Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO

Tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO: Lời mở đầu Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, hành khách càng tăng cao, và để đáp ứng nhu cầu đó số lượng xe cơ giới tham gia giao thông cũng ngày càng tăng. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm như: tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, giá thành vận chuyển thấp..., nhưng trong quá trình hoạt động, xe cơ giới thường gặp rủi ro, tai nạn, gây tổn thất lớn về người và tài sản cho các chủ phương tiện khi tham gia giao thông. Vì vậy, để bảo vệ chủ xe trong thời gian lưu hành, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời và phát triển. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ này là một nhu cầu khách quan nhằm tạo ra sự ổn định về tài chính, từ đó giúp ổn định về cuộc sống, sản xuất kinh doanh cho các chủ phương tiện trong trường hợp không may gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ. Trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những kết quả khá cao, nhưng bên cạnh đó một số vấn đề vẫn còn tồn tại cần phải được tiếp tục xem xét, giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kin...

doc94 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, hành khách càng tăng cao, và để đáp ứng nhu cầu đó số lượng xe cơ giới tham gia giao thông cũng ngày càng tăng. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm như: tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, giá thành vận chuyển thấp..., nhưng trong quá trình hoạt động, xe cơ giới thường gặp rủi ro, tai nạn, gây tổn thất lớn về người và tài sản cho các chủ phương tiện khi tham gia giao thông. Vì vậy, để bảo vệ chủ xe trong thời gian lưu hành, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời và phát triển. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ này là một nhu cầu khách quan nhằm tạo ra sự ổn định về tài chính, từ đó giúp ổn định về cuộc sống, sản xuất kinh doanh cho các chủ phương tiện trong trường hợp không may gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ. Trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những kết quả khá cao, nhưng bên cạnh đó một số vấn đề vẫn còn tồn tại cần phải được tiếp tục xem xét, giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này. Xuất phát từ đó, trong thời gian thực tập tại Phòng bảo hiểm khu vực VII thuộc Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO”. Mục đích của bài viết này là làm rõ một số vấn đề về lý luận, đi sâu vào thực tế triển khai nghiệp vụ này tại PJICO, từ đó đưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao kết quả kinh doanh của nghiệp vụ này. Với mục đích trên thì kết cấu bài viết bao gồm: PhầnI : Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Phần II : Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO. Phần III : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Định và các cô chú trong Phòng bảo hiểm khu vực VII, em đã hoàn thành bài viết này.Tuy nhiên, do nhận thức và thời gian thực tế có hạn nên bài viết không tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Chương I Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 1. Sự cần thiết khách quan . Trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam, giao thông vận tải đã khẳng định được vai trò “mạch máu kinh tế” của mình, đặc biệt trong những năm gần đây chúng ta đã và đang thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trước đây do trình độ khoa học kỹ thuật chưa phát triển nên việc đi lại của người dân gặp rất nhiều khó khăn do chủng loại và chất lượng các phương tiện tham gia giao thông bị hạn chế. Thêm vào đó, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ còn lạc hậu, quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển chung của đất nước. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật các phương tiện giao thông vận tải cũng ngày một phát triển. Nhiều hình thức vận chuyển đã được sử dụng như; đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không, đường bộ... trong đó hình thức giao thông vận tải đường bộ là phổ biến nhất do hình thức này có những ưu điểm nhất định như; cơ động, thuận tiện, dễ điều khiển, giá rẻ... Tuy nhiên, bên cạnh đó sự phát triển của phương tiện giao thông vận tải cũng làm cho các rủi ro xảy ra ngày càng nhiều hơn với quy mô và mức độ ngày càng cao. Đối với bất kỳ quốc gia nào, giao thông đường bộ luôn được coi là khâu trọng tâm cần phải đi trước một bước trong chiến lược phát triển. Nhận thức được điều đó Nhà nước và các cấp các ngành có liên quan đã có sự quan tâm kịp thời đến công tác nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng đường sá cầu cống. Điều này được đánh dấu bằng sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng đường bộ, cụ thể: Sau ngày miền Nam giải phóng, hệ thống giao thông đường bộ cả nước có khoảng trên 48.000km trong đó quốc lộ là 10.629km với khoảng trên 3.000km đường bê tông nhựa, 3.445km láng nhựa, còn lại là mặt đường đá dăm, cấp phối; Và tính đến tháng 10/1999, cả nước có khoảng 204.981km đường bộ, trong đó quốc lộ có 15.360km, 3.800 cầu với tổng chiều dài 103.400m. Đó là một trong những thành quả lớn của chính sách đổi mới nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế như: chất lượng mặt đường chưa đồng đều; phân bố không đều; có nhiều đèo dốc cao, dài, tầm nhìn bị hạn chế... thêm vào đó là tình trạng vi phạm luật lệ an toàn giao thông đường bộ của các chủ phương tiện tham gia giao thông như trở quá tải, phóng nhanh, vượt ẩu, không làm chủ được tốc độ gây tai nạn. Cùng với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, số lượng ô tô, xe máy tăng lên không ngừng. Số ô tô, xe máy cả nước quý I/1999 là 5.739.400 xe; đến quý I/2000 con số này là 6.185.977 xe. Đặc biệt trong thời gian qua, mỗi tháng có 545.000 xe đăng ký đưa tổng số phương tiện tham gia giao thông tính đến tháng 6/2002 lên tới 10.555.000 xe và theo ước tính của cơ quan quản lý giao thông thì số lượng xe còn tăng cao hơn nữa đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập FTA. Điều này chứng tỏ sự phát triển của phương tiện giao thông đường bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người sử dụng. Bên cạnh đó phải kể đến chất lượng của chính các phương tiện giao thông. Trong những năm gần đây thị trường xe máy Việt Nam bị tràn ngập bởi xe Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, xe HonDa đời cũ... chất lượng không đảm bảo nhưng vẫn được tiêu thụ mạnh do giá rẻ. Các loại ô tô có tuổi đời quá cao nhưng do công tác kiểm định chưa được thực hiện chặt chẽ do đó số lượng xe vượt quá niên hạn sử dụng vẫn tiếp tục tham gia giao thông là rất cao. Những điều trên thực sự là mối đe doạ lớn về tính mạng và tài sản của các chủ phương tiện tham gia giao thông nói riêng và toàn xã hội nói chung, Để minh hoạ cho điều này chúng ta xem bảng dưới đây: Bảng 1. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ. Năm Số vụ xảy ra Số người chết Số người bị thương Số vụ Tăng so với năm trước(%) Số người chết Tăng so với năm trước(%) Số người bị thương Tăng so với năm trước(%) 1995 15.376 17,2 5.430 19,7 16.920 29,6 1996 19.075 24 5.581 2,8 21.556 27,4 1997 19.159 0,4 5.680 1,8 21.905 1,6 1998 19.975 4,3 6.067 6,8 22.723 3,7 1999 20.733 3,8 6.670 9,9 23.911 5,2 2000 23.587 13,8 7.061 5,9 24.171 1,1 2001 25.040 6,2 10.477 48,4 29.188 20,8 6 tháng 2002 14.386 - 6.621 - 16.937 - (Nguồn: Tạp chí GTVT số 9/2000;9/2002) Trước tình hình tai nạn giao thông tăng cả về số vụ và số người chết, gây tổn thất không nhỏ về người và tài sản cho các chủ phương tiện tham gia giao thông. Tính chung cả nước, hàng năm thiệt hại về tài sản do tai nạn giao thông lên đến hàng trăm tỷ đồng, nếu tính bình quân thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường lên đến hàng chục triệu đồng. Đây là một con số không nhỏ đối với các chủ phương tiện. Vì vậy, để khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, đảm bảo ổn định tài chính cho các chủ phương tiện tham gia giao thông, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời và được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ hoạt động tại Việt Nam. Đây là biện pháp tốt nhất để bù đắp thiệt hại sau rủi ro. Biện pháp này được thực hiện dựa trên cơ sở người tham gia đóng góp một khoản tiền nhỏ gọi là phí bảo hiểm để hình thành quỹ tài chính bảo hiểm từ đó sẽ bồi thường những thiệt hại về vật chất của bản thân chiếc xe đó khi chúng không may gặp phải rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, có thể khẳng định rằng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là rất quan trọng và cần thiết đối với các chủ xe trong quá trình điều khiển xe của mình, góp phần khắc phục tình trạng khó khăn về mặt tài chính khi không may gặp tai nạn, đồng thời nhanh chóng khôi phục xe về trạng thái ban đầu để tiếp tục hoạt động kinh doanh. 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới . Ngay từ khi ra đời và phát triển, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã khẳng định được vai trò tích cực của mình đối với các chủ xe nói riêng và xã hội nói chung. Điều đó được thể hiện: Một là, Giúp ổn định tình hình tài chính, ổn định sản xuất kinh doanh cho các chủ phương tiện khi không may rủi ro xảy ra. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nhằm khắc phục những hậu quả do tai nạn bất ngờ gây thiệt hại về vật chất cho đối tượng được bảo hiểm. Thông qua công tác bồi thường nhanh chóng, kịp thời giúp chủ xe khắc phục khó khăn về mặt tài chính và tránh những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện, từ đó góp phần giúp cá nhân, tổ chức ổn định đời sống kinh tế, điều kiện sản xuất kinh doanh. Chính sự ổn định của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức sẽ tạo ra sự ổn định chung của toàn xã hội. Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng, đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới công ty bảo hiểm chỉ bồi thường cho những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và trong hạn mức tối đa là số tiền bảo hiểm để tránh trục lợi bảo hiểm từ phía người tham gia, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ xe khi tham gia giao thông, thúc đẩy các chủ xe phải thực hiện đúng các biện pháp an toàn. Hai là, Tăng khả năng tự chủ về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm. Nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực cả về chất và lượng. Nhà nước không ngừng khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh với mục tiêu sinh lời. Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn quyết định sức mạnh và vị thế của doanh nghiệp. Vì vậy, trong quá trình kinh doanh nếu doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng rủi ro xảy ra thì đó quả là một sự lãng phí lớn đối với không chỉ doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội. Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít phương tiện đã vậy, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm tỷ lệ lớn và rất khó xác định trong nguồn vốn kinh doanh. Các hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới sẽ giải quyết các khó khăn kể trên. Công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ tài chính bảo hiểm và quỹ này hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Khi đó thay vì phải tự thành lập riêng một quỹ cho doanh nghiệp thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn rất nhiều do các thành viên tham gia bảo hiểm cùng đóng góp. Ba là, Góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông gây ra. Phí thu được từ các chủ xe tham gia bảo hiểm hình thành quỹ tài chính bảo hiểm. Nguồn quỹ này ngoài mục đích chính là để bồi thường cho các xe khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, còn được sử dụng cho mục đích đề phòng và hạn chế tổn thất. Các công ty bảo hiểm thường xuyên bỏ ra những khoản tiền không nhỏ để đặt các biển báo tại những con đường nguy hiểm, xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, hốc cứu nạn, đặt gương cầu ở những đoạn đèo, dốc nguy hiểm... Ngoài ra công ty còn khuyến khích xe thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, tuyên truyền luật lệ giao thông để nâng cao ý thức của người điều khiển các phương tiện giao thông. Đặc biệt các công ty còn thực hiện việc giảm phí nếu trong một thời gian nhất định mà xe không gặp phải rủi ro nào. Có thể nói điều này có ý nghĩa xã hội hết sức to lớn. Bốn là, Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà nước. Khi đời sống xã hội ngày càng được nâng lên, trình độ dân trí cao thì con người càng có nhu cầu bảo vệ bản thân, gia đình và tài sản. Triển vọng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là rất lớn vì xe cơ giới là một trong những tài sản có giá trị của các cá nhân, các tổ chức và nó không chỉ đơn thuần là phương tiện đi lại mà còn là công cụ không thể thiếu khi tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Vì vậy nguồn thu từ nghiệp vụ này không phải là ít, nó góp phần không nhỏ vào việc tăng thu cho Ngân sách Nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Đồng thời Chính Phủ có thể sử dụng Ngân sách Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu đi lại của người dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Ngoài ra còn góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động tại địa bàn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động. Như vậy, tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là rất lớn, nó mang ý nghĩa tích cực và nhân đạo sâu sắc. 3. Đặc điểm của bảo hiểm vật chất xe cơ giới . Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới nằm trong hệ thống bảo hiểm thương mại- còn được gọi là bảo hiểm rủi ro. Vì vậy, ngoài những đặc điểm chung của một sản phẩm bảo hiểm thông thường như: là sản phẩm vô hình; là sản phẩm không mong đợi; là sản phẩm có chu trình sản xuất kinh doanh đảo ngược; khó xác định được hiệu quả kinh doanh trong từng chu kỳ; là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn mang đặc điểm riêng; Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản mang tính tự nguyện, phụ thuộc vào nhu cầu, khả năng thanh toán và lợi ích của chủ xe. Chủ xe tham gia bảo hiểm là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra đối với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Đối tượng bảo hiểm là cụ thể. Khác với loại hình bảo hiểm trách nhiệm có đối tượng bảo hiểm rất trừu tượng, chỉ khi có rủi ro xảy ra mới xác định được đối tượng bảo hiểm. Còn đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới chính là bản thân chiếc xe đó, có thể là toàn bộ chiếc xe hoặc bộ phận nào đó của chiếc xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ dễ xảy ra hiện tượng trục lợi bảo hiểm vì xe cơ giới hoạt động trên địa bàn rộng lớn và phức tạp nên người tham gia bảo hiểm dễ dàng tạo hiện trường giả hoặc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm chiếm đoạt một số tiền bất hợp pháp từ phía doanh nghiệp bảo hiểm . Khách hàng tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới bao gồm cả cá nhân và tổ chức trong xã hội. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới có xác suất xảy ra rủi ro lớn do xe cơ giới có tính cơ động cao, tính việt giã tốt và nó tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển hành khách và hàng hoá. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới có liên quan và được sự hỗ trợ của một số bộ luật của quốc gia như: luật dân sự, luật giao thông đường bộ, luật kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt các luật liên quan sẽ giúp cho nghiệp vụ này được triển khai dễ dàng và hiệu quả hơn. II. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới . 1. Đối tượng bảo hiểm . Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm mang tính tự nguyện bởi vì khi tổn thất xảy ra đối với chiếc xe thì chủ xe sẽ là người phải gánh chịu toàn bộ tổn thất đó. Vì vậy, nếu chủ xe muốn được bảo vệ thì họ sẽ tự tham gia bảo hiểm cho xe của mình. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ của quốc gia. Để xác định xem một phương tiện giao thông có phải là xe cơ giới không, người ta thường xem xét các tiêu thức sau: Xe cơ giới phải được gắn động cơ( khác với xe không có động cơ như xe đạp, xe do súc vật kéo...). Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn( khác với tàu hoả, xe điện...). Xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ cho người điều khiển. Ngoài ra để trở thành đối tượng được bảo hiểm, xe cơ giới phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành- Được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe. ở Việt Nam, Bộ Tài Chính có quy định rõ trong Nghị định số 115/97/NĐ- CP ra ngày 17/12/97: Xe cơ giới là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, trừ xe đạp máy. Như vậy, xe cơ giới bao gồm rất nhiều loại khác nhau như xe công nông, xe ô tô trở khách, xe ô tô trở hàng, xe cẩu, xe máy, xe lam... Nhưng nhìn chung xe cơ giới được chia thành 2 loại cơ bản là xe ô tô và xe mô tô. Khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới chủ phương tiện nhất định phải tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất xe đối với xe mô tô. Nhưng đối với xe ô tô chủ phương tiện có thể tham gia bảo hiểm từng bộ phận (tổng thành) của chiếc xe. Đứng trên góc độ kinh tế- kỹ thuật, xe ô tô được chia làm 7 tổng thành sau: 1/ Tổng thành động cơ: Bao gồm phần máy, chế hoà khí hoặc bơm cao áp, bơm xăng, bầu lọc khí, lọc dầu, máy phát điện, máy nén khí, két nước, các dụng cụ làm mát, các thiết bị làm cho máy nổ, ly hợp... 2/ Tổng thành hộp số: bao gồm hộp số chính, hộp số phụ, hệ thống dẫn động cơ. 3/ Tổng thành trục trước (cầu trước): bao gồm dầm cầu, trục lắp, hệ thống treo nhíp, may ơ trước, cơ cấu phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu, vi sai, vỏ cầu. 4/ Tổng thành cầu sau: bao gồm vỏ cầu toàn bộ, ruột cầu, vi sai, cụm mayơ sau, cơ cấu phanh, xilanh phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu, trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp... 5/ Tổng thành hệ thống lái: bao gồm vô lăng lái, trục tay lái, các đăng dẫn động lái, hộp tay lái, bổ trợ tay lái (nếu có), thanh kéo ngang, thanh kéo dọc. 6/ Tổng thành thân vỏ xe: Có 3 nhóm; Nhóm A: Thân vỏ; Cabin toàn bộ, ca lăng, ca bô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kính, toàn bộ đèn và gương, gạt nước mưa, rưa kính, toàn bộ vỏ kim loại, nhựa hoặc gỗ, các cần đạp và gạt và bàn đạp ga, côn số phanh chân, phanh tay. Nhóm B: Ghế đệm + nội thất: toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc nằm, ngang hoặc dọc của nhà xe và hành khách; các trang thiết bị như máy điều hoà nhiệt độ, quạt, đài, radio casset, đĩa compact... Nhóm C: Sắt si: khung xe, các cơ cấu bám chặt vào khung và tổng bơm phanh, dẫn động phanh chính và phanh tay, dẫn động côn, các bình chứa hơi phanh, bình chứa nguyên liệu, các đường ống và tuy mô dẫn dầu, dẫn hơi, dây dẫn điện... 7/ Tổng thành lốp: các bộ săm lốp hoàn chỉnh của xe (kể cả săm lốp dự phòng). 8/ Ngoài ra, có một số loại xe còn có tổng thành chuyên dùng lắp trên xe để sử dụng theo nhu cầu: cần cẩu nâng, xe cứu hoả, xe cứu thương... Việc phân chia xe thành các tổng thành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính khấu hao khi xe bị hư hỏng toàn bộ một tổng thành nào đó. Thực tế, các công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thường tiến hành bảo hiểm theo hai hình thức: bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe. Vì thông thường tổng thành thân vỏ xe là phần dễ bị tổn thất nhất khi rủi ro xảy ra và thân vỏ chiếm một phần lớn trong cơ cấu giá trị của xe (53,5%). 2. Phạm vi bảo hiểm . Rủi ro, tai nạn gắn với sự lưu hành xe cơ giới rất đa dạng, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Từ những yếu tố khách quan như thời tiết, địa hình, chất lượng đường xá cho đến những yếu tố chủ quan từ phía chủ xe, lái xe. Trước hàng loạt rủi ro, tai nạn, việc xác định pham vi bảo hiểm là rất quan trọng. 2.1. Rủi ro được bảo hiểm . Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm . Nhà bảo hiểm bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp sau đây: Tai nạn do đâm va, lật đổ. Cháy, nổ, bão, lũ lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. Mất cắp toàn bộ xe. Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm. Chi phí bảo vệ xe và kéo xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm . Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường (bao gồm cả chi phí) của công ty bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm . 2.2 Các rủi ro loại trừ. Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu bồi thường cho những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do: Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên thường được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị (kể cả máy thu thanh điều hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. Mất cắp bộ phận của xe. Ngoài ra để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật và luật lệ an toàn giao thông hay một số rủi ro đặc biệt khác những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được bồi thường: Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên bộ giao thông vận tải- nội vụ. Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như: Xe không có giấy phép lưu hành. Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ. Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe. Xe chở chất cháy, nổ trái phép. Xe trở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định. Xe đi vào đường cấm. Xe đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải. Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. Thiệt hại do chiến tranh. Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận riêng. Cần lưu ý rằng, giấy chứng nhận bảo hiểm vẫn còn hiệu lực nhưng chủ xe cũ chuyển quyền sở hữu cho chủ xe mới và đồng thời chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực đối với chủ xe mới. Nhưng nếu chủ xe cũ chỉ chuyển quyền sở hữu mà không chuyển quyền lợi bảo hiểm thì chủ xe cũ sẽ được công ty bảo hiểm hoàn lại phí, đồng thời làm lại thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ yêu cầu. 3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm . 3.1 Giá trị bảo hiểm . Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm . Giá trị bảo hiểm là căn cứ quan trọng để lựa chọn số tiền bảo hiểm và là cơ sở bồi thường thiệt hại thực tế cho người tham gia bảo hiểm. Vì vậy việc xác định đúng giá trị bảo hiểm là rất quan trọng nhưng để đánh giá được chính xác thì không phải là đơn giản, cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố. Trên thực tế, các nhà bảo hiểm thường dựa vào năm sản suất, loại xe, độ cũ mới, thể tích làm việc của xi lanh... để xác định giá trị của xe. Tuy nhiên việc đánh giá các yếu tố này là khá khó khăn, hiệu quả không cao chỉ có những người có chuyên môn mới thực hiện được, có thể dẫn đến tranh cãi, không khách quan. Vì vậy các doanh nghiệp bảo hiểm thường xác định giá trị bảo hiểm căn cứ vào tỷ lệ khấu hao và giá trị ban đầu (giá trị mua mới) của chiếc xe theo công thức sau: GBH = GBĐ - GKH Trong đó: GBH : -giá trị bảo hiểm của chiếc xe. GBĐ : - giá trị ban đầu của chiếc xe, giá trị mua mới. GKH : - giá trị được khấu hao của chiếc xe( theo năm). GKH = GBĐ * tỷ lệ khấu hao * số năm sử dụng - Đối với xe có thời gian sử dụng dưới một năm thì GKH = 0, nên giá trị bảo hiểm bằng giá trị ban đầu của xe. - Đối với xe có thời gian sử dụng trên một năm (GKH > 0) nên giá trị bảo hiểm luôn nhỏ hơn giá trị ban đầu của xe. 3.2 Số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là số tiền nhất định được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm do chủ xe yêu cầu và được sự chấp nhận của công ty bảo hiểm . Số tiền bảo hiểm có thể bằng giá trị bảo hiểm (bảo hiểm ngang giá trị) hoặc nhỏ hơn (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị). Trường hợp số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm thì được gọi là bảo hiểm dưới giá trị, trường hợp này khi tổn thất xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường dựa trên cơ sở tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm . SBT = Giá trị thiệt hại * Trong đó: SBT :là số tiền mà công ty bảo hiểm bồi thường khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra. SBH : là số tiền bảo hiểm . Trường hợp số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm được gọi là bảo hiểm ngang giá trị. Nếu tổn thất xảy ra thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ thiệt hại trong phạm vi bảo hiểm . Trường hợp số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì được gọi là bảo hiểm trên giá trị. Tuy nhiên cần lưu ý rằng ngay cả khi chủ xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thì khi rủi ro xảy ra công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường tối đa bằng giá trị bảo hiểm . Làm như vậy để tránh hành vi trục lợi bảo hiểm từ phía khách hàng. 4. Phí bảo hiểm . 4.1 Phí bảo hiểm . Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khoản tiền nhất định mà những người tham gia (chủ xe, lái xe) phải nộp cho nhà bảo hiểm sau khi ký hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia nộp phí theo đúng quy định. Doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới có thể thực hiện bảo hiểm theo biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu do Bộ Tài Chính quy định hoặc có thể thoả thuận với nhau theo biểu phí và mức trách nhiệm cao hơn hoặc phạm vi bảo hiểm rộng hơn- biểu phí và mức trách nhiệm mà doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ Tài Chính. 