Đề tài Một số ý kiến về phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể

Tài liệu Đề tài Một số ý kiến về phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể: Một số ý kiến về phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể Lời mở đầu Trong kế hoạch hành động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 2000-2001 của Việt Nam thì mục tiêu chiến lược được đặt lên hàng đầu là bảo vệ và phát triển vốn rừng. Nh­ chóng ta biết rừng có vai trò rất quan trọng trong đời sống loài người. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất thì rừng là một người mẹ chở che, nuôi dưỡng. Rừng đã cho con người cái ăn, cái mặc, nơ cư trú v. v... Con người đã sinh sôi nảy nở và phát triển ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có khả năng rời bỏ rưng xuống đồng bằng, vào sa mạc và đến ngày nay con người đã vượt ra khỏi trái đất bay vào không gian. Nhưng con người đã quá lợi dụng vốn rừng khai thác bừa bãi, kiệt quệ tài nguyên rừng và rừng của trái đất đã đang kê cứu và bảo vệ rừng cũng chính là bảo vệ cho tương lai của chúng ta. Theo thống kê hiện nay trên thế giới có 3.300 triệu ha rừng trong đó rừng Èm nhiệt đới có 1.120 triệu ha, rừng ngập mặn 2...

doc49 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số ý kiến về phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số ý kiến về phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể Lời mở đầu Trong kế hoạch hành động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 2000-2001 của Việt Nam thì mục tiêu chiến lược được đặt lên hàng đầu là bảo vệ và phát triển vốn rừng. Nh­ chóng ta biết rừng có vai trò rất quan trọng trong đời sống loài người. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất thì rừng là một người mẹ chở che, nuôi dưỡng. Rừng đã cho con người cái ăn, cái mặc, nơ cư trú v. v... Con người đã sinh sôi nảy nở và phát triển ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có khả năng rời bỏ rưng xuống đồng bằng, vào sa mạc và đến ngày nay con người đã vượt ra khỏi trái đất bay vào không gian. Nhưng con người đã quá lợi dụng vốn rừng khai thác bừa bãi, kiệt quệ tài nguyên rừng và rừng của trái đất đã đang kê cứu và bảo vệ rừng cũng chính là bảo vệ cho tương lai của chúng ta. Theo thống kê hiện nay trên thế giới có 3.300 triệu ha rừng trong đó rừng Èm nhiệt đới có 1.120 triệu ha, rừng ngập mặn 20 triệu ha nhưng chỉ có 8% rừng Èm nhiệt và 9% rừng ngậm mặn được bảo vệ Ở Việt Nam hiện năm 1992 tỷ lệ rừng che phủ 27.7% đến năm 2000 tỷ lệ rừng che phủ là Theo thống kê hàng năm chúng ta bị mất từ 110.000 ¸ 150.000 ha rừng. Vì vậy để bảo vệ và giữ gìn vốn rừng cũng như các nguồn gen cho các thế hệ con cháu mai sau chóng ta phải dành ra một số khu vực làm hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên; Vừơn Quốc gia, Khu văn hoá lịch sử. Vườn quốc gia Ba Bể thuộc tỉnh Bắc Cạn là một trong 11 vườn quốc gia của Việt Nam hiện nay. Đây là một di sản rừng núi đá vôi và núi đất của thiên nhiên từng bao phủ toàn bộ dãy núi từ phiá Đông sang phía Tây Bắc lưu vực sông Hồng. Diện tích vườn là 23.340 ha trong đó có 13.340 ha được bảo vệ nghiêm ngặt và 96000 ha rừng tái