Đề tài Vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh

Tài liệu Đề tài Vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh: Mở đầu Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính rất phát triển trong nền kinh tế thị trường, ngành kinh doanh bảo hiểm đã có vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. ở các nước kinh tế phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% tới 10% GDP của các nước đó. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, ngành kinh doanh bảo hiểm cũng có sự phát triển vượt bậc. Sự tăng trưởng của ngành bảo hiểm đạt bình quân 40%/ năm trong những năm 1990 - 1995 và từ 1996 - 2000 đạt mức độ tăng trưởng 25%. Cũng từ khi chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta, các công ty, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất từ được bao cấp chuyển thành tự túc, tự chịu trách nhiệm về tài sản và quá trình kinh doanh của mình do đó nếu xảy ra sự tổn thất lớn có thể đi đến phá sản. Trong đời sống, lao động cũng như sản xuất kinh doanh dù đã chú ý ngăn ngừa đề phòng và hạn chế rủi ro tổn thất nhưng rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và bất cứ ở đâu. Hoả hoạn cũng là một rủi ro c...

doc85 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 962 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính rất phát triển trong nền kinh tế thị trường, ngành kinh doanh bảo hiểm đã có vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. ở các nước kinh tế phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% tới 10% GDP của các nước đó. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, ngành kinh doanh bảo hiểm cũng có sự phát triển vượt bậc. Sự tăng trưởng của ngành bảo hiểm đạt bình quân 40%/ năm trong những năm 1990 - 1995 và từ 1996 - 2000 đạt mức độ tăng trưởng 25%. Cũng từ khi chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta, các công ty, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất từ được bao cấp chuyển thành tự túc, tự chịu trách nhiệm về tài sản và quá trình kinh doanh của mình do đó nếu xảy ra sự tổn thất lớn có thể đi đến phá sản. Trong đời sống, lao động cũng như sản xuất kinh doanh dù đã chú ý ngăn ngừa đề phòng và hạn chế rủi ro tổn thất nhưng rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và bất cứ ở đâu. Hoả hoạn cũng là một rủi ro có tác hại ghê gớm đến con người. Con người cũng đã tìm ra nhiều biện pháp khắc phục những thiệt hại do hoả hoạn gây ra như: lập đội cứu hoả, lắp đặt hệ thống bình chống cháy, tham gia Bảo hiểm hoả hoạn... trong đó bảo hiểm được xem là biện pháp hữu hiệu nhất. Bảo hiểm ra đời cùng với sự phát triển của xã hội, đã trở thành tập quán phục vụ cho các nhu cầu của con người và ngày càng trở nên đa dạng hơn về các nghiệp vụ bảo hiểm, một trong số đó có nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh. ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn là nghiệp vụ khá mới mẻ được triển khai từ cuối năm 1989 nhưng nó đã sớm chứng tỏ được tầm quan trọng của mình trong các hoạt động bảo hiểm. Đây là loại hình hết sức phong phú và phức tạp do đối tượng áp dụng của loại hình này rất phong phú, đa dạng và là những tài sản có giá trị lớn. Vì vậy, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn cần phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản chính xác đối với từng loại tài sản, từng đơn vị rủi ro và đòi hỏi tính kỹ thuật cao trong các công đoạn và trong cách tính phí. Đây cũng là mối quan tâm lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường. Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã không còn xa lạ. Tuy nhiên làm thế nào để hiểu thấu đáo tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp và mọi người dân là câu hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam. Chính vì vậy, em lựa chọn “vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh” làm đề tài nghiên cứu. Mục đích của đề tài nhằm tập hợp hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được áp dụng chung trong hai loại hình Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh sau cháy. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài được chia thành 4 chương bao gồm: Chương I: Sự cần thiết và lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh. Chương II: Những vấn đề cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn Chương III: Một số vấn đề cơ bản của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh Chương IV: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh ở Công ty Bảo hiểm Hà Nội Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này em nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của thầy giáo PGS -TS Hồ Sỹ Sà và một số cán bộ công tác tại phòng Bảo hiểm hoả hoạn và phòng Rủi ro kỹ thuật thuộc công ty bảo hiểm Hà Nội. Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó. Bài viết chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập cũng như trong trình bày. Rất mong sự góp ý và phê bình của những ai quan tâm đến đề tài này. Chương I. Sự cần thiết và lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh Sự cần thiết của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh Trong cuộc sống lao động cũng như sản xuất kinh doanh con người ta đã chú ý ngăn ngừa đề phòng hạn chế tổn thất nhưng rủi ro vẫn xảy ra ở bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Hoả hoạn có tác hại ghê gớm đối với con người, do vậy con người đã nghiên cứu và tìm ra nhiều biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những hậu quả đó. Tuy nhiên, rủi ro hoả hoạn nằm ngoài sự kiểm soát của con người, mỗi khi xảy ra rủi ro hoả hoạn nó để lại hậu quả rất lớn ảnh hưởng rất xấu đến quá trình sản xuất kinh doanh và cả tính mạng con người mà các biện pháp hạn chế, ngăn ngừa thông thường không thể khắc phục nỗi. Một trong những biện pháp hữu hiệu là bảo hiểm, cụ thể hơn nửa là bảo hiểm hoả hoạn, nó san sẽ rủi ro cho nhiều người do đó, từ rủi ro lớn có thể biến thành những rủi ro nhỏ giúp cho các doanh nghiệp chẳng may gặp rủi ro tổn thất giảm được gánh nặng. Hoả hoạn xảy ra là do nhiều nguyên nhân. Các nguyên nhân cháy có thể là: Sơ suất khi dùng lửa, sự cố điện, vi phạm nội quy phòng cháy, trẻ em nghịch lửa gây cháy, sự cố thiết bị kỹ thuật, đốt do mâu thuẫn cá nhân, tai nạn giao thông, đốt phá hoại, say rượu đốt... Trong các nguyên nhân đó phần lớn là do con người gây nên và hậu quả của nó để lại không chỉ là những thiệt hại về người và tài sản mà còn làm mất ổn định trật tự xã hội. Hàng năm theo thống kê thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la. Các vụ hoả hoạn không chỉ xảy ra ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển mà còn ở cả những nước có nền công nghiệp phát triển như: Anh, Pháp, Mỷ... Nước ta là một nước nghèo, song các vụ cháy xảy ra cũng nhiều gây thiệt hại lớn đến con người, tài sản, quá trình sản xuất kinh doanh và cả sự phát triển của đất nước. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung vật tư, hàng hoá ngày càng lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những loại máy móc hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật về an toàn thường đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn thường rất thấp so với đầu tư phát triển sản xuất, thêm vào đó điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt đã khiến cho khả năng xảy ra rủi ro đã cao lại càng cao hơn, mức độ thiệt hại về người và của càng nghiêm trọng hơn. Chỉ tính riêng hoả hoạn, mỗi năm ở nước ta đã xảy ra hàng nghìn vụ, làm chết và bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Có những vụ cháy đã làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, toàn bộ khu chợ hoặc cả một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng chục tỷ đồng làm cho hàng nghìn người không có nhà ở, hàng nghìn hộ kinh doanh phải điêu đứng vì mất hết hàng hoá, tiền của không còn chổ để kinh doanh hoặc làm cho hàng trăm công nhân không có nơi để làm việc. Một số vụ cháy trong những năm gần đây gây thiệt hại lớn như: Ngày 05/02/1993: Công ty Dệt Nha Trang bị cháy làm thiêu huỷ 3700m2 Nhà xưởng, kho tàng, 350 tấn bông, 46 tấn vải và 11039 chiếc áo. Ngày22/07/1993: Công ty liên doanh sản xuất giầy Hiệp Hưng thành phố Hồ Chí Minh bị cháy, thiệt hại 14 tỷ đồng. Ngày 14/07/1994: Cháy chợ Đồng Xuân, thiệt hại ước tính 147 tỷ đồng. Ngày 18/01/1996: Cháy Công ty Giầy Thái Bình ở Sông Bé thiệt hại ước tính 7 tỷ đồng. Ngày 09/07/1997: cháy xí nghiệp sản xuất lông vũ thành phố Hồ Chí Minh thiệt hại ước tính 8 tỷ đồng. Ngày 15/09/1998: cháy nhà máy Giày Đồng Nai thiệt hại ước tính 12 tỷ đồng... Chính vì vậy, phải có các biện pháp hữu hiệu để hạn chế thiệt hại do hoả hoạn gây ra. Rủi ro hoả hoạn gây ra là không lường trước được. Nếu xảy ra cháy lớn thì đơn vị phải đương đầu với rất nhiều khó khăn để xây dựng, khôi phục lại kinh tế và thậm chí có thể phá sản. Làm sao để có thể đảm bảo được vốn sản xuất kinh doanh, đảm bảo đời sống công ăn, việc làm cho người lao động, làm sao để ổn định được nhanh chóng và tiếp tục hoạt động sau khi xảy ra hoả hoạn? Thực tế đã có nhiều biện pháp được sử dụng như: áp dụng các biện pháp an toàn trong sản xuất và sinh hoạt tuân thủ những nội quy, quy định về an toàn; thành lập quỹ dự trữ để đề phòng hoả hoạn; sử dụng bình chống cháy ở các công ty, khu công cộng... Trước đây ở nước ta có một vài công ty bảo hiểm hoả hoạn hoạt động tại miền nam trong thời kỳ Pháp thuộc song sau năm 1975 do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại, đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi không may gặp rủi ro nên bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn nói riêng không có cơ hội để phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính, thì tham gia bảo hiểm tài sản mà cụ thể là Bảo hiểm hoả hoạn vẫn là phương án tối ưu. Theo quy tắc Bảo hiểm hoả hoạn được sử dụng hiện nay ở các công ty bảo hiểm trong nước, người tham gia bảo hiểm có thể đăng ký bảo hiểm cho những tài sản như: nhà cửa, trang thiết bị, hàng hoá, nguyên vật liệu của mình... ngoài cháy là rủi ro chính họ còn có thể đăng ký cho các rủi ro phụ như nổ, giông bão, động đất, lũ lụt, nước chảy hay rò rỉ, tràn từ bể chứa đường ống hoặc thiết bị chửa cháy, xe cộ hay các súc vật đâm vào... trong trường hợp xảy ra tổn thất, các công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho những thiệt hại trực tiếp bởi các nguyên nhân kể trên và cả những chi phí cần thiết hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và sau khi cháy. Tuy nhiên, cháy không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến con người và tài sản mà còn để lại những tổn thất hậu quả khổng lồ cho các doanh nghiệp. Trên thực tế sau khi cháy hoạt động sản xuất không thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận do nhà xưởng hay máy móc thiết bị hư hại, để tránh bị phá sản họ phải tiến hành các biện pháp khôi phục lại sản xuất, bên cạnh việc chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân và các khoản chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, khấu hao, điện nước, lãi suất ngân hàng... các doanh nghiệp còn phải chi phí cho việc thuê thêm công nhân, làm việc thêm giờ để hoàn tất các đơn đặt hàng còn tồn đọng... Rõ ràng các khoản chi phí này không được bồi thường theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Để đáp ứng được các khoản chi phí kể trên, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng các quỹ dự trữ hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay khác, song các phương pháp này hoàn toàn bị thụ động. Một biện pháp hiện nay đang được áp dụng có hiệu quả đó là tham gia bảo hiểm, cụ thể là bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Với loại hình bảo hiểm này, các doanh nghiệp không chỉ được bồi thường tài chính cho các khoản chi nói trên mà còn được bù đắp phần lợi nhuận ròng bị mất mà lẽ ra họ đạt được nếu họ không xảy ra rủi ro tổn thất. Như vậy, có thể nói rằng cùng với Bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã góp phần làm hạn chế tới mức tối thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Bằng việc đóng những khoản phí rất nhỏ, thường là một vài phần nghìn của giá trị tài sản, người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để vốn nhàn rỗi cho phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi họ không phải trích lập quỹ dự phòng trong trường hợp xảy ra rủi ro. Và quan trọng hơn, bên cạnh việc được bồi thường khi xảy ra rủi ro tổn thất, họ có được một tâm lý an tâm khi họ tiến hành công việc kinh doanh của mình. Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp còn được các công ty bảo hiểm tư vấn về các biện pháp phòng tránh tổn thất, tăng cường phòng cháy chữa cháy và thực hiện các chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất. Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp, Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội. Bởi vì thông qua việc hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp an toàn, các công ty bảo hiểm đã góp phần hạn chế những tổn thất, tai nạn giúp cho các khách hàng của họ có điều kiện thúc đẩy mỡ rộng sản xuất như mong muốn. Mặt khác, một phần không nhỏ nguồn phí bảo hiểm thu được từ hai loại hình này được các công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách Nhà nước để chính phủ sử dụng vào các mục đích phục vụ xã hội. Qua đó ta thấy, bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh có tác dụng rất to lớn đối với đời sống kinh tế của mọi người dân và quá trình phát triển đất nước. Nó có tác dụng đề phòng hạn chế các rủi ro xảy ra, tránh gây thiệt hại lớn. Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh còn góp phần vào việc bảo vệ trật tự an toàn xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá phát triển đất nước. Lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh. Hiệp hội Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591 có tên là Feuercasse sau đó một thời gian ngắn đã xuất hiện một vài tổ chức khác nhưng không để lại dấu ấn gì lớn. Mãi đến năm 1666, sau khi chứng kiến một đám cháy ở thủ đô London, người dân Anh mới nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy chữa cháy và bồi thường cho những người bị thiệt hại. đám cháy lớn kéo dài 7 ngày 8 đêm đã để lại một tổn thất rất lớn, thiêu huỷ toàn bộ 13200 ngôi nhà, 87 nhà thờ trong đó có cả trụ sở của Lloy’s và nhà thờ Saint Paul, thiêu huỷ gần như toàn bộ thành phố, đã kích thích sự ra đời của bảo hiểm cháy đầu tiên ở nước Anh. Đến năm 1667, văn phòng Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ở nước Anh được thành lập với tên gọi rất đơn giản là: “The Fire office”. Ba năm sau đó một văn phòng cạnh tranh khác là: “The Friendly Societty” cũng được thành lập. Hai văn phòng này đều do tư nhân sáng lập ra để bảo vệ nhà cửa, tài sản thoát khỏi thảm hoạ cháy. một số công ty khác cũng theo đó ra đời, đáng chú ý là công ty: “ Hand in hand ” năm 1696 và “ Sun Fire office ” năm 1710 và vẫn hoạt động cho đến nay. ở Mỹ, công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành thành công Bảo hiểm hoả hoạn là một công ty tương hỗ do Benjamim Frankin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752, mang tên là: Philadelphia Contribution chuyên Bảo hiểm hoả hoạn cho nhà cửa. Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ là công ty The Insuarance Company of North American thành lập năm 1792. Đến nay trên khắp thế giới, Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và đã trở thành nghiệp vụ truyền thống với số phí thu được hàng năm rất cao. ở Nhật doanh thu phí bảo hiểm là1017008 triệu yên, chiếm khoảng 15,5% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh ra đời muộn hơn nhiều so với Bảo hiểm hoả hoạn. Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, ở nước Anh các công ty bảo hiểm mặc dù bị sự thúc ép của Chính Phủ và yêu cầu của các nhà sản xuất, vẫn chưa tiến hành bất cứ loại hình bảo hiểm tổn thất hậu quả nào. Đó là do sự phức tạp trong việc phân tích các chi phí tài chính, xác định phạm vị bảo hiểm trong điều kiện kinh tế chính trị chưa ổn định. Mãi tới hơn 80 năm sau sự ra đời của hai nguyên tắc: Herry Booth and Commercial Union(1923) và Polikoff Ltd v.North British and Mercantile(1936) 55 LIL Rep.279 mới thực sự đặt nền móng cho bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh hình thành và phát triển. Năm 1985, Giao dịch của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh mới xuát hiện ở Uỷ ban tổn thất do hậu quả, một bộ phận trong Uỷ ban của Bảo hiểm hoả hoạn. Uỷ ban này là nơi đầu tiên cho ra đời bản mẫu về Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Mẫu đơn này được thông qua bởi tất cả các nhà bảo hiểm và đã được sử dụng thử nghiệm ở một số nước. Vào tháng 10/1989, hiệp hội những nhà bảo hiểm nước Anh (ABI) đã xem xét lại mẫu Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh nhưng chỉ sửa chữa nhỏ trong nội dung đơn và cách trình bày, không thay đổi về phạm vi bảo hiểm. Sau khi thay đổi, tháng 3/1991, Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh được chính thức phát hành. Mẫu Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã được sử dụng trong vài năm, nó đã khẳng định được những điểm tích cực của nó, mẫu đơn này đã cung cấp một lượng thông tin lớn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, xác định được thời hạn bồi thường cũng như nêu rõ về quyền hạn, trách nhiệm của người được bảo hiểm và người bảo hiểm. Sự sửa chữa đó gần như không ảnh hưởng gì về mẫu đơn. ở Việt Nam, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn được triển khai từ cuối năm 1989, theo quyết định số 06/TC-QĐ ngày 17/01/1989 của Bộ tài chính. Bảo hiểm hoả hoạn đã được tiến hành ở hầu hết 61 tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên tài sản được tham gia bảo hiểm mới chỉ là con số nhỏ bé của cả nước. Và Bảo Việt cũng chỉ mới bảo hiểm chủ yếu là các kho xăng, dầu, còn phần lớn các tài sản của các nhà máy, xí nghiệp khách sạn, chợ... trị giá hàng tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm hết. Thông tư số 82/TC-CN ngày 31/12/1991 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện chỉ thị 332 HĐBT, về việc bảo toàn vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước ghi rõ: “ các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại ở các công ty bảo hiểm tại Việt Nam. Khoản chi về bảo hiểm ( phí bảo hiểm) được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẻ không ghi giảm vốn cho trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã tiến hành triển khai những loại hình bảo hiểm tương tự...” Nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm và cũng tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh tích cực trong thị trường bảo hiểm và đồng thời tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm để thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, Chính Phủ đã có nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về việc kinh doanh bảo hiểm theo đó hàng loạt công ty bảo hiểm đã được Bộ tài chính cho phép thành lập tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nước ta hiện nay đã có sự biến động lớn, sự cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt hơn cả đối với các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn sẽ là một trong những lĩnh vực dịch vụ mà các nhà bảo hiểm trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Khi mới triển khai nghiệp vụ, các công ty bảo hiểm chỉ bảo hiểm cho hậu quả do cháy gây ra. Nhưng do yêu cầu của người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm có thể bảo hiểm cho những thiệt hại gián tiếp gây nên từ những rủi ro được bảo hiểm thông qua hợp đồng bảo hiểm phối hợp. Chương II Những vấn đề cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn Nội dung cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn Những khái niêm cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn Để thấy được các vấn đề của Bảo hiểm hoả hoạn, trước hết cần phải hiểu được một số khái niệm có liên quan theo quy định chung của quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của bộ tài chính ban hành theo quyết định 142/TCQB ngày 2/5/1991 sau đây: a. Bảo hiểm hoả hoạn: là một loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các đơn vị xí nghiệp, các nhà máy,... thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế Quốc dân. Giá trị Bảo hiểm hoả hoạn thường rất lớn, khi rủi ro xảy ra tổn thất không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là đối với toàn bộ tài sản. b. Cháy: là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng. c. Hoả hoạn: là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài nguồn lửa chuyên dùng gây thiệt hại cho tài sản và người ở xung quanh. d. Đơn vị rủi ro: là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác (tuy nhiên khoảng cách gần nhất không dưới 12m ). Đơn vị rủi ro có thể là một hay một nhóm ngôi nhà hoặc kho bãi ngoài trời trong một khu vực không bị tách rời nhau bởi các khoảng trống hoặc các cấu trúc xây dựng, chống cháy nhưng lại tách rời các ngôi nhà khác về không gian. Ngôi nhà được coi là rời nhau về không gian khi khoảng trống phân cách giữa hai khối nhà ít nhất bằng chiều cao của ngôi nhà cao hơn khoảng cách tối thiểu quy định. Khoảng cách tối thiểu quy định mà các công ty bảo hiểm thường dùng để triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn như sau: Giữa các kho bãi ngoài trời có chứa nguyên vật liệu dễ cháy là 20m. Giữa các ngôi nhà trong đó có chứa hay gia công các vật liệu dễ cháy với các ngôi nhà khác là 15m. Các đối tượng khác là 10m. Tường ngăn cách đơn vị rủi ro là cấu trúc xây dựng để phân chia ngôi nhà thành từng đơn vị rủi ro. Do ý nghĩa về mặt kỹ thuật chống cháy và kỹ thuật bảo hiểm đặt ra đối với các loại tường này cao hơn so với tường chống cháy. Các tường ngăn cách này phải là tường chịu cháy cấp F 180A và chịu được 4.000Nm với nhiệt độ lớn hơn 1000 độ C. e. Tổn thất toàn bộ: Tổn thất toàn bộ thực tế: là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc bị hư hỏng hoàn toàn hoặc số lượng còn nguyên nhưng giá trị không còn gì. Tổn thất toàn bộ ước tính: là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc hư hỏng đến mức nếu sửa chữa phục hồi thì chi phí sửa chữa phục hồi bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo hiểm. Đặc điểm của cháy và Bảo hiểm hoả hoạn Bảo hiểm hoả hoạn thuộc loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các nhà máy, xí nghiệp khách sạn thuộc mọi thành phần kinh tế, giá trị được bảo hiểm thường rất lớn khi rủi ro xảy ra thì tổn thất không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là toàn bộ tài sản. Do đó bảo hiểm hoả hoạn có các đặc điểm sau: Hoả hoạn là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài ngọn lửa chuyên dùng và gây thiệt hại về tài sản và những người xung quanh. Hoả hoạn lan rất nhanh, hoả hoạn thực chất là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát sáng. Hoả hoạn có thể kiểm soát được nếu con người có biện pháp đề phòng và nhanh chóng xử lý bằng các biện pháp hữu hiệu khác nhau. Chính vì vậy mà công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ này rất quan trọng. Các loại tài sản khác nhau có thể xảy ra hoả hoạn ở mức độ khác nhau và thời điểm khác nhau. Hoạt động của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn mang tính kỹ thuạt cao, đặc điểm này được thể hiện rõ qua cách xác định và phân chia các đơn vị rủi ro, cách tính phí công tác giám định, đề phòng hạn chế tổn thất. Vì bảo hiểm hoả hoạn có các đặc điểm như trên nên việc các đơn vị sản xuất kinh doanh tham gia bảo hiểm là tất yếu, có như vậy mới ổn định được kinh doanh và bảo toàn đồng vốn. Bảo hiểm hoả hoạn chính là sự bảo trợ cho những tổn thất trực tiếp do hoả hoạn gây nên. Ngoài ra trong thực tế khi xảy ra hoả hoạn có thể phát sinh các tổn thất gián tiếp, các tổn thất gây ra cho tài sản của người thứ ba và thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm như thiệt hại về kinh doanh, thiệt hại gây ra cho người thứ ba... Đối tượng của Bảo hiểm hoả hoạn Đối tượng của Bảo hiểm hoả hoạn bao gồm những tài sản có khả năng gặp rủi ro cháy, thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Các công ty bảo hiểm thường chia các đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn ra như sau: Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai). Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh. Sản xuất vật tư, hàng hoá dự trữ trong kho. Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm và thành phẩm trên dây chuyền sản xuất. Nhà cửa dân dụng Các nhà hàng, khách sạn Chợ và siêu thị Các hệ thống kho tàng Tài sản của hai ngành nông nghiệp và lâm nghiệp. Đối với đối tượng này thường các công ty bảo hiểm rất hiểm khi nhận bảo hiểm vì rất khó có thể quản lý và kiểm soát rủi ro. Việc phân loại như trên giúp cho các công ty bảo hiểm đánh giá và quản lý rủi ro được chính xác hơn, tính phí bảo hiểm chính xác và phù hợp hơn. đặc biệt giúp cho chủ tài sản và các công ty bảo hiểm xác định phương án phòng cháy chữa cháy có hiệu quả. Những rủi ro được Bảo hiểm hoả hoạn và những rủi ro loại trừ 4.1. Rủi ro được bảo hiểm Rủi ro là những sự cố không chắc chắn xảy ra nhưng có thể gây hư hỏng, thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm. Trong Bảo hiểm hoả hoạn, rủi ro được bảo hiểm bao gồm: Rủi ro cơ bản Rủi ro cơ bản bao gồm: cháy, nổ, sét. Cháy: được quy định có gây ra tổn thất, có ngọn lửa, có sự tự phá huỷ nhưng ngoại trừ nguyên nhân gây ra cháy là động đất, núi lửa phun hoặc các biến động khác của thiên nhiên và các thiệt hại gây ra do tài sản tự toả nhiệt hoặc chịu tác động của quá trình xử lý có dùng nhiệt. Ngoài ra, bất kỳ thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do hậu quả của việc đốt rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoặc đốt cháy với mục đích làm sạch ruộng đồng, đất đai dù là ngẫu nhiên gây ra cũng không được bồi thường. Sét: chỉ có tác động của tia chớp và tài sản được bảo hiểm. Chỉ có những thiệt hại trực tiếp do tia sét gây ra hoặc làm biến dạng hoặc gây ra hoả hoạn cho tài sản đó mới được bồi thường. Nổ: là hiên tượng cháy xảy ra cực nhanh, tạo ra hoặc giải phóng một áp lực lớn kèm theo một tiếng động mạnh, phát sinh bởi sự giản nở nhanh và mạnh của các chất lỏng, chất rắn và chất khí. Các rủi ro này chỉ được bảo hiểm trong trường hợp nổ nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt. Ngoài ra, còn các thiệt hại vật chất không phải do cháy trực tiếp gây nên như: + Thiệt hại tài sản được bảo hiểm do phương tiện hoặc do biện pháp cứu cháy gây ra như đổ tường hoặc rào chắn do đội cứu hoả hoặc các phương tiện của họ gây ra trong quá trình chữa cháy. + Thiệt hại tài sản do mất cắp trong khi hoả hoạn mà người bảo hiểm không minh chứng được là mất cắp. Những rủi ro này được gọi là rủi ro mở rộng không tính phí. Rủi ro phụ Bên cạnh các rủi ro cơ bản, còn có các rủi ro đặc biệt, độc lập không nằm trong rủi ro cháy nhưng có thể lựa chọn để bảo hiểm cùng với Bảo hiểm hoả hoạn nhờ việc mở rộng đối tượng bảo hiểm. Chỉ có bảo hiểm cho những rủi ro cơ bản mới có thể bảo hiểm cho những rủi ro phụ. Những rủi ro phụ bao gồm: Máy bay và các phương tiện hàng không hoặc các tài sản của các phương tiện đó rơi. Động đất núi lửa phun bao gồm cả lụt và nước biển tràn do hậu quả của động đất và núi lửa phun. Giông bão, lũ lụt, mưa đá. Vỡ hay tràn nước từ bể chứa nước, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn nước nhưng loại trừ tài sản bị phá huỷ hay hư hại do nước chảy, rò rỉ từ hệ thống thiết bị phòng cháy chữa cháy tự động. Gây rối, đình công, bãi công, sa thải. Những rủi ro không được bảo hiểm Đây là loại rủi ro phải được cụ thể hoá trong văn bản, hợp đồng vì phần loại trừ thường hay gây ra tranh chấp giữa người tham gia với người bảo hiểm do liên quan đến quyền lợi của mỗi bên. Những rủi ro loại trừ được các công ty bảo hiểm quy định như sau: Các thiệt hai do nổi loạn, lao động dân sự, quần chúng nổi dậy, bãi công, sa thải công nhân viên chức, chiến tranh xâm lược, các hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự nổi loạn, nội chiến khởi nghĩa, cách mạng binh biến, bạo động, đảo chính, khủng bố... Những rủi ro do hoạt động cố ý hoặc đồng loã của người được bảo hiểm. Bất kỳ tổn thất nào trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến phóng xạ và các tính chất thuộc phóng xạ. Những thiệt hại về tiền bạc, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản thảo sổ sách kinh doanh, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế... trừ khi được xác định cụ thể là chúng được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Những tổn thất hàng hoá nhận uỷ thác hay ký gửi trừ khi những hàng hoá này được xác nhận trong Giấy chứng nhận là được bảo hiểm và nộp thêm phí theo tỷ lệ quy định. Những thiệt hại về người, động vật hay thực vật sống. Những thiệt hại có tính chất hậu quả xảy ra sau hoả hoạn dưới bất kỳ hình thức nào, cụ thể: gián đoạn kinh doanh, mất thu nhập, ô nhiễm môi trường. Những thiệt hại do chất nổ trừ xăng dầu. Những tài sản bị mất cắp, bị cướp trong khi xảy ra hoả hoạn. Những thiệt hại gây ra cho người thứ ba. Những thiệt hại thuộc phạm vi mức miễn thường. Mức miễn thường được các công ty bảo hiểm trên thế giới quy định như sau: mức miễn bồi thường bắt buộc là 2% so với tiền bảo hiểm nhưng tối thiểu không dưới 1000$/vụ, tối đa không quá 2000$/vụ. Tuy vậy, những thiệt hại về thuê nhà cũng được bảo hiểm hoả hoạn bồi thường nhưng phải có giấy tờ hợp lệ. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm Để xác định được số tiền bảo hiểm trước hết cần phải xác định được giá trị bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là giá trị của tài sản cần được bảo hiểm. Giá trị này có thể là giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới của tài sản. Giá trị mua mới của tài sản được xác định tại thời điểm khi tài sản đó bắt đầu đưa vào sử dụng, hoạt động. Giá trị thực tế của tài sản bảo hiểm là giá trị được xác định, đánh giá tại thời điểm mua bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm hoả hoạn rất rộng và phức tạp, mỗi đối tượng tại một thời điểm có giá trị khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn tài sản được bảo hiểm hoả hoạn có giá trị rất lớn như: Nhà cửa, công trình, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hoá vật tư trong kho, thiết bị văn phòng, các trạm xăng dầu, cây xăng ...cho nên khi xác đinh giá trị bảo hiểm phải tuỳ thuộc vào từng loại tài sản, thông thường người ta sử dụng các loại giá trị sau đây: Giá trị mới (giá trị ban đầu): là giá trị của tài sản tại thời điểm mua mới hoặc tại thời điểm bắt đầu đem vào sử dụng . Giá trị mới bao gồm: nguyên giá + chi phí vận chuyển + chi phí lắp đặt chạy thử. Giá trị thực tế: giá trị thực tế của tài sản được đánh giá tại thời điểm người sử dụng, người sở hữu tham gia tham gia cho tài sản đó. Tuy nhiên, trong bảo hiểm hoả hoạn thường chỉ bảo hiểm theo giá trị còn lại. Khi tính giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm hoả hoạn có nhiều loại tài sản không thực hiện được bởi vì nó là vô giá, ví dụ như: công trình kiến trúc, viện bảo tàng, vật kỷ niệm, vật chứng lịch sử... Đặc biệt có một số loại tài sản là hàng hoá lưu trử trong các kho biến động liên tục theo thời gian. Tuy vậy, có thể xác định giá trị của một số tài sản như sau: Giá trị bảo hiểm của ngôi nhà ( nhà xưởng, văn phòng, nhà ở) được xác định theo giá trị mới hoặc giá trị còn lại. + Giá trị mới: là giá trị mới xây của ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế để xây dựng ngôi nhà đó. + Giá trị còn lại: là giá trị mới trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời gian. Giá trị bảo hiểm của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác được xác định trên cơ sở mua mới ( bao gồm cả chi phí vân chuyển lắp đặt nếu có) hoặc giá trị còn lại của máy móc thiêt bị hoặc tài sản cố định đó. Thông thường các công ty bảo hiểm sử dụng giá trị còn lại khi máy móc thiêt bị hoặc tài sản cố định được bảo hiểm đã đem sử dụng trong một thời gian nhất định. Giá trị bảo hiểm của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất. Giá trị bảo hiểm của hàng hoá mua về đang để trong kho, cửa hàng được xác định theo giá mua cộng với chi phí vận chuyển. 5.2. Số tiền bảo hiểm Trong hoạt động công ty bảo hiểm chỉ bồi thường bằng tiền mà không bồi thường bằng hiện vật. Vì vậy, đối với mỗi đơn vị bảo hiểm đều phải ghi số tiền bảo hiểm,trong mỗi hợp đồng bảo hiểm cũng không thể không đề cập đến số tiền bảo hiểm, đây là yếu tố cơ bản để tính phí và là cơ sở cho việc bồi thường của người bảo hiểm khi xẩy ra tổn thất. Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Vì vậy, xác định chính xác số tiền bảo hiểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cơ sở xác định số tiền bảo hiểm là giá trị bảo hiểm. Nói chung, số tiền bảo hiểm do công ty bảo hiểm và người tham gia bảo bảo hiểm thoả thuận với nhau. Tuy nhiên, phải dựa trên cơ sở kiểm tra đối tượng bảo hiểm của người được bảo hiểm và các giấy tờ sổ sách có liên quan. Số tiền bảo hiểm có thể cao thấp khác nhau tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố, số tiền bảo hiểm có thể cao hơn hoặc bằng hoặc thấp hơn giá trị tài sản nhưng về nguyên tắc, khi xác định số tiền bảo hiểm phải căn cứ vào giá trị bảo hiểm. Tuy vậy, các công ty bảo hiểm thường quy định: số tiền bảo hiểm không được vượt quá 10% giá trị bảo hiểm. Còn nếu bảo hiểm theo sự thoả thuận thì phải ghi rõ trong hợp đồng số tiền bảo hiểm bằng bao nhiêu % giá trị của tài sản để khi bồi thường tổn thất bộ phận thì áp dụng nguyên tắc bồi thường theo tỷ lệ. Trong bảo hiểm hoả hoạn cần lưu ý rằng khi nhận bảo hiểm thì không chấp nhận theo kiểu chọn điểm, không chấp nhận chỉ bảo hiểm cho những bộ phận tài sản, những công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất vì điều đó thương gây bất lợi cho người bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường bảo hiểm toàn bộ giá trị tài sản song cũng có thể bảo hiểm 50% giá trị tài sản đó. Trong nền kinh tế thị trường, quy mô sản xuất kinh doanh có xu hướng ngày càng mở rộng do đó số lượng hàng và giá trị tài sản cũng được tăng lên. Mặt khác, tài sản của mỗi nhóm thường xuyên biến động hoặc có những loại tài sản rất khó xác định giá trị. Như vậy, việc xác định giá trị bảo hiểm trong trường hợp này rất phức tạp. Vì vậy, khi xác định số tiền bảo hiểm có thể sử dụng hai chỉ tiêu đó là: bảo hiểm theo giá trị trung bình hoặc bảo hiểm theo giá trị tối đa. Nếu bảo hiểm theo giá trị trung bình: Người được bảo hiểm phải ước tính và thông báo cho người bảo hiểm biết giá trị số hàng hoá trung bình có trong kho, trong cửa hàng. Trong thời gian bảo hiểm giá trị trung bình này được coi là số tiền bảo hiểm. Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vị bảo hiểm, người bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình đã được khai báo. Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa: thì người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho người bảo hiểm biết giá trị số lượng hàng hoá tối đa có thể đạt vào một thời điểm nào đó trong thời gian bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa nhưng chỉ thu trước 75% . Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vị bảo hiểm, người bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị tối đa đã khai báo. Đầu mỗi tháng, mỗi quý( tuỳ theo thoả thuận của mỗi bên), người được bảo hiểm thông báo cho người bảo hiểm số hàng hoá tối đa thực có trong tháng, trong quý trước đó để người bảo hiểm tiện theo giỏi giám sát. Cuối thời hạn bảo hiểm trên cơ sở các giá trị đã được thông báo, người bảo hiểm tính giá trị số hàng hoá tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm tính được trên cơ sở số giá trị tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm lớn hơn số phí đã nộp thì người được bảo hiểm trả thêm cho người bảo hiểm số phí còn thiếu. Trong thời gian bảo hiểm, tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm được người bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân thì phí bảo hiểm được tính dựa vào số tiền bồi thường đã trả( trong trường hợp này số tiền bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm). Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp đòi hỏi người bảo hiểm phải biết giá trị hàng hoá tham gia bảo hiểm, theo giỏi chặt chẽ số hàng hoá đó trong suốt thời gian bảo hiểm. Những tài sản có giá trị lớn người bảo hiểm khó có thể tái bảo hiểm vì tính phí phức tạp và khó khăn. Ngược lại, bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản dể theo dõi đồng thời có lợi về tính phí bảo hiểm. Nếu một loại hàng hoá được bảo hiểm giá trị ít biến động trên thị trường thì áp dụng phương pháp này rất thuận tiện. Nếu tham gia bảo hiểm đã nhiều năm, thì việc xác định giá trị tối đa căn cứ vào số liệu của nhiều năm trước đó. Việc người được bảo hiểm tham gia với số tiền nào là do hai bên thoả thuận nhưng tuỳ theo loại tài sản mà người bảo hiểm hướng dẫn cho người tham gia cùng xác định để họ thấy được cách tính toán và tính hợp lý mà mình tham gia, tránh hiện tượng tranh cãi phiền hà. Như vậy, hai chỉ tiêu trên được thoả thuận trước khi ký kết hợp đồng. Người tham gia bảo hiểm có thể lưa chọn một trong hai chỉ tiêu làm số tiền bảo hiểm, thế nhưng việc chọn chỉ tiêu nào cũng đều liên quan đến phí bảo hiểm, và người tham gia phải chấp nhận tính phí theo từng chỉ tiêu này. Tuy vậy, các công ty bảo hiểm thường bảo hiểm theo giá trị trung bình, do cách tính đơn giản, ít phải theo dõi, thuận lợi cho việc tính phí và thu phí. Còn bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp trong việc điều chỉnh và thu, trả lại phí ở đầu, cuối tháng, quý, đòi hỏi nhà bảo hiểm phải thường xuyên theo dõi giá trị hàng hoá trong suốt thời gian bảo hiểm. Do vậy người bảo hiểm thường khuyến khích bảo hiểm theo giá trị trung bình. Cần lưu ý rằng, dù bảo hiểm theo hình thức nào thì số tiền bồi thường cũng không vượt quá số tiền bảo hiểm. Nếu phải bồi thường làm nhiều lần thì tổng số tiền bồi thường trong tất cả các lần không được vượt quá số tiền bảo hiểm. Mỗi lần bồi thường số tiền bảo hiểm lại giảm đi một ít ngang bằng với số tiền bảo hiểm đã trả. Muốn khôi phục lại số tiền bảo hiểm lên ngang bằng số tiền bảo hiểm ban đầu, người được bảo hiểm phải nộp phí bổ sung tương ứng với số tiền bảo hiểm tăng thêm và tỷ lệ với khoảng thời gian còn lại của bảo hiểm. Nếu người tham gia không khôi phục lại số tiền bảo hiểm thì trong mỗi lần tổn thất sau số tiền bảo hiểm tối đa sẽ không vượt quá số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã trừ đị tất cả các khoản bồi thường đã trả cho đến thời điểm đó. Nguyên tắc chung, các yếu tố ảnh hưởng và phương pháp tính phí Bảo hiểm hoả hoạn 6.1. Nguyên tắc chung Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp cho cơ qua bảo hiểm để bảo hiểm cho những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là giá cả dịch vụ bảo hiểm. Do vậy, việc tính toán mức phí phù hợp với yêu cầu khách hàng, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi là một vấn đề không đơn giản. Trước khi đưa ra mức phí, công ty cần cân nhắc kỷ vì đây là một yếu tố cơ bản của cạch tranh. Tuỳ theo yêu cầu của người được bảo hiểm, người được bảo hiểm nhận bảo hiểm theo thời hạn một năm hoặc bảo hiểm ngắn hạn. Sau khi kêt thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí tiếp hoặc yêu cầu tái tục hợp đồng bảo hiểm. Thời hạn nộp phí do người bảo hiểm và người được bảo hiểm thoả thuận. Theo nguyên tắc, phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở tỷ lệ phí và giá trị bảo hiểm. Phí bảo hiểm hoả hoạn được quy định riêng cho từng loại rủi ro và người được bảo hiểm muốn được bảo hiểm thêm rủi ro phụ thì phải nộp thêm phí theo quy định. Trong trường hợp huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà công ty bảo hiểm sẽ tính toán hoàn lại phí cho người được bảo hiểm dựa trên khoảng thời gian còn lại của hợp đồng. 6.