4.2 Phương pháp tính phí bảo hiểm . Việc xác định mức phí bảo hiểm là công tác rất quan trọng trong triển khai bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào, phí bảo hiểm được coi là giá của sản phẩm bảo hiểm, phí bảo hiểm có hợp lý mới thu hút được khách hàng. Đặc biệt nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ phổ biến và được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ vì vậy tính cạnh tranh càng trở lên gay gắt. Ngoài việc thu hút khách hàng bằng công tác chăm sóc khách hàng, bồi thường nhanh chóng thì giá cả của sản phẩm bảo hiểm là nhân tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia cụ thể, công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau: Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân loại thành các nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, sự khan hiếm của phụ tùng, trọng tải xe. Đối với các loại xe hoạt động không thông dụng như xe kéo Rơmooc, xe trở hàng nặng do mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. Khu vực giữ xe và để xe: trong thực tế không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, một số công ty bảo hiểm khi tính phí bảo hiểm đã dựa trên khu vực để xe và giữ xe rất chặt. Mục đích sử dụng xe: đây là nhân tố quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Với mục đích sử dụng xe khác nhau thì mức độ rủi ro cũng khác nhau. Xe dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì khả năng gặp rủi ro cao hơn rất nhiều so với xe sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc cơ quan hành chính sự nghiệp. Xe lăn bánh trên đường càng nhiều thì rủi ro càng lớn. Tình hình bồi thường tổn thất những năm trước: nếu những năm trước đó tổn thất xảy ra lớn và thường xuyên thì phí bảo hiểm sẽ tăng và ngược lại. Tuổi tác, kinh nghiệm của lái xe, của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm : số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 tuổi do kinh nghiệm cho thấy những lái xe này ít gặp tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên với những lái xe quá lớn tuổi (thường từ 60 trở lên) phải xuất trình giấy chứng nhận sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm. Ngoài ra để hạn chế tai nạn, công ty bảo hiểm thường yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra đối với xe của mình (hay còn gọi là mức miễn thường). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường cao hơn so với các lái xe lớn tuổi. Biểu phí đặc biệt: khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở trên, chỉ khác là dựa trên số liệu về bản thân khách hàng đó. Cụ thể: Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm . Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó. Tỷ lệ phí theo quy định của công ty. Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung của công ty thì áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt cao hơn hoặc là bằng mức phí chung tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn hoặc bằng mức tổn thất chung thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. Giảm phí bảo hiểm : Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn xe tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và tăng tỷ lệ giảm giá này cho số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới. Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau: = * Hoàn phí bảo hiểm : Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó, ví dụ như ngừng hoạt động để tu sửa. Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm cho những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau: = Phí cả năm * * Mỗi công ty bảo hiểm có tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. Nếu chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên, nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm vật chất phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe gồm hai phần: phí thuần (f) và phụ phí (d): P = f + d Thực chất phí thuần chính là số tiền bồi thường bình quân cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm gặp rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm năm thứ i: f = Trong đó: Si: - Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i. Ti: - Thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i. Ci: - Số xe hoạt động tham gia bảo hiểm thực tế trong năm thứ i. Phần phụ phí d bao gồm các chi phí như đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý lợi nhuận của công ty bảo hiểm ...Phụ phí thường được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định so với tổng phí. Tuy nhiên trên thực tế các công ty bảo hiểm áp dụng một phương pháp tính phí khác dựa trên số tiền bảo hiểm : P = R * SBH Trong đó: R là tỷ lệ phí ở nước ta, tỷ lệ phí này là do Bộ Tài Chính đưa ra, các công ty bảo hiểm đều áp dụng mức phí này. Phí bảo hiểm vật chất xe ô tô như sau: Phạm vi bảo hiểm Phí bảo hiểm Bảo hiểm toàn bộ xe 1,5%* giá trị thực tế của xe Bảo hiểm thân vỏ hoặc cabin 2,5* giá trị thực tế của xe*tỷ lệ tổng thành thân vỏ trên toàn bộ xe 5. Hợp đồng bảo hiểm . Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm (chủ phương tiện, lái xe) có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Như vậy, hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một bản cam kết giữa chủ xe với công ty bảo hiểm mà trong đó quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên. Sau khi ký kết hợp đồng công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm để chủ xe dễ dàng lưu giữ và mang theo. Giấy chứng nhận bảo hiểm là hình thức rút gọn của hợp đồng bảo hiểm, là bằng chứng xác nhận hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, đồng thời chứng nhận chủ xe đã tham gia bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm của nghiệp vụ này thường là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia và tình hình thực tế. Giấy chứng nhận bảo hiểm được cấp cho chủ xe khi đã đóng phí bảo hiểm. Thời hạn hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc được thể hiện trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Đối với công ty bảo hiểm . Trách nhiệm của công ty bảo hiểm . Cung cấp cho chủ xe cơ giới quy tắc, biểu phí, ký hợp đồng bảo hiểm và chấp nhận bảo hiểm theo đúng luật định. Hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ xe tham gia bảo hiểm . Công ty bảo hiểm có trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an thu thập các giấy tờ cần thiết có liên quan tới vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm . Đối với những vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng, doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với chủ xe và cơ quan chức năng ngay từ đầu để giải quyết. Trong trường hợp cần thiết, công ty bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục một cách tốt nhất hậu quả của tai nạn. Khi hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành xét và giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng, kịp thời, trung thực. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm nộp thuế cho Nhà nước. Quyền lợi của công ty bảo hiểm . Công ty bảo hiểm có quyền lợi về mặt kinh tế. Công ty bảo hiểm được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới . Có quyền huỷ bỏ hợp đồng nếu có hiện tượng trục lợi bảo hiểm . Có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do lỗi của người thứ ba gây nên đối với xe của người được bảo hiểm . Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Đối với chủ xe cơ giới. Trách nhiệm của chủ xe cơ giới. Các chủ xe phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thoả thuận của hai bên. Phải áp dụng các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Phải chấp hành đúng luật lệ an toàn giao thông. Xe không đủ điều kiện lưu hành phải báo cáo ngay cho công ty bảo hiểm biết. Phải bảo dưỡng và tiến hành kiểm định xe định kỳ. Chủ xe phải kê khai một cách trung thực và đầy đủ những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm khi muốn tham gia bảo hiểm . Khi tai nạn giao thông xảy ra chủ xe phải có trách nhiệm: Cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, phải bảo vệ hiện trường tai nạn, phải báo ngay cho công an nơi gần nhất và công ty bảo hiểm để phối hợp giải quyết. Trừ khi có lý do chính đáng trong vòng 5 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn phải gửi thông báo tai nạn cho công ty bảo hiểm. Không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của công ty, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm bảo an toàn về người và xe hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Chủ xe phải trung thực thu thập và cung cấp các tài liệu, chứng từ trong hồ sơ yêu cầu bồi thường và tạo điều kiện thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong quá trình xác minh tính chân thực của các tài liệu, chứng từ đó. Nếu chủ xe không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm trên công ty bảo hiểm có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường. Quyền lợi của chủ xe. Khi xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm chủ xe sẽ được bồi thường nhanh chóng, chính xác. Chủ xe có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm . Chủ xe có quyền yêu cầu bổ sung thêm hợp đồng, xác định lại giá trị xe, yêu cầu mở rộng phạm vi bảo hiểm. Chủ xe có quyền huỷ bỏ hợp đồng hoặc đề nghị thay đổi một số điều khoản trong hợp đồng. Khi hợp đồng hết hiệu lực có quyền tái tục hợp đồng. 6. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản nhưng do đặc điểm riêng của xe cơ giới là vận chuyển bằng đường bộ tham gia vào quá trình vận chuyển, hoạt động của xe cơ giới phụ thuộc rất lớn vào địa hình, tình hình thời tiết và chất lượng kỹ thuật của xe nên là một nguồn nguy hiểm cao độ hay nói cách khác khả năng xảy ra tai nạn là rất lớn. Xác suất xảy ra rủi ro cao hơn rất nhiều so với các đối tượng tài sản khác. Vì vậy, khi triển khai nghiệp vụ này, các công ty bảo hiểm đều chú ý đến việc đề phòng tai nạn xảy ra và cách khắc phục hậu quả khi tai nạn xảy ra. Hàng năm các công ty thường tiến hành trích một phần doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới để phục vụ cho công tác này. Nguồn quỹ này được chi cho việc xây dựng hệ thống biển báo, panô áp phích tại những đầu mối giao thông quan trọng, xây dựng đường lánh nạn, gương cầu tại các đường vòng, đèo dốc... Ngoài ra, quỹ này còn được dùng để tổ chức các lớp tập huấn cho lái xe, phụ xe. Khen thưởng thích đáng cho các đơn vị, cá nhân thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, đây không chỉ là trách nhiệm của công ty bảo hiểm mà còn là trách nhiệm của chính các chủ phương tiện mặc dù họ đã tiến hành mua bảo hiểm vì thực hiện tốt công tác này sẽ làm giảm số vụ tai nạn xảy ra, giảm tỷ lệ bồi thường, giảm phí bảo hiểm ... từ đó mang lại lợi ích cho công ty bảo hiểm, cho bản thân người tham gia bảo hiểm và góp phần làm giảm đáng kể thiệt hại cho xã hội. 7. Giám định và bồi thường. 7.1. Giám định. Giám định là khâu quan trọng nhất trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng. Thông qua khâu này, giám định viên của công ty bảo hiểm sẽ xác định được rủi ro xảy ra có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không và nếu có thì thiệt hại thực tế là bao nhiêu, phần trách nhiệm thuộc về phía công ty bảo hiểm ? Để làm được điều này thì quá trình giám định phải đáp ứng được những yêu cầu sau: Nhanh chóng, kịp thời; nhằm đảm bảo hiện trường còn nguyên vẹn, thu thập được đầy đủ tài liệu cũng như tìm ra được người làm chứng. Tỷ mỉ, chính xác; để đảm bảo trả đủ cho người tham gia đồng thời tránh trả thừa đối với bản thân công ty bảo hiểm . Khách quan, trung thực; tránh trường hợp gian lận, thông đồng giữa cán bộ giám định với chủ xe, lái xe. Công tác giám định phải tuân thủ chặt chẽ quy trình giám định bao gồm các khâu sau: 1/Tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng: Trong bất kỳ hợp đồng bảo hiểm nào cũng đều có những quy định về nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm, trong đó khách hàng có nghĩa vụ thông báo ngay cho công ty bảo hiểm biết khi có rủi ro xảy để công ty bảo hiểm có biện pháp xử lý kịp thời (PJICO quy định là 5 ngày). Khi nhận được thông báo của khách hàng về tai nạn, cán bộ của công ty cần nắm được những thông tin sau: Tên chủ xe và biển số đăng ký của chiếc xe đó. Xe tham gia bảo hiểm khi nào, loại hình bảo hiểm tham gia? Địa điểm xảy ra tai nạn? Đâm va với vật, người hay phương tiện? Có xảy ra thiệt hại với người, tài sản hay người thứ ba không? Số điện thoại hay địa chỉ để công ty liên lạc lại khi cần thiết. Sau khi nắm bắt được tình hình, giám định viên phải đưa ra những nhận định sơ bộ về phạm vi, thiệt hại. 2/ Hướng dẫn xử lý ban đầu. Khi xảy ra tai nạn các chủ xe, lái xe thường rất bối rối, không biết phải làm gì? Vì vậy cán bộ của công ty cần hướng dẫn họ những việc phải làm như: Thực hiện những hoạt động cần thiết và có thể để hạn chế tổn thất xảy ra lớn hơn. Giữ nguyên hiện trường của vụ tai nạn. Giúp đỡ cán bộ điều tra, công an hoàn tất biên bản khám nghiệm hiện trường một cách chính xác. Về phía cán bộ của công ty, khi đánh gia sơ bộ nếu thấy tổn thất là nghiêm trọng thì phải báo cho lãnh đạo của công ty để kịp thời chỉ đạo: Lập phương án giám định: cử ra chuyên viên giám định, đưa ra thời gian giám định. Thông báo và thống nhất với người điều khiển phương tiện về kế hoạch giám định của mình. Nếu vụ tai nạn xảy ra ở địa bàn khác mà công ty không thể trực tiếp tiến hành giám định thì cần có kế hoạch phối hợp với một công ty giám định hoặc một công ty bảo hiểm để thuê họ giám định. Nếu liên quan đến vấn đề chuyên môn, kỹ thuật thì phải nhờ đến giám định viên chuyên nghiệp. 