sinh, ngoài ra rừng còn có một vùng đệm rộng 9538 ha nằm ở phía Đông của vườn. Rừng của Vườn vẫn mang nhiều nét tự nhiện hoang sơ với thảm thực vật dày đặc và động vật phong phú đặc trưng. Hệ thống thực vật còn lưu giữ nhiều loài quý cả ở trên cạn và dưới nước. ở giữa rừng còn có một hồ nước tự nhiên gọi tên là Hồ Ba Bể. UNESCO đã xếp vườn Quốc gia Ba Bể là một trong 6 khu di sản quan trọng của thế giới ở Việt Nam. Người Tày và một số dân tộc khác đã sinh sống ở vùng Hồ Ba Bể từ lâu. Từ khi Vườn được thành lập, đặc biệt là khu vực vùng đệm được xác định thì họ được di chuyển ra vùng đệm. Vùng đệm, vùng phụ cận là một thành phần rất quan trọng trong hệ thống vườn quốc gia đảm bảo cuộc sống dân cư vùng đệm là một yếu tố quan trọng trong công tác quản lý Vườn quốc gia Ba Bể. Qua thời gian thực tập tại Viện kinh tế sinh thái được tìm hiểu về các hoạt động của Viện kinh tế sinh thái tại xã Khang Ninh một xã thuộc vùng đệm huyện Ba Bể tỉnh bắc Cạn. Tôi thấy sự cần thiết phải tìm hiểu sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội là một sự đảm bảo phát triển bền vững của vùng đệm Vườn quốc gia Ba Bể. Do thời gian và trình độ có hạn nên đề tài còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của người đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn cơ quan thực tập: Viện kinh tế sinh thái đã tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu thu thập số liệu. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Lê Trọng Hoa, GSTS Hà Chu Chử đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Sinh viên thực tập Dương Văn Cường Lời cam đoan: Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là bản thân tôi thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo và luận văn của người khác. Nếu sai tôi xin chịu kỷ luật với trường. Chương 1 Lý luận chung về phát triển bền vững vùng đệm 1.1. Quan niệm về Vùng đệm 1.1.1. Khái niệm về vùng đệm Khái niệm “Vùng đệm” được đặt ra khi đúng trước mâu thuẫn giữa cộng đồng dân cư sống phụ thuộc vào vườn, khu bảo tồn với các tài nguyên rừng cần được bảo vệ. Để giải quyết mâu thuẫn này ý tưởng dành ra một khoảng rừng, khu vực đất đai ở ngoài vườn quốc gia, khu bảo tồn cho người dân địa phương sử dụng, khai thác nhằm giảm bớt tác dụng của con người, tạo một vành đai bảo vệ bổ sung cho khu bảo tồn. Trên cơ sở đó trong việc xây dựng các kế hoạch quản lý khu bảo tồn, vườn quốc gia đã gắn đến các hoạt động của khu vực “vùng đệm”. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về “Vùng đệm”. Theo Mackinnon (1981-1986) Vùng đệm là: Vùng đất nằm ngoài khu bảo tồn hay vườn quốc gia. Tại đó việc sử dụng đất đai phần nào được hạn chế, nhằm tạo ra một vành đai bảo vệ bổ sung cho khu vực bảo tồn. Đồng thời giúp cho nhân dân sinh sống trong vùng được bù đắp phần nào những thiệt thòi do việc thành lập các khu bảo tồn gây ra. Còn Sayer (1991) đã đưa ra một định nghĩa như sau: Vùng đệm là vùng rìa một Vườn hay khu dự trữ, tương đương với một nơi mà những hạn chế về sử dụng tài nguyên hoặc các biện pháp phát triển đặc biệt được thực hiện để tăng cường giá trị bảo tồn của khu đó. Theo Quyết định số 1586 LN/KL ngày 13/09/1993 của Bộ Lâm nghiệp: Vùng đệm là vùng tiếp giáp với khu bảo vệ xung quanh toàn bộ hay một phần của khu bảo vệ, Vùng đệm nằm ngoài diện tích khu bảo vệ và không thuộc quyền quản lý sử dụng của Ban quản lý bảo vệ. Từ những định nghĩa trên ta thấy Vùng đệm có những đặc trưng sau: Là khu vực có điều kiện tự nhiên, đặc điểm động thực vật tương tự nh­ khu bảo vệ nhưng con người đã khai thác quá mức. Có dân cư sinh sống và yêu cầu phát triển kinh tế của người dân là chính đáng. Vì vậy vấn đề phát triển bền vững Vùng đệm là rất quan trọng. Sự phối hợp với các hoạt động nhằm phát triển kinh tế cộng đồng sao cho giảm thiểu áp lực khai thác tài nguyên khu bảo tồn. Sử dụng tối đa các nguồn lực, lợi thế của Vùng đệm. Đó chính là cách tiếp cận nguyên tắc cùng chung sống và phát triển. 1.1.2. Ranh giới và quy mô vùng đêm Như vậy, vùng đệm có mục đích tạo ra một vành đai bao quanh khu bảo tồn thiên nhiên, để làm giảm hoặc loại trừ sự xâm nhập do sức Ðp của người dân địa phương lên khu bảo tồn thiên nhiên, hạn chế sự tán phá của thiên nhiên, mở rộng nơi sinh sống cho một số loài có trong khu bảo tồn. Tuy nhiên, vai trò vô cùng quan trọng của vùng đệm về kinh tế - xã hội là tạo được các cơ chế chính sách để giải quyết được mâu thuẫn về lợi Ých giữa nhân dân địa phương và khu bảo tồn thiên nhiên; bù đắp phần nào những mất mát của nhân dân địa phương khi thành lập khu bảo tồn thiên nhiên hoặc vường quốc gia; cải thiện được điều kiện sống và chất lượng môi trường của nhân dân địa phương; bảo đảm các quyền lợi truyền thống của nhân dân địa phương về đất đai và văn hoá, đồng thời phải đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về nông - lâm sản cho nhân dân trong vùng. Lợi Ých sinh học, kinh tế - xã hội và các yếu tố khi hậu, địa hình, quỹ đất đai là các căn cứ để xác định ranh giới và quy mô của vùng đệm hợp lý. Ranh giới và quy mô vùng đệm được xác định bởi một số tiêu chi sau: - Khoảng cách kể từ ranh giới trở ra nơi mà động vật thường vượt viên giới ra hoạt động nhiều nhất cần được bảo vệ. - Khoảng cách mà nhân dân địa phương sinh sống phụ thuộc và tác động nhiều nhất đến vùng lõi và những người dân cũng dễ dàng góp phần vào việc bảo vệ khu bảo tồn. - Diện tích vùng đệm phải tương xứng với khu bảo tồn, có nghĩa là không thể diện tích khu bảo tồn nhỏ nhưng diện tích vùng đệm lại quá lớn. - Điều kiện địa hình cho phép xác định ranh giới vùng đệm một cách rõ ràng, thuận lợi cho quản lý đầu tư và không phát sinh mâu thuẫn có hại cho khu bảo tồn. (Nguyễn Bá Thụ 1997). Nh­ vậy diện tích của vùng đệm không thể quy định đồng loạt, mà được xác định tuỳ theo tình hình cụ thể của từng vườn quốc gia. Nhưng diện tích vùng đệm phải tương xứng cho các điều kiện hoạt động kinh tế - xã hội của nhân dân sống tại đó, không xâm nhập vào khu rừng cần bảo vệ. Diện tích vùng đệm phải quy hoạch cụ thể và phải được phê duyệt nh­ phê duyệt dự án quy hoạch các khu bảo tồn thiên nhiên (Đặng Huy Huỳnh 1997). 