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định phí bảo hiểm Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí Khi tính phí bảo hiểm, người bảo hiểm thường dựa trên những khoa học thực tiển và trên cơ sở nguồn số liệu thống kê của từng công ty bảo hiểm, cơ sở của các công ty bảo hiểm lớn có nhiều kinh nghiệm... ngoài ra còn phải xem xét các yếu tố thường xuyên ảnh hưởng đến phí bảo hiểm hoả hoạn. Việc xác định tỷ lệ phí phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ta không thể áp dụng một tỷ lệ chung cho các loại tài sản có mức độ rủi ro hay khả năng xảy ra hoả hoạn khác nhau. Để tính toán phí bảo hiểm được chính xác ta cần phải xem xét các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến tỷ lệ phí sau: Loại công trình: Để phân biệt loại công trình ta phải căn cứ vào các loại vật liệu sử dụng để xây dựng công trình và các bộ phận chủ yếu của công trình đó. Các công trình xây dựng được chia làm ba loại sau: Loại D (Disscount class): là loại được giảm tối đa 10% phí và đạt các yêu cầu sau: + Bộ phận chịu lực: gồm cột chịu lực, xà, dầm, tường chịu lực làm bằng vật liệu không cháy, mái nhà có khả năng chịu lực ít nhất 30 phút. + Bộ phận không chịu lực: Gồm tường ngăn cách bên trong và bên ngoài, trần không chịu lực... được xây dựng bằng vật liệu không cháy ( gạch ngói, bê tông xi măng...). Loại N (New tial class): Loại này giữ nguyên tỷ lệ phí trong biểu phí. Các công trình loại này không đạt tiêu chuẫn như loại D nhưng ít nhất các bộ phận chịu lực và các cấu kiện phải làm bằng các vật liệu khó cháy. Loại L ( Loading class): Loại này phải tính thêm 10% phí bảo hiểm và là loại công trình không đạt tiêu chuẫn như hai loại trên. Các yếu tố làm tăng phí bảo hiểm: Các yếu tố làm tăng mức độ rủi ro: Đối với các công trình có thiết bị phụ trợ có thể làm tăng thêm khả năng xảy ra rủi ro tổn thất. Ví dụ: dây chuyền sơn trong phân xưỡng sản xuất, thiêt bị sấy khô, chiết xuất, chế biến gỗ, gia công vật liệu nhân tạo... song sẽ không tính thêm phí bảo hiểm nếu các thiết bị đó nằm trong phòng ngăn cách với bên ngoài bằng tường chống cháy và chiếm không quá 10% diện tích đơn vị rủi ro. Các yếu tố đặc biệt không thuận lợi đối với rủi ro được bảo hiểm như nguồn lửa không được ngăn cách hoàn toàn, có không khí đốt nóng bằng dầu hay khí đốt ở nơi làm việc, có lò sưởi bằng tia hồng ngoại, thiếu các thiết bị phòng cháy chữa cháy thích hợp, có dây chuyền sản xuất tự động nhưng không được trang bị các thiết bị báo cháy đúng tiêu chuẫn, thiết kế không đúng yêu cầu, hoặc công việc sửa chữa không đảm bảo chất lượng. Thiếu trang thiết bị chữa cháy. tăng phí tuỳ theo từng trường hợp cụ thể nhưng tối đa không qua 15%. Có trung tâm máy tính nhưng không được ngăn cách bằng tường chống cháy, không có hệ thống phòng cháy chữa cháy riêng biệt, tăng phí tối đa là 5%. Có khả năng bị phá hoại, tăng phí tối đa không quá 5%. Tổn thất trong quá khứ: Nếu 5 năm trước đó số tiền bồi thường đã vượt quá 150% số phí bảo hiểm thì phải tăng ít nhất 10% phí. Các yếu tố làm giảm phí bảo hiểm hoả hoạn: Các nhà bảo hiểm cần quan tâm đến các yếu tố làm giảm mức độ rui ro vì các yếu tố này là cơ sở để giảm mức phí cơ bản. điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc cạnh tranh trên thị trường giữa các công ty bảo hiểm hiện nay. Các yếu tố đó bao gồm: Các công trình có các thiết bị phòng cháy báo cháy như hệ thống báo cháy tự động nối trực tiếp với các trạm cứu hoả công cộng, nối trực tiếp với phòng thường trực, đội cứu hoả của xí nghiệp, trạm công an, các bộ phận báo cháy thuộc hệ thống chữa cháy tự động được lắp đặt cố định, giãm phí từ 5% đến 8% phí. Việc trực kiểm tra canh gác được tiến hành thường xuyên 24/24, cứ 2 giờ/ lần có người đi kiểm tra, liên lạc ngay bằng điện đài hoặc nút báo cháy, giảm 5% phí. Các phương tiện thiết bị chữa cháy: chỉ giãm phí đối với các phần công trình có các thiết bị và phương tiện sau: + Có hệ thống chữa cháy tự động Sprinkler giảm tối đa 35% + Có hệ thống dập cháy bằng CO2 thủ công giảm tối đa 10%, tự động giảm tối đa 20% + Có hệ thống phun nước bằng tay giảm tối đa 10% phí, tự động giảm tối đa 20% phí. + Có hệ thống chữa cháy HaLon tự động giảm tối đa 25% phí. + Có hệ thống chữa cháy bằng bọt, thủ công giảm tối đa 10% phí, tự động giảm tối đa 20% phí. + Có hệ thống tự động dập tia, tàn lửa giảm tối đa 15% phí. + Có hệ thống phun bột, thủ công giảm tối đa 10%, tự động giảm tối đa 20% phí. + Có hệ thống thoát khói, nhiệt thủ công giảm tối đa 3%, tự động giảm tối đa 5% phí. + Có đội cứu hoả và ô tô chữa cháy chuyên nghiệp giảm tối đa 20%, bán chuyên nghiệp giảm tối đa 10% phí. + Gàn đội cứu hoả công cộng, xe Ô tô cứu hoả có thể đến trong 10 phút và ôtô có thể dễ dàng tiếp cận, giảm tối đạ 5% phí. Mức miễn thường: miễn giảm bồi thường là một hình thức từ chối bồi thường trên cơ sở một số tiền theo chỉ định theo tỷ lệ % của tổng giá trị bồi thường. Trong bảo hiểm hoả hoạn mức miễn thường bắt buộc là 0.2% số tiền bảo hiểm nhưng tối thiểu không dưới 100$ và tối đa 2000$/ một vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường không giảm phí. Tuy vậy, nếu người tham gia bảo hiểm muốn lựa chọn mức miễn thường cao hơn mức miễn thường bắt buộc thì có thể giảm phí theo tỷ lệ nhưng tối đa giảm 40%. Tăng, giảm phí theo tỷ lệ tổn thất trong quá khứ: thông qua số liệu thống kê về tỷ lệ bồi thường trên tổng số phí thu được trong 5 năm gần nhất, nếu tỷ lệ này nhỏ thì người tham gia sẽ được giảm phí, ngược lại nếu lớn hơn thí phải tăng phí. Thông thường trước khi nhận bảo hiểm cho khách hàng, công ty bảo hiểm sẽ cử cán bộ của mình hoặc các cộng tác viên đến cơ sở nắm tình hình, nghiên cứu khả năng xảy ra hoả hoạn, xem xét các yếu tố làm tăng phí hoặc giảm phí trên cơ sở đó để xác định một tỷ lệ phí thích hợp. Thông thường, các công ty bảo hiểm xét số tiền trong 5 năm gần nhất nếu: Dưới 20% thì giảm 15% Dưới 50% thì giảm 10% Quá 150% thì tăng 10% Tăng, giảm phí theo bậc chịu lửa của cấu kiện xây dựng Loại D là loại khó bắt lửa nhất và chịu lửa tôt như thép, đá... Do đó, tỷ lệ phí có thể giảm. thông thường giảm 10 % so với mức trung bình. Loại N là loại vật liệu trung gian vật liệu mang tính chất hỗn hợp cho nên loại này tỷ lệ phí không tăng cũng không giảm. Loại L là loại vật liệu dể bắt lửa , do đó phải tăng tỷ lệ phí, thông thường tăng 10% so với mức trung bình. b. Các yếu tố ảnh hưởng đến ấn định mức phí Khi tính phí bảo hiểm, người bảo hiểm thường dựa vào các cơ sở thực tiển, khoa học tính toán như cơ sở thống kê của từng công ty bảo hiểm, cơ sở tính phí của nhiều công ty bảo hiểm lớn có nhiều kinh nghiệm. Thông thường, sau khi xác định tỷ lệ phí, các công ty thường ấn định mức phí bảo hiểm một năm mà người được bảo hiểm phải đóng và được xác định theo công thức: Số phí bảo hiểm một năm = Số tiền bảo hiểm x Tỷ lệ phí. Người được bảo hiểm tuỳ vào tình hình tài chính của mình mà có thể đóng phí bảo hiểm một lần hoặc hai lần trong năm. Phí bảo hiểm hoả hoạn thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: Vật liệu xây dựng: Tuỳ theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể chịu được lâu dài hay không đối với sức nóng mà người ta chia ra thành 3 loại như sau: + Vật liệu khó bắt lửa, vật liệu nặng và có khả năng chịu lửa tốt như bê tông, cốt thép, xi măng… + Vật liệu trung gian: là vật liệu hỗn hợp chứa nhiều chất hoá học trộn lẫn với vật liệu thiên nhiên, khả năng chịu lửa không tốt bằng loại D. + Vật liệu nhẹ: là loại vật liệu dể bắt lửa và không có khả năng chịu lửa. ảnh hưởng của các tầng nhà: yếu tố này bao gồm cầu thang thiết kế cửa sổ, hướng nhà, chiều cao mỗi tầng. Các công cụ phòng cháy chữa cháy: đây là các yếu tố rất cơ bản, các yếu tố này phụ thuộc vào: các phương án phòng cháy chửa cháy của các cơ quan đơn vị, koảng cách của các đối tượng bảo hiểm đến đội phòng cháy chửa cháy gần nhất, nguồn nước, các trang thiết bị phòng cháy chữa cháy Khoảng cách phân chia và tường chống cháy. Khoảng cách phân chia lớn có tường chống cháy, thì phí sẻ giảm. Trong một ngôi nhà cũng có nhiều đơn vị rủi ro khác nhau và mức độ bắt lửa của mỗi đơn vị rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, các đơn vị rủi ro càng gần tường phân cách ( càng gần nhau) thì mức độ rủi ro cũng tăng lên làm cho phí bảo hiểm cũng có thể tăng. Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hoá, cách thức xếp đặt tuỳ tường loại hàng hoá, bao gói hay cách thức xếp đặt hàng hoá mà phí bảo hiểm phải căn cứ vào đó mà xác định. Phương pháp tính phí bảo hiểm hoả hoạn Phí bảo hiểm hoả hoạn Phí bảo hiểm hoả hoạn là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp cho công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm gánh chịu cho những rủi ro có thể gặp phải mà mình tham gia bảo hiểm cho nó. Vậy phí bảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, phí bảo hiểm được xem là một công cụ cạnh tranh của công ty bảo hiểm. Do đó, tính toán mức phí bảo hiểm phù hợp với yêu cầu của khách hàng và đảm bảo hoạt động kinh doanh của công ty là rất quan trọng và không đơn giản. Bảo hiểm hoả hoạn có đối tượng là tài sản rất đa dạng về chủng loại, giá trị và mức độ rủi ro khác nhau đòi hỏi phí bảo hiểm hoả hoạn cũng khác nhau và bao gồm hai phần đó là phí thuần và phụ phí như các nghiệp vụ khác. Phí thuần là cơ sở hình thành nên quỷ bồi thường để chi trả cho người được hưởng bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro tổn thất được bảo hiểm. Phí thuần là bộ phận quan trọng nhất của phí bảo hiểm thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa người được bảo hiểm với công ty bảo hiểm. Mức phí thuần được tính dựa vào xác suất rủi ro. Xác suất rủi ro này được xác định như sau: X = t/T Trong đó: X: Xác suất rủi ro T: Tổng số đơn vị rủi ro t: Số vụ tai nạn Mức phí thuần được tính: f = X x Sbt Trong đó: f: Phí thuần Sbt: Số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ tổn thất Để đảm bảo hoạt động kinh kinh doanh của bảo hiểm, công ty bảo hiểm thường tính thêm phần phụ phí vào phí bảo hiểm. Phần phụ phí trong bảo hiểm hoả hoạn giúp cho các công ty bảo hiểm tính toán bao quát được các chi phí có liên quan như: chi phí quản lý, chi đề phòng và hạn chế tổn thất, hoa hồng cho cộng tác viên, môi giới, đại lý, dự trử tổn thất lớn, thuế doanh thu và các khoản chi khác. Thông thường phụ phí chiếm khoảng 30% tổng mức phí thu. Phần phụ phí được tính như sau: d = K x f Trong đó: d: phụ phí K: Tỷ lệ phụ phí Vì vậy, để thực hiện cạnh tranh các công ty bảo hiểm chỉ có thể điều chỉnh các bộ phận trong phụ phí Như vậy, phí bảo hiểm hoả hoạn (F) được xác định theo công thức: F = f + d Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến biểu phí ( như đã trình bày ở trên) vì bảo hiểm hoả hoạn đa dạng về chủng loại, mức độ rủi ro. Nếu một công ty có hệ thống phòng cháy chữa cháy tốt không thể đóng một mức phí giống như một công ty khác có hệ thống phòng cháy chữa cháy kém. Bởi vậy, không thể áp dụng một biểu phí cố định cho các công ty có mức độ rủi ro khác nhau và việc phòng cháy chữa cháy khác nhau. Thông thường, các công ty bảo hiểm áp dụng các tỷ lệ phí khác nhau cho tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ sau đó điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố tăng giảm phí. Đối với nghiệp vụ này thông thường phí nộp một lần sau khi ký kết hợp đồng và khi đó hợp đồng mới có hiệu lực. Tuy nhiên tuỳ vào mức độ, khả năng tài chính của người tham gia mà có thể thoả thuận nộp làm nhiều lần. Thông thường, hiệu lực hợp đồng bắt đầu khi người tham gia bảo hiểm nộp phí và kết thúc hợp đồng lúc 16 giờ ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm nếu không có sự cố gì khác. tuỳ theo yêu cầu của người tham gia bảo hiểm mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm với thời hạn một năm, hoặc bảo hiểm ngắn hạn( tháng, quý). Phương pháp xác định phí bảo hiểm hoả hoạn Phí bảo hiểm hoả hoạn được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của một khoảng thời gian trước, thường từ 3 đến 5 năm. Mức phí đóng được xác định trên cơ sở tỷ lệ phí và số tiền bảo hiểm. Mức phí đóng = Số tiền bảo hiểm x Tỷ lệ phí bảo hiểm Có hai phương pháp xác định tỷ lệ phí đó là : Theo phân loại và theo danh mục. Xác định tỷ lệ phí theo phân loại Đây là cách kết hợp các đơn vị có thể so sánh với nhau cùng một loại, sau đó tính tỷ lệ mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của các loại đó. Phương pháp này phù hợp với những tài sản tương đối đồng nhất với nhau như: Nhà ở của dân cư, các nhà thờ… Nhưng khi xác định tỷ lệ phí theo phân loại cần phải xem xét kỹ các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí như: Vật liệu xây dựng làm bằng gì? Khả năng phòng cháy chữa cháy Người sử dụng Những vật bố trí bên ngoài, trang trí nội thất… Xác định phí theo danh mục: Cách xác định này bao gồm các bước như sau: Bước 1: Rà soát lại các danh mục tài sản tham gia Bảo hiểm hoả hoạn rồi phân từng loại tài sản theo danh mục khác nhau, bởi vì mỗi loại tài sản có khả năng cháy, nổ khác nhau. Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn một tỷ lệ phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí được công ty bảo hiểm lập sẳn. Bước 3: Điều chỉnh tỷ lệ phí đã chọn theo các yếu tố tăng, giảm cho phù hợp với từng loại tài sản tham gia bảo hiểm. Các bước triển khai Bảo hiểm hoả hoạn Công tác khai thác Đây là bước đầu tiên và không thể thiếu trong nghiệp vụ bảo hiểm. Công tác khai thác đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của một công ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết mua bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do đó, mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn mà chưa có tập quán ở nước ta. . Tuyên truyền quảng cáo và tiếp cận khách hàng Trong những năm đầu triển khai nghiệp vụ này, số đơn vị tham gia còn rất ít mặc dù có một số công ty có khối lượng tài sản lớn nhưng họ vẫn không tham gia bảo hiểm hoả hoạn. Bởi vì nghiệp vụ này mới được triển khai trên địa bàn Hà Nội, công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được đầy đủ để đưa thông tin đến với khách hàng. Giai đoạn đầu mang tính thử nghiệm, thăm dò nên chưa được triển khai trên diện rộng của địa bàn, chủ yếu tập trung vào khách hàng có quan hệ thường xuyên, truyền thống với công ty. Cán bộ làm công tác Bảo hiểm hoả hoạn chưa có kinh nghiệm nhiều và chuyên môn chưa sâu nên chưa nắm bắt nhanh nhạy với các đầu mối khách hàng. Mặt khác, do sự đổi mới cơ chế quản lý, các doanh nghiệp phải tự hạch toán, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao chất lượng cạnh tranh trên thị trường. Nhưng do duy trì quá lâu cơ chế cũ vì vậy khi chuyển sang cơ chế mới, các doanh nghiệp này gặp không ít khó khăn, lúng túng thua lỗ, không có khả năng thanh toán. Họ chưa thấy được việc bảo toàn đồng vốn tốt nhất là tham gia bảo hiểm. Vì thế, số đơn vị tham gia bảo hiểm còn thấp. Mấy năm gần đây, hoạt động khai thác của công ty Bảo hiểm Hà Nội cũng đã từng bước phát triển đáng kể. Hàng năm, công ty kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan như: Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, đài truyền hình, truyền thanh, báo chí, các bộ ngành để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn. Qua đó mới có thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm hoả hoạn. Bên cạnh đó, công ty cũng thường xuyên cử cán bộ xuống tận các xí nghiêp, các cơ sở kinh doanh để tuyên truyền quảng cáo đồng thời giải thích cho họ những vướng mắc, chưa hiểu rõ cũng như tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn. Tạo cho họ những nhận thức đúng đắn, lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm hoả hoạn. Qua việc tuyên truyền quảng cáo và tiếp cận khách hàng của công ty Bảo hiểm Hà Nội trong mấy năm gần đây, đã làm cho doanh thu của nghiệp vụ này tăng lên đáng kể, đóng góp một phần không nhỏ vào tổng doanh thu của công ty. 1.2. Giấy chứng nhậnbảo hiểm Đối với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn, sau khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm công ty bảo hiểm cấp cho người tham gia Giấy chứng nhận bảo hiểm sau khi các bên đã thoả thuận và chấp nhận mức phí bảo hiểm cũng như làm các thủ tục khác. Giấy chứng nhận bảo hiểm bao gồm các phần sau: + Số Đơn bảo hiểm + Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm + Những rủi ro được bảo hiểm + Tài sản được bảo hiểm + Tổng giá trị tài sản + Ngành nghề sản xuất kinh doanh + Số tiền bảo hiểm + Chi phí dọn dẹp hiện trường (nếu có) + Mức miễn thường + Thời hạn bảo hiểm + Phí bảo hiểm cả năm Thông thường, tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm. Vì vậy, kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, số tiền bảo hiểm của từng loại đó. 1.3. Đánh giá rủi ro Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu cầu bảo hiểm . Công tác đánh giá rủi ro nhằm mục đích đánh giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối tượng bảo hiểm để công ty bảo hiểm xem xét có nên nhận bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm này không, nếu nhận thì công tác đề phòng và hạn chế tổn thất như thế nào. Cũng qua công tác đánh giá rủi ro công ty bảo hiểm ấn định một tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp và tương ứng với các rủi ro mà Công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm. Để có cơ sở đánh giá rủi ro, thông thường khi khách hàng gửi Giấy yêu cầu bảo hiểm thì Công ty bảo hiểm gửi lại cho khách hàng một Bản câu hỏi nhằm mục đích điều tra các rủi ro. Qua phần trả lời câu hỏi của khách hàng trong Bản câu hỏi công ty có thể đánh giá được phần nào về đối tượng bảo hiểm như: Bậc chịu lửa của công trình, các thiết bị phòng cháy chữa cháy được trang bi như thế nào, có đội cứu hoả hay không, hạng sản xuất, loại hình kinh doanh, mức độ nguy hiểm với các tài sản nằm ở trong kho, cửa hàng, từ đó xác định được mức phí thích hợp. Tuy nhiên trên thực tế, để việc đánh giá rủi ro được chính xác trung thực hơn ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời câu hỏi trong Bản câu hỏi, cùng cộng tác với cảnh sát phòng cháy chữa cháy đánh giá thực tế về công tác phòng cháy chữa cháy, phương tiện chuyên môn. Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuận với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng. 1.4. Bổ sung, sửa đổi tài sản bảo hiểm Sau khi công ty đã cấp Giấy chứng nhậnbảo hiểm cho khách hàng hoặc đã bảo hiểm được một thời gian nhưng vì một lý do nào đó mà khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được bảo hiểm như: giá trị bảo hiểm, tỷ lệ phí, phí bảo hiểm… Công ty cần phải xem xét kỹ yêu cầu thay đổi của khách hàng và các yếu tố có liên quan để điều chỉnh cho phù hợp, thoả mãn được mong muốn của khách hàng nhưng phải đảm bảo hoạt động có lãi cho công ty. Nếu sau khi xem xét Công ty đồng ý sửa đổi, bổ sung cho khách hàng thì phải lập Bản bổ sung sửa đổi. Bản bổ sung sửa đổi cũng phải lập thành bốn bản như khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm và trao cho các bộ phận có liên quan. 1.5. Theo dõi tình hình thu phí Một bước trong quá trình khai thác mà cán bộ bảo hiểm cần chú ý đó là theo dõi tình hình thu phí bảo hiểm. Sau khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm cán bộ khai thác phối hợp với bộ phận kế toán tài vụ để theo dõi thu phí bảo hiểm. Để công tác khai thác bảo hiểm hoả hoạn hoạt động tốt cán bộ bảo hiểm cần phải định kỳ đến thăm khách hàng để theo dõi được đối tượng bảo hiểm, kiểm tra và kiến nghị những việc cần làm như tăng cường công tác phòng cháy chữa cháy. Cán bộ bảo hiểm cũng phải theo dõi, bám sát khách hàng để nhắc nhở họ tái tục hợp đồng bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp kết thúc. 1.6. Hoa hồng Hoa hồng là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với phí bảo hiểm. Khoản Hoa hồng này công ty bảo hiểm trả cho những người trực tiếp khai thác bảo hiểm, đại lý, môi giới cũng như đội ngũ công tác viên nhằm động viên họ nhiệt tình công tác, thu hút thêm khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là hình thức tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Thông thường khoản Hoa hồng này chiếm 5% so với phí bảo hiểm. Giám định và bồi thường tổn thất . Giám định tổn thất Giám định tổn thất trong bảo hiểm hoả hoạn là cơ sở xác định chính xác số tiền bồi thường. Đây là khâu vô cùng phức tạp và quan trọng đòi hỏi phải có các chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm nghề nghiệp cao. Khi tổn thất xảy ra, người tham gia bảo hiểm phải kịp thời thông báo tới người bảo hiểm bằng văn bản, điện thoại, điện tín hoặc fax, thông báo phải đảm bảo được ba nội dung cơ bản sau: Địa điểm và thời gian xảy ra tổn thất. Đối tượng thiệt hại. Dự đoán nguyên nhân xảy ra tổn thất. Sau khi nhận được thông báo, người bảo hiểm cử ngay nhân viên có trách nhiệm đến ngay hiện trường làm công tác giám định. Khi giám định cần phải làm rõ các vấn đề sau: Thời điểm xảy ra hoả hoạn và kết thúc hoả hoạn. Nguyên nhân xảy ra hoả hoạn. Thống kê toàn bộ số tài sản bị thiệt hại. Lời khai của các nhân chứng Các công tác phòng cháy chữa cháy và ngăn ngừa thiệt hại khi hoả hoạn xảy ra sau đó lập biên bản giám định có đầy đủ chữ ký của các bên như: Công an, Cảnh sát chữa cháy, Thuế vụ, Chính quyền sở tại, Kiểm toán. Căn cứ vào biên bản giám địng này người bảo hiểm dự trù số tiền bồi thường một lần hay nhiều lần cho người tham gia bảo hiểm. Thông thương, công tác giám định được chia thành các bước như sau: Bước 1: Sau khi nhận được thông báo xảy ra thiệt hại, công ty báo hiểm chọn và cử nhân viên giám định có trách nhiệm, có trình độ, kinh nghiệm đúng đối tượng và nhiệm vụ đến ngay hiện trường làm công tác giám định và lập biên bản giám định. Bước 2: Đến hiện trường, nơi xảy ra hoả hoạn để giám định. Bước này cần phải thực hiện các công việc như sau: Xác định thời gian xảy ra tổn thất. Địa điểm xảy ra tổn thất có gì bị xáo trộn, đặc biệt không? Tìm ra nguyên nhân gây tổn thất. Đây là công việc khó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các lực lượng như: Công an, Đội cứu hoả, Chính quyền sở tại. Thu thập thêm một số thông tin liên quan đến vụ hoả hoạn, nếu có chứng cứ càng tốt. Ngoài ra, giám định viên còn phải phán đoán thời gian, nguyên nhân hoả hoạn và những vấn đề có liên quan để giúp quá trình điều tra được nhanh chóng và chính xác hơn. Bước 3: Tính toán mức độ thiệt hại trong từng đơn vị rủi ro và tất cả các đơn vị rủi ro được bảo hiểm. Khi tính toán xong phải xin ý kiến của lãnh đạo công ty để chuẫn bị bàn bạc thống nhất với người tham gia bảo hiểm và cơ quan chức năng có liên quan. Bước 4: Sau khi thoả thuận giữa các bên đẫ xác định được mức độ thiệt hại thực tế, nguyên nhân gây ra thiệt hại, thời điểm xảy ra hoả hoạn, thì giám định viên lập biên bản giám định. Biên bản này phải có đầy đủ chử ký của các bên. Căn cứ vào biên bản giám định, công ty bảo hiểm xét bồi thường cho người tham gia. . Công tác bồi thường Bồi thường là trách nhiệm của người bảo hiểm khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm và đây cũng chính là quyền lợi của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm mong muốn được bồi thường nhanh chóng để khắc phục rủi ro tổn thất khôi phục kinh doanh của mình. Bồi thường cũng thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm do đó người bảo hiểm muốn cạnh tranh tốt với các công ty khác thì phải chú ý đến khâu bồi thường sao cho nhanh chóng, thoả mãn với yêu cầu của khách hàng nhưng phải đãm bảo được kinh doanh có lợi cho công ty. Đối với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn, người ta căn cứ vào biên bản giám định để xét bồi thường. Quá trình bồi thường được chia làm các bước như sau: Bước 1: Nhà bảo hiểm và người được bảo hiểm thống nhất với nhau về thủ tục bồi thường như: dùng đồng tiền nào để bồi thường, bồi thường làm mấy lần, người nhận bồi thường là ai… Bước 2: Tiến hành bồi thường trực tiếp cho người tham gia theo hợp đồng đã ký. Bước 3: Khi xác định số tiền bồi thường, nếu có mức miễn thường phải công bố công khai một lần nữa trong hội nghị xét bồi thường, hạn chế tối đa sự nghi ngờ, khiếu nại, kiện cáo. thông thường, công ty bảo hiểm thực hiện một trong hai phương pháp bồi thường sau: Bồi thường theo tỷ lệ số tiền bảo hiểm: Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại x (Số tiền bảo hiểm/ Giá trị bảo hiểm) Phương pháp này chỉ áp dụng cho người tham gia bằng giá trị bảo hiểm trở xuống. áp dụng phương pháp này tránh cho nhà bảo hiểm phải chịu những phiền toái về kiện cáo, khiếu nại đồng thời ngăn ngừa được đầu cơ và lợi dụng, trục lợi của người được bảo hiểm. + Trường hợp số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm của tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất thì số tiền bồi thường ngang bằng với giá trị thiệt hại. + Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất mà giá trị thực tế của tài sản trên thị trườnglớn hơn giá trị của tài sản khi tham gia bảo hiểm theo đánh giá thì số tiền bồi thường là: Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế x (Giá trị tài sản tham gia bảo hiểm/ Giá trị tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất) + Nếu tài sản tại thời điểm tài sản bị phá huỷ hay hư hại trong khi được bảo hiểm mà tài sản đó đưọc bảo hiểm