xã tắc; công ấy đời sau còn nhắc mãi. Ỷ Lan xuất thân là một thôn nữ, nên hiểu thấu những khổ đau của người phụ nữ nông dân vì nghèo khổ phải đem thân gán nợ cho nhà giàu, bà cho xuất của trong kho chuộc về, và xây dựng chồng con hạnh phúc cho họ. Về việc này Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn: "Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu (tức Ỷ Lan) đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy!". Ỷ Lan không những sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội, bố phòng, chăm lo việc mở mang dân trí, việc thi cử học hành và còn ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân. Ỷ Lan còn khuyên vua làm điều thiện, trị điều ác. Bà hiểu những gian nan của nông dân khi việc nông trang cày bừa không có trâu cày.Ỷ Lan bảo vua phạt tội nặng những kẻ trộm trâu và giết trâu bừa bãi; có lần bà đã nói với vua: "Gần đây người kinh thành và làng ấp đã có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy, và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước". Nhân Tông bèn ra lệnh phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng xóm vì tội không tố giác. Sống trong lầu son, gác tía mà lúc nào Ỷ Lan cũng không quên đến người nghèo, Ỷ Lan vẫn chăm sóc đến đời sống cùng cực của nông dân lao động. Cũng như Lý Thánh Tông, Ỷ Lan thường phát chẩn thóc lúa cho kẻ nghèo. Bà sùng đạo Phật, ưa làm việc từ thiện lập nhiều đình chùa. Bà thường lui tới các đình chùa, trao đổi với các tăng ni thuyết giáo đạo Phật. Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc (tức sau là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long) thết các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật ở các nước và ở ta. Bà có óc phán đoán đòi hỏi các sư "nói có sách mách có chứng". Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý (sách Thiên uyển tập anh ngữ lục đời Trần còn ghi lại tường tận chuyện này), mà đến nay ta còn biết gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào nước ta. Có lần bà đến chùa Phổ Minh (Từ Liêm) tranh luận với sư Thông Biến về những điều của Phật giáo. Bà cũng có làm những bài kinh, có câu kệ còn truyền lại đến ngày nay: Sắc là không, không tức sắc Không là sắc, sắc tức không Sắc? Không? thôi mặc cả, Mới thấu được chân tông (*) Là một nữ nông dân nghèo, được hưởng phú quý vinh hoa, bà vẫn cho là điều "sắc sắc, không không", đó là phù vân... Bà là một người phụ nữ vương giả, ngọc ngà vàng son không làm vẩn đục tâm hồn bà, cũng là một phụ nữ hiếm có trong lịch sử nghìn năm trước. Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu, Hội tường đại khánh năm thứ 8 (1117) đời Lý Nhân Tông, bà mất, được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Hiện nay còn miếu thờ bà ở hai xã Cẩm Đới và Cẩm Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Lý Nhân Tông (1066 – 1128) Vua Lý Nhân Tông (sinh năm 1066, trị vì từ 1072 đến 1128) là vị vua đặt ra nhiều chính sách nhằm chấn hưng đất nước, định quan chế, khuyến nông, đắp đê chống lụt. Đặc biệt, ông là người đầu tiên khởi xướng và thực hiện chế độ thi cử và giáo dục đại học của Đại Việt như tổ chức khoa thi Minh Kinh (1075), lập Quốc Tử Giám (1076), tổ chức "thi lại viên" nhằm lựa chọn quan chức cao cấp cho bộ máy nhà nước. Lý Nhân Tông là một vị vua nhân ái và có tài. Lúc lên ngôi tuy còn nhỏ tuổi, nhưng được mẹ Ỷ Lan là một phụ nữ giỏi trị việc nước và các đại thần tài giỏi như Thái sư Lý Đạo Thành, Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt cùng nhân dân hết lòng ủng hộ. Bởi vậy, dưới triều đại Lý Nhân Tông, nước Đại Việt đã làm nên những chiến công lừng lẫy cả về nội trị lẫn ngoại giao, và ngày càng trở nên hùng mạnh.Lý Nhân Tông có nhiều chính sách nhằm chấn hưng đất nước. Trong lĩnh vực chính trị, ngoài việc định quan chế, chia văn võ làm chín phẩm từ trung ương đến các địa phương, Lý Nhân Tông là vị vua đầu tiên ban hành lệ dân chủ với "Chiếu cầu lời nói thẳng" (tháng 4 Bính Thìn - 1076) nhằm huy động trí tuệ của mọi tầng lớp nhân dân đóng góp vào công cuộc "trị quốc, bình thiên hạ". Và kể từ đấy, các triều đại đã kế thừa một kế sách trị quốc an dân. Về kinh tế, ông là người rất quan tâm đến công việc nhà nông. Việc bảo vệ trâu bò, phương tiện sản xuất của cư dân nông nghiệp Đại Việt, lần đầu được Lý Nhân Tông đưa vào luật pháp. Lý Nhân Tông đã hai lần xuống chiếu ra lệnh cấm giết trộm trâu.   