3/ Tiến hành giám định: Đây là khâu cơ bản, quan trọng nhất của quy trình giám định. Cán bộ được cử đi giám định phải chuẩn bị những thứ cần thiết cho công việc giám định, đồng thời phải thông báo cho các bên liên quan có mặt trong khi giám định. Cán bộ giám định kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ cần thiết như: Giấy chứng nhận bảo hiểm có hiệu lực; đăng ký xe, giấy phép lưu hành xe; giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường; bằng lái xe của người điều khiển phương tiện khi xảy ra tai nạn còn hiệu lực. Chụp ảnh hiện trường: chụp ảnh theo nguyên tắc từ tổng thể đến chi tiết, từ ngoài vào trong. Sau khi xem xét hiện trường, thiệt hại giám định viên phải ghi nhận một cách chính xác trung thực nguyên nhân và mức độ thiệt hại thực tế của đối tượng bảo hiểm . Căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm , mức độ lỗi của người điều khiển phương tiện giám định viên xác định thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm . Hướng dẫn chủ xe thực hiện các công việc tiếp theo sau khi giám định như; tiến hành cẩu kéo, bảo vệ tài sản... 4/ Lập biên bản giám định. Lập biên bản giám định nhằm ghi lại những gì mà giám định viên tiến hành, nhận định của giám định viên về nguyên nhân của vụ tai nạn, mức độ lỗi của các chủ xe, mức độ thiệt hại về xe, tài sản, con người. Nếu các bên đồng ý với biên bản giám định thì đó sẽ là cơ sở để tiến hành bồi thường. Còn nếu không phải tiến hành giám định lại. Yêu cầu đối với biên bản giám định: Phải ghi lại tỉ mỉ những gì mà giám định viên thấy. Nội dung phải trung thực, rõ ràng, cụ thể. Số liệu đưa ra phải phù hợp với các tài liệu dẫn chứng. 5/ Xác định số tiền bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại trong biên bản giám định. Căn cứ vào giấy chứng nhận bảo hiểm, mức độ thiệt hại thực tế và mức độ lỗi của người tham gia để xác định số tiền bồi thường. Sau khi xác định được thiệt hại mà công ty phải gánh chịu, công ty sẽ thoả thuận với chủ xe về mức đền bù và hình thức thanh toán. Hướng dẫn chủ xe lập giấy yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp tổn thất toàn bộ, công ty bồi thường toàn bộ thì chiếc xe bị tai nạn sẽ thuộc về công ty, công ty có quyền thu hồi chiếc xe. 7.2 Bồi thường. Bồi thường thiệt hại là khâu công việc rất quan trọng trong quy trình triển khai một sản phẩm bảo hiểm. Bởi đây là khâu thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách hàng cũng như thể hiện quyền lợi của khách hàng và phản ánh rõ nhất lợi ích của sản phẩm. Vì vậy, yêu cầu của công tác bồi thường là doanh nghiệp phải tiến hành bồi thường nhanh chóng, chính xác cho khách hàng đảm bảo khắc phục thiệt hại về tài chính cho khách hàng nhưng cũng đảm bảo yếu tố chính xác cho bản thân doanh nghiệp tránh các trường hợp trục lợi có thể xảy ra. 7.2.1 Hồ sơ bồi thường bao gồm: Tờ khai tai nạn của chủ xe; Bản sao của giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe; Kết luận điều tra của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, biên bản giải quyết tai nạn; Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án; Các biên bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ ba; Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn. 7.2.2 Nguyên tắc bồi thường. Số tiền bồi thường được cơ quan bảo hiểm tính toán dựa trên cơ sở giá trị thiệt hại thực tế của xe. Công ty bảo hiểm chỉ bồi thường khi chủ xe cung cấp đầy đủ chứng từ hợp lệ. Thông thường việc tính toán số tiền bồi thường cho thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác định như sau: (1) Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế. Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế * Tuy nhiên, trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm một số tổng thành nhất định thì số tiền bồi thường được tính dựa trên cơ sở thiệt hại thực tế của tổng thành đó. (2) Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế. Để tránh việc trục lợi bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu người tham gia bảo hiểm cố tình hoặc vô tình tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì số tiền bồi thường cũng chỉ bằng giá trị thiệt hại thực tế và luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế, được gọi là “giá trị thay thế mới”. Khi tổn thất toàn bộ xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng đúng số tiền bảo hiểm. Trong trường hợp này chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các điều kiện bảo hiểm rất nghiêm ngặt. (3) Trường hợp tổn thất bộ phận. - Nếu xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm bằng hoặc thấp hơn giá trị thực tế thì số tiền bồi thường được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm với giá trị thực tế của xe nhưng bị giới hạn bởi giá trị của bộ phận đó quy đinh trong “Bảng tỷ lệ tổng thành xe”. - Nếu xe được bảo hiểm trên giá trị thực tế thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tai nạn nhưng bị giới hạn bởi giá trị của bộ phận đó quy định trong “ Bảng tỷ lệ tổng thành xe”. - Trong quá trình sửa chữa, khắc phục tổn thất, nếu phải thay thế bộ phận mới thì số tiền bồi thường tối đa của công ty bảo hiểm không vượt quá giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tổn thất. (4) Trường hợp tổn thất toàn bộ. Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, bị cướp, mất tích sau 60 ngày không tìm lại được, giá trị thiệt hại bằng hoặc trên 80% giá trị thực tế của xe tính theo tỷ lệ tổng thành xe hoặc đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. - Nếu số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe, thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. - Nếu xe được bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng giá trị thực tế của xe ngay trước khi xe bị tổn thất. - Khi đã bồi thường toàn bộ tổn thất cho chiếc xe đó thì công ty bảo hiểm có quyền thu hồi, thanh lý chiếc xe. Nếu xe bảo hiểm dưới giá trị thực tế thì công ty bảo hiểm sẽ thu hồi giá trị còn lại theo tỷ lệ phần trăm giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của xe. - Đối với trường hợp xe bị mất cắp, mất tích thì chủ xe hoặc lái xe báo ngay cho cơ quan công an, công ty bảo hiểm để lập kế hoạch điều tra xử lý vụ việc. Trong vòng 5 ngày kể từ ngày xe bị mất cắp, mất tích chủ xe phải gửi ngay văn bản cho công ty bảo hiểm.Trong trường hợp quá 2 tháng mà xe bị mất cắp, mất tích không tìm thấy được thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu sau khi bảo hiểm mà tìm lại được thì công ty bảo hiểm có quyền thu hồi lại chiếc xe đó theo tỷ lệ phần trăm giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của chiếc xe đó. 8.Bảo hiểm trùng. Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, chiếc xe được bảo hiểm theo hai hay nhiều giấy chứng nhận bảo hiểm thì theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm tài sản, tổng số tiền mà chủ xe nhận được từ các đơn bảo hiểm cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế của chiếc xe đó. Số tiền bồi thường được tính cho mỗi giấy chứng nhận bảo hiểm như sau: = * Trong đó: STBT:là số tiền bồi thường - GCNBH:là giấy chứng nhận bảo hiểm . Chương II Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm pjico I. Một số nét khái quát về công ty cổ phần bảo hiểm PJICO. 1. Sự ra đời và phát triển. 1.1 Sự ra đời. Trên thực tế ở Việt Nam hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một hoạt động còn hết sức mới mẻ. Từ năm 1994 trở về trước thị trường bảo hiểm ở Việt Nam vẫn là một thị trường độc quyền- chỉ có một mình Bảo Việt kinh doanh trên thị trường. Khi chúng ta chủ trương mở cửa các công ty bảo hiểm bảo hiểm nước ngoài đã rất quan tâm đến thị trường bảo hiểm của Việt Nam. Trong khi chưa được phép thành lập các chi nhánh ở Việt Nam họ đã sử dụng các văn phòng đại diện tại Việt Nam để làm dịch vụ môi giới, chào bán các sản phẩm bảo hiểm ở nước họ. Để thị trường bảo hiểm Việt Nam trở thành thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cần hoàn thiện ngành kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài, hoà nhập vào sự phát triển sôi động của thị trường bảo hiểm quốc tế, đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng lên mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính Phủ đã ban hành NĐ 100/CP ngày 18/12/1993, đó cũng là lúc kết thúc tình trạng độc quyền của Bảo Việt. Kể từ mốc thời gian đó, ngày càng nhiều công ty bảo hiểm với các hình thức sở hữu khác nhau được thành lập, trong đó có các công ty: - Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long). - Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh). - Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVIC). - Công ty Cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI). - Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA). Trong bối cảnh đó, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex với tên gọi tiếng anh là : Petrolimex Joit- Stock Insurance Company, viết tắt là PJICO đã được thành lập theo giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06- TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ Tài Chính, giấy phép thành lập số 1873/GP- UB ngày 8/6/1995 của Uỷ ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060256 ngày 15/6/1995 của Uỷ ban kế hoạch (hiện là Sở kế hoạch đầu tư) thành phố Hà Nội. Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex có trụ sở chính tại 22 Láng Hạ- Hà Nội. Với tổng số vốn góp của công ty là 55 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ là 53 tỷ đồng và tiền ký quỹ là 2 tỷ đồng. PJICO có tám cổ đông lớn, trong đó có 7 thành viên sáng lập và một thành viên tham gia. Đây là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, với mức vốn góp của các cổ đông như sau: Bảng 2: Danh sách sáng lập viên và số vốn góp. STT Đơn vị Tỷ trọng (%) Vốn góp (triệu đồng) Số cổ phiếu 1 Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex). 51 28050 14025 2 Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) 10 5500 2700 3 Công ty tái bảo hiểm quốc gia (Vinare). 8 4400 2200 4 Tổng công ty thép Việt Nam (VSC). 6 3300 1600 5 Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (Matexim) 3 1650 852 6 Công ty điện tử Hà Nội (Hanel). 