bằng một hợp đồng khác thì trách nhiệm của người bảo hiểm trong bát kỳ trường hợp nào cũng chỉ chịu trách nhiệm giới hạn ở phần tổn thất phân bổ cho hợp đồng mà mình bảo hiểm theo tỷ lệ. Cụ thể: Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế x (Giá trị tài sản đánh giá khi tham gia bảo hiểm / Giá trị tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất) x Tỷ lệ bảo hiểm. Giá trị tổn thất thực tế được xác định như sau: Đối với nhà cửa: cơ sở để tính số tiền thiệt hại chính là chi phí sửa chữa. Đối với máy móc thiết bị và tài sản khác: Nếu còn sửa chữa được thì cơ sở tính thiệt hại là chi phí sửa chữa, nếu không thì đó là chi phí mua mới. Đối với thành phẩm: cơ sở tính giá trị thiệt hại là giá thành sản xuất. Nếu giá thành sản xuất cao hơn giá thị trường, sản phẩm đã bán nhưng chưa giao hàng thì cơ sở tính thiệt hại là giá bán. Đối với bán thành phẩm: cơ sở tính thiệt hại là chi phí sản xuất tính đến thời điểm sản xuất. Đối với hàng hoá dự trử trong kho và cửa hàng: thì cơ sở tính thiệt hại là giá mua (theo hoá đơn mua hàng) mà người được bảo hiểm đã trả chứ không phải là giá bán. Bồi thường theo quy tắc tỷ lệ phí: Có một số trường hợp, người tham gia bảo hiểm không đủ tiền nộp đầy đủ mức phí đã ấn định. Vì vậy, không may tổn thất xảy ra số tiền bồi thường của bảo hiểm được tính toán như sau: Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế x (Phí bảo hiểm đã đóng/Phí bảo hiểm lẻ ra phải đóng) Hồ sơ bồi thường gồm có: + Giấy thông báo tổn thất + Biên bản giám định thiệt hại của công ty bảo hiểm + Biên bản giám định vụ tổn thất của cảnh sát phòng cháy chữa cháy + Biên bản kê khai thiệt hại và các giấy tờ chứng minh thiệt hại Thời hạn thanh toán bồi thường: Công ty sẽ tiến hành bồi thường trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Trường hợp trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi giấy báo từ chối bồi thường mà người được bảo hiểm không có ý kiến gì thì coi như người được bảo hiểm đã được chấp nhận việc từ chối. Thời hạn để người được bảo hiểm đòi bồi thường thiệt hại thuộc phạm vị trách nhiệm là một năm kể từ ngày tổn thất xảy ra. Quá thời hạn trên , công ty bảo hiểm không có trách nhiệm giải quyết bồi thường. Bước 4: Khiếu nại sau bồi thường: Sau khi bồi thường, nếu gặp những trường hợp khiếu nại, kiện cáo về mặt pháp lý công ty bảo hiểm phải chấp nhận giải quyết nhưng để giải quyết thoả đáng bao giờ cũng phát sinh một số chi phí có liên quan. Về nguyên tắc bên nào thua kiện thì bên đó phải chịu các chi phí này. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Mục đích của bảo hiểm hoả hoạn không chỉ là bồi thường, ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm mà còn nhằm hạn chế các vụ hoả hoạn cũng như hậu quả của chúng. Muốn đạt được mục đích đó, các Công ty bảo hiểm phải phối hợp với người tham gia bảo hiểm và cảnh sát phòng cháy chữa cháy cùng tiến hành công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. . Các biện pháp phòng cháy Mục tiêu của công tác phòng cháy là đề phòng hoả hoạn phát sinh, ngăn ngừa các nguy cơ xảy ra hoả hoạn. Hiện nay có hai biện pháp phòng cháy là phòng cháy bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các biện pháp quản lý. Phòng cháy bằng thiết kế xây dựng: nhằm cách ly các vật dể cháy với nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt, bếp lò sấy, lò sưởi, các thiết bị điện… do vậy, việc thiết kế xây dựng cần lưu ý tới việc bố trí các phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị nội thất một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn cao. Các biện pháp quản lý: thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng cháy và chữa cháy của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn vị cần đề ra nội quy, biện pháp phòng cháy chữa cháy cho cơ sở của mình đồng thời có kế hoạch giáo dục, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các nội quy phòng cháy chữa cháy cũng như các tiêu chuẫn về an toàn trong lao động, sản xuất… Cùng với cảnh sát phòng cháy chữa cháy công ty bảo hiểm sẽ hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy ở các khu vực dể xảy ra rủi ro, đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý. . Công tác chữa cháy Trước hết, cần trang bị các phương tiện thiết bị báo cháy để xác định vùng xảy ra cháy nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành lập các đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa thì mới đảm bảo chữa cháy kịp thời và có hiệu quả. Các công ty bảo hiểm qua việc tham quan các cơ sở yêu cầu họ không những thực hiện nội quy phòng cháy chữa cháy mà còn phải trang bị các thiết bị chữa cháy cần thiết. Khi có rủi ro hoả hoạn xảy ra, ngoài việc thông báo cho Cảnh sát chữa cháy, Công ty bảo hiểm… người tham gia phải tích cực cùng với những người khác tham gia chữa cháy ngăn ngừa đám cháy lây lan sang các vùng khác nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty Bảo hiểm Hà Nội. Quá trình triển khai và phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở Bảo Việt nói chung và ở công ty Bảo hiểm Hà Nội nói riêng Tại Bảo Việt cũng như các công ty bảo hiểm khác, các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm hàng hải và phi hành hải đã được tiến hành từ lâu và đã trở thành nghiệp vụ truyền thống. Mãi đến ngày 17/1/1989 Bảo Việt mới chính thức triển khai trong cả nước nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh sau cháy theo quyết định số 06/TC-QĐ của Bộ tài chính. Sau một năm (1990) có 16 công ty ở 16 tỉnh thành bắt đầu triển khai nghiệp vụ và tổng giá trị lên tới 6200 tỷ đồng. Đây là nghiệp vụ có giá trị ban đầu lớn nhất. Đến nay, Bảo hiểm hoả hoạn đã được triển khai khắp trong cả nước. Trong năm 1991 số Đơn bảo hiểm hoả hoạn cấp ra mới chỉ 413 đơn đến năm 1994 con số này đã lên đến 2000. Giá trị tài sản được bảo hiểm và số phí bảo hiểm thu được thể hiện qua bảng sau: Bảng1: Giá trị tài sản được bảo hiểm và số tiền phí bảo hiểm Đơn vị: tỷ đồng Năm Giá trị tài sản được bảo hiểm Số tiền phí bảo hiểm 1991 1000 4,5 1992 4000 10,2 1993 7000 21,3 1994 14000 32,9 (Nguồn số liệu hướng dẫn nghiệp vụ BHHH, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam) Qua bảng số liệu trên cho thấy, Giá trị bảo hiểm và số phí bảo hiểm ngày một tăng lên về số tuyệt đối, số liệu này cũng chứng tỏ nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ngày một lớn mạnh. Tuy nhiên, Bảo Việt cũng đã phải chi trả bồi thường nhiều vụ cháy lớn như công ty Giầy Hiệp Hưng 14 tỷ đồng, chợ Đồng xuân gần 10 tỷ đồng, công ty Dược Đồng Tháp gần 4,5 tỷ đồng, công ty sản xuất và xuất nhập khẩu Sông Bé gần 18 tỷ đồng… Có thể nói rằng, Bảo hiểm hoả hoạn đã dần dần trở thành tập quán của người Việt Nam, đáp ứng được những đòi hỏi tất yếu của xã hội và ngày càng củng cố vững chắc vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu chung của ngành bảo hiểm Việt Nam. Đánh giá kết quả hoạt động của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn thời gian từ 1996 - 2000 tại công ty Bảo hiểm Hà Nội Trải qua 11 năm hoạt động của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty Bảo hiểm Hà Nội, với mục tiêu là: Thoả mãn tối đa các nhu cầu bảo hiểm của khách hàng về loại hình bảo hiểm hoả hoạn, khuyến khích, tác động tạo ra những nhu cầu mới… Bằng sự cố gắng nỗ lực của công ty và đặc biệt là sự nỗ lực của cán bộ làm công tác khai thác, kết quả hoạt động của nghiệp vụ này qua các năm ngày một cao hơn, khẳng định được vị trí của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn trong công ty Bảo hiểm Hà Nội hiện nay. Điều này được chứng tỏ qua các phần sẽ trình bày dưới đây. . Tình hình khai thác và doanh thu nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn của công ty Bảo hiểm Hà Nội Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước, mỗi năm mang lại những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt đông kinh doanh bảo hiểm. Kinh tế phát triển cộng với sự quản lý theo hướng thị trường đã làm cho nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm tăng. Cùng với sự nỗ lực của ban lãnh đạo của công ty cũng như các cán bộ trong công tác Bảo hiểm hoả hoạn nên kết quả của nghiệp vụ này ngày càng cao. Điều đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn năm 1995- 2000 Năm Các chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 1. .Số đơn vị tham gia Lượng tăng (giảm) tuyệt đối Tốc độ phát triển Đ.vị Đ.vị % 211 - - 284 73 134,60 332 48 116,90 382 50 115,06 375 -7 98,10 2. .Số tiền bảo hiểm Lượng tăng (giảm) tuyệt đối Tốc độ phát triển Tr.đ Tr.đ % 2.612.705 - - 2.804.773 192.068 107,35 3.202.146 397373 114,17 5821500 2 619 454 181,8 5272300 -549200 90,57 3.Doanh thu phí bảo hiểm Lượng tăng (giảm) tuyệt đối Tốc độ phát triển Tr.đ Tr.đ % 6098 - - 7183 1085 117,79 8191 1008 114,03 11 643 3452 142,14 7908 -3735 67,92 4..Số tiền bảo hiểm bq/1 đơn vị Tr.đ 12.382,49 9875,96 9645,02 15329,53 14059,47 5..Doanh thu phí bảo hiểm bq/1 đvị Tr.đ 28,90 25,20 24,67 30,64 21,09 (Nguồn số liệu : Phòng Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt Công ty bảo hiểm Hà Nội ) Qua bảng 2, cho thấy số lượng các đơn vị tham gia bảo hiểm năm sau cao hơn năm trước rất nhiều. Nếu như năm 1996 chỉ có 211 đơn vị tham gia thí sang năm 1997 là 284 đơn vị tham gia với tốc độ tăng là 34,6% tức là tăng 73 đơn vị. Sở dĩ năm 1996 chỉ có 211 đơn vị tham gia là vì vào thời điểm này có các công ty bảo hiểm khác ra đời như Bảo Long, Bảo Minh… ra đời được một năm nên khách hàng của Bảo Việt bị san sẻ . Năm 1998 có 332 đơn vị tham gia tăng 48 đơn vị so với năm 1997, tốc độ tăng giảm xuống còn 16,9%. Năm 1999 số đơn vị tham gia là 382 đơn vị tăng so với năm 1998 là 50 đơn vị tương ứng với tốc độ tăng là 15,06%. Đến năm 2000 số đơn vị tham gia là375 đơn vị giảm so với năm 1999 là 7 đơn vị tương ứng giảm 2,9% so với năm 1999. Như vậy, trung bình mỗi năm có khoảng 361,8 đơn vị tham gia. Qua đó cho thấy công tác khai thác của công ty trong nghiệp vụ này được đẩy mạnh, số lượng khách hàng ngày càng nhiều. Bước đầu có thể đánh giá rằng, tình hình khai thác nghiệp vụ này ở công ty Bảo hiểm Hà Nội là tốt, công ty luôn mở rộng phạm vị tiếp cận và khai thác khách hàng. Để có thể đánh giá một cách toàn diện hơn thì cần phải xem xét qua số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm hàng năm tăng lên rất mạnh, phản ánh đúng với số tăng của các đơn vị tham gia. Nguyên nhân của hiện tượng này là do nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 8,3%. Năm 1996 số tiền bảo hiểm là 2804773 triệu đồng nhưng sang năm 1997 thì số tiền bảo hiểm là 2804773 triệu đồng tức tăng 192068 triệu đồng với tốc độ tăng là 7,35% so với năm 1996. Sở dĩ như vậy là do năm 1997 là năm khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Năm 1998 do ảnh hưởng hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của năm 1997 nhưng số tiền bảo hiểm thu được lại tăng so với năm 1997 là 3202146 triệu đồng tương ứng tăng 14,17%. Đặc biệt năm 1999, số tiền bảo hiểm tăng mạnh 5821500 triệu đồng tăng 2619454 triệu đồng so với năm 1998, tức tăng 81,8%. Điều này thể hiện giá trị tham gia bảo hiểm ngày càng lớn tập trung chủ yếu vào các đơn vị, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 2000, số tiền bảo hiểm giảm xuống còn 5272300 triệu đồng, giảm so với năm 1999 là 549200 triệu đồng, tốc độ tăng tương ứng giảm 9,43% so với năm 1999. Nhưng nhìn chung, số tiền bảo hiểm bình quân trên một đơn vị lại có xu hướng giảm dần từ năm 1996 đến 1998, và lại tăng mạnh vào năm 1999. Qua đó có thể thấy rằng kết quả đó đạt được là nhờ sự cố gắng phấn đấu vươn lên không ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên chức của công ty ở phòng cháy. Vấn đề đáng quan tâm ở đây không chỉ là số lượng các đơn vị tham gia bảo hiểm và số tiền bảo hiểm qua các năm ngày một tăng, mà doanh thu của nghiệp vụ đã tăng lên một cách đáng kể. Đây là một kết quả đáng mừng và đáng khích lệ của công ty bảo hiểm Hà Nội. Năm 1996 doanh thu phí bảo hiểm là 6098 triệu đồng. Lúc này trên địa bàn Hà Nội thị trường bảo hiểm vẫn tiếp tục sôi động và có phức tạp hơn. Các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài hệ thống Bảo Việt đã tăng cường triển khai các nghiệp vụ với nhiều hình thức tiếp thị và chính sách ưu đãi có lợi với khách hàng mà lại tập trung ở những khách hàng có tiềm năng khai thác. Thêm vào đó, ngay từ đầu năm 1996 Bộ tài chính đã ban hành thông tư số 76/TC về việc quy định chế độ hoa hồng bảo hiểm, văn bản này có tác động và ảnh hưởng lớn đến quá trình tổ chức triển khai nghiệp vụ. Trước tình hình trên, Ban giám đốc đã tập trung chỉ đạo kịp thời cho các đơn vị trong công ty quyết tâm bám sát khách hàng để giữ vững địa bàn với phương châm “ Củng cố địa bàn đi đôi với việc mở rộng địa bàn và không ngừng nâng cao chất lượng nghiệp vụ và chất lượng phục vụ”. Vì vậy, năm 1996 doanh thu phí tăng mạnh. Năm 1997 doanh thu phí bảo hiểm đạt 7183 triệu đồng tăng 1085 triệu đồng so với năm 1996 nhưng tốc độ tăng chỉ có 17,79%. Như vậy, do trong năm này có khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực nên doanh thu phí bảo hiểm chưa có tốc độ tăng cao. Năm 1998 doanh thu đạt 8191 triệu đồng tăng 1008 triệu đồng so với năm 1997, tương ứng với tốc độ tăng là 14,03%. Đáng chú ý hơn cả là năm 1999 doanh thu phí tăng vọt lên 11643 triệu đồng, tức tăng 3452 triệu đồng so với năm 1998 tương ứng với tốc độ tăng là 42,14%. Đây là năm mà cán bộ khai thác chịu khó lặn lội, bám sát thị trường, bám sát khách hàng, chăm lo khách hàng hơn cả chăm người thân, gây được quan hệ thân thiết với khách hàng. Công ty có chính sách khách hàng hợp lý, đặc biệt là những khách hàng lớn, thể hiện trên các mặt ưu đãi về phí bảo hiểm, về tiền thưởng không có tổn thất hoặc có tổn thất nhưng mà ít, về chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, về việc bồi thường… Nhưng đến năm 2000 doanh thu của nghiệp vụ này giảm xuống còn 7908 triệu đồng, giảm so với năm 1999 là 3735 triệu đồng, tương ứng giảm 32,08% so với năm 1999. Để khắc phục tình trạng giảm doanh thu của năm 2000 và kinh doanh có hiệu quả nghiệp vụ này thì công ty cần tích cực hơn nửa và có phương pháp mới và hữu hiệu trong công tác triển khai nghiệp vụ này. Bảng 3: Tình hình chi hoa hồng nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty bảo hiểm Hà Nội năm 1995- 2000 Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 Số chi hoa hồng Triệu đồng 548,82 647,07 737,19 1047,87 711,72 Lượng tăng tuyệt đối Triệu đồng - 98,25 90,12 310,68 -336,15 Tỷ lệ tăng trưởng % - 17,90 13,92 42,14 -32,08 (Nguồn số liệu phòng Bảo hiểm hoả hoạn) Qua bảng số liệu trên cho thấy, công ty rất chú trọng đến vấn đề hoa hồng. Hàng năm số chi hoa hồng tăng lên đáng kể, phản ánh số lượng tham gia và giá trị tài sản đơn vị tham gia bảo hiểm hoả hoạn ngày một tăng. Chi hoa hồng năm 1996 là 548,82 triệu đồng nhưng đến năm 1997 là 647,07 triệu đồng tăng 98,25 triệu đồng tương ứng tăng 17,90%. Đến năm 1998 tỷ lệ tăng trưởng là 13,92 có phần giảm đị mặc dù mức chi hoa hồng có tăng, số chi hoa hồng là 647,07 triệu đồng. Năm 1999 chi hoa hồng tăng mạnh 310,68 triệu đồng so với năm 1998 với tỷ lệ tăng trưởng là 42,14%. Năm 2000 chi hoa hồng 711,72 triệu đồng giảm mạnh so với năm 1999 là 336,15 triệu đồng. Điều này chứng tỏ nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn năm 2000 triển khai chưa được tốt, công ty bảo hiểm Hà Nội cũng như phòng cháy cần phải có chính sách đổi mới phù hợp hơn trong khâu khai thác để đảm bảo hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ này. Qua đây cũng có thể khẳng định thêm rằng, nhìn chung công ty đã thực hiện tốt khâu khai thác trong nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn. Theo như phân tích ở trên, có thể thấy rõ công tác khai thác bảo hiểm hoả hoạn luôn có xu hướng tiến bộ đi lên và có khả quan. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là kết quả mong muốn, con số đó vẫn còn rất khiêm tốn so với tiềm năng đang có. Vì vậy, công ty bảo hiểm Hà Nội cụ thể là phòng Bảo hiểm hoả hoạn cần phải đề ra các phương án cụ thể để có thể chiểm lĩnh thị trường. . Công tác giám định và bồi thường tổn thất Công tác giám định và bồi thường chính xác nhanh chóng có ý nghĩa rất quan trọng nó là phương pháp tốt nhất để tạo ra sự tín nhiệm của khách hàng vào công ty. Nhìn chung công tác giám định và bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm Hà Nội trong nghiệp vụ hoả hoạn được đảm bảo. Điều đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4: Tình hình bồi thường của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty bảo hiểm Hà Nôi năm 1996- 2000 (Đơn vị: triệu đồng) Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 Số tiền bồi thường Tr.đ 3220,6 451,215 2437,3 659 447,597 Lượng tăng (giảm) tuyệt đối Tr.đ - -2769,385 1986,085 -1778,3 -211,403 Tỷ lệ tăng trưởng % - -85,99 440,16 -72,96 -32,08 ( Nguồn số liệu: phòng cháy của công ty bảo hiểm Hà Nội) Năm 1996 số vụ tổn thất thuộc trách nhiệm bồi thường của công ty là 6 vụ, với số tiền bồi thường là 3220,6 triệu đồng, số vụ đã giải quyết bồi thường trong năm là 2 vụ. Trong đó, tập trung chính vẫn là giải quyết bồi thường hậu quả vụ cháy chợ Đồng Xuân năm 1995 để lại. Năm 1997 tổng số tiền bồi thường giảm rất nhiều so với năm 1996, cụ thể là có 2 vụ tổn thất phát sinh trong năm và 4 vụ của năm 1996 để lại, đã giải quyết bồi thường trong năm là 4 vụ, với số tiền bồi thường là 451,215 triệu đồng, giảm so với năm 1996 là 2769,451 triệu đồng. Có thể do công ty làm tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, vẫn còn 2 vụ chưa giải quyết xong phải chuyển sang năm 1998 để giải quyết. Năm 1998 tổng số tiền bồi thường lại tăng lên rất lớn so với năm 1997, cụ thể có 4 vụ tổn thất phát sinh trong năm, 2 vụ tồn đọng của năm 1997 đã giải quyêt được 5 vụ còn lại 1 vụ chuyển sang năm 1999 giải quyết tiếp. Với số tiền bồi thường là 2437,3 triệu đồng. Tăng so với năm 1997 là 1986,085 triệu đồng tương ứng tăng 440,16% so với năm 1997. Nhưng nhìn chung, các vụ cháy lớn năm 1998 có xu hướng tăng lên. Điều đó lưu ý công ty cũng như phòng cháy cần tích cực hơn nữa trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Năm 1999 do kết quả của năm 1998 số tiền bồi thường tăng lên quá lớn, nên công ty đã rút ra được kinh nghiêm và có phương pháp phòng cháy hữu hiệu dẫn đến số tiền bồi thường chỉ còn 659 triệu đồng, giảm so với năm 1998 là 1778,3 triệu đồng. Năm 2000 số vụ cháy phát sinh trong năm là 2 vụ tồn đọng của năm 1999 để lại là 2 vụ, đã giải quyết được toàn bộ các vụ tổn thất với tổng số tiền bồi thường là 447,597 triệu đồng, giảm so với năm 1999 là 211,403 tương ứng tỷ lệ là 32,08% so với năm 1999. Đây là một xu hướng giảm xuống hẳn, nhờ có công tác đề phòng và hạn chế tổn thất tôt hơn, cả công ty cũng như các doanh nghiệp có ý thức bảo vệ tài sản tốt hơn. Qua đây cũng có thể hình dung được phần nào tác dụng và ý nghĩa của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất và công việc giải quyết bồi thường của công ty, đã tạo sự hài lòng cho người tham gia bảo hiểm. Tuy chịu ảnh hưởng không nhỏ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực năm 1997 như số đơn vị tham gia bảo hiểm của các năm sau vẫn cao. Điều đó cho thấy rằng, do làm tốt khâu bồi thường đã tạo niềm tin cho khách hàng và đây là yếu tố thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty. Tuy nhiên, công ty phải chú trọng hơn vào công tác đề phòng và hạn chế tổn thất để giảm hơn nữa số vụ tổn thất và số tiền bồi thường đem lại lợi nhuận cao hơn cho công ty. . Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Đề phòng và hạn chế tổn thất là một khâu quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và Bảo hiểm hoả hoạn nói riêng. Trên cơ sở số phí thu được hàng năm, công ty tiến hành xây dựng mức chi đề phòng và hạn chế tổn thất, khoản chi này dùng vào việc tuyên truyền quảng cáo, hỗ trợ, hội nghị… trong tất cả các khoản chi, khoản chi hỗ trợ kinh phí chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ số chi cho công tác này. Khoản chi này có tác dụng to lớn khong chỉ về mặt kinh tế mà còn có tác dụng tích cực trong tuyên truyền quảng cáo cho hoạt động của nghiệp vụ. Thực tế chi đề phòng và hạn chế tổn thất của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn của công ty Bảo hiểm Hà Nội được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 5: Tình hình chi đề phòng và hạn chế tổn thất của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty Bảo hiểm Hà Nội năm 1996- 2000 Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 Định mức chi Tr.đ 170,744 201,124 229,348 326,004 221,424 Chi tuyên truyền Tr.đ 52,86 61,137 69,126 75,435 64,152 Chi hỗ trợ Tr.đ 105,72 122,274 138,252 105,87 128,304 Chi hội nghị Tr.đ 17,62 20,379 23,042 34,375 29,234 Tổng chi Tr.đ 176,2 203,79 230,42 260,68 211,69 Tỷ lệ chi thực tế so với định mức % 103,19 101,32 100,46 79,96 100,12 ( Nguồn số liệu: Phòng Bảo hiểm hoả hoạn của công ty bảo hiểm Hà Nội) Theo số liệu của bảng trên, qua các năm hầu như số chi thực tế luôn vượt định mức đưa ra, số chi này tăng theo từng năm chứng tỏ công ty luôn chú trọng đến công tác đề phòng và hạn chế tổn thất của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn. Do công tác đề phòng của nghiệp vụ bảo hiểm này có ý nghĩa rất quan trọng và có tác động trực tiếp đến vấn đề bồi thường, nếu làm tốt công tác này sẽ hạn chế đế mức tối thiểu thiệt hại gây ra. Nhìn chung, qua mấy năm chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất ngày càng tăng, đặc biệt là khoản chi hổ trợ tăng mạnh nhất. Phải chăng, với tốc độ tăng nhanh của chi phí này mà số vụ tổn thất giảm rõ rệt và số tiền bồi thường cũng giảm xuống rất nhanh, đặc biệt là năm 2000 số vụ tổn thất chỉ có 2 vụ và cuối năm 2000 công ty đã bồi thường hết cho khách hàng. Đây là điều đáng khích lệ cho công ty bảo hiểm Hà Nội. Kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty bảo hiểm Hà Nội Kết quả hoạt động kinh doanh Kết quả hoạt động là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh quá trình tiến hành hoạt động từ khâu khai thác đến khâu giám định và bồi thường. Để đảm bảo cho quá trình hạch toán của nghiệp vụ đòi hỏi phải có sự chênh lệch thu chi về mặt tài chính. Như vậy mới đảm bảo cho việc triển khai, mở rộng và nâng cao được hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ. Kêt quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ có tính chất quy ước và được xác định bằng chênh lệch giữa tổng số thu và tổng số chi trong đó tổng chi của nghiệp vụ gồm: Chi bồi thường khi có tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Chi đề phòng và hạn chế tổn thất chiếm 3% doanh thu Chi dự trử chiếm 5% doanh thu phí Chi hoa hồng, khoản chi này quy định theo Bộ tài chính là: 2,5% doanh thu phí. Chi quản lý: là việc chi trả cho tất cả các khoản tiền để đảm bảo cho quá trình kinh doanh bảo hiểm như: chi lương cho cán bộ công nhân viên, chi cho công tác phí, chi tiền điện thoại, điện nước, mua các thiết bị văn phòng… khoản chi này theo quy định của Bộ tài chính chiếm 10% doanh thu phí. Chi thuế là khoản chi mà công ty phải nộp cho ngân sách Nhà nước. Số chi này được xác định theo tỷ lệ nhất định do Bộ tài chính quy định thống nhất trên doanh thu phí thực hiện đựơc gọi là thuế doanh thu tỷ lệ này là 4% doanh thu. Để đánh giá chính xác kết quả hoạt động của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty bảo hiểm Hà Nội chúng ta xem xét và phân tích bảng số liệu sau: Bảng 6: Kết quả hoạt động nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn của công ty bảo hiểm Hà Nội năm 1996- 2000 Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Doanh thu phí (Tr.đ) 6098 7183 8191 11643 7908 Tổng chi (Tr.đ) 5104,3 2666,9 4961,2 4870,4 3156,874 Chi bồi thường (Tr.đ) 3220,6 541,215 2437,3 659 447,597 Chi hoa hồng (Tr.đ) 548,82 647,07 737,19 1047,87 711,72 Chi đề phòng và hạn chế tổn thất (Tr.đ) 176,2 203,8 230,4 260,7 177,069 Chi dự trữ (Tr.đ) 304,9 359,2 409,6 582,2 395,434 Chi thuế (Tr.đ) 243,92 287,32 327,64 1164,3 790,8 Chi quản lý (Tr.đ) 609,8 718,3 819,1 1164,3 790,8 Lãi (Tr.đ) 993,7 4516,1 3229,8 6764,6 4751,126 % Chi phí/ doanh thu 83,70 37,13 60,57 41,90 39,92 ( Nguồn số liệu: Phòng cháy của công ty bảo hiểm Hà Nội) Muốn có kết quả kinh doanh cao trước hết tổng thu phải lớn hơn tổng chi. Bên cạnh việc tăng cường tổng thu còn phải chú ý đến các khoản chi. Các khoản chi phải làm sao hết sức tiết kiệm, chi đúng mục đích và theo đúng chế độ quy định của Bộ tài chính. Trong phần chi phí thì phần chi bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm khi có tổn thất thuộc phạm vị bảo hiểm thường là lớn. Để giảm bới phần này thì công ty cần phải chăm lo hơn cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Qua bảng trên có thể thấy, doanh thu phí mỗi năm mỗi tăng năm 1996 doanh thu phí là 6098 triệu đồng sang năm 1997 là 7183 triệu đồng đế năm 1998 doanh thu phí đã tăng lên 8191 triệu đồng. Đặc biệt năm 1999 doanh thu phí của nghiệp vụ này tăng mạnh chứng tỏ nghiệp vụ này ngày càng có triển vọng, công tác khai thác của công ty được quan tâm và làm việc có hiệu quả. Tuy nhiên, sang năm 2000 doanh thu phí của nghiệp vụ này lại giảm với một số lượng đáng kể, năm 1999 doanh thu phí của nghiệp vụ này là 11643 triệu đồng thì sang năm 2000 giảm xuống còn 7908 triệu đồng. Điều này phòng cháy cũng như công ty cần phải xem xét và có biện pháp đổi mới để nhằm tăng doanh thu hơn nửa trong năm tới. Về tổng chi nghiệp vụ, tổng chi có xu hướng ngày càng giảm. năm 1996 tổng chi là 5104,3 triệu đồng, nhưng đến năm 2000 con số này chỉ còn 3156,874 triệu đồng. Trong đó, chi bồi thường giảm mạnh, năm 1996 chi bồi thường là 3220,6 triệu đồng nhưng đến năm 2000 thì chỉ còn 447,597 triệu đồng. Chi hoa hồng và chi đề phòng và hạn chế tổn thất có chiều hướng tăng, có thể nói rằng công ty đã chú trọng đến công tác đề phòng và hạn chế tổn thất dẫn đến chi hoa hồng và chi đề phòng và hạn chế tổn thất tăng đã làm cho chi bồi thường giảm đi đáng kể. Qua phần lãi cũng thấy được phần nào tình hình hoạt động của công ty bảo hiểm nói chung và của phòng Bảo hiểm hoả hoạn nói riêng. Từ năm 1996 đến năm 2000 lãi luôn tăng và tăng tương đối nhanh đặc biệt năm 1999 lãi của nghiệp vụ này đạt được 6764,6 triệu đồng. Đây là điều đáng mừng cho công ty. Tuy hoạt động của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn thuộc công ty bảo hiểm Hà Nội đã đạt được một kết qủa khả quan và trở thành một trong các nghiệp vụ đưa lại doanh thu cao cho công ty, nhưng điều đó chưa phản ánh hết tình hình hoạt động kinh doanh của công ty do đó cần phải xem xét thêm các chỉ tiêu hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh. Để thấy hết được tình hình kinh doanh của công ty bảo hiểm cũng như của phòng bảo hiểm hoả hoạn thuộc công ty cần phải xem xét và phân tích bảng sau: Bảng 7: Lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn ở công ty bảo hiểm Hà Nội năm 1996- 2000 Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 Doanh thu Tr.