Đề tài Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu bảo hiểm xã hội và chống thất thu bảo hiểm xã hội Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu bảo hiểm xã hội và chống thất thu bảo hiểm xã hội Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang: Mục Lục Lời mở đầu 3 CHƯƠNG I: Lý luận chung về chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội 6 I. Giới thiệu chung về chính sách bảo hiểm xã hội 6 1) Khái niệm về BHXH 6 2) Các loại hình BHXH 8 II. Quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH 14 1) Quản lý thu BHXH 14 2) Nội dung của quản lý thu BHXH 16 a) Nguyên tắc quản lý thu BHXH 16 b) Nội dung quản lý Thu BHXH 17 3) Chống thất thu BHXH. 21 CHƯƠNG II: Thực trạng về quản lý thu và thất thu BHXH tại tỉnh Tuyên Quang. 24 I. Thực trạng thu BHXH và thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 24 1) Khái quát BHXH Tuyên Quang 24 2) Thực trạng thu BHXH Tại Tuyên Quang 31 3) Tình hình thất thu của BHXH Tuyên Quang. 36 II. Quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 42 1) quản lý thu BHXH Tại BHXH Tuyên Quang. 42 2) Đánh giá quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 46 CHƯƠNG III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 52 I. Phương hướng hoàn thiện công tác thu BHXH. 52 II. Một số g...

docx64 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 959 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu bảo hiểm xã hội và chống thất thu bảo hiểm xã hội Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục Lời mở đầu 3 CHƯƠNG I: Lý luận chung về chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội 6 I. Giới thiệu chung về chính sách bảo hiểm xã hội 6 1) Khái niệm về BHXH 6 2) Các loại hình BHXH 8 II. Quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH 14 1) Quản lý thu BHXH 14 2) Nội dung của quản lý thu BHXH 16 a) Nguyên tắc quản lý thu BHXH 16 b) Nội dung quản lý Thu BHXH 17 3) Chống thất thu BHXH. 21 CHƯƠNG II: Thực trạng về quản lý thu và thất thu BHXH tại tỉnh Tuyên Quang. 24 I. Thực trạng thu BHXH và thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 24 1) Khái quát BHXH Tuyên Quang 24 2) Thực trạng thu BHXH Tại Tuyên Quang 31 3) Tình hình thất thu của BHXH Tuyên Quang. 36 II. Quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 42 1) quản lý thu BHXH Tại BHXH Tuyên Quang. 42 2) Đánh giá quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 46 CHƯƠNG III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 52 I. Phương hướng hoàn thiện công tác thu BHXH. 52 II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH. 53 1) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH. 53 2) Có chương trình qui hoạch đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. 54 3) Mở rộng nguồn thu BHXH. 54 4) Tăng cường công tác tuyên truyền về Luật BHXH 58 5) Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu và chống thất thu quĩ BHXH. 56 6) Bảo tồn và tăng trưởng quĩ BHXH 59 7) Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu. 60 8) Cải cách thủ tục hành chính 60 Kết luận 61 Tài liệu tham khảo 62 Phần mở đầu Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Ngay từ khi thành lập Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện các chế độ, chính sách an sinh xã hội đối với cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Trong công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế không ngừng phát triển đời sống nhân được cải thiện và nâng cao, tuy nhiên một bộ phận người lao động còn bấp bênh không đảm bảo do gặp phải những rủi ro như thiếu việc làm, ốm đau, tuổi già…để bù đắp một phần thiếu hụt đó, từ năm 1995 Đảng ta đã cụ thể hoá đường lối bằng chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội và được bổ sung hoàn thiện và đổi mới các chế độ, chính sách BHXH theo quy định tại chương III bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 . Bảo hiểm xã hội không những là một loại hình bảo hiểm mà nó còn là một cơ chế bảo vệ người lao động trong trường hợp người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn do mất, giảm khả năng lao động. Bảo hiểm xã hội còn là một trong những hệ thống bảo đảm xã hội. Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng vượt bậc của ngành bảo hiểm xã hội nên các chế độ BHXH được thực hiện ngày càng tốt hơn; công tác thu, chi, quản lý quỹ và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo luật định đi vào nền nếp, tạo điều kiện thuận lợi và niềm tin cho những người tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta và nhu cầu của người lao động, ngày 09/01/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP, Luật BHXH được Quốc hội nứơc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngà 29/6/2006, đối tượng tham gia BHXH không còn tập trung vào các đơn vị hành chính sự nghiệp , các doanh nghiệp nhà nước nữa mà được mở rộng tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hưu hạn, hợp tác xã , hộ kinh doanh các thể, số người tham gia ngày càng tăng, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Song song với thu BHXH thì việc chi trả cho đối tượng nghỉ việc hưởng chế độ bảo hiểm xã hội ngày càng nhiều. Do dó BHXH cần có một lượng tiền đủ lớn để đảm bảo cho công tác chi trả các chế độ BHXH, để đạt được mục tiêu đó thì việc tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH là một nhiệm vụ rất quan trọng, có thể coi Quỹ BHXH là sự sống còn của hệ thống BHXH, đảm bảo cho hệ thống hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ Trong đó nhiệm vụ thu BHXH là nhiệm vụ quan trọng có thể coi đó là đầu vào của ngành BHXH. Là cán bộ đang trực tiếp công tác tại phòng thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang và được thực tập tốt nghiệp tại cơ quan từ ngày 25/9/2006 đến ngày 15/01/2007, trong thời gian thực tập em thấy còn một số hạn chế trong công tác thu BHXH dẫn đến tình trạng thu chưa đúng, thu chưa đủ hay nói cách khác còn để thất thu BHXH và vấn đề tăng cường công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của ngành BHXH nói chung và BHXH Tuyên Quang nói riêng. Do vậy chuyên đề mà em lựa chọn là: “Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu BHXH và chống thất thu BHXH Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang” Làm chuyên đề thực tập với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công tác thu BHXH. Mục đích của chuyên đề: Làm rõ công tác thu và thất thu bảo hiểm xã hội. Thực trạng công tác thu và thất thu Bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội Tuyên Quang trong thời gian qua. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH trong thời gian tới. Nội dung của Chuyên đề gồm: Lời nói đầu Chương I: Lý luận chung về chính sách Bảo hiểm xã hội. Chương II: Thực trạng về quản lý thu, và thất thu BHXH tại Bảo hiểm xã hội Tuyên Quang. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu và chống thất thu BHXH tại BHXH Tuyên Quang. Kết luận. Qua quá trình học tập tại trường và thời gian thực tập tại cơ quan sự giúp đỡ của Thầy giáo Bùi Đức Thọ, Khoa: Khoa học Quản lý - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Ban Giám đốc và tập thể cán bộ viên chức BHXH tỉnh Tuyên Quang đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I Lý luận chung về chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội I. Giới thiệu chung về chính sách bảo hiểm xã hội 1) Khái niệm về BHXH: Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm một phần thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Trong điều kiện kinh tế phát triển , nhu cầu sinh hoạt đời sống ngày càng cao của người lao động nhất là trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, chính sách BHXH được củng cố và hoàn thiện theo hướng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phát triển theo định hướng XHCN cụ thể hoá bằng Luật bảo hiểm xã hội đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006. Quỹ BHXH được bảo tồn tăng trưởng và đủ khả năng đảm bảo chi trả các chế độ BHXH cho người lao động ở các thành phần kinh tế khi tham gia BHXH một cách ổn định, có hiệu quả. BHXH đã đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống người lao động, cho sự ổn định của các doanh nghiệp, các công ty và tổ chức có thể thấy sự xuất hiện của BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan của cuộc sống của người lao động và các tổ chức. BHXH là nhu cầu khách quan đa dạng và phức tạp của xã hội nhất là trong xã hội mà nền sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường , mối quan hệ lao động phát triển tới một mức độ nào đó, kinh tế càng phát triển thì bảo hiểm xã hội càng phát triển đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của chính sách bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm xã hội không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. BHXH đã được coi như là nhu cầu khách quan của con người và được xem như là một trong những quyền cơ bản của con người. “Có đóng góp BHXH thì mới được hưởng các chế độ BHXH” đó là nguyên tắc hoạt động của BHXH, Người lao động trong quá trình lao động sản xuất kinh doanh phải đóng góp đầy đủ thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức chung, sau đó người lao động có quyền được hưởng trợ cấp về BHXH, căn cứ vào sự đóng góp và theo chế độ quy định. Người lao động khi gặp phải những rủi ro như: ốm đau, tai nạn lao động hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp gây ra làm cho bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn đến nguồn thu nhập của họ bị giảm đi hoặc không còn nữa; hoặc người lao động bị chết trong khi con cái đang tuổi vị thành niên, bố mẹ già không nơi nương tựa; hoặc khi không còn khả năng lao động để có thu nhập từ tiền lương, tiền công, gây nhiều khó khăn kinh tế cho cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Người sử dụng lao động và người lao động có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau bởi quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các đơn vị vừa tạo điều kiện làm việc, trả công cho người lao động, vừa phải có trách nhiệm giúp đỡ khi họ không may gặp phải rủi ro trong quá trình lao động. Nếu không tham gia BHXH thì các chi phí phát sinh này rất lớn làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đối với Nhà nước xã hội: Nhà nước có trách nhiệm ban hành và điều chỉnh sửa đổi hệ thống pháp luật về BHXH để ngày càng hoàn thiện đáp ứng nhu cầu tham gia của xã hội, đồng thời tổ chức thực hiện các chính sách về BHXH và có trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Nhà nước đã cụ thể hiện vai trò của mình trong việc điều tiết xã hội và gìn giữ ổn định xã hội bằng cách hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội. Như vậy do nhiều nguyên nhân khác nhau mà rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và ảnh hưởng tới các đối tượng là người lao động hay chủ sử dụng lao động và nền kinh tế đất nước để đảm bảo một phần kinh tế góp phần ổn định cuộc sống của người lao động, tham gia Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu khách quan của con người có thể coi đó là quyền cơ bản nhất của con người, quỹ BHXH tập trung đòi hỏi sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động,...