2 1100 550 7 Công ty TNHH thiết bị an toàn. 0,5 275 138 8 Cá nhân 1,5 10.275 5362 Tổng 100 55000 27500 (Nguồn: Phòng tổ chức- cán bộ) Như vậy, Công ty Cổ phần bảo hiểm PJICO ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời đánh dấu sự mở cửa thực sự của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm . Chuyển đổi một cách cơ bản thị trường bảo hiểm Việt Nam từ độc quyền sang tự do cạnh tranh có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và cũng chính từ đây thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chuyển sang một giai đoạn mới. 1.2 Cơ cấu tổ chức của PJICO. PJICO có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và tuân thủ theo trật tự cơ cấu của một công ty Cổ phần. Đứng đầu là hội đồng cổ đông: Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của PJICO bao gồm: - Đại hội đồng thành lập. - Đại hội đồng thường niên. - Đại hội đồng bất thường. **Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý PJICO, do đại hội đồng cổ đông bầu ra và thay mặt cổ đông giữa hai kỳ đại hội, có toàn quyền nhân danh PJICO để quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của PJICO trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông. **Tổng giám đốc: do hội đồng quản trị bổ nhiệm và được uỷ nhiệm đầy đủ quyền hạn cần thiết để quản lý, điều hành kinh doanh. Tổng giám đốc PJICO phải là người tốt nghiệp đại học hành chính, kinh tế hoặc tương đương, có kiến thức kinh nghiệm quản lý kinh doanh bảo hiểm và không được kiêm nhiệm bất cứ chức vụ nào tại bất cứ cơ quan, đơn vị kinh tế nào khác. **Giúp việc cho tổng giám đốc là các phó giám đốc, kế toán trưởng. Tổng giám đốc trực tiếp điều hành quản lý các phòng: - Phòng kế toán. - Phòng tổ chức cán bộ. - Phòng đầu tư tín dụng và thị trường chứng khoán. - Ban thanh tra pháp chế. Ngoài ra tổng giám đốc còn quản lý các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các khu vực một cách gián tiếp thông qua phó giám đốc. Văn phòng công ty PJICO gồm có các phòng, ban: - Phòng kế toán: làm nhiệm vụ thanh quyết toán các hợp đồng, quản lý phí bảo hiểm gốc, chi trả tiền bồi thường, tổng hợp số liệu lập báo cáo tài chính, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. - Phòng tổ chức cán bộ: có chức năng quản lý nhân sự trong công ty, quản lý lao động, tiền lương, điều động cán bộ, tuyển cán bộ nhân viên cho công ty. - Phòng đầu tư tín dụng và thị trường chứng khoán: có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, liên doanh ký kết, thực hiện các dự án đầu tư... - Ban thanh tra pháp chế: thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các văn bản pháp quy của Nhà nước liên quan đến hoạt động bảo hiểm, kiểm tra tính chất pháp lý của các hợp đồng bảo hiểm cũng như hồ sơ bồi thường. Ban thanh tra còn kiểm tra các đơn vị trong việc thực hiện ký kết hợp đồng bảo hiểm và thủ tục thực hiện bồi thường. - Phòng tổng hợp: có chức năng hành chính quản trị và quản lý tài sản của công ty. Phòng tổng hợp mua sắm trang thiết bị tài sản, thiết bị văn phòng cho công ty, in ấn tờ rơi, tổ chức tuyên truyền quảng cáo, tổ chức phục vụ các cuộc họp hội nghị. Phòng tổng hợp còn có nhiệm vụ văn thư, nhận và gửi các công văn đi đến. - Phòng bảo hiểm hàng hải: phòng có nhiệm vụ khai thác các dịch vụ bảo hiểm về xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu, bảo hiểm nhà thầu đóng tầu, bảo hiểm tầu sông, tàu cá. - Phòng bảo hiểm phi hàng hải: thực hiện việc khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm kết hợp con người, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm giáo viên, bảo hiểm bồi thường cho người lao động, bảo hiểm hành khách, khách du lịch. - Phòng bảo hiểm tài sản hoả hoạn: làm nhiệm vụ khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro về xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp, bảo hiểm máy móc, bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê mướn. - Phòng tái bảo hiểm: thực hiện nhiệm vụ nhận và nhượng tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm . - Phòng giám định bồi thường: có nhiệm vụ thực hiện giám định các tổn thất được bảo hiểm, đánh giá xác định mức độ thiệt hại từ đó quyết định mức bồi thường. - Phòng quản lý nghiệp vụ và thị trường: quản lý tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm hiện có của công ty, hướng dẫn và chỉ đạo các đơn vị thực hiện. Phòng còn có nhiệm vụ tìm hiểu và nghiên cứu những nghiệp vụ bảo hiểm mới. Các phòng nghiệp vụ của công ty phụ trách việc triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc quyền hạn quản lý của mình trên một mạng lưới chi nhánh, văn phòng bảo hiểm, đại lý, cộng tác viên trên khắp toàn quốc bao gồm trên 20 chi nhánh, 400 văn phòng đại diện, tổng đại lý và đại lý ở khắp các tỉnh. Riêng trên địa bàn Hà Nội tính đến thời điểm này đã có 7 văn phòng khu vực. Các nghiệp vụ bảo hiểm công ty PJICO triển khai. ỉ Nghiệp vụ bảo hiểm Hàng hải. - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển, đường bộ, đường sông, đường hàng không. - Bảo hiểm thân tàu. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu. - Bảo hiểm nhà thầu đóng tàu. - Bảo hiểm tàu sông, tàu cá. ỉNghiệp vụ bảo hiểm Phi hàng hải. - Bảo hiểm xe cơ giới. - Bảo hiểm kết hợp con người. - Bảo hiểm học sinh, giáo viên. - Bảo hiểm bồi thường cho người lao động. - Bảo hiểm khách du lịch. - Bảo hiểm hành khách. ỉNghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản. - Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng lắp đặt. - Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. - Bảo hiểm máy móc. - Bảo hiểm trách nhiệm. - Bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê. ỉNghiệp vụ tái bảo hiểm . - Nhượng và nhận tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm. Ngoài ra PJICO thực hiện việc giám định kiểm tra, tính toán phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba ...theo yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của mọi tổ chức, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh. 2.1 Về kế hoạch kinh doanh chung của công ty. Là một doanh nghiệp trẻ, lại hoạt động dưới mô hình hoàn toàn mới mẻ, tuy không được hưởng bất kỳ ưu đãi nào như các doanh nghiệp cổ phần hoá, công ty PJICO đã tự lực tự cường phát huy hết nội lực của mình để tăng doanh thu. Bảng 3: Doanh thu của công ty PJICO (1997- 2002). Chỉ tiêu Năm Kế hoạch (tỷ đồng) Thực hiện (tỷ đồng) Thưc hiện/ kế hoạch (%) Tốc độ tăng so với năm trước (%) 1997 77,05 99,2 129 - 1998 114,08 117 103 18 1999 134,55 120 89 2,6 2000 138,00 144 104 20 2001 155,00 164,6 106 14 2002 186,20 211,9 114 28,7 ( Nguồn: Phòng tổng hợp ) Như vậy, doanh thu của công ty liên tục tăng, đồng thời công ty thường xuyên đạt vượt mức kế hoạch đặt ra. Để đạt được những thành công đó, ngay sau khi ra đời PJICO đã nhanh chóng triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm, số lượng các nghiệp vụ ngày càng nhiều và đa dạng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm phong phú của khách hàng. Từ chỗ ban đầu công ty hầu như chỉ tiến hành bảo hiểm cho các khách hàng là các cổ đông, đến nay 77% doanh thu của công ty là từ khách hàng ngoài cổ đông. Công ty đã bảo hiểm và đồng bảo hiểm nhiều công trình lớn giá trị hàng triệu đôla Mỹ như khách sạn Hà Nội Daewoo, cao ốc HITC tại Hà Nội, Diamon Plaza tại TP. Hồ Chí Minh, nhiều gói thầu cầu, đường trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, đường xuyên á, nhà máy thuỷ điện Sông Hinh, đường dây tải điện Hàm Thuận- Đami, các tàu dầu lớn của Petrolimex, VOSCO đã liên tục tham gia bảo hiểm tại PJICO. Ngoài ra, công ty đã có nhiều cố gắng tập trung khai thác mở rộng mạng lưới khách hàng bằng cách thành lập các chi nhánh, văn phòng bảo hiểm tại khắp các tỉnh thành phố trong cả nước. Đây cũng là một trong những nhân tố làm tăng trưởng doanh thu của công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng đã chú trọng sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư lại cho nền kinh tế thông qua việc cho khách hàng vay tín dụng, đầu tư tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Từ khi thành lập công ty đã từng bước củng cố vị trí, chỗ đứng cũng như uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm. Trong 7 năm hoạt động doanh thu phí bảo hiểm liên tục tăng nhanh và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân là 39%. Lợi nhuận: Tính đến ngày 31/12/2002 công ty đã tạo ra 72 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế và trên 35 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế. Hàng năm chia lãi cổ tức cho các cổ đông ở mức ổn định bình quân 1,2%/tháng cao gấp 1,5 đến 2 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng. Bảo toàn và phát triển vốn: Sự tăng trưởng của PJICO không chỉ thể hiện qua lợi nhuận mà còn thể hiện thông qua sự tích luỹ vốn trong 7 năm hoạt động. Nguồn vốn chủ sở hữu được bảo toàn và phát triển. Vốn kinh doanh không ngừng được bổ sung bằng các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Đến ngày 31/12/2002 số dư quỹ dự phòng trên 85 tỷ và nâng vốn kinh doanh của công ty lên trên 135 tỷ gấp hơn 4 lần vốn góp ban đầu của các cổ đông. Thuế nộp ngân sách: Công ty bảo hiểm PJICO luôn thực hiện đầy đủ và làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách đối với nhà nước. Mặc dù mới được thành lập và cũng không được hưởng ưu đãi nào của Nhà nước nhưng sau 7 năm hoạt động công ty đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước trên 45 tỷ đồng. Đây là một doanh nghiệp mới được thành lập lại hoạt động dưới mô hình công ty cổ phần, tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đầy khó khăn, thị trường còn nhỏ. Nhưng với ý thức tự lực tự cường, quyết tâm của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty, cùng sự giúp đỡ của các ban ngành PJICO đã không ngừng vươn lên nhằm chiếm giữ thị phần, nâng cao uy tín của mình trên thị trường. Sự ra đời và hoạt động của công ty đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm lao động tại khu vực Hà Nội và tại các địa phương mà công ty mở chi nhánh. 2.2 Về thị phần của công ty. Mặc dù mới hoạt động được hơn 7 năm, bên những doanh nghiệp có bề dày kinh nghiêm như Bảo Việt và hàng loạt các doanh nghiệp bảo hiểm mới được thành lập đã làm cho tình hình cạnh tranh trên thị trường diễn ra ngày càng gay gắt. Tuy nhiên với sự chỉ đạo của HĐQT, của các ban ngành có liên quan, sự ủng hộ hợp tác giúp đỡ nhiệt tình của các cổ đông sáng lập, các khách hàng và đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên, công ty đã từng bước phát triển, tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bảng 4: Thị phần thị trường bảo hiểm phi nhân thọ năm 2002. STT Công ty Doanh thu (tỷ đồng) Tăng trưởng (%) Thị phần (%) 1 Bảo Việt 1.240 22,0 40,4 2 Bảo Minh 862 53,8 28,1 3 PVIC 445 193,0 14,5 4 PJICO 176 27,1 5,7 5 Bảo Long 34 30,7 1,1 6 PTI 113 22,0 3,7 7 Các công ty bảo hiểm khác - - 6,5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2002) Từ số liệu trên ta thấy, thị phần của PJICO đứng thứ tư chỉ sau: Bảo Việt, Bảo Minh, PVIC. Tuy nhiên tiềm năng của thị trường vẫn còn rất lớn, công ty cần tập trung khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm. 2.3 Về công tác tổ chức, cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo. Để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, công ty PJICO không chỉ tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, các thành phố lớn mà còn triển khai ở các tỉnh từ Bắc tới Nam. Trong năm 2002 công ty đã bỏ mô hình phòng quản lý bảo hiểm Hà Nội (mô hình tiền thân của chi nhánh hay hội sở Hà Nội) do hoạt động không hiệu quả. Các văn phòng bảo hiểm tại Hà Nội trước kia chịu sự quản lý của phòng quản lý bảo hiểm Hà Nội nay chịu sự quản lý trực tiếp của công ty. Công ty đã từng bước kiện toàn cán bộ lãnh đạo cho các phòng ban và các chi nhánh. Đặc biệt từ 1/9/2002 về cơ bản công ty đã phân cấp việc bổ nhiệm trưởng phó phòng ban thuộc chi nhánh cho giám đốc các chi nhánh. Công ty đã phân cấp toàn bộ việc tuyển dung, ký kết hợp đồng lao động có thời hạn cho các giám đốc chi nhánh nhằm tăng cường tính chủ động của các chi nhánh trong công tác lao động tiền lương. Công ty đã thực hiện việc trả lương kết hợp giữa hai hình thức: trả lương cơ bản và trả lương theo sản phẩm. Việc trả lương như vậy là rất phù hợp, thông qua hình thức trả lương này công ty có thể một mặt đưa ra những chính sách nhằm hỗ trợ và giữ cán bộ, mặt khác kích thích người lao động nâng cao hơn nữa năng suất khai thác, từ đó làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Ngoài ra công ty đã có những chính sách khen thưởng khích lệ kịp thời đối với những cá nhân, đơn vị đạt doanh thu cao trong công ty. Bảng 5: Thu nhập của cán bộ công nhân viên tại PJICO. Chỉ tiêu Năm Số lao động (người) Lương bình quân (triệu đồng/người/tháng) 1997 175 1,56 1998 200 1,73 1999 280 1,8 2000 300 1,82 2001 342 1,85 2002 372 1,85 ( Nguồn: Phòng tổ chức cán bộ) Như vậy thu nhập bình quân của người lao động là tương đối cao so với mức thu nhập chung của xã hội, đồng thời thu nhập của năm sau cao hơn năm trước. Điều đó thể hiện sự nỗ lực của bản thân những cán bộ công nhân viên, sự đoàn kết trong nội bộ công ty và sự quan tâm giúp đỡ của ban lãnh đạo công ty trong thời gian qua. Công ty đã tích cực tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên nhằm nâng cao hơn nữa kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, đồng thời có những chính sách hỗ trợ họ trong quá trình khai thác. Cụ thể trong năm 2002: Tại văn phòng công ty đã tổ chức một lớp đào tạo về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, hai khoá đào tạo đại lý chuyên nghiệp, một khoá đào tạo nghiệp vụ giám định bồi thường bảo hiểm hàng hải và tài sản hoả hoạn, một khoá tập huấn nghiệp vụ kế toán cho tất cả các đơn vị. Công ty đã cử nhiều cán bộ đi học tập, tham dự hội thảo, tham quan tại nước ngoài về các lĩnh vực bảo hiểm, tái bảo hiểm, quản lý nhân sự. Nhìn chung công tác tổ chức cán bộ, lao động- tiền lương đã có sự thay đổi cơ bản nhằm tạo ra sự chủ động tốt cho các đơn vị, khuyến khích được các cán bộ khai thác trực tiếp, cán bộ công nhân viên gắn bó lâu dài với công ty. Tuy nhiên công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ của công ty vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về phát triển của công ty. Từ những kết quả đã đạt được ta có thể khẳng định rằng việc sáng lập công ty cổ phần bảo hiểm PJICO là một dự án đầu tư dài hạn và rất khả thi, vừa đạt hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội cao. 3. Phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới. 3.1 Những định hướng lớn năm 2003. Nâng cao năng lực cạnh tranh để tiếp tục phát triển và nâng cao thị phần. Thực hiện chiến lược phát triển kết hợp với kết quả, trong đó ưu tiên chiến lược phát triển (gia tăng, khách hàng, doanh số, thị phần ...) Đa dạng hoá danh mục đầu tư, phát triển mạnh việc tham gia đầu tư vào các công ty cổ phần có chất lượng và các dự án có hiệu quả cao... 3.2 Các mục tiêu kinh doanh năm 2003. Tổng doanh thu: 300 tỷ đồng, tăng trưởng 42% trong đó: Phí bảo hiểm gốc: 245 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2002. Thu nhận tái: 25 tỷ đồng, tăng 78%. Hoa hồng nhượng tái: 18 tỷ đồng, tăng 35%. Thu đầu tư: 12 tỷ đồng, tăng 26% Lợi nhuận trước thuế: 18 tỷ đồng, tăng 50%. Cổ tức: 15%. 