Lý Nhân Tông là người đầu tiên khởi xướng việc đắp đê phòng lũ, đã huy động dân "đắp đê ở phường Cơ Xá" (nay là đoạn đê sông Hồng ở gần cầu Long Biên, Hà Nội), năm 1108.   Trong việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường sinh thái đối với cư dân làm nông nghiệp, tháng Giêng năm 1126, ông đã xuống chiếu "Cấm dân chúng mùa Xuân không được chặt cây" và việc bảo vệ môi trường thiên nhiên thành pháp lệnh. Nhưng điều lớn lao, đáng kể hơn cả của Lý Nhân Tông, của triều đại ông, là sự mở đầu nghiệp thi cử và nền giáo dục cao cấp của nước nhà. Tiếp tục sự nghiệp mong mỏi của vua cha, người đặt nền móng xây dựng Trường đại học quốc gia vào năm 1070 với việc lập Văn Miếu để biểu dương Nho giáo, thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền. Năm, sáu năm sau, Lý Nhân Tông là người đầu tiên khởi xướng và thực hiện chế độ thi cử và giáo dục đại học của Đại Việt để từ đó về sau, ngày càng được các triều đại nối tiếp hoàn thiện.  Khoa thi đầu của nền giáo dục cao cấp Việt Nam được mở vào tháng 2 năm Ất Mão, hiệu Thái Ninh năm thứ tư (1075), là khoa thi Minh kinh bác học nhằm tuyển chọn người có tài văn học. Khoa này chọn được mười người.  Một năm sau, năm Bính Thìn (1076), vua cho lập Quốc Tử Giám ở kế sau Văn Miếu (ban đầu là cho các hoàng tử, sau mở rộng cho những người giỏi trong thiên hạ vào học), và chọn những người giỏi, những nhà khoa bảng cho vào dạy học. Đây là trường đại học đầu tiên của nước nhà.  Tháng 2 năm Đinh Tỵ (1077) lại tổ chức "thi lại viên bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật", nhằm lựa chọn quan chức cao cấp cho bộ máy nhà nước. Đây là kỳ thi chọn quan lại đầu tiên với nội dung kiến thức tương đối toàn diện: văn, toán, luật pháp (chính trị).  Tháng 8 năm Bính Dần (1086) mở khoa thi chọn người có tài văn học trong nước, sung làm việc ở Hàn lâm viện. Khoa thi này Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ chức Hàm lâm học sĩ.  Là một minh quân, Lý Nhân Tông cũng là một tấm gương khổ luyện, phấn đấu đạt đến độ "học thức cao minh, hiểu sâu đạo lý" (Phan Huy Chú). Chính vì vậy, đánh giá tổng quát về ông, các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, đến Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn... đều cho rằng, ông là "vị vua giỏi", "vị anh quân" của triều Lý. Lê Thánh Tông (1442 - 1497) Tên tuổi và sự nghiệp Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn cường thịnh của Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 15. Lê Thánh Tông tên là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn Hà Nội ngày nay, mất ngày 30 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1497). Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng, văn hóa. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là "vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược". Về phương diện văn học, Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm, hiện còn được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn... Nhà cải tổ và xây dựng đầy nhiệt huyết. Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 12 đạo (tức 12 thừa tuyên). Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế... Dưới thời Lê Thánh Tông, lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cường hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao. Người khởi xướng bộ luật Hồng Đức. Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam hồi thế kỷ 15. Lê Thánh Tông, người khởi xướng luật Hồng Đức, là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo". Người phát triển những giá trị văn hóa dân tộc. Về phương diện văn hóa Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn. Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ... là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông. Nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông hủy án minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu hủy sau vụ án "Lệ Chi viên". Chính Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" (Tấm lòng ức Trai sáng tựa sao Khuê). Một nhà thơ hào tráng. Đứng đầu hội văn học Tao Đàn, Lê Thánh Tông cũng dẫn đầu phong trào sáng tác. Thơ Lê Thánh Tông để lại khá nhiều và có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Qua thơ ông, chúng ta không chỉ hiểu sâu hơn nhân cách, tâm hồn ông, một tâm hồn gắn bó mật thiết với non sông, đất nước, với nhân dân, với những truyền thống anh hùng của dân tộc, của Tổ tông, mà còn thấy được khí phách cả một thời đang vươn lên, đầy hào tráng: Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ, Khí thế ba quân át cày cáo. Phương Đông Mặt trời mọc, áng mây nhẹ trôi, Phóng mắt ngắm núi sông muôn dặm. (Buổi sớm từ sông Cấm đi tuần biển Đông) Lê Thánh Tông làm vua lúc 19 tuổi. Một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Đó là tiếng nói của một ý chí tự cường dân tộc, động lực mãnh liệt đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hồi thế kỷ 15. Chu Văn An (1292 - 1370) Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong. (Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả. Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân). Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần. Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370). Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại. Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này. Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận. Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô. ( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải. Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa). (Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An). Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn. Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó. Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được". Thi cử Thi hương: được tổ chức theo một vùng gồm nhiều tràn lộ do triều đình quy định. Thí sinh tham gia thi hương phải dự 4 kỳ thi Kinh nghĩa, thơ phù, chế chiếu biẻu, văn sách. Dưới thời Lê người trúng cả 4 kỳ gọi là Hương Cống, đỗ 3 kỳ gọi là Sinh đồ. Những người đỗ Hương Cống được vào trong Quốc Tử Giám để thi hộ và thi đình. Thi hội: là kỳ thi ở kinh đô do triều đình tổ chức cho những người đã đỗ hương Cống, Giám sinh Quốc Tử Giám, được tiến hành 1 năm sau kỳ thi Hương. Người đỗ đầu kỳ thi gọi là Hội Nguyên, nội dung thi cũng là 4 kỳ thi như kỳ thi Hương, chấm điểm theo hệ số 10. Thí sinh nào có 3 kỳ thi được 10 thì được vào thi đình. Thi đình: diễn ra tại Văn Miếu, đề thi do chính Vua soạn ra, thí sinh chỉ làm một bài Việt Nam sách để phân tài cao thấp, những người đỗ kỳ này được chia làm 3 giáp: + Đệ nhất giáp: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa (tối đa chỉ có 3 người gọi là tam khôi) + Đệ nhị giáp: Tiến sỹ xuất thân. + Đệ tam giáp: đồng tiến sỹ xuất thân. Có một số khoa thi không có trạng nguyện, đó là do quyết định của Vua. Ngoài ra còn có các kỳ thi đặc biệt, không định kỳ như Ấn khoa, chế khoa......trên tổng số 124 bia thì hiện chỉ tìm được 82 bia, 1306 người đỗ. Vì không giới hạn tuổi tác nên có những người như Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên khi 13 tuổi khoa thi năm 1247 hay Quách Đồng Dần đỗ trạng nguyên khi 68 tuổi khoa thi năm 1634. Chữ viết: Cho tới nay chưa tìm được những di vật cụ thể để chứng minh cho những suy đoán và nhận định về hệ thống chữ viết cổ xưa của dân tộc khi chữ hán được sử dụng như một chữ chính thức của Việt nam trong một thời gian lịch sử khá dài. Nhưng sổ sách của ta và Trung Hoa cổ đều có ghi lại một loại chữ bao gồm ký hiệu được sử dụng bởi người Việt Cổ. Dưới chế độ phong kiến phương Bắc thì chữ Hán được truyền bá ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong cuộc tiếp xúc giao lưu văn hoá hai bên, ta có thể thấy chiều hướng chủ đạo