ổn định quá trình hoạt động cuả doanh nghiệp hay an ninh quốc gia hơn bao giờ hết quỹ bảo hiểm xã hội luôn là người bạn đồng hành với họ. 2) Các loại hình BHXH: Trên thị trường hiện nay hình thành nhiều loại Bảo hiểm khác nhau nhưng trong phạm vi nay chúng ta so sánh hai loại hình bảo hiểm đó là: Giữa Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thương mại (bảo hiểm sức khoẻ, tính mạng và tài sản bảo hiểm kinh doanh) có những điểm giống nhau và khác nhau được thể hiện trên các mặt như sau: Hai quỹ cùng mục đích hoạt động là nhằm hỗ trợ cho các đối tượng tham gia bảo hiểm một khoản tiền nhất định theo quy định khi họ gặp những khó khăn về tài chính do một nguyên nhân gây nên rủi ro nào đó đối với họ. Hai loại bảo hiểm này cùng chung một nguyên tắc là: có tham gia đóng góp tạo lập quỹ mới được hưởng quyền lợi từ quỹ BHXH. Hai loại bảo hiểm hoạt động với mục tiêu hoàn toàn khác nhau. Bảo hiểm thương mại được hình thành để nhằm hạn chế rủi ro và hoạt động với mục đích chính là kinh doanh thu lợi nhuận còn mục tiêu của hoạt động BHXH mang tính phục vụ cộng đồng xã hội trên phạm vi toàn quốc, nhằm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và nhà nước, bảo đảm cho người lao động có khoản trợ cấp thiết yếu lúc gặp khó khăn. Mức độ đóng góp và sử dụng của bảo hiểm thương mại thực hiện theo cơ chế hoạt động của thị trường và theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh tùy theo mức đóng ấn định để xác định quyền lợi theo tỷ lệ nhất định; với mục tiêu bảo vệ sự phát triển kinh tế xã hội sự ổn định chính trị của quốc gia cho nên mức đóng góp và sử dụng quỹ BHXH dựa vào chính sách xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. Để phân biệt giữa BHXH với các loại BH khác chúng ta có thể xem xét từ khái niệm cơ bản như: đối tượng được tham gia, đối tượng được bảo hiểm, quyền lợi khi tham gia bảo hiểm. Trong thực tế các quy định về BHXH luôn được điều chỉnh, công tác tuyên truyền chưa sâu rộng nên không ít người hay nhầm lẫn giữa BHXH với các loại Bảo hiểm khác. Thực ra, trong BHXH thì đối tượng của nó chính là thu nhập của người lao động. Khi người lao động gặp sự cố hoặc rủi ro bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến thu nhập bị giảm hoặc mất hẳn, tại thời điểm ấy họ mong muốn có một khoản tiền nhất định để chi trả và trang trải cho các nhu cầu thất yếu cũng như các nhu cầu mới phát sinh trong cuộc sống và ta thấy rằng: người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng được hưởng bảo hiểm, họ cũng chính là đối tượng được hưởng mọi quyền lợi BHXH. BHXH vì mục tiêu phục vụ chứ không vì mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Để hình thành nên quỹ BHXH do các bên cùng đóng góp đó là: người lao động, người sử dụng lao động, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ , các nguồn thu hợp pháp khác và sự hỗ trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động tham gia BHXH là do luật pháp của Nhà nước bắt buộc mặt khác vì họ thấy được lợi ích thiết thực khi đã tham gia BHXH, còn đối với nhà nước tham gia BHXH với tư cách là chủ sử dụng lao động đối với tất cả công nhân viên chức và những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước như Hưu trí , bảo trợ xã hội ... và cũng là người bảo hộ cho quỹ BHXH. BHXH có những chức năng chủ yếu sau : Chức năng là sự khái quát của các nhiệm vụ cơ bản, là dạng hoạt động đặc trưng và khái quát nhất của tổ chức hay cá nhân gắn với chức danh nào đó trong một hệ thống tổ chức hoạt động phạm vi nhất định trong xã hội, cũng như các thành phần khác của nền kinh tế bảo hiểm, Bảo hiểm xã hội có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc, tuy nhiên theo đặc thù BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao và BHXH có những chức năng sau: Chức năng hình thành một hệ thống an toàn xã hội : Chức năng này không chỉ cần thiết cho người lao động mà còn đảm bảo sự ổn định xã hội cho quốc gia. Chức năng hạn chế khó khăn về kinh tế của người lao động: là đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và được hưởng quyền lợi BHXH. Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau: Đời sống người lao động được cải thiện và nâng cao thì các hiện tượng tiêu cực sẽ giảm đi, an ninh chính trị an toàn xã hội được đảm bảo , sản xuất phát triển ; Khi xã hội phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội công ăn việc làm cho người lao động như vậy đời sống của họ được nâng lên... Bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong việc bảo đảm ổn định và phát triển cho xã hội, thể hiện thông qua các tác động chủ yếu sau: - Bảo đảm thay thế và bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất thu nhập hoặc bị giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm trong những điều kiện nhất định. Nói là bảo đảm hay thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động là nói đến sự thay thế hoặc bù đắp đó nhất định sẽ xảy ra khi người lao động rơi vào các trường hợp nói trên và hội tụ các điều kiện quy định. Sở dĩ như vậy là giữa người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, quan hệ này nảy sinh trên cơ sở lao động và quan hệ tài chính BHXH. Đó là quan hệ giữa bên tham gia bảo hiểm, bên nhận bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm trước hết là người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm cho người lao động mà mình đang sử dụng, đồng thời người lao động cũng phải có trách nhiệm đóng phí để tự bảo hiểm cho mình , sự đóng góp này là bắt buộc theo mức quy định cho bên nhận bảo hiểm đó là cơ quan BHXH. Khi người lao động hội đủ các điều kiện cần thiết thì họ nhất định sẽ được hưởng những quyền lợi theo quy định. - Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH, sự đóng góp rất khác nhau người có thu nhập cao thì đóng góp nhiều và ngược lại. nhưng mỗi khi họ không may gặp rủi ro. quỹ BHXH sẽ thực hiện phân phối và phân phối lại đó là sự phân phối thu nhập giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang công tác với những người già cả, ốm đau đang nghỉ việc. người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ BHXH không phải trực tiếp cho mình mà cho người lao động số lượng này khá lớn (số không được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH vì còn sức khỏe lao động còn số người được hưởng thì chiếm tỷ trọng ít trong số những người tham gia đóng góp như vậy BHXH lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối theo cả chiều dọc và chiều ngang, Chức năng này thể hiện tính ưu việt của BHXH, mang lại lợi ích chung cho cả cộng đồng nó mang tính xã hội cao. - Góp phần kích thích tinh thần lao động, khuyến khích họ hăng hái sản suất nâng cao năng xuất lao động cho xã hội. Người lao động khi tham gia BHXH sẽ góp một phần tiền lương, tiền công vào quỹ BHXH lúc còn khỏe mạnh, có việc làm. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hoặc không may bị chết đã có BHXH bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập quan trọng, do đó đời sống của bản thân họ và gia đình họ luôn có chỗ dựa, luôn được bảo đảm. Chính vì thế họ gắn bó với công việc yên tâm, tích cực lao động sản xuất , góp phần tăng năng xuất lao động, tăng hiệu quả kinh tế, qua đó ta nhận thấy tiền lương tiền công và BHXH là những động lực thúc đẩy hoạt động của người lao động. - Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người sử dụng lao động với xã hội. BHXH dựa trên cơ sở đóng góp đều kỳ của người lao động và người sử dụng lao động và nhà nước cho cơ quan BHXH để tồn tích dần thành một quỹ tập trung, quỹ này lại huy động phần nhàn rỗi vào hoạt động sinh lời làm tăng nguồn thu Thông qua BHXH những mâu thuân giữa những người sử dụng lao động như mâu thuẫn về tiền lương, thời gian lao động … sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt là cả hai bên này đều thấy được nhờ có BHXH mà mình có lợi được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau và gắn bó lợi ích với nhau. Còn đối với Nhà nước và xã hội hỗ trợ quỹ BHXH một khoản nhất định, nhưng BHXH đã mang lại hiệu quả rất cao đó là đảm bảo sự ổn định xã hội , ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ. BHXH phát huy tiềm năng của số đông và ưu điểm của nhiều phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường để đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động cũng như cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ với lợi ích cả lợi ích trước mắt và lâu dài của các bên tham gia BHXH cũng như các bên đó với lợi ích quốc gia. BHXH có một số tính chất cơ bản sau: - BHXH là một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống của mỗi con người do vậy mà nó mang tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. như phần trên đã trình bày trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp phải những rủi ro như : Sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, lao động dư thừa... đời sống khó khăn. Nhưng khi sản xuất càng phát triển thì rủi ro với người lao động và khó khăn với chủ sử dụng lao động càng trở lên phức tạp, mâu thuẫn căng thẳng, để giải quyết vấn đề này nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua các chính sách BHXH , như vậy BHXH ra đời là một tất yếu khách quan. - BHXH mang tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Những rủi ro xảy đến rất bất thường không bao giờ biết trước được. Chính vì vậy nên mọi rủi ro đến với người lao động của một tổ chức hay là tất cả các tổ chức đều không phải chịu chung một hay nhiều rủi ro cùng một thời điểm. - BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa có tính xã hội và cả tính dịch vụ. Tính kinh tế của BHXH được thể hiện thông qua cơ chế tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng đó là sự đóng góp tài chính của tất cả các bên liên quan (người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ của nhà nước, các nguồn thu hợp pháp khác). Mức đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa trên nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội là lấy số đông bù số ít theo quy đ ịnh về mức thu tại điều 42,43,44 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP thì mức đóng của cả người lao động và cả người sử dụng lao động sẽ tăng lên theo từng mốc thời gian và đến tháng 01/2014 thì mức đóng góp cao nhất là 26% trong đó: người lao động đóng 8%, người sử dụng lao động đóng 18% do thực chất mức đóng góp của mỗi nguời lao động là không đáng kể so với mức họ được hưởng. Xét dưới góc độ kinh tế thì người sử dụng lao động cũng được lợi rất nhiều trong quan hệ BHXH khi tham gia BHXH họ sẽ không phải chi trả các chi phí cho người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động số tiền chi trả này lớn đáng kể. Còn về phía Nhà nước thì hoạt động tạo lập quỹ BHXH đã làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời nó góp phần đầu tư cho nền kinh tế. Như vậy cơ chế tạo lập và sử dụng quỹ BHXH đã đem lại rất nhiều lợi ích cho người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Bảo hiểm xã hội mang tính cộng đồng rất cao, là một chính sách xã hội lớn của Đảng và nhà nước ta, là một bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm an sinh xã hội vì tính chất xã hội của nó được thể hiện rất rõ nét đó là mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH, như Luật BHXH đã quy định: BHXH bắt buộc thực hiện từ ngày 01/01/2007; BHXH tự nguyện thực hiện 01/01/2008 và BH thất nghiệp thực hiện 01/01/2009 và BHXH có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả họ đang còn trong độ tuổi lao động .Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì tính chất dịch vụ và tính chất xã hội hoá của BHXH ngày càng cao. II. Quản lý thu BHXH và vấn đề chống thất thu BHXH 1) Quản lý thu BHXH Căn cứ Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. BHXH Việt nam Là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT ( gọi chung là Bảo hiểm xã hội ) và quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội theo qui định của pháp luật. Công tác thu BHXH có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngành BHXH, theo qui định đóng BHXH đó là mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, giữa các bên có sự ràng buộc giám sát lẫn nhau về số người tham gia, mức đóng và thời gian đóng BHXH trong suốt quá trình tham gia BHXH, lấy đó làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện giải quyết các chế độ BHXH theo luật định. Căn cứ vào mức đóng theo quy định và tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp chức vụ, thâm niên vượt khung, thâm niên nghề (nếu có) (theo Nghị định 152/2006/N Đ-CP) hiện đang hưởng của người lao động để xác định số tiền phải đóng cho từng lao động khi tham gia BHXH, yêu cầu theo dõi kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị theo từng tháng, để từ đó ghi nhận kết quả đóng BHXH cho từng người, tương đương với mức lương làm căn cứ đóng BHXH v à ghi vào sổ BHXH. Đây là công việc đòi hỏi tính chính xác cao, thường xuyên, liên tục kéo dài cả quá trình tham gia BHXH. Đồng thời việc theo dõi ghi chép kết quả đóng BHXH của mỗi người là căn cứ pháp lý để thực hiện chế độ BHXH, do đó mỗi lần thay đổi mức lương, chức vụ , nơi công tác …phải kiểm tra chính xác và ghi sổ cụ thể để việc giải quyết chế độ BHXH thuận lợi . Đối với nghiệp vụ thu BHXH đòi hỏi nghiệp vụ chuyên môn sâu và chính xác đến từng người lao động , đến từng mức thu cụ thể , kéo dài nhiều năm theo quá trình tham gia của người lao động , ngoài nghiệp vụ kế toán thực hiện quản lý theo chế độ tài chính thực hiện thu tập trung vào một tài khoản của cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố chuyển lên quỹ BHXH trung ương đúng kịp thời; còn có nghiệp vụ quản lý thu BHXH theo danh sách lao động đăng ký đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị cùng với sổ BHXH của từng người mà việc quản lý theo dõi được thực hiện đối với phòng thu BHXH Tỉnh quản lý danh sách, lao động, tiền lương đơn vị, cơ quan đăng ký đóng BHXH cơ bản tăng, giảm hàng tháng để ghi nhận kết quả đóng lập thành hồ sơ gốc. BHXH quận, huyện làm nhiệm vụ đôn đốc và đối chiếu hồ sơ và kết quả đóng của cơ quan, đơn vị theo địa bàn quản lý, từ đó hướng dẫn cơ quan, đơn vị ghi kết qủa đóng BHXH vào sổ BHXH của từng người đó là căn cứ để giải quyết hưởng chế độ BHXH. Từ những đặc điểm trên mà hoạt động thu BHXH đòi hỏi phải được tập trung thống nhất từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính tiền tệ, đảm bảo độ chính xác trong việc ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị đến từng lao động theo tiền lương, lấy đó làm căn cứ đóng BHXH từng tháng trong nhiều năm, theo dõi trường hợp tham gia công tác liên tục cũng như gián đoạn, làm việc một nơi hay nhiều nơi.... Như vậy, quá trình theo dõi ghi kết quả thu BHXH đòi hỏi liên tục trong nhiều năm, kể cả thời gian ngừng đóng BHXH vẫn phải lưu giữ để đảm bảo khi người lao động tiếp tục đóng hoặc yêu cầu giải quyết chế độ đều được thực hiện ngay. Hoạt động thu của BHXH là hoạt động liên quan đến cả quá trình tham gia của người lao động nó mang có tính kế thừa, cho nên nghiệp vụ quản lý thu phải lưu giữ sổ, biểu đảm bảo để sử dụng lâu dài . 