3.3 Các nhiệm vụ chủ yếu: Tập trung mọi nguồn lực cho việc phát triển kinh doanh, phát triển khách hàng. Công ty sẽ xúc tiến mạnh mẽ các chương trình cụ thể để phát triển doanh thu từng nghiệp vụ bảo hiểm, đặc biệt là tập trung phát triển các nhóm khách hàng: Khai thác các đầu mối xuất nhập khẩu và các Tổng công ty có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn; Phát triển đội tầu PJICO (mục tiêu tăng thêm 10 - 15 tầu); tăng cường khai thác bảo hiểm cháy đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ; tập trung khai thác các dự án của ngành giao thông, điện lực, dệt may, xi măng, giấy, thép. Đẩy mạnh công tác đầu tư: + Sang năm 2003 sẽ xúc tiến đầu tư vào một số dự án khả thi: liên doanh xây dựng khách sạn tại Hạ Long; góp vốn vào công ty cổ phần đầu tư và phát triển đường cao tốc của Bộ Giao thông vận tải; tham gia mua cổ phần của một số công ty cổ phần hoá trong ngành xăng dầu, tiếp tục đầu tư trên thị trường chứng khoán. + Nghiên cứu thành lập công ty bất động sản PJICO, góp vốn xây dựng chung cư tại hai đô thị mới Yên Hoà, kinh doanh tại hai thành phố lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. + Đầu tư lợi thế thương mại của khu đất Khánh Hoà, hoàn thành việc huy động vốn điều lệ và tiếp tục thu hồi hết nợ, chỉ cho vay những đơn vị góp vốn cổ phần và doanh nghiệp Nhà nước. Xây dựng cơ bản: Xúc tiến việc xây dựng trụ sở tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh để hoàn thành vào năm 2004, xây dựng trụ sở PJICO Cần Thơ, PJICO Quảng Ninh, PJICO Huế, đầu tư đất tại một số chi nhánh chưa có trụ sở như: Đồng Nai, Thái Nguyên... Đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin trong công ty, coi đây là nhân tố quan trọng nâng cao chất lượng chỉ đạo điều hành và thực thi công việc, nâng cao chất lượng dịch vụ, cải tiến phong cách làm việc và nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí hành chính... Tổ chức tốt Đại hội cổ đông vào tháng 4/2003 (chiến lược phát triển, sửa đổi điều lệ, bổ sung vốn điều lệ, nhân sự nhiệm kỳ 3). Kiện toàn một bước công tác tổ chức bộ máy và cán bộ lãnh đạo: xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch, quy hoạch cán bộ và đào tạo cán bộ cho giai đoạn 2003 - 2005. Kiện toàn một bước công tác giám định, bồi thường để nâng cao chất lượng dịch vụ chung, tăng cường công tác phòng chống trục lợi, đảm bảo tỷ lệ bồi thường thường xuyên chung dưới 50%. Tiếp tục triển khai trung tâm cứu hộ, sửa chữa xe cơ giới tại Hải Phòng. Phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp. II. phân tích Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO. Như trên đã phân tích, xe cơ giới bao gồm rất nhiều loại như; xe ôtô chở khách, xe ôtô chở hàng, xe máy, xe lam... Nhưng nhìn chung được chia thành 2 loại là xe ôtô và xe môtô (xe máy). Vì vậy nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng được chia thành 2 nghiệp vụ nhỏ là bảo hiểm vật chất xe ôtô và bảo hiểm vật chất xe máy. Nhưng thực tế tại PJICO loại hình bảo hiểm vật chất xe cơ giới chỉ áp dụng đối với xe ôtô, không áp dụng đối với xe máy. Sở dĩ như vậy vì; - Xe môtô có giá trị nhỏ vì vậy khi tổn thất xảy ra, chi phí sửa chữa cũng không lớn như đối với xe ôtô, chủ xe có thể tự gánh chịu thiệt hại mà không gây ảnh hưởng lớn về mặt tài chính đối với chủ xe. - Còn về phía công ty, do số người tham gia bảo hiểm rất ít không đảm bảo được quy luật số lớn, vì vậy nếu có người tham gia thì phí bảo hiểm sẽ rất lớn. Hơn nữa đây là một nghiệp vụ rất khó kiểm soát và quản lý do tổn thất xảy ra nhỏ, vụn vặt. Như vậy, có thể thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe môtô không hiệu quả đối với cả người tham gia và cả công ty bảo hiểm. Hiện nay ở hầu hết các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ, trong đó có PJICO nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới chủ yếu tập trung vào bảo hiểm vật chất xe ôtô, nghiệp vụ này đã và đang rất phát triển. Để thấy được điều này chúng ta sẽ đi nghiên cứu sâu hơn về thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO. 1. Công tác khai thác. Khai thác là khâu đầu tiên và quan trọng nhất khi triển khai bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào. Khai thác quyết định doanh thu và hiệu quả kinh doanh của công ty, đồng thời nó có ảnh hưởng rất lớn đến các khâu còn lại của nghiệp vụ. Đối với bảo hiểm vật chất xe ôtô, khai thác chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng do đây là loại hình bảo hiểm tự nguyện, tỷ lệ rủi ro cao. Vì vậy khâu khai thác được công ty hết sức quan tâm. Công ty bảo hiểm PJICO ra đời vào đúng thời điểm thị trường bảo hiểm ở Việt Nam đang rất sôi động, ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm kinh doanh trên lĩnh vực bảo hiểm Phi Nhân Thọ ra đời. Trong đó nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô luôn là nghiệp vụ mang lại doanh thu và lợi nhuận cao cho các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ. Đối với PJICO đây cũng là một nghiệp vụ mang lại doanh thu và lợi nhuận cao cho công ty, nhưng ngay từ khi ra đời nghiệp vụ này đã vấp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Do vậy, một vài năm gần đây việc triển khai nghiệp vụ này gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt trong khâu khai thác. Khâu khai thác thực chất là quá trình vận động, tuyên truyền và giải thích cho chủ xe thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô. Từ đó tiến hành thẩm định, đánh giá rủi ro và đi đến kí kết hợp đồng, thu phí bảo hiểm. Có thể nói đây là công việc hết sức khó khăn đòi hỏi cán bộ khai thác phải vận dụng linh hoạt các chính sách về giá cả, sản phẩm, phân phối, dịch vụ sau khi bán..., phải làm tốt công tác này để thu hút ngày càng đông số người tham gia bảo hiểm, từ đó mới đảm bảo quy luật “số đông bù số ít”, giúp cho công ty tồn tại và phát triển. Việc thu hút ngày càng nhiều các chủ xe tham gia bảo hiểm có vai trò đặc biệt quan trọng, từ đó làm tăng quỹ tài chính bảo hiểm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bồi thường khi xe không may gặp phải rủi ro gây thiệt hại về mặt tài sản, nhanh chóng ổn định về tài chính cho khách hàng. Từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ của công ty, đem lại lòng tin cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm. Chính sự hài lòng của khách hàng sẽ tạo ra sức cạnh tranh mới cho sản phẩm của công ty. Bên cạnh đó, việc tăng quỹ tài chính bảo hiểm còn giúp công ty trang trải các chi phí như chi đề phòng- hạn chế tổn thất, chi hoa hồng, chi quản lý... đồng thời mang lại lợi nhuận cho công ty. Nhận thức được tầm quan trọng của khâu khai thác, công ty đã đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các biển quảng cáo để giúp các tầng lớp dân cư có nhận thức sâu hơn về mục đích và ý nghĩa của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô từ đó nâng cao tính tự giác tham gia bảo hiểm của các chủ xe. Bên cạnh đó công ty đã không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động của mình, tới nay công ty đã có trên 20 chi nhánh, 400 văn phòng đại diện, tổng đại lý và đại lý khắp cả nước để thực hiện việc giới thiệu và chào bán các sản phẩm bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, thực hiện việc thu phí một cách nhanh chóng, tạo điều kiện cho các chủ xe tham gia bảo hiểm một cách thuận tiện, dễ dàng và tốn ít thời gian nhất. Với sự cố gắng phấn đấu hết mình của ban lãnh đạo công ty cùng với sự lỗ lực không mệt mỏi của các cán bộ công nhân viên, các đại lý, tổng đại lý, các chi nhánh, văn phòng trên khắp cả nước, PJICO đã đạt được một số kết qủa về công tác khai thác trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô như sau: Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng; số xe lưu hành trong cả nước liên tục tăng với tốc độ ngày càng cao, đặc biệt năm 2002 tăng 37,16% so với năm 2001 (tương ứng với 223.480 xe) đưa tổng số xe cả nước lên 825.000 xe. Sở dĩ số lượng xe tăng nhanh là do; đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách đổi mới khuyến khích phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty, tổ chức trong nước và nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam; đồng thời xã hội càng phát triển thì nhu cầu đi lại của người dân ngày càng cao...chính những điều này đã làm cho nhu cầu vận chuyển ngày càng cao, vì vậy trong thời gian gần đây số lượng xe ôtô tăng lên một cách nhanh chóng. Từ đó đã khẳng định được sự cơ động, tính linh hoạt của các phương tiện xe cơ giới nói chung và xe ôtô nói riêng. Có thể nói đây là một thị trường đầy tiềm năng đối với các công ty bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam trong đó có PJICO. Mặc dù số xe lưu hành tăng với tốc độ cao nhưng số lượng xe tham gia bảo hiểm tại PJICO vẫn ở mức thấp, chiếm tỷ lệ nhỏ so với số lượng xe đang lưu hành. Cụ thể; năm 1997, 1998 tỷ lệ khai thác ở mức thấp tương ứng là 0,57% và 0,59% đồng thời tốc độ phát triển của xe tham gia bảo hiểm cũng ở mức thấp 10,82%. Sở dĩ như vậy là vì; mặc dù thành lập vào năm 1995 nhưng trong những năm đầu công ty hầu như chỉ triển khai trong phạm vi nội bộ các cổ đông, chỉ đến cuối năm 1996 đầu năm 1997 công ty mới bắt đầu triển khai rộng rãi ra bên ngoài do vậy các cán bộ khai thác chưa có kinh nghiệm, lòng tin của khách hàng đối với công ty còn bị hạn chế. Tuy nhiên bước sang năm 1999, 2000, 2001 và các năm tiếp theo công ty đã từng bước tạo được lòng tin cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm, đặc biệt với sự lỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên, công ty đã từng bước phát triển, tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong xu thế phát triển chung của toàn công ty, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô cũng ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Cụ thể; tỷ lệ khai thác năm 1999 là 0,78%, năm 2000 là 0,94% và năm 2001 là 1,26% đưa doanh thu phí bảo hiểm từ 7.432 triệu đồng vào năm 1997 lên đến 22.802 triệu đồng vào năm 2001 tăng 7.330 triệu đồng so với năm 2000. Đặc biệt năm 1999 mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tài chính của các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đồng thời tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước ở mức thấp nhưng tốc độ tăng của xe tham gia bảo hiểm tại PJICO vẫn vươn lên và đạt mức 40,26%, với tỷ lệ khai thác đạt 0,78%. Đây là minh chứng thật sự cho sự phát triển vững chắc của PJICO tạo đà cho sự phát triển của những năm tiếp theo. Năm 2002, do phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt hơn từ phía các công ty khác, vì vậy tỷ lệ khai thác năm 2002 bị sụt giảm chút ít so với năm 2001 xuống còn 1,15%. Tuy nhiên do tốc độ phát triển của số xe lưu hành năm 2002 là rất cao so với năm 2001 và đạt 137,16% (tăng 37,16% so với năm 2001) nên tốc độ tăng của xe tham gia bảo hiểm vẫn đạt 24,42% đưa doanh thu phí bảo hiểm năm 2002 lên đến 30.370 triệu đồng. Chi phí khai thác bình quân/ 1 xe tham gia bảo hiểm nhìn chung là tương đối cao. Đặc biệt năm 1997 do mới tiếp cận với thị trường ngoài cổ đông vì vậy chi phí khai thác bình quân/1 xe tham gia bảo hiểm là 109.810 đồng/xe. Nhưng chi phí này đã được giảm vào những năm tiếp theo, do công ty đã có được những mối quan hệ tốt với khách hàng vì vậy tỷ lệ tái tục hợp đồng vào những năm tiếp theo cao từ đó làm giảm chi phí khai thác của công ty. Tuy nhiên năm 1999 do chịu ảnh hưởng của nền kinh tế vì vậy để khai thác được một hợp đồng bảo hiểm mới phải bỏ ra chi phí nhiều hơn, mức tăng chi phí cho những hợp đồng mới đó đã làm tăng chi phí bình quân/1 xe tham gia bảo hiểm. Năm 2000, cán bộ khai thác đã cố gắng tiết kiệm, tránh lãng phí trong khâu khai thác do đó chi phí khai thác bình quân/ 1 xe giảm xuống còn 96.179 đồng/xe. Đến năm 2001, 2002 do các công ty bảo hiểm ra sức cạnh tranh do đó chi phí khai thác như chi phí chăm sóc khách hàng, chào hàng...tăng cao, đã làm cho chi phí khai thác bình quân tăng, cụ thể năm 2001 là 100.645 đồng/xe và năm 2002 là 107.222 đồng/xe. Những con số năm 2002 cho thấy thị trường bảo hiểm vật chất xe ôtô ở Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn. Doanh thu phí bảo hiểm những năm qua đã tăng trưởng cao và ổn định, PJICO đã tìm được những khách hàng lớn trung thành với công ty, cho đến nay công ty không còn phụ thuộc vào lượng khách hàng là các thành viên như trước đây. Tuy nhiên công ty cần không ngừng mở rộng quan hệ, tìm kiếm khách hàng để củng cố hơn nữa năng lực tài chính của mình. Mặc dù trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô công ty đã gặp rất nhiều khó khăn và còn nhiều tồn tại. Tuy nhiên với sự phấn đấu không mệt mỏi, doanh thu của nghiệp vụ này đã giữ vị trí quan trọng trong tổng doanh thu của toàn công ty. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Nhìn vào số liệu bảng 7 ta thấy doanh thu của tất cả các nghiệp vụ đều có xu hướng tăng, đặc biệt doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô từ năm 1997 đến năm 2000 chiếm một tỷ lệ khá cao trong cơ cấu doanh thu và giao động từ 8,64% đến 13%, tuy nhiên trong thời gian này doanh thu của nghiệp vụ này vẫn chỉ đứng thứ hai sau doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu. Mặc dù vậy từ năm từ năm 1997 đến năm 2000 doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô vẫn tiếp tục tăng một cách ổn định và đến năm 2001, 2002 doanh thu từ nghiệp vụ này đã có những bước đột phá lớn, từ chỗ chiếm 13% tỷ trọng trong cơ cấu doanh thu thì năm 2001, 2002 con số đó đã lên đến 16,49% và 17,28% vươn lên đứng vị trí hàng đầu trong số các nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty đã triển khai. Qua phân tích ta thấy về công tác khai thác có thể thấy PJICO đã từng bước khẳng định được vị trí và chỗ đứng của mình, đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô. Điều đó được thể hiện rất rõ qua số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm và doanh thu phí của nghiệp vụ tăng khá đều đặn, tỷ lệ tái tục lớn. Tuy nhiên so với tổng số xe lưu hành thì số lượng xe tham gia bảo hiểm tại PJICO còn rất nhỏ. Mà nguyên nhân đầu tiên phải kể đến những đối thủ cạnh tranh của công ty như Bảo Minh, PVIC, PTI... và đặc biệt là Bảo Việt, Bảo Việt có mạng lưới phân phối trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, họ có bề dày kinh nghiệm trong quản lý và khai thác. Chính vì vậy mà kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô ở Bảo Việt rất cao. 2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Theo thống kê của Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, hàng năm số vụ tai nạn giao thông ở nước ta liên tục tăng lên trong đó số vụ tai nạn giao thông đường bộ đặc biệt nghiêm trọng đang có xu hướng gia tăng. Năm 1999 là 20.733 vụ, năm 2000 là 23.587 vụ, năm 2001 là 25.040 vụ và năm 2002 con số này đã lên tới 29.386 vụ. Tai nạn giao thông không chỉ gây thiệt hại lớn về người và tài sản cho chính các chủ phương tiện tham gia giao thông không may gặp rủi ro mà còn gây thiệt hại lớn cho xã hội. Hàng năm tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người dân và gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng về tài sản, vì vậy nó luôn là mối đe doạ lớn đối với mọi thành viên trong xã hội. Nhằm hạn chế thiệt hại và tai nạn giao thông xảy ra các công ty bảo hiểm đã và đang có những đóng góp hết sức tích cực, trong đó có PJICO. Kể từ khi được thành lập PJICO đã rất chú trọng đến công tác đề phòng và hạn chế tổn thất vì đây là khâu không thể thiếu được của bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào. Nó không chỉ là trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng như các chủ phương tiện giao thông- người đóng vai trò trực tiếp trong công tác đề phòng tai nạn và khắc phục hậu quả khi không may gặp rủi ro mà quan trọng hơn nó còn là quyền lợi của các công ty bảo hiểm vì nếu thực hiện tốt khâu này sẽ góp phần làm giảm số vụ tai nạn xảy ra từ đó làm giảm chi bồi thường của nghiệp vụ này, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho công ty. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác đề phòng- chế tổn thất, trong những năm qua hàng năm PJICO đã trích một khoản tiền nhất định từ doanh thu phí để thực hiện công tác này. Cụ thể tình hình thực hiện công tác đề phòng- hạn chế tổn thất ở PJICO được thể hiện qua bảng sau: Qua số liệu bảng 8 ta thấy: chi cho đề phòng- hạn chế tổn thất năm 1997 là 445 triệu đồng (tương ứng với 5,99% doanh thu), năm 1998 tăng lên là 517 triệu đồng (tương ứng với 6,21% doanh thu), năm 1999 là 734 triệu đồng (tương ứng với 6,34% doanh thu), năm 2000 tăng lên là 1.008 triệu đồng (chiếm 6,51% doanh thu), năm 2001 là 1.521 triệu đồng (chiếm 6,67% doanh thu) và đến năm 2002 con số này là 2.077 triệu đồng (chiếm 6.84% doanh thu). Như vậy chi cho đề phòng- hạn chế tổn thất của nghiệp vụ này ngày càng tăng một cách tuyệt đối đồng thời chiếm một tỷ lệ ngày càng cao trong doanh thu nghiệp vụ. Qua đó có thể khẳng định rằng công ty ngày càng quan tâm hơn đến công tác đề phòng- hạn chế tổn thất, đồng thời còn một nguyên nhân khác nữa là số vụ tai nạn xảy ra ngày càng nhiều hơn khiến cho chi hạn chế tổn thất ngày càng lớn. Mặc dù tốc độ tăng của chi đề phòng- hạn chế tổn thất cao thấp tuỳ theo từng năm. Cụ thể, tốc độ tăng của chi đề phòng- hạn chế tổn thất năm 1998 là 16,18%, về số tuyệt đối là 72 triệu đồng, năm 1999 là 41,79%, về số tuyệt đối là 217 triệu đồng, năm 2000 là 37,33% về số tuyệt đối là 247 triệu đồng, năm 2001 là 50,89% về số tuyệt đối là 513 triệu đồng và năm 2002 là 36,55% về số tuyệt đối là 556 triệu đồng. Tuy nhiên cùng với sự gia tăng của chi đề phòng- hạn chế tổn thất thì số vụ tai nạn cũng ngày càng tăng, cụ thể tốc độ tăng của tai nạn giao động từ 12,85% đến 48,61%. Qua đó ta không thể khẳng định được rằng chi đề phòng- hạn chế tổn thất không phát huy tác dụng, bởi vì nếu không có khoản chi này thì số vụ tai nạn còn xảy ra nhiều hơn rất nhiều và tổn thất có thể còn lớn hơn khiến cho chi bồi thường cũng lớn hơn. Như vậy, với mức chi phí khoảng 5,99%- 6,84% công ty đã góp phần hạn chế số vụ tai nạn giao thông xảy ra, đồng thời hạn chế mức độ thiệt hại khi tai nạn giao thông xảy ra. Công ty đã sử dụng khoản chi này như sau: - Tổ chức các cuộc vận động tuyên truyền phổ biến về luật lệ an toàn giao thông nhằm nâng cao ý thức của chủ xe, lái xe và mọi người trong xã hội thông qua các hình thức và biện pháp như quảng cáo, lắp đặt các biển báo, panô áp phích... - Hàng năm công ty tiến hành tổ chức khen thưởng cho các cá nhân, các tổ chức thực hiện tốt công tác đề phòng tổn thất. - Hỗ trợ tổ chức các cuộc thi lái xe giỏi, phổ biến các kinh nghiệm và biện pháp cho lái xe để sử lý các tình huống tai nạn giao thông xảy ra nhằm hạn chế tổn thất xảy ra thêm. - Tiến hành xây dựng các biển báo tại các đầu mối giao thông quan trọng, nơi có chướng ngại vật và những địa điểm hay xảy ra tai nạn. 3. Công tác giám định và bồi thường. 3.1 Công tác giám định. Giám định là công việc hết sức quan trọng, là cơ sở cho việc giải quyết bồi thường được chính xác. Việc bồi thường có được nhanh chóng hợp lý hay không phụ thuộc rất lớn vào kết quả giám định. Khi người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro, công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giám định để xác định nguyên nhân gây ra tai nạn, mức độ thiệt hại thực tế và xác định được tai nạn đó có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, đồng thời trong quá trình giám định các giám định viên đưa ra các biện pháp kịp thời nhằm hạn chế và khắc phục hậu quả của tai nạn. Giám định tổn thất xe cơ giới là công việc hết sức khó khăn, để có được kết quả giám định chính xác, kịp thời đòi hỏi giám định viên phải là người có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm và một yêu cầu không thể thiếu được đối với mỗi giám định viên là đạo đức nghề nghiệp. Công tác giám định góp phần ngăn chặn được hành vi trục lợi bảo hiểm, đây là hành vi phổ biến trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô. Vì vậy nếu giám định viên là người không có đạo đức nghề nghiệp thì không những không ngăn chặn được hành vi trục lợi bảo hiểm của người tham gia mà còn làm cho hành vi trục lợi trở lên trầm trọng hơn rất nhiều do sự cấu kết giữa người tham gia bảo hiểm và giám định viên. PJICO đã có những quy định rất chặt về công tác giám định. Cụ thể: ỉ Những vụ tai nạn ước tính giá trị thiệt hại tài sản từ 1 triệu đồng trở lên PJICO sẽ tiến hành giám định với sự có mặt của chủ xe và các bên có liên quan để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại của tài sản: - Đối với các vụ tai nạn xảy ra trên địa bàn Hà Nội việc giám định được Phòng giám định- bồi thường của tổng công ty trực tiếp thực hiện. Còn đối với các vụ tai nạn xảy ra tại các địa bàn khác thì việc giám định do các giám định viên thuộc chi nhánh gần nhất của PJICO thực hiện. Ngoài ra đối với những vụ tổn thất nghiêm trọng, mức độ phức tạp cao thì công ty sẽ thuê các giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp thực hiện công việc này. Tuy nhiên đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô rất ít khi cần thuê các giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp do mức độ phức tạp không cao. Trừ trường hợp chủ xe không thống nhất về nguyên nhân và mức độ thiệt hại do công ty xác định, khi đó hai bên sẽ chọn giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp thực hiện việc giám định. Kết luận của giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp là căn cứ để xác định thiệt hại. Trong trường hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp khác với kết luận của giám định viên công ty thì công ty phải chịu chi phí giám định. Trường hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp trùng với kết luận của giám định viên công ty thì chủ xe phải chịu chi phí giám định. ỉĐối với những vụ tai nạn ước tính giá trị thiệt hại tài sản nhỏ (dưới 1 triệu đồng) mà không có điều kiện giám định hoặc cảnh sát giao thông không lập biên bản thì chủ xe phải khai báo đầy đủ, chi tiết nguyên nhân, diễn biến vụ tai nạn, mức độ thiệt hại và thu thập đầy đủ chứng từ để PJICO làm căn cứ xét bồi thường. Kết quả giám định của PJICO được thể hiện qua bảng sau: Từ số liệu bảng 9 ta thấy, nhìn chung chi phí giám định có xu hướng tăng qua các năm do số vụ tai nạn phát sinh ngày càng tăng. Nhưng tỷ lệ chi phí giám định/doanh thu của nghiệp vụ này thường thay đổi qua các năm và thường chiếm từ 0,84% đến 1,3% so với doanh thu nghiệp vụ, đồng thời chi phí giám định bình quân một vụ cũng thay đổi lên xuống qua các năm vì chi phí giám định cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như; số vụ tai nạn phát sinh trong năm, đặc điểm của các vụ tai nạn phát sinh, trình độ của các giám định viên... Năm 1997, số vụ tai nạn phát sinh được giám định là 716 vụ, với chi phí giám định là 68 triệu đồng (chiếm 0,91% doanh thu).Sang năm 1998 số vụ tai nạn tăng không nhiều là 808 vụ nhưng chi phí giám định lại tăng lên đến 108 triệu đồng (chiếm 1,3% doanh thu phí bảo hiểm) làm cho chi phí bình quân một vụ tăng lên là 133.663 đồng /vụ. Nguyên nhân của sự đột biến này là do có nhiều vụ tai nạn phức tạp làm cho công tác giám định gặp nhiều khó khăn, chi phí giám định tốn kém đồng thời còn phải kể đến nguyên nhân từ phía những giám định viên do họ chưa có nhiều kinh nghiêm nên công tác giám định còn lúng túng, chưa linh hoạt làm phát sinh những chi phí không cần thiết. Những năm sau công ty đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn của các giám định viên, đồng thời các giám định viên cũng tích cực học hỏi, tích luỹ kinh nghiêm nhờ vậy chi phí giám định giảm một cách tương đối, cụ thể năm 1999, 2001 chi phí giám định chiếm 0,84% và 0,91% doanh thu từ nghiệp vụ này cùng với điều đó là chi phí giám định bình quân /1 vụ cũng giảm xuống còn 97.000 đồng /vụ và 95.021 đồng /vụ. Tuy nhiên năm 2000 và 2001 do mức độ trầm trọng của các vụ tai nạn cao, phát sinh nhiều vụ tai nạn xảy ra tại những địa bàn xa gây nhiều khó khăn cho công tác giám định làm cho chi phí giám định bình quân một vụ tăng, mặc dù vậy vẫn nhỏ hơn chi phí giám định của năm 1998, với mức chi phí bình quân một vụ năm 2000 là 103.869 đồng /vụ và năm 2002 là 104.789 đồng /vụ. Nhìn chung trong thời gian qua công tác giám định đã đạt được một số thành tựu đáng kể; số lượng và chất lượng của giám định viên ngày càng tăng, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tế, có trình độ chuyên môn vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao; do thực hiện tốt công tác giám định nên đã phát hiện ra nhiều vụ khách hàng gian lận nhằm chiếm đoạt số tiền bồi thường từ phía công ty bảo hiểm, tránh thiệt hại cho công ty hàng trăm triệu đồng hàng năm. 3.2 Công tác bồi thường . Bồi thường là công việc quan trọng mà các công ty bảo hiểm phải làm sau khi tiến hành giám định tổn thất (nếu tổn thất đó thuộc trách nhiệm của công ty). Nó quyết định đến chất lượng dịch vụ, đồng thời tác động lớn đến uy tín và hình ảnh của công ty trên thị trường. Chính vì vậy PJICO đã rất coi trọng việc giải quyết bồi thường cho khách hàng, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của mình, coi đây không chỉ thuần tuý là vấn đề đền bù tài chính mà còn là sự quan tâm, động viên, chia sẻ những khó khăn khi khách hàng gặp rủi ro. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô, công ty phân cấp bồi thường như sau; Đối với các chi nhánh được giải quyết bồi thường không vượt quá 20 triệu đồng/vụ, nếu số tiền bồi thường phát sinh vượt quá số này thì phải chuyển lên cho tổng công ty xem xét giải quyết bồi thường. Còn đối với các văn phòng không được phép giải quyết bồi thường, tất cả các vụ tổn thất đều do chi nhánh hoặc tổng công ty giải quyết. Thông thường việc giải quyết bồi thường cho các chủ xe ôtô khi xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm tại PJICO được thực hiện sau khi chủ xe đã cung cấp cho PJICO đầy đủ những giấy tờ sau; 1. Thông báo tai nạn, giấy yêu cầu bồi thường của chủ xe. 2. Bản sao các giấy tờ sau; - Giấy chứng nhận bảo hiểm. - Giấy phép lái xe. - Giấy chứng nhận đăngký xe. - Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường. 3. Bản kết luận điều tra tai nạn của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn (có xác nhận của công an nơi thụ lý tai nạn). - Hồ sơ hiện trường tai nạn giao thông. - Biên bản khám nghiệm hiện trường. - Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn giao thông. - Biên bản giải quyết tai nạn giao thông. 4. Biên bản hoà giải (trong trường hợp hoà giải). 5. Quyết định của toà án (nếu có). 6. Các giấy tờ liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba(nếu có). 7. Biên bản giám định thiệt hại (nếu có). 8. Các chứng từ, hoá đơn liên quan đến việc sửa chữa hoặc mua mới. 9. Biên bản mất cắp hoặc mất tích xe (trong trường hợp xe bị mất cắp, mất tích). Căn cứ vào các tài liệu trên, PJICO sẽ tiến hành bồi thường một cách nhanh chóng, đầy đủ, thuận tiện và đảm bảo quyền lợi cho các chủ xe. PJICO đã và đang cố gắng hết sức để thời gian bồi thường ngày càng được rút ngắn, đáp ứng được yêu cầu thực tế. Thông thường sau khi tiến hành hoàn tất thủ tục, hồ sơ, chỉ trong vòng 10-15 ngày công ty sẽ giải quyết bồi thường cho chủ xe, thậm chí có những vụ được giải quyết ngay tại chỗ khi đã có đủ hồ sơ cần thiết. Đây là điều rất đáng ghi nhận, thể hiện sự cố gắng của cán bộ công ty trong việc củng cố và nâng cao uy tín và hình ảnh của công ty mình. Tạo ra sự hấp dẫn lớn để thu hút ngày càng nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty, tạo điều kiện cho công tác khai thác được thực hiện thuận lợi hơn. Dưới đây là kết quả giải quyết bồi thường của PJICO đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô trong các năm qua: Nhìn vào số liệu bảng 10 ta thấy: ỉSố vụ tai nạn phát sinh ngày càng tăng. Năm 1997 là 716 vụ, năm 1998 là 808 vụ, năm 1999 là 1.000 vụ, đặc biệt các năm tiếp theo số vụ tai nạn gia tăng rất nhanh với 1.473 vụ trong năm 2000, 2.192 vụ trong năm 2001 và năm 2002 con số này đã lên tới 2.777 vụ. Đây là những con số đáng lo ngại không chỉ đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, các chủ phương tiện tham gia giao thông mà nó còn là mối quan tâm của toàn xã hội. Nguyên nhân làm cho số vụ tai nạn tăng nhanh là do số lượng xe tham gia giao thông ngày càng nhiều, ý thức chấp hành luật lệ giao thông của các chủ phương tiện tham gia giao thông kém... Ngoài ra còn phải kể đến một nguyên nhân khác nữa là sự phát triển về đường sá giao thông không đồng bộ và không tương xứng với sự gia tăng của số lượng xe tham gia giao thông. ỉSố vụ tai nạn đã được giải quyết bồi thường ngày càng tăng; từ chỗ giải quyết được 713 vụ năm 1997, đến năm 2002 con số này đã lên tới 2772 vụ. Đồng thời với số vụ tai nạn được giải quyết tăng thì số vụ tồn đọng cuối năm cũng có chiều hướng giảm một cách tương đối mặc dù về số tuyệt đối thì số vụ tồn đọng vẫn tăng. Đặc biệt năm 2000 số vụ tồn đọng lên đến 7 vụ, sở dĩ như vậy vì trong năm 2000 có một số vụ tai nạn xảy ra vào cuối năm vì vậy công ty không kịp bồi thường nên phải chuyển sang năm sau giải quyết. Để đạt được những kết quả đó phải kể đến những nguyên nhân sau: - Sự lỗ lực phấn đấu và tinh thần làm việc không mệt mỏi của các giám định viên. Nhờ đó việc giám định được thực hiện nhanh chóng, đưa ra những kết luận chính xác hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc bồi thường được kịp thời, chính xác. - Công tác khai thác được thực hiện một cách nghiêm túc và có trách nhiệm cao đã góp phần hỗ trợ tích cực cho công tác giám định – bồi thường. Thông thường trước khi ký hợp đồng bảo hiểm các cán bộ khai thác tiến hành kiểm tra kỹ các giấy tờ có liên quan như bằng lái, giấy đăng ký, đánh giá chính xác giá trị thực tế của xe, hướng dẫn giải thích cho các chủ xe hiểu về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia bảo hiểm. Vì vậy khi tai nạn xảy ra các chủ xe chủ động trong việc chuẩn bị giấy tờ để yêu cầu công ty bồi thường, góp phần đẩy nhanh tiến độ bồi thường của công ty. ỉTổng số tiền bồi thường năm sau cao hơn năm trước do số vụ tai nạn tăng qua các năm đồng thời giá trị thiệt hại cũng tăng theo. Những điều đó làm tăng tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ. Số tiền bồi thường bình quân một vụ tăng từ 5,149 triệu đồng năm 1997 lên đến 6,867 triệu đồng năm 2002, tương ứng với nó là số tiền bồi thường cũng tăng từ 3.671 triệu đồng năm 1997 lên 19.036 triệu đồng năm 2002 đưa tỷ lệ bồi thường tăng từ 49,39% lên 62,86%. Như vậy, có thể thấy rằng số lượng và mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn ngày càng gia tăng làm cho tỷ lệ bồi thường cũng tăng theo từ đó ảnh hưởng không tốt đến kêt quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO, đồng thời gây ra những khó khăn cho người tham gia bảo hiểm. 4. Tình hình trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Trục lợi bảo hiểm là những hành vi gian dối có chủ ý của người tham gia bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền bất hợp pháp từ phía công ty bảo hiểm. Trục lợi bảo hiểm là hành vi rất phổ biến mà các doanh nghiệp phải đương đầu, đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô.Thời gian gần đây cho thấy số vụ trục lợi bảo hiểm trong bảo hiểm vật chất xe ôtô ngày càng gia tăng với số lượng lớn hơn và tinh vi hơn. Trục lợi bảo hiểm thường được thực hiện bởi khách hàng là bên mua bảo hiểm hoặc là người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Nhưng phức tạp hơn trục lợi bảo hiểm còn xảy ra do sự cấu kết của các bên có liên quan bao gồm; khách hàng, nhân viên của công ty và các cơ quan có liên quan. Trục lợi bảo hiểm không những làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp do chi phí bồi thường tăng, ảnh hưởng đến uy tín của công ty, từ đó gây thiệt hại gián tiếp như giảm số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty trong những năm sau. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng đến chính khách hàng- những người tham gia bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải tăng phí bảo hiểm trong các kỳ sau để bù đắp chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra do tình trạng trục lợi bảo hiểm. Đặc biệt trục lợi bảo hiểm còn gây ra sự suy giảm trong đạo đức xã hội, nghiêm trọng hơn nữa nó có thể gây ra các tội phạm về mặt hình sự. Trước những hậu quả mà trục lợi bảo hiểm gây ra, để đảm bảo hiệu quả kinh doanh của công ty đồng thời đảm bảo lợi ích cho người tham gia bảo hiểm từ đó góp phần ổn định xã hội công ty bảo hiểm PJICO đã thành lập Ban Thanh tra- pháp chế vào tháng 03/1999 trên cơ sở Tổ Thanh tra- Phòng tổ chức Tổng hợp. Được sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo công ty, Ban Thanh tra- pháp chế, trước kia là tổ thanh tra đã phát hiện ra nhiều vụ gian lận bảo hiểm với số tiền khá lớn góp phần vào sự ổn định và phát triển ngày càng vững mạnh của công ty. Để biết thêm về tình hình trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO, chúng ta xem bảng dưới đây: Qua bảng số liệu trên ta thấy; cùng với sự tăng lên của số vụ đã bồi thường thì số vụ trục lợi bị phát hiện cũng tăng. Tuy nhiên số vụ trục lợi bị phát hiện vẫn ở mức thấp, năm 1997 là 1 vụ chiếm 11,11% số vụ nghi ngờ, năm 1998 có 1 vụ chiếm 9,09% số vụ nghi ngờ, năm 1999 có 3 vụ chiếm 9,38% số vụ nghi ngờ... và đến năm 2002 đã có 5 vụ chiếm 10,20% số vụ nghi ngờ. Tỷ lệ giữa số vụ gian lận đã phát hiện/số vụ nghi ngờ còn thấp điều đó cho thấy các hành vi gian lận được thực hiện rất tinh vi. Vì vậy, công ty cần thận trọng và chặt chẽ hơn nữa khi thực hiện quy trình triển khai nghiệp vụ này, đặc biệt là quy trình giám định- bồi thường. Mặc dù số vụ gian lận bị phát hiện không cao chỉ từ 1 đến 5 vụ đồng thời cũng chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số hợp đồng tham gia bảo hiểm, cụ thể năm 1998 thấp nhất là 0,12% và năm 1999 cao nhất là 0,3%. Nhưng số tiền từ chối bồi thường bình quân một vụ lại rất cao; năm 1997 là 86 triệu đồng/vụ, năm 1998 là 105 triệu đồng/vụ, năm 1999 là 92 triệu đồng/vụ, năm 2000 là 82,5 triệu đồng/vụ, năm 2001 là 64,375 triệu đồng/vụ và đến năm 2002 lên đến 200 triệu đồng/vụ. Nguyên nhân của tình trạng này là do thông thường những vụ mà người tham gia tiến hành trục lợi là những vụ có tổn thất lớn. Số tiền ước tính bị trục lợi cao hơn rất nhiều so với số tiền từ chối bồi thường, điều này cho thấy còn rất nhiều vụ trục lợi chưa được phát hiện. Tuy vậy năm 2002 số tiền ước tính bị trục lợi lại thấp hơn số tiền từ chối bồi thường, qua đây cũng chưa thể khẳng định được rằng đã phát hiện ra hết các vụ trục lợi. Theo thống kê của Ban Thanh tra- pháp chế, các chủ phương tiện thường có hình thức trục lợi sau: ỉHợp lý hoá ngày và hiệu lực bảo hiểm. Đây là trường hợp thường xảy ra tại PJICO, điển hình là các vụ sau; Vụ 1:Vụ tai nạn xe ôtô mang BKS 52T- 4796 của chủ xe Nguyễn Văn Chinh, tham gia bảo hiểm tại PJICO Quảng Ninh do đại lý PJICO Bắc Giang cấp ngày 25/10/2002, có hiệu lực từ ngày25/10/2002 đến 25/10/2003, xảy ra tai nạn hồi 20 giờ ngày 29/20/2002, tổn thất vụ tai nạn này khoảng 250 triệu đồng. Qua xác minh được biết tai nạn này xảy ra ngày 29/20/2002, xác minh việc bán bảo hiểm của đại lý, đại lý đã khai bán lùi ngày bảo hiểm. Vụ 2: Vụ trục lợi bảo hiểm xe ôtô mang BKS 36L- 5553 của chủ xe Lê Viết Hiển, tham gia bảo hiểm tại PJICO Thanh Hoá, chủ xe khai bị tai nạn ngày 20/11/2002 tại thôn Khe- xã Cộng Hoà- Tx Cẩm Phả- Tỉnh Quảng Ninh. Ban Thanh tra đã xác minh thực tế tại cảnh sát 113 Quảng Ninh và tại bưu điện văn hoá xã Cộng Hoà, công an xã Cộng Hoà đã tìm ra thực tế ngày xảy ra tai nạn là ngày 17/11/2002 sau đó chủ xe mua bảo hiểm và khai lùi ngày xảy ra tai nạn, vụ tai nạn tổn thất khoảng 150 triệu đồng. Vụ 3: Xe ôtô mang BKS 29N- 7135, chủ xe mang tên Nguyễn Thanh Sơn tham gia bảo hiểm tại PJICO Hà Nội do đại lý Khang Minh ghi cấp hồi 9 giờ ngày 08/11/2002 đến 9 giờ ngày 08/11/2003, xảy ra tai nạn theo lời khai của lái xe là vào hồi 21 giờ ngày 08/11/2002 tại Mỏ Đèo Nai- Quảng Ninh, thiệt hại vụ này ước tính khoảng 200 triệu đồng. Do ngày tai nạn trùng với ngày bảo hiểm nên thanh tra đã trực tiếp đến gặp đại lý Khang Minh để làm rõ và đại lý đã khai chủ xe đến mua bảo hiểm lúc 18 giờ nhưng do không hiểu biết nên đại lý đã cấp lùi vào lúc 9 giờ sáng, đồng thời Ban đã chỉ đạo PJICO Quảng Ninh đến xác minh thực tế tại hiện trường. Sau khi xác minh PJICO Quảng Ninh đã lập biên bản và lấy tờ khai của một số công nhân tại Mỏ Đèo Nai xác nhận tai nạn xảy ra vào khoảng trước 17 giờ ngày 08/11/2002. Như vậy chủ xe đã khai man giờ xảy ra tai nạn và đi mua bảo hiểm xin cấp lùi giờ nhằm trục lợi bảo hiểm vì vậy vụ tai nạn trên không thuộc phạm vi bồi thường của PJICO. ỉThay đổi tình tiết vụ tai nạn. Thường xảy ra các trường hợp sau; - Thay đổi lỗi, nguyên nhân trong vụ tai nạn. - Sửa chữa hiệu lực bằng lái (do hết hiệu lực hoặc không phù hợp loại xe được lái). - Sửa chữa hiệu lực giấy phép lưu hành (do hết hạn hiệu lực). - Thay đổi người lái có giấy phép lái xe hợp lệ (Tai nạn do người lái xe không bằng lái hoặc bằng lái không hợp lệ). Vụ: Xe ôtô mang BKS 54N- 6320 bị tai nạn thiệt hại vật chất khoảng 60 triệu đồng, do tai nạn xảy ra vào ban đêm nên không thể giám định tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13038.DOC
Tài liệu liên quan