của việc giao lưu này là Việt hoá, bắt nguồn từ nhu cầu cần thiết phải ghi lại, nói lại một sự vật, sự việc nào đó riêng biệt của người Việt mà ngôn ngữ Hán tỏ ra bất lực. Chữ nôm – chữ viết của người Nam ghi lại tiếng nói của người Nam. Tiếng Việt cổ đã ra đời nhằm thoả mãn những nhu cầu vừa có tính chất cụ thể, thực dụng vừa có ý nghĩa khái quát chiến lược. Với tính chất là một sản phẩm sáng tạo của văn hoá, chữ nôm có những nguyên lý, nguyên tắc riêng của mình và đã phát huy tác dụng thực tế trong cuộc sống của người Việt Nam. Nguyên tắc chung đó là dùng chữ Hán như những ký hiệu để ghi lại ngữ âm tiếng Việt chứ không phải là chuyển dịch từ ngữ Việt thành ngữ Hán lắp ghép lại thành một mã chữ. Do vậy, chữ nôm từ khi xuất hiện (khoảng thế kỷ VI) đến khi được sử dụng rộng rãi là cả một quá trình diễn ra sự chuyển đổi cách ghi âm tiếng Việt bằng những ký hiệu lấy từ chữ Hán (đọc theo âm Hán đã Việt hoá) làm cơ sở để tăng trưởng về mặt số lượng những mã chữ ghi thuần Việt hoặc từ Việt gốc Hán, tương ứng với quá trình từ ngữ Hán để xây dựng ngôn ngữ văn hoá dân tộc. Đồng thời đó cũng là quá trình đấu tranh để xác định vị trí xứng đáng của tiếng Việt trong quá trình giao tiếp, tiếp xúc với ngôn ngữ văn tự Hán mà kèm theo đó là văn hoá Hán có học thuyết Nho giáo làm nòng cốt. Tuy không thể trở thành “quốc gia văn tự” nhưng chữ nôm cũng đã được sử dụng khá rộng rãi từ vua chúa tới dân thường. Không mấy ai bỏ qua được học chữ nôm. Sách Lịch Triều Tạp Kỷ có ghi: “năm 1715 thi sỹ vọng, đầu bài văn sách bằng chữ nôm”, một số tài liệu thi Hương dưới triều Quang Trung (1789) đã có bài ghi bằng chữ nôm cũng đạt được vị trí nhất định trong lịch sử. Một số nhận định về chữ quốc ngữ và vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes: Việc chế tác chữ Quốc ngữ là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người châu Âu, nổi bật nhất là Fránesco De Pina và Alexandre De Rhodes. Trong công việc này có sự công tác tích cực và hữu hiệu của nhiều người Việt Nam. Trước hết là những thầy giáo Việt Nam (giúp việc cho những linh mục châu Âu) mà hầu như chúng ta không biết gì đến tên tuổi của họ. Alexandre De Rhodes(A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ) : Ông sinh . (15 tháng 3, 1591 – 5 tháng 11, 1660 mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư)) tại Avignon, Pháp. Theo một số sử liệu, linh mục Alexandre de Rhodes, sinh năm 1591, nhưng nhiều nguồn khác ông sinh năm 1593 là một nhà truyền giáo dòng Tên người Pháp và một nhà ngôn ngữ học. Ông là người có công rất lớn trong việc La Mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là Latin hóa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ Latin). Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa v.v... trong việc La Mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome. Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La Mã này được chúng ta ngày nay gọi là “chữ Quốc ngữ”. . Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn Bài giảng giáo lý Tám ngày”có thể được coi như là tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ 17. Ông đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 – 1630). Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội – cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy, Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống. Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để quạt mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội. Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng. Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức. Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học và trở thành một thông dịch viên xuất sắc. Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh. Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm Marseille. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp. Ông Nguyễn Văn Vĩnh Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do. Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân Việt viết văn bằng Quốc ngữ. Ông là người đầu tiên dịch ra chữ Quốc ngữ các tác phẩm của các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là người đầu tiên dịch “Truyện Kiều” sang tiếng Pháp. Bản dịch “Kiều” của ông Vĩnh rất đặc sắc vì ông không chỉ dịch cả câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm), Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được. Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ Quốc ngữ. Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt. 18.9.1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học. Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt - La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với hệ chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ. Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình. Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông. Toà báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét! Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole. Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép: Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp “Một tháng với những người tìm vàng”. Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông – con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của mình đã góp phần làm cho chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt. Tháng 9.1945, trong lời kêu gọi toàn dân chống thất học chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Là một người Việt Nam, phải đọc thông, viết thạo chữ Quốc ngữ". Chữ quốc ngữ vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam năm 1651, , với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu diễn tiếng Việt nhưng cũng phải nhờ đến cuốn từ điển Việt – La (1772 tức là 121 năm sau) với những cải cách quan trọng của Pigeau De Bohaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo như hệ thống chữ Việt mà chúng ta sử dụng ngày nay. Chữ quốc ngữ chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của văn hóa Tây phương (chủ yếu là từ ngôn ngữ – văn hóa Pháp) như phanh, lốp, găng, pê đan... và các từ Hán-Việt như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Tờ báo "Gia Định báo" là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này Để thiết thực ghi nhận những đóng góp của Alexandre De Rhodes, Năm 1943, chính quyền thuộc địa Đông Dương phát hành một con tem 30 xu để tôn vinh những đóng góp của ông trong quá trình phát triển tiếng Việt. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng phát hành một bộ tem 4 con kỷ niệm 300 năm ngày mất của ông, nhưng ra trễ 1 năm (phát hành ngày 5 tháng 11 năm 1961). trung tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia đã kiến nhgị với chính phủ cho phép dựng bia ghi công của ông. Tên ông được đặt cho một trường trung học và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay vẫn còn tượng ông đặt tại Viện Ngôn ngữ học Việt Nam để tưởng nhớ tới công lao và những đóng góp của ông trong việc phát triển chữ quốc ngữ. KẾT LUẬN Đến thăm khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, chúng ta không chỉ hiểu rõ hơn một mảng đời sống tinh thần của người Việt Nam mà còn được thưởng thức một thắng cảnh đẹp. Đồng thời chúng ta còn hiểu biết thêm về kiến trúc nghệ thuật Việt Nam. Bên cạnh đó, du khách tới thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám càng hiểu thêm về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. Người Việt Nam vốn ít coi trọng tiền bạc giá trị vật chất mà đề cao giá trị tinh thần trong đó có tri thức, đạo đức là thành quả do giáo dục mang lại. Quý khách tham quan Văn Miếu – Quốc Tử Giám sẽ có được một không gian thanh tịnh cổ kính thoải mái, nơi mà trước kia chỉ dành cho vua chúa, sĩ tử học tập và ôn luyện. Đến với Văn Miếu – Quốc Tử Giám du khách luôn được đón tiếp thân mật, tận tình. Để hoàn thành tốt bản khảo sát này, em xin chân thành cảm ơn ban quản lý khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, các thầy cô giáo cùng các anh chị hướng dẫn viên đã giúp đỡ và cung cấp tài liệu. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 77.doc
Tài liệu liên quan