2) Nội dung của quản lý thu BHXH a) Nguyên tắc quản lý thu BHXH Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ đã quy định rõ: Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ, quỹ được thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính phủ. Điều 1 Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ quy định: Thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách theo pháp luật của Nhà nước. Đây là thể hiện nguyên tắc tập trung trong quản lý quỹ. Tại Điều 3 trong Quy chế quản lý tài chính đối với BHXH nêu rõ: 1. Quỹ BHXH được hình thành từ người tham gia BHXH, BHYT, đóng góp của người sử dụng lao động; nhà nước đóng và hỗ trợ; tiền sinh lời từ hoạt động bảo toàn, tăng trưởng quỹ và nguồn thu khác. 2. Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, dân chủ và công khai trong toàn hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam; hạch toán theo quỹ thành phần , độc lập với ngân sách nhà n ước và được nhà nước bảo hộ. Căn cứ vào các quy định nêu trên, quỹ BHXH được quản lý theo các nguyên tắc cơ bản là: Nguyên tắc tập trung, thống nhất. Hạch toán độc lập với NSNN Được Nhà nước bảo hộ Được thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ. Trong các nguyên tắc nêu trên, nguyên tắc tập trung thống nhất là nguyên tắc cơ bản nhất trong công tác quản lý quỹ. Nội dung chính của nguyên tắc này là : Tất cả các khoản thu BHXH đều được tập trung vào một quỹ do một cơ quan quản lý, không chia quỹ ra nhiều quỹ nhỏ. Trên cơ sở quỹ được tập trung mới có điều kiện để thực hiện việc chống thất thoát quỹ và sử dụng quỹ đúng mục đích. Đồng thời khi quỹ được tập trung vào một đầu mối cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo của Chính phủ. Nguyên tắc hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ cũng là nguyên tắc quan trọng để đảm bảo cho quỹ cân đối thu chi được thuận tiện. Khi có tiền nhàn rỗi, Nhà nước cho phép được đầu tư tăng trưởng, khi thu không đủ chi được Nhà nước bảo trợ. b) Nội dung của quản lý thu BHXH Để thu đạt kết quả cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, BHXH Việt Nam ban hành quyết định số 722/QĐ-BHXH-BT về việc ban hành quy định quản lý thu BHXH , BHYT bắt buộc theo quy trình : Lập, xét duyệt kế hoạch thu BHXH hàng năm Đối với đơn vị sử dụng lao động: hàng năm đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm đối chiếu số lao động, quỹ tiền lương và mức nộp BHXH thực tế của 9 tháng với danh sách lao động quỹ tiền lương trích nộp BHXH tại thời điểm đó với cơ quan BHXH trực tiếp quản lý thu theo phân cấp xong trước ngày 10/10 tại các biểu C45- Bảo hiểm, C46- Bảo hiểm , C47- Bảo hiểm để xác định số phải nộp của năm sau . Đối với cơ quan BHXH huyện , thị, và phòng thu căn cứ vào các biểu C45 Bảo hiểm, C46-Bảo hiểm , C47-Bảo hiểm, Đã được đối chiếu của quý I, II, III hàng năm của từng đơn vị trực tiếp quản lý thu. Thực hiện rà soát , kiểm tra lại tình hình đơn vị về số người lao động, quỹ lương từng người, khả năng nộp BHXH để ước thực hiện việc trích nộp BHXH cả năm báo cáo đồng thời tổng hợp và lập kế hoạch thu BHXH cả năm sau (theo mẫu số 4- KHT ) gửi về BHXH tỉnh trước ngày 20/10 hàng năm. BHXH tỉnh căn cứ trên các mẫu số 4- KHT và báo cáo thu quý I,II,III của năm mà BHXH các huyện thị gửi đến tiến hành kiểm tra tính toán khả năng tăng giảm để tổng hợp kế hoạch thu BHXH cho năm sau trên địa bàn toàn Tỉnh theo mẫu số 5- KHT và gửi về BHXH Việt nam trước ngày 31/10. Tháng 11 hàng năm BHXH Việt Nam căn cứ vào mẫu số 5-KHT của BHXH tỉnh lập để dự kiến kế hoạch thu BHXH cho BHXH tỉnh. Tháng 12 hàng năm BHXH tỉnh Tuyên Quang căn cứ vào kế hoạch giao của BHXH Việt Nam phân bổ chỉ tiêu thu của năm sau cho BHXH Huyện thị để thực hiện. Tổ chức thu BHXH Cán bộ bảo hiểm xã hội các cấp có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức thu tiền Bảo hiểm của tất cả các đối tượng tham gia bảo hiểm theo quy định. Cán bộ làm công tác thu tại phòng thu BHXH Tỉnh và BHXH các huyện thị xã thu BHXH trực tiếp tới từng đơn vị sử dụng lao động theo danh sách lao động và quỹ tiền lương của từng tháng trích nộp BHXH, đặc biệt là đối với khối doanh nghiệp thì phải thường xuyên bám sát nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, thu nhập của người lao động và khả năng trích nộp BHXH để có biện pháp tham mưu kịp thời với các cấp có thẩm quyền . Hàng tháng, các đơn vị sử dụng lao động (kể cả các đơn vị, cơ quan, tổ chức thuộc Bộ quốc phòng , Bộ công an và Ban cơ yếu Chính phủ) có trách nhiệm đóng đầy đủ, kịp thời, vào quỹ BHXH, ngay sau khi thanh toán tiền lương hàng tháng cho người lao động. Trường hợp các đơn vị sử dụng lao động chậm nộp bảo hiểm từ 30 ngày trở lên so với quy định, thì ngoài việc phải nộp số tiền chậm nộp và nộp phạt hành chính theo quy định hiện hành, còn phải nộp số tiền phạt chậm nộp theo theo mức lãi suất tiền vay quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp. Đối với những đơn vị cố tình vi phạm hoặc chây ì thì cơ quan BHXH được quyền đề nghị Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng nơi giao dịch trích tiền từ tài khoản của đơn vị để nộp để nộp đủ tiền đóng BHXH và tiền phạt nộp mà không cần có sự chấp nhận thanh toán của đơn vị sử dụng lao động (trừ các đơn vị được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép nộp chậm. Thường xuyên chủ động phối hợp với các cấp các ngành như sở LĐ-TB& XH, Liên đoàn lao động, Viện kiểm sát, công an. Tổ chức đôn đốc kiểm tra đối với các đơn vị chấp hành chưa nghiêm túc trong việc trích nộp BHXH theo luật định. Hàng quý BHXH tỉnh báo cáo xin ý kiến lãnh chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và BHXH các huyện tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền cùng cấp về tình hình tham gia và trích nộp tiền BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Tập trung vào các đơn vị nộp chậm hoặc còn nợ kèo dài, nợ khó đòi. Trước ngày 10 hàng tháng đầu của quý, BHXH tỉnh, huyện trực tiếp quản lý thu BHXH của đơn vị sử dụng lao động cùng đơn vị sử dụng lao động kiểm tra đối chiếu tình hình tăng giảm lao động, quỹ tiền lương, tình hình trích nộp BHXH theo mẫu c46-BH. Chuyển tiền thu BHXH Hàng tháng đơn vị sử dụng lao động chuyển tiền nộp BHXH về tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH theo phân cấp thu ngay sau khi trả lương cho người lao động. BHXH huyện chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh vào ngày 10 và 25 hàng tháng. Ngày cuối cùng của năm phải chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH có trên tài khoản thu BHXH của huyện về BHXH tỉnh. BHXH tỉnh chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt nam vào ngày 10 và 20 hàng tháng, ngoài ra nếu số dư trên tài khoản chuyên thu lớn hơn 5 tỷ đồng thì cũng phải chuyển bổ sung về BHXH Việt nam kết thúc vào ngày cuối cùng của năm (31/12). Lập và báo cáo thu BHXH BHXH huyện lập báo cáo (mẫu 7a-BH) gửi cho BHXH tỉnh trước ngày 15 của tháng đầu quý sau nếu là báo cáo quý, và trước ngày 20/1 nếu là báo cáo năm. BHXH tỉnh lập báo thu BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý và báo cáo tổng hợp thực hiện thu BHXH toàn tỉnh (mẫu 8-BCT), gửi cho BHXH Việt nam trước ngày 25 tháng đầu quý nếu là báo cáo quý, và trước ngày 31/1 nếu là báo cáo năm. Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( sau đây gọi chung là BHXH tỉnh) Bảo hiểm xã hội các quận huyện thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (Bảo hiểm sau đây gọi chung là BHXH huyện) có trách nhiệm hướng dẫn tổ chức thu BHXH đúng kỳ, đủ số lượng, theo đúng quy định cấp đối chiếu và xác nhận trên sổ BHXH cho người lao động tham gia BHXH. Công tác thu và quản lý nguồn thu có vai trò quan trọng trong hoạt động của ngành BHXH. Do đó, BHXH Việt Nam đã triển khai thực hiện thu BHXH theo mô hình 3 cấp từ Trung ương đến thành phố, tỉnh và đến các quận huyện. Hàng năm BHXH Việt Nam dựa vào kết quả thu BHXH, số lượng lao động trên địa bàn tỉnh để đề ra kế hoạch nhiệm vụ của ngành trong các năm tiếp theo. Đồng thời BHXH Việt Nam cũng dựa vào đó để đề ra chỉ tiêu thu BHXH cho các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố. Trên cơ sở các chỉ tiêu này, các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố sẽ xem xét lại quỹ tiền lương, số lương lao động, tổ chức đóng góp trên địa bàn tỉnh thành phố và các quận huyện để triển khai kế hoạch cụ thể đến từng cơ quan BHXH các quận huyện. Để có được các chỉ tiêu kế hoạch nói trên thì hàng quý các cơ quan BHXH các quận huyện phải tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các đơn vị do mình chịu trách nhiệm tổ chức thu ghi sổ BHXH gửi cho cơ quan BHXH tỉnh vào ngày 25 của tháng cuối quý trước theo biểu 2 - BCT; các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố cũng tổng hợp kế hoạch thu của tất cả các đơn vị trên địa bàn theo mẫu 3- BCT và gửi đồng thời về BHXH VN vào ngày 30 của tháng cuối quý trước. Sau khi kế hoạch, nhiệm vụ đã được triển khai thì BHXH các tỉnh, thành phố, quận huyện tiến hành hướng dẫn các đơn vị trên địa bàn mình lập danh sách và quỹ tiền lương hàng tháng, quý để xác định số tiền BHXH mà các đơn vị phải đóng. Số tiền này được tập trung vào một tài khoản của tỉnh, thành phố, sau đó lại được tập trung vào tài khoản của BHXHVN. Kiểm tra thẩm định số liệu thu BHXH Hàng quý, hàng năm BHXH Tỉnh tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu thu BHXH trong kỳ của BHXH huyện , thị xã, việc tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu thu BHXH thực hiện sau kỳ báo cáo (ngày 15 của tháng đầu quý), biên bản kiểm tra số liệu thu BHXH (theo mẫu 2-BH) sau khi được thẩm định là tài liệu kèm theo hồ sơ quyết toán taì chính quý, năm của BHXH các cấp. 3) Chống thất thu BHXH Để đảm bảo sự công bằng khi tham gia BHXH, quyền lợi của người lao động được hưởng trên cơ sở đóng BHXH, Có thu mới có chi dó là nguyên tắc hoạt động của các cơ quan BHXH. Do đó thu BHXH là nhiệm vụ trọng tâm trong toàn ngành BHXH. Bởi đây là công việc có vị trí quan trọng, có thể nói đây là "đầu vào" đối với ngành và ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của ngành BHXH. Mở rộng được đối tượng thu BHXH là công tác cũng khá kho khăn phức tạo còn quản lý đối tượng thu BHXH đã được qui định là vấn đề cũng hết sức quan trọng và cần kiểm soát chặt chẽ đối tượng này, nếu không Quản lý thì dẫn đến tình trạng lợi dụng việc tham gia BHXH để hưởng các quyền lợi mặt khác cũng cần lưu ý các đơn vị lạm dụng tiền phải nộp BHXH để sử dụng vào việc khác của đơn vị dẫn tới thu BHXH không đảm bảo hay thất thu BHXH. Do buông lỏng quản lý và sử dụng kinh doanh của các cơ quan chức năng dẫn đến tình trạng có Doanh nghiệp có đăng ký thành lập doanh nghiệp nhưng không đăng ký sử dụng lao động. Khi sử dụng lao động không có hợp đồng lao động cụ thể, hoặc kê khai số lao động thấp hơn thực tế, không đảm bảo các điều kiện qui định của bộ luật lao động, hoặc chỉ hợp đồng thuê lao động làm việc dưới ba tháng hay dừng hợp đồng lao động không theo quy định để chốn tránh