1.1.3. Vai trò của vùng đệm đối với sự phát triển khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia. Trong thực tiễn, việc hoạch định vùng đệm cho các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia đã phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, lần đầu tiên vùng đệm được đưa vào quy hoạch cho Vườn quốc gia Cúc Phương và sau đó là các khu bảo tồn thiên nhiên và Vườn quốc gia khác. Tuy nhiên, khó có một ranh giới rõ rệt được xác lập giữa vùng đệm và khu bảo tồn nội vi. Điều đó cho thấy sự tồn tại của vùng đệm có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia. Theo Võ Quý (1993, 1997) chức năng chính của vùng đệm gồm: Chức năng vùng đệm xã hội: Việc quản lý vùng đệm trước hết nhằm cung cấp các sản phẩm thiết yếu đối với cuộc sống của người dân địa phương. Việc sử dụng những sinh vật hoang dã của vùng đệm có tầm quan trọng thứ yếu. Tuy nhiên, việc sử dụng đất đai của cư dân ở đây không được mâu thuẫn với mục tiêu chính của khu bảo tồn. Chức năng vùng đệm mở rộng: Việc quản lý vùng đệm nhằm mục đích mở rộng phạm vi của môi trường sống có trong khu bảo tồn sang vùng đệm, nhờ đó mà mở rộng môi trường sống của các loài hoang dã có trong khu bảo tồn. Từ đó có thể hiểu, vùng đệm chính là khu vực diễn ra sù trao đổi lợi Ých giữa các hoạt động kinh tế dân sinh của cộng đồng dân cơ địa phương và các hoạt động của các loại sinh vật hoang dã vốn có trong khu bảo tồn, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. 1.2. Các yêu cầu phát triển trong vùng đệm Các hoạt động phát triển trong vùng đệm là rất khó khăn và phát triển phải được cân nhắc kỹ. Bất kỳ một hoạt động phát triển nào cũng phải xem xét các yêu cầu sau: Đảm bảo nâng cao điều kiện kinh tế xã hội của các dân cư sống trong vùng đệm, nhằm giảm sự phụ thuộc của họ vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong các khu bảo tồn. Phải được sự tham khảo, thống nhất ý kiến của cộng đồng người dân địa phương. Các nhu cầu thiết yếu của họ phải được đặt lên hàng đầu (nh­ các tập quán tiêu dùng, các nhu cầu cơ sở hạ tầng) Các hoạt động chính phải tập trung vào các cá nhân, nhóm người sử dụng nhiều các nguồn tài nguyên thiên nhiên lấy từ khu bảo tồn Bất kỳ một hoạt động nào kể cả du lịch sinh thái phải đặt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cho cộng đồng và các cấp địa phương. Chính người dân địa phương mới có quyền được hưởng các lợi nhuận của hoạt động chứ không phải ai khác. 1.3. Sù tham gia của cộng đồng địa phương trong quy hoạch và quản lý vùng đệm. Lôi cuốn cộng đồng địa phương là yếu tố cực kỳ quan trọng, để có được những thay đổi lâu dài trong cách quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng đệm và khu bảo tồn. Họ là "những người quyết định" cuối cùng và cần phải tham gia vào các quá trình lập kế hoạch và thực hiện. Trong số các điểm cần phải thực xem xét khi xd các quá trình phù hợp, có những điểm sau: * Các truyền thống gia đình và dân tộc khác nhau, liên quan đến quản lý tài nguyên. * Sự định rõ về trách nhiệm và quyền lực của các nhóm khác nhau (bao gồm các cấp chính quyền địa phương, các ban quản lý khu bảo tồn, các cán bộ lâm trường quốc doanh và nhân dân địa phương trong việc tiến hành các hoạt động nhất định. Sự cần thiết phải có các cách tiếp cận linh hoạt và phù hợp, có thể thay đổi khi các điều kiện thay đổi và khi sự tự tin của các bên có liên quan tăng lên. Nhiều quy