đ 6098 7183 8191 11643 7908 Chi phí Tr.đ 5104,3 2666,9 4961,2 4870,4 3156,874 Lợi nhuận = DT - CP Tr.đ 993,7 4516,1 3229,8 6764,6 4751,126 Số đơn vị tham gia Đơn vị 211 284 332 382 375 Bồi thường Tr.đ 3220,6 541,215 2437,3 659 447,597 Doanh thu/chi phí Tr.đ /Tr.đ 1,195 2,693 1,651 2,391 2,505 Lợi nhuận /chi phí Tr.đ /Tr.đ 0,195 1,693 0,651 1,389 1,505 Số đơn vị tham gia /chi phí Đ.vị /Tr.đ 0,041 0,106 0.067 0,078 0,119 Số bồi thường /chi phí Tr.đ /Tr.đ 0,631 0,203 0,491 0,135 0,142 Chênh lệch lợi nhuận (DLN) - 3522,4 -1286,3 3534,8 -2013,474 LN1/LN0 - 4,545 0,737 2,094 0,702 ( Nguồn số liệu: phòng Bảo hiểm hoả hoạn của công ty Bảo hiểm Hà Nội) Nhìn chung, qua các năm doanh thu nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn tăng nhanh, chi phí cũng tăng nhưng tăng chậm hơn dẫn đến lợi nhuận cũng có xu hướng tăng nhanh. Đặc biệt, lợi nhuận tăng nhanh vào các năm 1997,1999. Riêng năm 1998 lợi nhuận giảm xuống một lượng là 1286,3 triệu đồng, và năm 2000 giảm 2013,474 triệu đồng. Vì vậy, lợi nhuận năm 1998 giảm 26,3% so với năm 1997 và năm 2000 giảm 29,8% so với năm 1999. Lợi nhuận bình quân của nghiệp vụ này là 4051,0652 triệu đồng. Về doanh thu trên chi phí qua các năm đều lớn hơn 1. Như vậy, chỉ tiêu này đạt hiệu quả. Năm 1996, cứ 1 triệu đồng chi trả bỏ ra tạo ra được 1,195 triệu doanh thu, con số này tăng rất mạnh vào năm 1997 là 1 triệu đồng chi phí bỏ ra thu lại được 2,693 triệu đồng doanh thu, chỉ tiêu này giảm trong năm 1998 và lại tăng mạnh trong năm 1999 và năm 2000. Nhìn chung xét về chỉ tiêu này thì năm 1998 là kém hiệu quả và hiệu quả nhất là năm 1997 và sau đó là năm 2000 . Về lợi nhuận trên chi phí thì năm 1997 cao nhất 1, 693 tức là cứ 1 triệu đồng chi phí bỏ ra thì tạo ra được 1,693 triệu đồng lợi nhuận chứng tỏ năm 1997 đạt hiệu quả cao nhất. Năm 1996 con số này là 0,195 thấp nhất so với các năm. Qua chỉ tiêu lợi nhuận trên chi phí ta thấy năm 1996 và năm 1998 là không đạt hiệu quả còn các năm khác đều đạt và cao nhất là năm 1997. Về chỉ tiêu số đơn vị tham gia bảo hiểm trên chi phí thì năm 1996 là thấp nhất 0,041, con số này có nghĩa là cứ 1 đồng chi phí bỏ ra phục vụ được 0,041 đơn vị mua bảo hiểm. Con số này thể hiện năm 1996 công ty chưa đạt hiệu quả về mặt xã hội, số chi nhiều nhưng số người tham gia thì chưa cao. Chỉ tiêu này cao nhất vào năm 1997 là 1,693 chứng tỏ năm 1997 công ty hoạt động có hiệu quả về mặt xã hội. Về chỉ tiêu số tiền bồi thường trên chi phí, qua bảng số liệu trên chỉ tiêu này giảm dần từ năm 1996 đến năm 2000. Năm 1996 chỉ tiêu này là 0,631 nhưng đến năm 2000 chỉ tiêu này chỉ còn là 0,142. Chứng tỏ công ty bảo hiểm nói chung phòng cháy nói riêng đạt được hiệu quả xã hội. chỉ tiêu này thấp nhất vào năm 1999 là 0,135 chứng tỏ năm 1999 công ty đạt hiệu quả nhất về mặt xã hội. Tóm lại, đứng trên giác độ kinh tế cũng như xã hội thì công ty ngày càng đạt hiệu quả về nghiệp vụ bảo hiểm này. doanh thu ngày càng tăng, lợi nhuận ngày càng tăng nhưng chi phí chỉ tăng ít. Công ty ngày càng phục vụ được nhiều khách hàng. Đây là dấu hiệu khả quan của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn cũng như của công ty bảo hiểm Hà Nội. Chương III Một số vấn đề cơ bản của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh Nội dung cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Mục đích của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh Như đã trình bày ở mục I chương I, rủi ro cháy không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho con người và tài sản mà còn để lại những hậu quả, tổn thất khổng lồ cho người tham gia như: doanh nghiệp không thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận mà lẽ ra họ có thể nhận được nếu như không xảy ra rủi ro hoả hoạn. Không chỉ thế, khi xảy ra rủi ro hoả hoạn, các doanh nghiệp còn phải chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân, thanh toán các khoản chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, kho bãi, khấu hao, điện nước, lãi suất ngân hàng, chi cho việc thuê thêm nhân công làm việc thêm giờ để hoàn tất các đơn đặt hàng còn tồn đọng… mà những khoản chi này không được bồi thường theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia, bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh ra đời. Là một nghiệp vụ ra đời sau nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn, nhưng nó rất cần thiết để hỗ trợ thêm cho nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn. Mục đích triển khai của nghiệp vụ này là: Giúp người tham gia bảo hiểm khắc phục được hậu quả sau khi xảy ra hoả hoạn, ổn định sản xuất kinh doanh, bảo toàn được nguồn vốn, thu lại một phần lợi nhuận và bù đắp được các khoản chi phí khi không may đối tượng tham gia gặp phải rủi ro hoả hoạn ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của công ty, doanh nghiệp. Giúp cho người tham gia bảo hiểm tạo dựng được mối quan hệ bền vững với các bạn hàng của mình khi không may đối tượng tham gia bảo hiểm của mình bị hoả hoạn làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các bạn hàng. Triển khai nghiệp vụ này còn giúp cho nhà bảo hiểm giảm bớt được những khiếu nại, tranh chấp không cần thiết bởi vì đại đa số khách hàng lúc đầu không biết được phạm vi bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Trong điều kiện quan hệ kinh tế rộng, đa dạng đa chiều như hiện nay, việc triển khai nghiệp vụ này còn tạo ra được tâm lý ổn định, yên tâm tin tưởng vảo các doanh nghiệp từ những người lao động và từ phía những người có quan hệ khác đối với người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh và bảo hiểm hoả hoạn có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi vì nghiệp vụ này có những đặc điểm sau: + Đối tượng tham gia có mối quan hệ mật thiết với nhau. + Phạm vi của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh cũng phần lớn nằm trong phạm vi bảo hiểm hoả hoạn. + Hợp đồng bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh chỉ ra đời sau khi có hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn. + Việc đánh giá và thẩm định rủi ro trong bảo hiểm hoả hoạn cũng là việc đánh giá và thẩm định rủi ro trong bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Chính vì lý do đó mà các công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn đồng thời với việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Một số khái niệm có liên quan Mục đích của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là để bù đắp cho người tham gia bảo hiểm phần lợi nhuận bị mất đi khi đối tượng tham gia bảo hiểm của họ không may gặp rủi ro hoả hoạn. Do vậy, ngoài những đặc điểm chính như các loại bảo hiểm khác, nghiệp vụ bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh có một số nét riêng biệt như sau: Doanh thu Doanh thu được định nghĩa trong Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là số tiền đã được thanh toán hoặc sẽ được thanh toán cho việc bán hoặc cung cấp hàng hoá hay dịch vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh thu còn bao gồm các phần sau: Giá trị sản phẩm, hàng hoá đem biếu, tặng hoặc tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp. Các khoản trị giá phụ thu theo qui định của Nhà nước để sử dụng cho doanh nghiệp đối với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp tiêu thụ trong kỳ được Nhà nước cho phép. Doanh thu từ các hoạt động khác như các khoản đầu tư tài chính, thu từ hoạt động mua bán chứng khoán, hoàn nhập khoản dự phòng đã trích từ năm trước nhưng sử dụng chưa hết… Chi phí khả biến Chi phí khả biến là các loại chi phí biến đổi liên tục về số lượng tỷ lệ so với số lượng kinh doanh của doanh nghiệp, những chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu… Chi phí bất biến Chi phí bất biến là những chi phí được ấn định về mặt số lượng nhưng không phụ thuộc và khối lượng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Loại chi phí này phải thanh toán ngay cả khi xí nghiệp ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí bất biến bao gồm: chi phí thuê nhà xưởng, trụ sở làm việc, tiền lương cán bộ công nhân viên chức, lãi suất ngân hàng… Lợi nhuận ròng Lợi nhuận ròng là lợi nhuận cơ bản đạt được trong hoạt động kinh doanh của người được bảo hiểm sau khi đã thực hiện các loại chi phí bất biến và chi phí khác. Lợi nhuận gộp Lợi nhuận gộp là tổng số lợi nhuận thu được và chi phí cố định được bảo hiểm. Lợi nhuận gộp bao gồm: doanh thu + giá trị hàng tồn kho + hàng hoá sản xuất ở cuối kỳ – hàng hoá tồn đầu kỳ – tổng chi phí sản xuất không được bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ Rủi ro được bảo hiểm Rủi ro được bảo hiểm bao gồm tất cả những rủi ro được bảo hiểm trong Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Nếu có vấn đề gì cần bổ sung phải được thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh phải cụ thể hoá thành hai phần như sau: + Tại thời điểm xảy ra tổn thất các thiệt hại về người được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi một Đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đó chính là bảo hiểm hoả hoạn. Nhà bảo hiểm chấp nhận bồi thường hoả hoạn phải thừa nhận thiệt hại gián đoạn kinh doanh do nguyên nhân hoả hoạn gây ra. Nhà bảo hiểm của Đơn bảo hiểm hoả hoạn đứng ra xác nhận trách nhiệm đã được thanh toán hoặc chưa thanh toán những thiệt hại vật chất trong Đơn bảo hiểm hoả hoạn, có nghĩa là nhà bảo hiểm của Đơn bảo hiểm hoả hoạn phải đứng ra thừa nhận thiệt hại trong Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. + Trách nhiệm của nhà bảo hiểm trong hợp đồng này sẽ không vượt quá số tiền bảo hiểm đối với những hạng mục tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất, số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã bồi thường cho bất cứ tổn thất nào là hậu quả của thiệt hại vật chất xảy ra trong thời hạn bảo hiểm trừ khi công ty đồng ý khôi phục lại số tiền bảo hiểm sau mỗi lần thanh toán bồi thường. Rủi ro loại trừ Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất xảy ra bởi: + Thiệt hại do sai sót hoặc sơ suất trong thiết kế, khuyết tật vốn có của vật liệu hay hạn chế của tay nghề, khuyết tật ẩn, do sụp đổ, nứt các toà nhà, các hành động lừa đảo hoặc không trung thực. + Thiệt hại do bị mất, thiếu hụt trong kiểm kê, trong quá trình vận chuyển ngoài khu vực được đề cập trong Đơn bảo hiểm hoặc không rõ nguyên nhân. + Tổn thất do thông tin bị xoá hoặc bị sai lệch trên hệ thông máy tính hoặc trên các thiết bị ghi khác. + Tổn thất do bất cứ hành động cẩu thả hoặc cố ý của người được bảo hiểm hoặc bất cứ người nào nhân danh họ, sự ngừng trệ của công việc. + Thiệt hại vì bị xói lỡ do sông hoặc ở ven sông lún hay dịch chuyển, sạt lở đất. + Tổn thất đối với đường bộ dùng cho xe chạy, đối với vật nuôi cây trồng. + Tổn thất bắt nguồn trực tiếp hay gián tiếp từ hậu quả của chiến tranh xâm lược hay thù địch, nội chiến, cách mang, khởi nghĩa quần chúng. + Tổn thất bị phá huỷ do lệnh của bất cứ cơ quan quyền lực nào. + Tổn thất bắt nguồn trực tiếp hay gián tiếp từ hậu quả của nguyên vật liệu dùng cho vũ khí hạt nhân, sự phát xạ ion hoặc nhiễm phóng xạ bởi bất cứ nhiên liệu hạt nhân hay chất thải hạt nhân nào. + Tổn thất do các thiết bị bên trong nồi hơi, tuốc bin hoặc bình chứa bị nổ hay vỡ. + Những chi phí bất hợp pháp mà khi tính toán chi phí, doanh thu, lợi nhuận được cộng thêm vào. Những thiệt hại về hậu quả một cách chắc chắn không được bảo hiểm theo cả Đơn bảo hiểm hoả hoạn và Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là: + Thiệt hại do bảo hiểm dưới giá trị theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn. + Khấu hao các kho không bị thiệt hại sau khi cháy. + Thiệt hại do sự khác biệt về giá trị kho tại thời điểm xảy ra cháy. + Khiếu nại của bên thứ ba có liên quan đến tổn thất. + Thiệt hại về uy tín. + Sai sót trong việc đòi nợ do hư hại về số liệu trừ khi có thoả thuận đặc biệt. + Chi phí kiện cáo. + Chi phí cho việc lập hồ sơ khiếu nại về cháy và mất thu nhập trừ khi có thoả thuận và ghi thành mục riêng trong Đơn bảo hiểm và chi phí của người được bảo hiểm. Đơn bảo hiểm Khi chấp n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13070.DOC
Tài liệu liên quan