việc nộp BHXH cho người lao động hay có sự khai man về nhân thân và quỹ tiền đóng BHXH. Do đó cơ quan BHXH không có cơ sở xác định hình thức hợp đồng lao động để khai thác đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; mức tiền lương tiền công để tham gia BHXH cũng chưa đúng với thực tế thu nhập của người lao động; ngoài việc trốn tránh tham gia BHXH cho người lao động thì việc nợ đọng BHXH và nộp chậm BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng là vấn đề hết sức nóng bỏng hiện nay. Trên thực tế đã có chế tài xử phạt vi phạm Luật lao động về BHXH nhưng chưa hợp lý, chưa qui định cụ thể đối với khu vực ngoài quốc doanh về thanh tra nộp phạt, qui định về nộp phạt còn quá thấp , chỉ mới dùng lại ở hình thức cảnh cáo, phạt tiền 2 triệu đồng, mức nộp phạt quá thấp , thậm chí không thể bắt nộp phạt được nên chưa có tính cưỡng chế và không mang lại hiệu quả cao. Có những Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động số tiền nộp BHXH rất lớn so với số tiền bị phạt nên họ cũng săn sàng chốn tránh , chần trừ về số nộp. Để đảm bảo chi trả các chế độ BHXH, BHYT cho người lao động , Luật BHXH được ban hành là cơ sở pháp lý bắt buộc người sử dụng lao động phải thực hiện đồng thời có những biện pháp tăng cường quản lý đối tượng, tranh thủ sự quan tâm của của các cấp uỷ đảng chính quyền địa phương trong việc thực hiện chế độ BHXH đối với người tham gia BHXH , phối hợp với các cơ quan hữu quan, tăng cường chỉ đạo và tiến hành điều tra nắm tình hình thực trạng hoạt động của các Doanh nghiệp trên điạ bàn quản lý, tìm ra biện pháp thiết thực để công tác thu đạt kết quả cao. CHƯƠNG II Thực trạng về quản lý thu và thất thu BHXH tại tỉnh Tuyên Quang. I. Thực trạng thu BHXH và thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 1) Khái quát BHXH Tuyên Quang Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang nằm trong hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặt tại tỉnh, có chức năng giúp Tổng Giám đốc tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Bảo hiểm xã hội tỉnh chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chịu sự quản lý hành chính của Uỷ ban nhân dân Tỉnh. Bảo hiểm xã hội tỉnh có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại tỉnh lỵ, có con dấu, có tài khoản riêng. Thực hiện thông tư 125/TT LB ngày 24/ 6/ 1995 của Liên bộ BTC cán bộ chính phủ, Bộ Lao động thương binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam “ Hướng dẫn việc bàn giao nhiệm vụ, tổ chức và nhân sự bảo hiểm xã hội của hệ thống Lao động thương binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam”. Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang là đơn vị mới được thành lập (16/2/1995), Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang tiến hành tiếp nhận bàn giao và tiếp nhận các cán bộ viên chức từ hai ngành Sở Lao động Thương binh - xã hội và Liên đoàn Lao động Tỉnh. Một hệ thống làm công tác bảo hiểm xã hội từ Tỉnh đến huyện được thành lập, chuyên trách quản lý quỹ và thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang được thành lập và đi vào hoạt động cơ sở vật chất nơi làm việc gặp nhiều khó khăn, trụ sở làm việc là nhà làm việc của sở Lao động thương binh và xã hội, đã xuống cấp, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc như: Bàn làm việc, máy vi tính, phương tiện làm việc đều cũ nhận từ các đơn vị sang hoặc chưa có. Đến nay, được sự quan tâm của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tỉnh uỷ, Uỷ Ban nhân dân Tỉnh, Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang đã được đầu tư xây dựng trụ sở làm việc (hai nhà) mới khang trang nằm trên đường Tân Trào ngay giữa trung tâm Thị xã, Trụ sở BHXH huyện cũng đều được xây dựng với quy mô và diện tích tạm đủ phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giao dịch các cơ quan và đối tượng đến làm việc, cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ, hầu hết các phòng đều có đủ ánh sáng, máy vi tính, điện thoại phục vụ cho công việc được thuận tiện, bàn ghế được trang bị lại toàn bộ. Thực hiện Nghị định số 100/2002/NĐ - CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. BHXH Tỉnh lại tiếp tục nhận bàn giao cơ sở vật chất và Cán bộ từ Bảo hiểm y tế chuyển sang do vậy có nhiều biến động về tổ chức cán bộ; cũng như những năm đầu đội ngũ cán bộ, công chức của ngành với trình độ chuyên môn khác nhau, trong đó chủ yếu CBVC có trình độ trung cấp, chưa qua đào tạo cơ bản về các nghiệp vụ liên quan trực tiếp đến công tác BHXH. Hơn mười năm xây dựng và phát triển, đến nay hầu hết cán bộ, công chức viên chức trong cơ quan đã được đào tạo đại học, được bồi dưỡng chuyên sâu về các nghiệp vụ liên quan trực tiếp đến công tác BHXH, BHYT, đáp ứng cơ bản được yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Trình độ chuyên môn và chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức toàn ngành như sau: Đại học 46 người; chiếm 37,4 %; Cao đẳng 12 người; chiếm 9,8 % Trung cấp 65 người; chiếm 52,8 %, trong đó đang học ĐH tại chức là 42 người. 70% cán bộ, công chức là Đảng viên Đảng ủy và Ban giám đốc, các đoàn thể thường xuyên quan tâm đến công tác cán bộ, đã thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức, huấn chuyên môn nghiệp vụ , cử đi học các trường đại học …đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao trong tình hình mới, hơn 10 năm đã có 55 cán bộ được đào tạo mới và đào tạo lại với phương châm vừa học vừa làm (đại học tại chức). người có trình độ chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm trong công tác hướng dân cho cán bộ mới hoặc thiếu kinh nghiệm… Nhiệm vụ của BHXH tỉnh Tuyên Quang: Ngày 17/12/2002 Tổng giám đốc BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1620/ 2002/QĐ-BHXH-TCCB về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương; BHXH Tỉnh Tuyên quang có Nhiệm vụ, quyền hạn sau: 1. Xây dựng chương trình, kế hoạch năm trình Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam phê duyệt và tổ chức thực hiện; 2 . Tổ chức xét duyệt hồ sơ, giải quyết các chính sách, chế độ Bảo hiểm xã hội; cấp các loại sổ, thẻ Bảo hiểm xã hội; 3 . Tổ chức thực hiện thu các khoản đóng BHXH bắt buộc và tự nguyện; 4 . Tổ chức quản lý và phát triển đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội; 5. Tổ chức quản lý, lưu trữ hồ sơ các đối tượng Bảo hiểm xã hội ; 6 . Tổ chức hợp đồng với cơ sở khám, chữa bệnh hợp pháp để phục vụ người có sổ Bảo hiểm xã hội, thẻ BHYT theo quy định; 7 . Tổ chức thực hiện công tác giám định chi khám, chữa bệnh tại cơ sở khám chữa bệnh, đảm bảo khám chữa bệnh và hướng dẫn nghiệp vụ giám định đối với Bảo hiểm xã hội cấp huyện 8 . Tổ chức thực hiện chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội cho đối tượng đúng quy định. 9 . Thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí, chế độ kế toán, thống kê theo quy định của Nhà nước, của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và hướng dẫn BHXH cấp huyện thực hiện. 10. Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu, chi Bảo hiểm xã hội đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang; Kiến nghị với cơ quan pháp luật, cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan cấp trên của đơn vị sử dụng lao động hoặc cơ sở khám chữa bệnh để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về các chế độ Bảo hiểm xã hội. 11. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức và cá nhân theo thẩm quyền; 12. Tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ Bảo hiểm xã hội trên địa bàn Tỉnh Tuyên Quang. 13. Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chính sách, chế độ Bảo hiểm xã hội. 14 . Tổ chức ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động Bảo hiểm xã hội. 15. Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức, tài chính và tài sản thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam; 16. Thực hiện chế độ báo cáo với BHXH Việt Nam và UBND tỉnh theo quy định. Chế độ quản lý của Giám đốc BHXH Tỉnh: BHXH tỉnh do Giám đốc quản lý, điều hành theo chế độ thủ trưởng. Giúp Giám đốc có các Phó Giám đốc. Giám đốc và Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh do Tổng Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật. Cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang. + Phòng Tổ chức - Hành Chính; + Phòng Thu; + Phòng Bảo hiểm tự nguyện; + Phòng Kế hoạch - Tài Chính; + Phòng chế độ, chính sách; + Phòng Giám định chi; + Phòng Công nghệ thông tin; + Phòng Kiểm tra. Các phòng trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao theo từng lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Tổng Giám đốc. Các phòng chịu sự quản quản lý, điều hành trực tiếp của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh và sự chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Phòng do Trưởng phòng quản lý và điều hành theo chế độ thủ trưởng. Giúp trưởng phòng có Phó trưởng phòng. Trưởng phòng, Phó trưởng phòng do Giám đốc Bảo hiểm xã hội Tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyên, khen thưởng, kỷ luật sau khi có ý kiến phê duyệt bằng văn bản của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam Thành lập 6 Bảo hiểm xã hội huyện thị để thực hiện chức năng nhiệm vụ bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện thị. Gồm có : 1. BHXH Thị xã Tuyên Quang 4 . BHXH huyện Hàm yên 2. BHXH huyện Yên Sơn 5. BHXH huyện Chiêm hoá 3. BHXH huyện Sơn Dương 6. BHXH huyện Nà Hang Hệ thống cơ cấu tổ chức Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH Phòng Tổ chức hành chính Phòng thu BHXH Phòng BH tự nguyện Phòng Công nghệ thông tin Phòng Kiểm tra Phòng Chế độ chính sách Phòng Giám định chi Phòng Kế hoạch tài chính BHXH Thị xã Tuyên Quang BHXH huyện Yên Sơn BHXH huyện Sơn Dương BHXH huyện Hàm Yên BHXH huyện Chiêm Hóa BHXH huyện Na Hang PHÓ GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH PHÓ GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH 2) Thực trạng thu BHXH Tại Tuyên quang: BHXH tỉnh Tuyên Quang được thành lập và đảm bảo nhiệm vụ thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của Đảng và Nhà Nước trên địa bàn tỉnh, có vị trí quan trọng về đời sống kinh tế xã hội và an ninh chính trị của địa phương, Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân Tỉnh, sự phối hợp của các ngành đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các chế độ Bảo hiểm xã hội. Thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TU của TW "về tăng cường lãnh đạo, thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội", Đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện các mặt công tác bảo hiểm xã hội ở địa phương. Thông báo số 62/TB-TU của văn phòng Tỉnh uỷ nêu những ý kiến chỉ đạo của thường vụ Tỉnh uỷ về công tác bảo hiểm xã hội, đã có tác dụng lớn để các cấp uỷ cơ sở chú trọng tập trung lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong việc thu, chi bảo hiểm xã hội. Đến nay đa số các đơn vị đã có những chuyển biến rõ nét về mặt nhận thức trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội. Tổ chức Bảo hiểm xã hội Tỉnh đã được ổn định và kiện toàn từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Các chế độ quản lý vận hành và hoạt động đã đi vào nền nếp như kế toán Bảo hiểm xã hội, quản lý thu, chi Bảo hiểm xã hội và xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội đồng thời luôn có sự quan tâm và chỉ đạo thường xuyên của Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong việc thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội đã chủ động xây dựng mối quan hệ với các ngành: Liên đoàn lao động Tỉnh, Sở lao động thương binh và xã hội, Sở tài chính vật giá, Kho bạc Tỉnh, Sở y tế, Viện kiểm sát Nhân Dân, công an Tỉnh...