trình sẽ mang tính đặc thù của địa phương cần phải thoả thuận với các bên có liên quan khác nhau. Vì vậy, sẽ rất khó xác định cho tất cả các hoàn cảnh. 1.4. Các thu xếp về thể chế cho quy hoạch và quản lý vùng đệm. Đây là một vấn đề chủ chốt, liên quan đến việc cải thiện cơ chế cho việc lồng ghép các mục tiêu bảo tồn vào việc quy hoạch phát triển vùng đệm. Các kế hoạch phát triển của huyện có thể lồng ghép đề làm việc này. Những kế hoạch nh­ thế có thể chuyển tiếp thành các kế hoạch xã. Một cách tiếp cận và tạo điều kiện quy tụ các bên có liên quan chủ chốt từ huyện, xã, Ban quản lý và Vườn quốc gia, lâm trường quốc doanh, các dự án đặc biệt và các đơn vị thích hợp khác. Quyền lực chính để thực hiện các hoạt động trong vùng đệm phải nắm trong tay các cán bộ và chính quyền địa phương. Tuy nhiên, họ có thể làm việc với các cơ quan quản lý khu bảo tồn khác nhau, để các hoạt động phát triển được thực hiện theo cách xác định và lồng ghép các mục tiêu bảo tồn vào các kế hoạch phát triển. Sự tập trung vào việc lập kế hoạch phát triển ở cấp huyện và xã, cũng có thể tạo cơ hội để làm rõ (đặc biật là quyền lực và trách nhiệm) của các cơ quan khác nhau hoạt động trong vùng đệm, nhằm giảm thiểu sự trùng lặp. 1.5. Những khó khăn trong việc quản lý vùng đệm. Điều khó khăn nhất gặp phải trong việc quản lý khu bảo tồn ở Việt Nam là số dân sinh sống phía ngoài sát với khu bảo tồn và tạo sức Ðp nặng nề lên khu bảo tồn. Họ phát nương làm rẫy, săn bắn, chặt gỗ, thu lượm các sản phẩm của rừng và do đó ảnh hưởng lớn đến công tác bảo vệ. Nguyên nhân chính của mất rừng là đói nghèo và dân số tăng nhanh. Rừng và tài nguyên nh­ người ta thường nói là "bát cơm" trước mắt họ là không thể được và thậm chí không cho phép về phương diện nhân đạo. Con đường hợp lẽ nhất cho công tác bảo vệ ở đây là tìm cách thay thế "bát cơm" đó bằng "bát cơm" khác cho người nghèo. Sau đây là một số khó khăn đã gặp phải trong khi tổ chức và quản lý vùng đệm: - Vùng đệm thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương (xã, huyện, tỉnh), nhưng chính quyền đại phương Ýt quan tâm đến khu bảo tồn, vì họ không hiểu rõ tầm quan trọng của khu bảo tồn đối với địa phương họ; họ không hiểu được lợi gì, mà còn mất đi một số quyền lợi vì họ không được quản lý khu vực đó như trước; không hiểu ý nghĩa của vùng đệm đối với khu bảo tồn và không rõ trách nhiệm của họ về vùng đệm; không cấp trên giao nhiệm vụ và cũng không có hướng dẫn cụ thể về cách quản lý. - Nhân dân địa phương, đa số là nghèo, dân số tăng nhanh, dân trí thấp, cho rằng việc thành lập khu bảo tồn không đem lại lợi Ých cho họ mà chỉ bị thiệt vì họ không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên nhiên như trước, trong lúc đó khu bảo tồn làm ăn khấm khá, do tổ chức du lịch, lấy thêm nhân viên mà họ không được tham gia. - Ban quản lý khu bảo tồn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, vì không đủ cán bộ để ngăn chặn sự xâm nhập của dân vào khu bảo tồn, đa số cán bộ chưa được đào tạo, pháp luật cũng không rõ ràng, không có hướng dẫn cụ thể về quản lý vùng đệm, thiếu kinh nghiệm làm việc với dân, tình hình quá phức tạp, phải liên hệ với nhiều xã, nhiều