Đã có sự phối hợp, tạo điều kiện để hệ thống bảo hiểm xã hội của địa phương thực hiện tốt công tác quản lý thu, chi đảm bảo đúng nguyên tắc, chặt chẽ về chế độ và tài chính bảo hiểm xã hội . Căn cứ vào các văn bản pháp quy làm cơ sở pháp lý để cơ quan Bảo hiểm xã hội Tỉnh ra quyết định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc "Có đóng BHXH mới được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội”. Từ nguyên tắc này đã làm thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động, là tiền đề hết sức quan trọng để đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về bảo hiểm xã hội và làm cho chính sách bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà Nước thực sự đi vào đời sống hàng ngày của người lao động, thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp cũng như hoạt động của các đơn vị hành chính sự nghiệp phát triển. Cán bộ công nhân viên chức Bảo hiểm xã hội được tuyển chọn có đầy đủ những phẩm chất của người cán bộ, năng động sáng tạo, đại đa số đã được đào tạo qua các trường, lớp và được đào tạo lại ngày một nâng cao về chuyên môn, nhận thức từ cơ quan hành chính chuyển sang làm công tác phục vụ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của ngành. Bên cạnh những thuận lợi đã trình bày ở trên Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang cũng không tránh khỏi những khó khăn đó là: Hệ thống Bảo hiểm xã hội Tỉnh tiếp nhận cán bộ viên chức chủ yếu từ các ngành Liên đoàn lao động tỉnh và Sở lao động -Thương binh và xã hội, bảo hiểm y tế Tỉnh với trình độ không đồng đều. Số lượng cán bộ ít, cơ cấu tổ chức chưa kiện toàn, nhiệm vụ lớn nên chưa đủ sức bao quát, một số cán bộ mới còn thiếu kinh nghiệm thực tế , năng lực công tác về BHXH của một số cán bộ đơn vị còn hạn chế, bố trí làm công tác còn kiêm nhiệm, còn lúng túng trong tác nghiệp, mặt khác tinh thần trách nhiệm một số nhân viên cơ quan chưa thực sự yên tâm, nhiệt tình công việc nên chất lượng công việc chưa cao. Tuyên Quang là một Tỉnh miền núi, gồm có 5 huyện và 1 thị xã địa bàn rộng, dân cư thưa, các cơ quan đơn vị đóng xa nhau có nhiều xã xa trung tâm huyện lỵ, đường xá đi lại khó khăn. Toàn Tỉnh có 145 xã phường đều có các đối tượng tham gia BHXH, BHYT và các đối tượng nghỉ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ sản xuất không ổn định, trong khi đó Nhận thức của một số chủ sử dụng lao động, người lao động về chính sách bảo hiểm xã hội chưa đầy đủ, hoặc quá lạm dụng , trong khi công tác tuyên truyền của ngành chưa sâu rộng, thường hay lặp đi lặp lại một nội dung, một hình thức, mặt khác do kinh phí có hạn ,vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả công tác thu. Các quy định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội tuy đã được bổ sung sửa đổi nhưng chưa đồng bộ các chế tài áp dụng bắt buộc chưa đủ mạnh nên việc thực hiện có lúc còn vướng mắc. Có một số doanh nghiệp Nhà nước như các Doanh nghiệp chè, Công ty phát triển công nghiệp sản xuất theo thời vụ, theo thời gian dự án một vài đơn vị thuộc tổng công ty sông đà đang thi công trên công trường thủy điện Tuyên Quang công nhân chưa đủ việc làm hoặc di chuyển địa điểm làm việc, thu nhập không ổn định dẫn đến chậm trích nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động, số nợ của các doanh nghiệp này lên tới vài tỷ đồng làm ảnh hưởng đến thực hiện giải quyết các chế độ và quyền lợi của người lao động. Công tác thu BHXH: Đây là nhiệm vụ được xác định rất quan trọng của ngành mang tính quyết định đến việc hình thành, tồn tại, tăng trưởng, phát triển quỹ bảo hiểm xã hội và là cơ sở tài chính để thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động. Do đó, Bảo hiểm xã hội Tỉnh đã đặc biệt quan tâm đến công tác này với phương châm: thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, đảm bảo chính xác. Khi ngành BHXH chưa thành lập công tác thu bảo hiểm xã hội do nhiều cơ quan đảm nhiệm, công tác quản lý qua nhiều đầu mối: Về thu quỹ 15% BHXH giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất do ngành lao đông Thương binh và xã hội quản lý thực hiện theo thông tư số 19/TT-LB ngày 07/3/1994 của liên bộ Tài chính Lao động TB & XH nhưng lại phân cấp thu : đối với khối hành chính sự nghiệp do Sở Tài chính trực tiếp thu, đối với khu vực sản xuất kinh doanh do cơ quan thuế trực tiếp thu. Về thu quỹ 5% BHXH để chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì lại do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý thực hiện theo thông tư số 05/TT LB ngày 12/01/1994 của Liên bộ Tài chính và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Nay được thống nhất đưa về một mối, một đơn vị quản lý đó là Bảo hiểm xã hội Việt nam. Thực hiện các điều của chương XII Bộ luật lao động về Bảo hiểm xã hội. Căn cứ điều 3 Điều lệ BHXH ban hành kèm theo NĐ số 12/CP ngày 26/1/1995 (1995 - 2002), NĐ số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 v/v sửa đổi bổ xung một số điều của Điều lệ BHXH (2003-2006) , từ ngày 01/01/2007 thực hiện Nghị số 152/2006/NĐ-CP thì đối tượng thu bảo hiểm xã hội gồm những đối tượng sau: Tại Điều 2: Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại Nghị định này bao gồm: 1. Cán bộ công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức. 2. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng có thời hạn đủ từ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động kể cả cán bộ quản lý, người lao động làm việc trong hợp tác xã hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên. 3. Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang. 4. Người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà chưa nhận BHXH một lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Tại Điều 3: Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại Nghị định này bao gồm: 1. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo luật doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang. 2. Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước. 3. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác. 4. Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật. 5. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã. 6. Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. 7. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế h ạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Thực hiện thu BHYT và cấp thẻ BHYT cho các đối tượng theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998, Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội: Căn cứ Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ: Tiền lương là cấp bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp ( phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng để tính vào tiền lương hưởng BHXH. Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả cho người lao động, nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Căn cứ Điều 45, Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ: 1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề ( nếu có). Tiền lương này được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng. 2. Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương, tiền công đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động. 3. Trường hợp mức tiền lương , tiền công tháng quy định tại 2 điểm trên cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bằng 20 tháng mức lương tối thiểu chung. 3) Tình hình thất thu BHXH tại BHXH Tuyên quang: Các văn bản nhà nước, các Nghị định, Luật lao động về BHXH đã cụ thể và bổ sung các điều trong Điều lệ BHXH cụ thể là NĐ12/CP ngày 26/01/1995 Chính phủ mới chỉ quy định một số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Ngày 09/01/2003 chính phủ ra NĐ/01NĐ-CP đã sửa đổi bổ sung NĐ/12 /CP đối với đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc : Trong những năm qua nhất là khi có Nghị định số 01/NĐ-CP của Chính phủ, BHXH Tuyên Quang đã triển khai một cách tích cực, là một trong những BHXH trên cả nước có số lao động ngoài quốc doanh và hộ kinh doanh các thể tham gia với số lượng lớn, đạt được những thành tựu đáng khích lệ, Khi thực hiện NĐ số 01/NĐ-CP trong đó có đối tượng là Hộ kinh doanh cá thể là đối tượng có nghĩa vụ phải tham gia BHXH bắt buộc; Nhưng từ thực tế cho thấy một số hộ do chưa nắm được trách nhiệm và quyền lợi của mình khi tham gia BHXH, hơn nữa đối tượng này thường tính toán thiệt hơn khi đến tuổi được hưởng chế độ hưu trí nhưng số năm tham gia BHXH lại chưa đủ năm theo Luật nên chưa tham gia BHXH, còn băn khoăn giữa các loại bảo hiểm với BHXH mặt khác cán bộ BHXH làm công tác thu BHXH thuộc các huyện thị còn mang tính chất đi vận động tham gia BHXH; một số hộ đã nắm được chế độ thì tham gia BHXH trước 1 tháng (trước khi sinh con), người nhà bị đau ốm, bệnh dài ngày để được hưởng chế độ nghỉ thai sản. Tuy nhiên công tác thu BHXH tại BHXH Tuyên Quang vẫn còn những hạn chế làm cho công tác này chưa phát huy được hết vai trò của mình đối với quỹ BHXH những mặt hạn chế đó là: Các đơn vị doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh cá thể có tổng số lao động rất đông nhưng đăng ký tham gia BHXH còn ít với nhiều lý do khác nhau để chốn tránh trách nhiệm đóng BHXH, nguyên nhân do chủ sử dụng lao động chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi của người lao động và nghĩa vụ đóng của góp của mình đối với người lao động bằng cách ký hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng, thuê mướn lao động theo ngày, Tạm dừng hợp đồng lao động… nếu có tham gia đóng BHXH thì chỉ đóng cho chính mình và người nhà mình hoặc cho những người đang cần được bảo hiểm xã hội giúp đỡ. Có nhiều đơn vị doanh nghiệp không muốn tham gia BHXH cho người lao động họ nhằm tận dụng nguồn kinh phí không phải bỏ ra cho người lao động để đầu tư lại cho sản xuất, chính vì lẽ đó mà họ luôn tìm cách né tránh đóng BHXH cho người lao động chẳng hạn như thuê lao động mang tính thời vụ kéo dài thời gian thử việc, trì hoãn hợp đồng người lao động cố tình trong việc ký hợp đồng lao động với người lao động họ lợi dụng, sự hiểu biết về BHXH của người lao động còn ít nhưng khi tuyển dụng lao động doanh nghiệp vẫn tuyên truyền với người lao động là họ đảm bảo quyền lợi cho họ bên cạnh đó cũng có số doanh nghiệp hiểu và muốn tham gia BHXH cho người lao động nhưng lại không thực hiện được do tình sản xuất của họ gặp nhiều khó khăn do tình hình sản xuất kém vì vốn đầu tư ít làm ra không tiêu thụ được ngay sản phẩm không có ai đứng ra thu mua bao tiêu sản phẩm năng lực tài chính thấp không đủ trả lương cho người lao động theo đúng việc ký kết ban đầu mà chỉ trả được một phần nào đấy còn lại doanh nghiệp nợ lại người lao động trả dần trong năm do vậy họ không đủ khả năng đóng BHXH cho người lao động họ cũng biết mình vi phạm luật lao động về quyền và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tham gia BHXH . Từ phía người lao động: phần lớn người lao động chưa nhận thức được hoặc nhận thức chưa đúng đắn về BHXH và không nắm rõ được về quyền lợi và nghĩa vụ đóng và lợi ích khi tham gia đóng BHXH và không muốm tham gia BHXH ngược lại có những người lao động hiểu về BHXH nhưng chủ doanh nghiệp không đóng BHXH cho họ và họ không dám đòi hỏi quyền lợi đóng cho mình vì sợ chủ doanh nghiệp cho nghỉ việc hoặc người sử dụng lao động cho tham gia BHXH một số lao động không muốn tham gia với lý do rất đơn giản mức thu nhập thấp nếu đóng thì không đủ chi tiêu trang trải hàng ngày. Về cơ chế chính sách: Nghị quyết về chính sách BHXH ở tỉnh Tuyên Quang chưa cụ thể hóa chỉ tiêu thu ở các đơn vị ngoài quốc doanh, hợp tác xã tổ hộ sản xuất kinh doanh mà mới chỉ là chung chung do vậy doanh nghiệp dựa vào đó trốn tránh đóng BHXH cho người lao động nếu đưa vào Nghị quyết là nếu doanh nghiệp nào không tham gia BHXH cho người lao động thì tạm đình chỉ sản xuất kinh doanh hoặc rút giấy phép kinh doanh nếu được như vậy thì sẽ đảm bảo được mọi quyền lợi cho người lao động Đối với người lao động tham gia BHXH được quy định rất rõ trong Luật lao động, các nghị định của Chính phủ về lai lịch nhân thân, quá trình công tác , quá trình tham gia BHXH, số tiền đóng BHXH theo từng mốc nâng lương cụ thể, trên thực tế một số đơn vị lập hồ sơ sai lệch với hồ sơ gốc, mức thời gian đóng bảo hiểm xã hội như chủ yếu của người lao động trước tháng 1/1995: quyết định hưởng một mức nhưng đóng bảo hiểm xã hội lại một mức (chủ yếu khai mức thấp hơn lương thực tế), quyết định điều động việc này nhưng xếp lương đóng bảo hiểm xã hội việc khác, nhất là việc doanh nghiệp tự chuyển xếp lương theo nghị định 26/CP chưa thực hiện đúng quy định. Việc quản lý hồ sơ của các doanh nghiệp bị thất lạc, hoặc thực hiện các thủ tục trong công tác tổ chức thiếu kế hoạch làm cho hồ sơ thiếu: các quyết định tuyển dụng, điều động, nâng lương... thậm chí mất hết cả hồ sơ lý lịch gốc hoặc tẩy xoá, thậm chí làm sai lệch so với hồ sơ gốc. Giám đốc doanh nghiệp thiếu quan tâm đến hồ sơ người lao động nên việc kiện toàn, rà soát hồ sơ còn có mức độ... đều làm ảnh hưởng đến việc xác nhận trên sổ bảo hiển xã hội để giải quyết chế độ cho người lao động. Do việc quản lý ở một số cơ quan doanh nghiệp chưa chặt chẽ, nhất là việc triển khai thực hiện Bộ luật lao động trong các doanh nghiệp nhà nước còn chậm nên một số doanh nghiệp đến nay việc lập danh sách và quản lý lao động có tham gia bảo hiểm xã hội chưa chính xác từ số lượng người đến mức lương làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội. Do vậy tình trạng kê khai thiếu người, khai giảm mức lương làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội từ các năm trước chưa được khắc phục. Những đơn vị xếp tiền lương, tiền công theo bảng lương quy định theo nghị định 26/CP v/v chuyển xếp lương theo hệ số thì bắt buộc đơn vị phải có danh sách chuyển xếp lương, có đơn vị cấp trên, cấp ký thành lập xác nhận thế nhưng đến nay vẫn có doanh nghiệp chưa nhìn nhận đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ trong chính sách bảo hiểm xã hội theo cơ chế quản lý mới, vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp, chưa tham gia trích nộp quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng lại muốn người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội như cơ chế quản lý trước đây. Cá biệt có doanh nghiệp biết nợ là phải trích nộp nhưng cứ muốn giãn kéo để được miễn giảm như một số loại đóng góp khác, cũng có khi cố tình chiếm dụng để làm vốn lưu động để kinh doanh, những DN này quá trình giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí chưa thể giải quyết được bởi không xác định được mức đóng góp của từng người chỉ đến khi giải quyết chế độ cho người lao động đơn vị buộc phải đưa ra căn cứ xác định như vậy gây nhiều rắc rối, phức tạp cho công tác thẩm định hồ sơ giải quyết chế độ cho người lao động. Từ khi thực hiện Nghị định số 12/N Đ-CP ngày 20/01/1995 và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ đã có nhiều doanh nghiệp nhận thức đầy đủ đúng đắn ý nghĩa đó nhưng cũng còn không ít doanh nghiệp hiểu chưa đủ, chưa đúng nên việc quyết tâm chỉ đạo quản lý để thực hiện trích nộp % quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội chưa trở thành công việc thiết thực, thường kỳ của cán bộ quản lý cũng như sự lãnh đạo của cấp uỷ ở doanh nghiệp. Tình hình trích nộp thiếu quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu còn diễn ra ở một số doanh nghiệp nhà nước trong toàn tỉnh, có những nguyên nhân chủ quan như đã nêu ở trên cũng còn những nguyên nhân khách quan, chi phối tác động tới những doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch, dự án thiếu tính khả thi hoặc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kinh doanh đạt thấp, sản phẩm sản xuất ra chưa chiếm lĩnh và tiêu thụ được trên thị trường nội ngoại tỉnh. Những doanh nghiệp này trong những năm qua việc thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội tuy có cố gắng nhưng thực tế trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội không đạt được kế hoạch, thiếu nợ kéo dài đ ến 31/12/2006 như: Công ty chè Sông lô còn nợ tới 2,513 tỷ đồng Công ty chè Tân Trào 1,676 tỷ đồng Công ty phát triển công nghiệp Tuyên quang 1,532 tỷ đồng. Ngoài ra còn các đơn vị thuộc tổng công ty Sông Đà đang thi công trên công trường thuỷ điện Tuyên Quang... (theo số liệu báo cáo của phòng thu năm 2006). - Công tác quản lý Nhà nước: sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ: nhiều Doanh nghiệp không đăng ký sử dụng lao động với cơ quan quản lý nhà nước về lao động trên địa bàn, HĐLĐ chưa đúng qui định nhưng không bị sử lý. - Đối với ngành BHXH: Công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến các chế độ chính sách về quyền lợi khi tham gia BHXH trong thời gian qua còn ít, chưa có các hình thức tuyên truyền đa dạng phong phú rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng nên phần nào người lao động thiếu hiểu biết về các điều của điều lệ BHXH. Đây cũng là một hạn chế của ngành trong những năm qua đối với công tác thu BHXH. Nhiều văn bản chỉ đạo có quy định nội dung và thời gian báo cáo chưa được thực hiện một cách triệt để nhất là khi thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP về mở rộng đối tượng cho nên những vướng mắc không thể có biện pháp sử lý kịp thời. Việc kểm tra đôn đốc thu nộp BHXH,BHYT bắt buộc vẫn còn buông lỏng, có những hạn chế, sai sót. ở một vài doanh nghiệp số tiền nợ đọng còn kéo dài, hoặc thu chưa đúng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác nhận sổ BHXH. Tác phong làm việc của một số cán bộ làm công tác thu còn chậm, nặng về hành chính sự vụ, sử lý công việc còn máy móc, chủ yếu theo đề nghị của đơn vị sử dụng lao động, chưa kiểm tra sâu sát đúng với yêu cầu của quản lý. Việc khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT ở một vài cơ sở y tế còn gây nhiều phiền hà chưa thực sự đem lại niềm tin cho người bệnh từ đó tạo tâm lý chưa tốt cho người tham gia BHYT. Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ, nhưng thực tế tại Tuyên Quang triển khai thực hiện từ tháng 01/2006. Nên có ảnh hưởng đến việc thu BHXH và giải quyết chế độ chính sách cho những đối tượng này. II. Quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 1) Quản lý thu BHXH Tại BHXH Tuyên Quang. Thực hiện Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 và Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ở nước ta đã được mở rộng, không chỉ bao gồm công nhân viên chức, lực lượng vũ trang mà gồm tất cả mọi người lao động làm việc trong mọi thành phần kinh tế quốc dân, Mức đóng tăng theo từng mốc thời gian và sẽ ổn định 24% từ ngày 01/01/2014, tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng cũng thay đổi (bỏ không thu % phụ cấp khu vực), ngoài ra có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác như viện trợ nước ngoài, sự ủng hộ của các tổ chức và lãi từ hoạt động đầu tư…. * Phân cấp thu BHXH Tỉnh Tuyên Quang: Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm: Các đơn vị do Trung ương quản lý. Các đơn vị do Tỉnh trực tiếp quản lý. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các đơn vị, tổ chức quốc tế. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động với số lượng lớn (Do Giám đốc BHXH tỉnh xác định cụ thể). Các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đối với những đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện ,thị không đủ điều kiện thu BHXH thì BHXH tỉnh trực tiếp thu. * Phân cấp quản lý thu BHXH đối với các đơn vị sử dung lao động: Thực hiện quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 2902/1999/QĐ BHXH ngày 23/11/1999 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Giám đốc BHXH Tỉnh Tuyên quang chỉ đạo tổ chức thực hiện Phòng thu và BHXH Huyện thu BHXH ở tất cả các đơn vị sử dụng lao động có tài khoản và trụ sở đóng trên địa bàn tỉnh theo phân cấp quản lý sau: Bảo hiểm xã hội Tuyên quang thực hiện thu năm 2006: số đơn vị đóng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang thuộc diện tham gia đóng bảo hiểm xã hội, BHYT là 2.233 đơn vị, với số lao động tham gia là 281.219 người. Trong đó: * Phân cấp thu theo từng khối: - Khối hành chính sự nghiệp: bao gồm các cơ quan và đoàn thể hưởng tiền lương từ ngân sách Nhà nước, tương đối ổn định vè con người, nhưng đi sâu thực tế nghiệp vụ thu lại rất đa dạng và phức tạ bởi qũy tiền lương của người lao động luôn biến động như chuyển ngạch, nâng bậc lương,.. tuy vậy khả năng thu từ khối này thuận lợi hơn các khối khác vì số tiền nộp trích theo quỹ tiền lương ngân sách cấp. - Khối doanh nghiệp nhà nước với công tác thu BHXH từ các đơn vị này luôn được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo các cấp vì số lao động tham gia trực tiếp sản xuất khá đông phải đảm bảo quyền lợi cho họ, tuy nhiên trong quá trình thu cũng gặp khó khăn đó là do tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, làm ăn kém hiệu quả dẫn tới trích nộp còn chậm có đơn vị còn nợ kéo dài. - Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm các đơn vị sản xuất kinh doanh công ty cổ phần, công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể… khối này có số đơn vị khá đông, số lao động nhiều những các quyền lợi từ chế độ BHXH lại rất hạn chế do chủ sử dụng lao động ít quan tâm, chốn tránh trách nhiệm…nên công tác thu ở khối này rất khó khăn phức tạp. * BHXH Tỉnh (phòng Quản lý thu) bao gồm: - Các đơn vị do trung ương quản lý - Các đơn vị do phòng Quản lý thu trực tiếp quản lý 154 đơn vị, 249.971 lao động. * BHXH các huyện thu những đơn vị do Huyện trực tiếp quản lý, các đơn vị doanh nghiệp nhỏ (dưới 50 lao động), các xã phường với 2.079 đơn vị, 31.248 lao động. Trong đ ó: BHXH thị xã Tuyên Quang: 533 đơn vị 4.310 người BHXH huyện Yên Sơn: 419 đơn vị 7.737 người BHXH huyện Sơn Dương 390 đơn vị 6.760 người BHXH huyện Hàm Yên 220 đơn vị 4.091 người BHXH huyện Chiêm Hoá 295 đơn vị 5.707 người BHXH huyện Na Hang 192 đơn vị 2.842 * Đối tượng tham gia BHXH - Mức thu 23%: Khối DN nhà nước: 53 đơn vị với số lao động là 8.077 người Khối DN ngoài quốc doanh: 267 đơn vị số lao động là 5.435 người Trong đó: DN cổ phần: 24 đơn vị với số lao động là 3.860 người DNTN , TNHH: 243 đơn vị với số lao động là 1.575 người Khối HCSN: 869 đơn vị với số lao động là: 18.815 Người trong đó: Khối cơ quan 277 đơn vị với số lao động 5.499 người Khối giáo dục công lập: 432 đơn vị với số lao động 11.544 người Khối Y tế: 160 đơn vị số lao động 1.772 người Khối giáo dục ngoài công Lập: 152 đơn vị số lao động 1.976 người. Hợp tác xã: 97 đơn vị số lao động 563 người Hộ kinh doanh cá thể: 653 đơn vị số lao động 1.164 người Đối với cán bộ xã phường : số đơn vị 142 với số lao động tham gia 2.599 người * Đối tượng tham gia BHYT - Mức thu 3%: Bảo trợ xã hội: 21 người Đại biểu HĐND 2.302 người Thân nhân sỹ quan quân đội : 1.329 người Người có công 7.466 người Thân nhân sỹ quan công an : 1.714 người; Người nghèo: 221.303 người; Cựu chiến binh: 6.344 người; Ngoài ra còn những đối tượng như: Người cao tuổi, trẻ em khó khăn... Bảng 1. Kết quả thu bảo hiểm xã hội từ năm 2003 đến năm 2006 Năm Số lao động / đơn vị Kết quả thu BHXH, BHYT (Tỷ đồng) Tỷ lệ đạt(%) 2002 33.658/1.104 41,764 101,86 2003 46.846/1.303 70,757 101,083 2004 75.050/1.597 76,451 101,93 2005 68.162/2.023 99,383 104,61 2006 281.219/2.233 130,622 108,85 (Nguồn số liệu:Báo cáo thu các năm từ 2003 - 2006 của BHXH Tuyên Quang ) 2) Đánh giá công tác thu BHXH tại BHXH Tuyên Quang: Trong mười năm qua, ngành BHXH đạt được kết quả như bây giờ và đã có những bước đột phá là được sự quan tâm giúp đỡ của Thường trực HĐND, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Tuyên Quang và sự phối hợp của các cơ quan ban ngành và tập thể cán bộ công nhân viên chức BHXH toàn tỉnh đã không ngừng nỗ nực phấn đấu tu dưỡng rèn luyện sáng tạo để phát triển mạnh mẽ toàn nghành về thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình quỹ tài chính của BHXH tỉnh đã được ổn định và phát triển trên cơ sở hình thành được quỹ BHXH độc lập ngoài NSNN. Với nguồn đóng góp chủ yếu từ người sử dụng lao động và người lao động quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH được tiến hành trên nguyên tắc có đóng mới có hưởng, chính vì vậy mà các quan hệ tài chính trong BHXH đã rõ ràng, việc quản lý quỹ được hình thành tốt, phục vụ tốt hơn quyền lợi của NLĐ do đó trong thời gian qua BHXH Tuyên Quang đã gặt hái được rất nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực. Thực hiện kế hoạch hàng năm BHXH Tuyên Quang đã triển khai công tác thu với số đơn vị và số lao động đều tăng qua các năm, năm 2000 BHXH Tuyên Quang quản lý 935 đơn vị với 30.368 lao động, số thu tiền BHXH là: 32,632tỷ đồng, đến năm 2006 đã có 2.233 đơn vị với 281.219 lao động, số thu tiền BHXH là: 130,622 tỷ đồng (năm 2006 so với năm 2000 số thu tăng gần 4 lần). Để đạt được những kết quả trên BHXH tỉnh đã tập trung thực hiện một số giải pháp sau: - Tăng do đối tượng tham gia BHXH, BHYT do Chính phủ bổ sung các nghị định nên đối tượng tham gia được mở rộng; Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 bổ sung Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ (về chế độ BHXH); Nghị định số 63/2005/NĐ CP, ngày 16/5/2005 bổ sung cho Nghị định số: 58/1998/NĐ-CP ngày 13 /8 /1998 của Chính phủ (về chế độ BHYT). - Chỉ thị 15/CT TU ngày 26/5/1997của Bộ chính trị và thông báo số 62/TB TU của Thường trực Tỉnh uỷ đã có tác động mạnh mẽ thực sự đi vào cuộc sống của người lao động, các đồng chí lãnh đạo, cấp uỷ, Đảng, chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, đã có nhận thức đúng đắn về việc trích nộp bảo hiểm xã hội để đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi cho người lao động. Được sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh và Bảo hiểm xã hội Việt Nam , Lãnh đạo Tỉnh đã dành nhiều thời gian để nghe báo cáo về tình hình hoạt động của Bảo hiểm xã hội địa phương, quan tâm chỉ đạo việc sơ kết, tổng kết của ngành để đánh giá những việc đã làm được và chưa làm được, kịp thời động viên những đơn vị điển hình thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội và chỉ ra những biện pháp khắc phục những tồn tại của cơ quan Bảo hiểm xã hội , cùng với sự kết hợp với hỗ trợ có hiệu quả của các Sở, ban ngành có liên quan cùng với sự cộng tác chặt chẽ, thường xuyên của các đơn vị sử dụng lao động. Có được kết quả trên là nhờ sự nỗ lực của toàn ngành nói chung mà trước hết là cán bộ thu bảo hiểm xã hội, đội ngũ cán bộ được giao quản lý thu của Bảo hiểm xã hội Tỉnh và các huyện thị đã có nhiều cố gắng, năng lực công tác ngày một nâng cao, luôn bám sát nắm cơ sở Bảo hiểm xã hội Tỉnh đôn đốc các đơn vị lập đầy đủ danh sách đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội hàng năm, danh sách tăng giảm về lao động và tiền lương hàng quý nên quản lý thu quỹ tiền lương của số lao động tham gia bảo hiểm xã hội luôn đúng, đủ, luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội, trong đó có việc nộp BHXH của các đơn vị đã gắn với việc bình xét Chi, Đảng bộ trong sạch vững mạnh, công tác thi đua từ đó các cấp các ngành, các đơn vị doanh nghiệp đã chuyển biến tích cực trong việc thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động. Hệ thống bảo hiểm xã hội ở địa phương đã thực hiện tốt các cơ chế mới về công tác thu. Đó là nộp toàn bộ số thu bảo hiểm xã hội của các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp vào tài khoản thu bảo hiểm xã hội tại kho bạc nhà nước. Số thu của các doanh nghiệp nộp vào tài khoản tiền gửi Ngân hàng nông nghiệp Tỉnh theo định kỳ 10 ngày một lần trích chuyển về Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Những năm đầu mới thành lập việc cấp sổ BHXH cho người lao động mới tập trung đảm bảo về số lượng chưa chú trọng tới chất lương chủ động phối hợp với ngành lao động thương binh và xã hội; cơ quan Tổ chức chính quyền tỉnh ra văn bản hướng dẫn đơn vị kiện toàn hồ sơ cấp sổ cho người lao động, việc triển khai công tác cấp sổ bảo hiểm xã hội là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc tham gia bảo hiểm xã hội của các đơn vị, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước. Đa số các đơn vị sử dụng lao động đã có chuyển biến nhận thức đầy đủ về Bộ luật lao động và điều lệ Bảo hiểm xã hội nhất là một số đơn vị sản xuất kinh doanh tuy có khó khăn về vốn, việc làm, tiêu thụ sản phẩm song đơn vị vẫn thực hiện đầy đủ trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo mức lương ngạch thực tế. Triển khai nghị định 09/NĐ-CP ngày 23/9/1998 và Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã phường, thị trấn, được sự phối, kết hợp chặt chẽ của các cấp chính quyền địa phương và các ngành tài chính, Ban tổ chức chính quyền, kho bạc nên đã hoàn thành thu bổ sung về tiền lương và mức nộp cho đối tượng này trong quý trong năm 2006. Kiện toàn từng bước công tác thu bảo hiểm xã hội, theo dõi và quản lý chặt chẽ, chính xác về số lao động và xác định được mức lương của từng người tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 4/1993 đến nay. Việc trích nộp 23% (trước tháng 1 năm 2003 thu 20%) quỹ tiền lương của từng đơn vị đã được xác lập. Những đơn vị nợ đọng vừa lập danh sách trích nộp bảo hiểm xã hội đồng thời xác định được mức nợ của người lao động và của đơn vị sử dụng lao động, việc xác định nợ bảo hiểm xã hội đến từng người ở các doanh nghiệp có số nợ kéo dài đã chỉ ra được rõ ràng trách nhiệm của cá nhân và của đơn vị sử dụng lao động, BHXH đã đề ra gải pháp thu nợ đó là những người đến thời hạn giải quyết chế độ thì yêu cầu đơn vị sử dụng lao động phải nộp toàn bộ số tiền BHXH phát sinh trong năm và nộp trước một phần nợ trước để giải quyết chế độ kịp thời cho người lao động. Mặt khác khi có người lao động có nhu cầu được chuyển công tác , đến tuổi nghỉ hưu, để không ùn tắc gây khó khăn cho người lao động và đơn vị từ cuối năm 1996, Thông qua việc giải quyết này giúp cho đơn vị khắc phục khó khăn về tổ chức cũng như giữ ổn định về tình hình tập trung sản xuất. Cũng vì thế hầu hết các chủ sử dụng lao động từ nhận thức đối với công tác thu còn mang tính bao cấp, đến nay đã xác định được trách nhiệm của mình quan tâm đến quyền lợi của người lao động, trước đây việc trích nộp bảo hiểm xã hội chưa đưa vào chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm được đúng nay đơn vị nào cũng lập được kế hoạch thu đúng theo mức tiền lương của từng người và phân công cán bộ chuyên trách về theo dõi quản lý thu, đảm baỏ trích nộp bảo hiểm xã hội đúng đủ cho người lao động. - Để có những thông tin về đơn vị sử dụng lao động , người lao động và hoạt động của đơn vị, BHXH Tỉnh xác định cách làm mang lại hiệu qủa nhất và gắn kết mối quan hệ giữa cơ quan BHXH với đối tượng tham gia đó là Cán bộ BHXH phải thường xuyên đến với đơn vị, nắm bắt tình hình biến động, lao động tiền lương, thu nhập của đối tượng, hướng dẫn, vận động, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện và tham gia BHXH, BHYT của đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Chủ động phối hợp với các ngành Lao động thương binh và xã hội; Liên đoàn lao động tỉnh; Sở kế hoạch và đầu tư; Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, cơ quan thuế… để nắm bắt tình hình lao động việc làm và thu nhập của người lao động, do tình trạng hồ sơ người lao động bị thất lạc nhiều BHXH đã phối hợp với các cơ quan, ngành có liên quan ra các văn bản hướng dẫn giúp đơn vị nhanh chóng kiện toàn hồ sơ thu và cấp sổ BHXH cho người lao động để có biện pháp thu phù hợp... Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cho người lao động và các đối tượng để tham gia BHXH, BHYT. Hằng tháng báo cáo tình hình thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh, đồng thời tham mưu, đề xuất các biện pháp có tính khả thi giúp cấp ủy và chính quyền chỉ đạo cơ sở thực hiện tốt chế độ, chính sách BHXH, BHYT. Thông qua công tác thông tin, tuyên truyền chế độ, chính sách và các quy định mới về BHXH, BHYT trước hết là quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sử dụng lao động và các đối tượng tham gia BHXH, BHYT đã tạo ra chuyển biến tích cực về mặt nhận thức của người lao động và các đơn vị sử dụng lao động trong việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh, đã tạo môi trường lành mạnh, thống nhất cho mọi loại hình lao động trong tỉnh có thể di chuyển nơi làm việc từ cơ quan, đơn vị này sang các doanh nghiệp, cơ sở khác trong mọi thành phần kinh tế mà không ảnh hưởng đến quyền được bảo vệ của Nhà nước và xã hội về BHXH, BHYT; góp phần tích cực vào việc phát triển của các thành phần kinh tế đất nước. Đi đôi với công tác thu BHXH, năm 2006 đã cấp được 282.000 thẻ BHYT khám chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, đặc biệt trong năm đã cấp thẻ BHYT cho đối tượng người nghèo (221.303 thẻ), Cựu chiến binh tham gia Quân đội trước ngày 30/4/1975 (6.361 thẻ) và đối tượng thân nhân sỹ quan quân đội, thân nhân sỹ quan công an đang tại ngũ và đang còn công tác... kịp thời. Thực hiện Nghị định số: 58/1998/NĐ-CP ngày 13 /8 /1998 và Nghị định số: 63/2005/NĐ- CP ngày 16 / 5 / 2005 của Chính phủ, đối tượng tham gia BHYT tự nguyện trong những năm qua được mở rộng, số lượng người tham gia ngày càng nhiều (tính đến hết 31/12/2006 đã phát hành được 51.931 thẻ BHYT, tương ứng số tiền 2,650tỷ đồng) ngoài việc tiếp tục thực hiện tốt BHYT học sinh, đã mở rộng thêm đối tượng là dân cư theo địa giới hành chính và thân nhân người lao động, đặc biệt đã phối hợp tuyên truyền, quan tâm thực hiện BHYT tự nguyện kịp thời đối với hội viên Hội Nông dân, Phụ nữ, đoàn thanh niên và Hội chữ thập đỏ.… Công tác chi trả: Luôn được trú trọng từ khâu xác nhận hồ sơ, tính toán số tiền được hưởng của đối tượng về các chế độ BHXH (ngắn hạn, dài hạn) được giải quyết theo đúng quy trình, tập trung vào một đầu mối, công khai và công bằng đặc biệt là các chế độ hưu trí, MSLĐ, trợ cấp hàng tháng, BHXH tỉnh đã thực hiện ký hợp đồng với người lao động làm công tác chi trả theo định kỳ , hàng tháng phối hợp với chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ nên công tác chi trả đảm bảo đến tận tay người được hưởng theo địa bàn cư trú kịp thời và an toàn. Bảng 2: Báo cáo chi trả các chế độ BHXH tại tỉnh Tuyên Quang Năm Nguồn ngân sách NN Nguồn Quỹ BHXH Người Tiền (đồng) Người Tiền (đồng) 2002 18.524 82.045.326.300 1.783 8.133.267.600 2003 18.028 112.791.919.800 2.350 15.249.207.900 2004 17.601 115.846.010.000 3.368 21.961.442.800 2005 17.240 134.201.552.000 4.139 37.092.155.100 2006 16.956 172.060.371.100 5.898 65.995.234.400 ( Nguồn: Phòng chế độ chính sách BHXH tỉnh Tuyên Quang) CHƯƠNG III Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH tại Tuyên Quang I. Phương hướng hoàn thiện công tác thu BHXH. Thường xuyên giáo dục rèn luyện cán bộ làm công tác thu có tình thần thái độ phục vụ tận tình chu đáo, tránh máy móc đòi hỏi sách nhiễu gây phiền hà; tổ chức học tập các quy định mới theo Luật BHXH, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác thu Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng phong phú về các chính sách BHXH chế độ quyền lợi đối với người lao động. Khai thác triệt để đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và BHYT Tự nguyện. Thực hiện đúng nguyên tắc BHXH đó là có nộp tiền vào quỹ BHXH thì mới được hưởng các chế độ BHXH, giải quyết kịp thời, đúng chế độ BHXH, đảm bảo quyền lợi cho người lao động có tham gia BHXH tạo niềm tin cho người lao động. Đối với đơn vị nợ BHXH kéo dài hoặc nộp BHXH chậm kiên quyết không giải quyết bất cứ trường hợp nào khi chưa đóng đủ tiền BHXH theo quy định đồng thời phải xử lý theo luật định. Thành lập bộ cán bộ phận thuộc phòng thu chuyên theo dõi, hướng dẫn BHXH các huyện, thị thường xuyên kiểm tra nắm bắt tình hình thu BHXH của các huyện thị xã để kịp thời đề ra các biện pháp chỉ đạo, tháo gỡ cùng với chính quyền địa phương, đơn vị, để hoàn thành bằng được chỉ tiêu thu hằng năm. Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các nghành chức năng (cơ quan thuế, tài chính, Lao động thương binh xã hội, Kế hoạch đầu tư, Thống kê, Giáo dục, Y tế, công an), tăng cường công tác kiểm tra giám sát, nắm bắt tình hình đơn vị để kịp thời phát hiện những sai phạm, phản ảnh những tồn tại chấn chỉnh kịp thời và kiến nghị những biện pháp giải quyết với cấp uỷ và chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách BHXH của từng đơn vị. II . Một số giải pháp về công tác thu BHXH tại Tuyên Quang 1) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước và đang trên con đường hội nhập quốc tế, đòi hỏi các chính sách được thể hiện trong các bộ Luật phải ngang tầm với khu vực và thế giới trong đó có chính sách Bảo hiểm xã hội. Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI, đã thông qua Luật BHXH Ngày 29/6/2006; ngày 22/12/2006 Chính phủ đã ban hành nghị định số 152/N Đ-CP hướng dẫn thực hiện Luật BHXH, đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho công tác triển khai thực hiện các chế độ về BHXH. Mỗi cán bộ viên chức phải thường xuyên học tập nắm vững các điều luật, đồng thời cơ quan phải có kế hoạch tập huấn cho cán bộ những nội dung cần thiết, tăng cường thông tin tuyên truyền tới mọi ngành, mọi đối tượng trên phạm vi toàn tỉnh về các quy định về BHXH. Nâng cao chất lượng cũng như khả năng thực thi của các văn bản mang tính pháp lý về hoạt động bảo hiểm xã hội, hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong cả nước để đảm bảo tính chất xã hội hoá của bảo hiểm xã hội. Cần xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn, để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và quyền bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Chính phủ cần tăng cường sự điều hành, thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội với cơ quan bảo hiểm xã hội, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động bảo hiểm xã hội và đề ra các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp. tăng cường bảo hiểm xã hội để phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm hoặc những điểm không phù hợp với thực tế. 2) Có chương trình quy hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ Là một ngành được thành lập hơn mười năm , quá trình hoạt động cũng là quá trình đào tạo, Cán bộ nhân viên đều chuyển từ các ngành sang cho nên không tránh khỏi những tồn tại yếu điểm từ nhận thức đến chuyên môn nghiệp vụ kể cả tác phong nề lối làm việc chưa thật sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành mà Đảng và nhà nước giao cho.Trong nh ững n ăm gần đây BHXH các Tỉnh đã quan tâm giải quyết cho hầu hết cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp vừa công tác vừa đi học tại chức tại các trường đại học để họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ cũng như trình độ quản lý. Song đó mới chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một định hướng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ của toàn ngành bảo hiểm xã hội. Quản lý, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, muốn xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nước phải tăng cường đầu tư cho ngành để có một chương trình đào tạo và sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó bản thân ngành bảo hiểm xã hội cũng phải nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo đó. Để có một lực lượng CBVC ngành BHXH vững mạnh đủ sức đảm nhận nhiệm vụ ngày càng nặng nề chúng ta cần quan tâm tới nguồn nhân lực mà phải bắt đầu từ việc tuyển dụng cán bộ ngành bảo hiểm xã hội không chỉ chú ý đến số lượng mà phải quan tâm đến chất lượng cán bộ, đặc biệt là đối với chức danh giám đốc và kế toán trưởng, trưởng, phó phòng. Cần lựa chọn các có nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường đúng đắn, 3) Mở rộng nguồn thu bảo hiểm xã hội Nước ta đang trên con đường hội nhập quốc tế, kinh tế tăng trưởng không ngừng, đời sống xã hội của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, nguyện vọng của người lao động và phương hướng xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế thể hiện trong Luật Bảo hiểm xã hội . Khi mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội chính là đã tạo ra mạng lưới bảo vệ rộng khắp, che chắn cho mọi người lao động không bị rơi vào cảnh nghèo khó, Nước ta là một nước nông nghiệp, 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, người buôn bán nhỏ... Các đối tượng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nước ta vẫn chưa được tham gia bảo hiểm xã hội. Trên thực tế mới chỉ có khoảng 4 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn hơn 30 triệu lao động chưa có điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội. Do vậy, Để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 09/01/2003; từ này 01/01/2007 thực hiện Luật bảo hiểm xã hội: số đối tượng bắt buộc tham gia BHXH được mở rộng như: Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể không còn phụ thuộc vào số người như quy định trước (doanh nghiệp phải có từ 10 lao động trở lên mới được tham gia BHXH) như vậy mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội. Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc được quy định: Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp khu vực (từ 01/01/2007 không thu phụ cấp khu vực), phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có) tiền lương này được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng. Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động. Tổng mức đóng được tăng theo từng mốc thời gian cụ thể: Từ tháng 01/2007 đến tháng 12/2009 mức đóng bằng 20%, trong đó: NLĐ: 5%; NSDLD: 15% Từ tháng 01/2010 đến tháng 12/2011 mức đóng bằng 22%, trong đó: NLĐ: 6%; NSDLD: 16% Từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2013 mức đóng bằng 24% trong đó: NLĐ: 7%; NSDLD: 17% Từ tháng 01/2014 trở đi mức đóng bằng 26% trong đó: NLĐ: 8%; NSDLD: 18% Nên có quy định bắt buộc các doanh nghiệp này khi đăng ký kinh doanh đồng thời phải đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đây là một vấn đề bức xúc cần được làm ngay. 4) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội. Luật BHXH đã được ban hành đối với đối tượng BHXH bắt buộc thực hiện từ ngày 01/01/2007, BHXH tự nguyện thực hiện từ ngày 01/01/2008 và BH thất nghiệp thực hiện từ ngày 01/01/2009. Đối với đối tượng tham gia BHXH bắt buộc có nhiều nội dung thay đổi so với các văn bản quy định về BHXH trước đây, bởi vậy muốn triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách chế độ BHXH ngành BHXH phải tăng cường công tác tuyên truyền với nhiều hình thức khác nhau mang đến cho đối tượng những điều cần thiết khi tham gia BHXH. Bảo hiểm xã hội Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm xã hội trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Đã nâng cao nhận thức xã hội đối với bảo hiểm xã hội, đưa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng được đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung vẫn còn không ít người lao động, chủ sử dụng lao động chưa có hiểu biết rõ ràng về bảo hiểm xã hội, thêm vào đó công tác tuyên truyền chưa được quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hướng sau: Về nội dung: Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành... Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của bảo hiểm xã hội. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là "bắt buộc" phải đóng bảo hiểm xã hội. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội và có trách nhiệm nộp bảo hiểm xã hội. Mục đích thu BHXH không đơn thuần là thu tiền về quỹ BHXH mà chúng ta nên hiểu cặn kẽ ngọn nguồn của công tác thu là thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động , đó mới là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội. Về hình thức tuyên truyền: Tạp chí bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí bảo hiểm xã hội phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viết sát thực tế và có chất lượng cao. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao. Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng (Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí...) để tuyên truyền sâu rộng hơn về bảo hiểm xã hội. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người. Tổ chức các hội nghị khách hàng, các cuộc họp trong đó có các đại diện của cơ quan bảo hiểm xã hội, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về bảo hiểm xã hội giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của các bảo hiểm xã hội, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu nhập tổng hợp các ý kiến thắc mắc đóng góp từ phía người lao động, chủ sử dụng lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyên vọng của họ. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu các nội dung về BHXH được quy định trong luật BHXH theo từng nội dung, theo từng chuyên đề với các hình th c : thi viết, tiểu phẩm văn nghệ...thi tuyên truyền viên giỏi... Phấn đấu mỗi cán bộ bảo hiểm xã hội là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội . Hiệu quả của tuyên truyền phải được đánh giá bởi mức độ ảnh hưởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng tham gia theo mục đích đã định, số lượng đối tượng được tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền, kết quả thể hiện số người tham gia BHXH và được hưởng các quyền lợi BHXH tăng lên. 5. Hoàn thiện nghiệp vụ thu và chống thất thu quỹ BHXH. Những cán bộ làm công tác thu đòi hỏi phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình say mê trong công việc, có đức tính trung thực, tinh thông nghiệp vụ. Công tác thu rất phức tạp và nhiều khó khăn bởi vì không đơn thuân là thu mà để có được một số tiền thu chính xác đối với một người đòi hỏi cán bộ thu phải xác định đúng đối tượng với quá trình công tác của người lao động, mức và tiền lương tiền công, thời gian... phải nộp, Do vậy cần có những chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta tiến hành các hình thức biểu dương khen thưởng các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu bảo hiểm xã hội. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền bảo hiểm xã hội thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền bảo hiểm xã hội thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ. 6 . Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác quản lý Áp dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực quản lý quỹ BHXH, quản lý đối chiếu thu, quản lý các đối tượng tham gia BHXH, giải quyết các chế độ ngắn hạn và dài hạn, in thẻ BHYT...giúp giảm bớt thủ tục hành chính, thống kê, báo cáo số liệu được nhanh chóng. Ngành bảo hiểm xã hội cũng đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ có máy vi tính. Hiện nay ở hầu hết các cơ quan bảo hiểm xã hội đều có máy vi tính nhưng số lượng cán bộ bảo hiểm xã hội biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội mới chỉ dừng lại việc bắt đầu biết sử dụng máy tính mà chưa khai thác được hết hiệu quả mà máy tính đem lại trong công tác thu chi quỹ bảo hiểm xã hội. Mặt khác do chưa được quan tâm đúng mức nên hệ thống các chương trình phần mềm chuyên ngành của ngành bảo hiểm xã hội chưa được đồng bộ (mới có phần mềm phục vụ một số nghiệp vụ), chưa tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành bảo hiểm xã hội để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng như việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành bảo hiểm xã hội cả về các kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành. 7. Bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội Để đảm bảo khả năng chi trả tức là quỹ BHXH không được thâm hụt, từ điều 42 đến điều 45 Nghị đinh số 152/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của chính phủ quy định cụ thể mức đóng BHXH tăng dần tới năm 2014 trở đi mức thu đạt 26% ,tuy vậy để bảo tồn và tăng trưởng quỹ thì phải có các biện pháp: cần phải sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tượng và tăng cường công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy, cần phải đầu tư quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu tư trên các lĩnh vực quen thuộc như: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà nước vay, đầu tư vốn vào các doanh nghiệp lớn được sự bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh đó chúng ta sẽ phải tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mặc dù yếu tố rủi ro cũng tăng lên để đa dạng hoá các loại hình đầu tư. Đây là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vừa đem lại lợi nhuận cao hơn vừa hạn chế được yếu tổ rủi ro. 8. Cải cách thủ tục hành chính Hành chính quan liêu , cửa quyền hách dịch đó là những tồn tại của những năm bao cấp nó còn ảnh hưởng tới một số ít cán bộ viên chức trong cơ quan, Đối tượng cũng hay phàn nàn về thủ tục hành chính quá rườm rà cải cách thủ tục hành chính. Đ ầu n ăm 2006 BHXH tỉnh đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính với cơ chế “một cửa” đã giảm bớt những phần công việc, giấy tờ không cần thiết, tạo điều kiện tốt nhất cho người lao động đến giải quyết các chế độ BHXH. Kết luận Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu khách quan của người lao động. Vì vậy nó đã trở thành một trong những quyền về con người. BHXH ngày nay là một trong những chính sách xã hội lớn của quốc gia, chính sách này thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý nhà nước. Quá trình phân tích tình hình thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội của Chuyên đề đã khẳng định được vai trò quan trọng của công tác thu BHXH , Có tác dụng ổn định và phát triển quỹ BHXH, đảm bảo cho việc chi trả các chế độ BHXH, góp phần ổn định kinh tế xã hội, trật tự và an toàn xã hội. Để hoàn thiện công tác thu và chống thất thu hiện nay, Chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp cơ bản, để thực hiện được tốt những vấn đề đó cần có thêm sự hỗ trợ tích cực của các ban ngành liên quan, từ đó nâng cao hiệu Qua quá trình thực hiện Chuyên đề này, Em chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo Bùi Đức Thọ và Ban Giám đốc, Cán bộ CNVC Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên quang. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do trình độ bản thân và thời gian có hạn nên chuyên đề còn có những thiếu xót nhất định. Kính mong Thầy giáo và Ban Giám đốc, Cán bộ cơ quan BHXH Tuyên quang tận tình chỉ bảo để Em hoàn thành chuyên đề được tốt hơn./.. Tuyên quang, ngày 10 tháng 01 năm 2007 Sinh viên: Phan Văn Dũng Tài liệu tham khảo 1. Giáo trìn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxQT1157.docx
Tài liệu liên quan