huyện, nhiều tỉnh và có khi với cả các lâm trường… thiếu kinh phí, cơ sở hạ tầng kém. - Việc ngăn chặn xân phạm tài nguyên thiên nhiên thuộc khu bảo tồn từ vùng đệm không có cơ quan chỉ đạo thống nhất. Tại một địa phương có nhiều cơ quan cùng làm việc đó, nh­ kiểm lâm, nhân viên bảo vệ của khu bảo tồn, công an, chính quyền địa phương, cơ quan thuỷ sản, thuỷ lợi (nếu có hồ chứa). Các cơ quan này mạnh ai nấy làm, nhiều khi tạo nên mâu thuẫn khó giải quyết. - Chính quyền tỉnh, trung ương và các Bộ ngành có liên quan như Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn, Bộ khoa học công nghệ môi trường chưa có quan niệm đúng đắn về vùng đệm của các khu bảo tồn, chưa chỉ đạo, dướng dẫn chính quyền địa phương cách quản lý vùng đệm khác với các vùng khác như thế nào? có những điểm gì cần lưu ý. - Các chương trình Nhà nước như chương trình 327, chương trình xoá đói giảm ngheo, chương trình ứng dụng và nhiều chương trình của các tổ chức phi chính phủ được thực hiện ở các xã thuộc vùng đệm cũng chưa chú ý nhiều đến vai trò của vùng đệm của các khu bảo tồn (Võ Quý 1997). 1.6. Các bài học thực tiễn về xây dựng vùng đệm ở một số khu bảo tồn. 1.6.1. Ở Việt Nam. Ở Việt Nam kinh nghiệm giải quyết vấn đề vùng đệm chưa có nhiều vậy chúng ta đa thấy được ý nghĩa quan trọng của nó trong công tác bảo vệ khu bảo tồn thiên nhiên. Vườn quốc gia Cúc Phương giải quyết công tác vùng đệm bằng những dự án nhỏ. Nguồn tài trợ cho những dự án này là quốc gia và quốc tế. Mối dự án giải quyết một vấn đề của vùng đệm: dự án đầu tư phát triển nuôi ong lấy mật, dự án xây dựng xóm Khanh thuộc xã Âu Nghĩa nằm trên vùng đệm trở thành xóm phát triển về nông lâm kết hợp với du lịch sinh thái hoặc dự án nâng cao nhận thức bảo tồn của công đồng được triển khai trên toàn vùng đệm. Vườn quốc gia Ba vì giải quyết vấn đề vùng đệm bằng việc giao đất vùng đệm hoặc khoán bảo vệ cho nhân dân, xây dựng làng sinh thái. Mục đích của những hoạt động này là nhằm nâng cao đời sống của người dân sống trên vùng đệm, giảm tác động của họ vào khu bảo tồn. Vườn quôc sgia Yok - Don coi trọng việc chuyển giao kỹ thuật nông lâm kết hợp cho người dân sống trong các buôn làng trong vùng đệm. Những kỹ sư lâm nghiệp và cán bộ kỹ thuật được cử về các buôn làng để hướng dẫn kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp, thực hiện dự án đầu ta theo chương trình 327 (Nguyễn Bá Thu 1997). Ngoài ra, còn rất nhiều các dự án đã và đang triển khai tại các vùng đệm ở một số khu bảo tồn: Bạch Mã, Nam Cát Tiên, Pù Mát, Kẻ Gỗ… và cách giải quyết vấn đề vùng đệm, rất linh hoạt trong các khu dự trữ thiên nhiên và vườn quốc gia. Sù tham gia của người dân địa phương vào việc bảo tồn vườn quốc gia Bạch Mã. Ví dụ ở thôn Khe Su ở xã Lộc Bì là một ví dụ điển hình của sự thành công. Thôn Khe Su nằm trong danh giới của Vườn quốc gia Mã Bạch có tới 70% dân trong thôn khai thác rừng tự nhiên bất hợp pháp với thời gian 3 tháng 1 năm (1993) trình độ kinh tế, dân trí thấp, đời sống khó khăn. ban quản lý Vườn quốc gia Mã Bạch chọn thôn Khe Su để thí điểm, nếu thành công sau đó sẽ nhân rộng. Vườn quốc gia Bạch Mã đã khoán bảo vệ rừng cho toàn cộng đồng và được nhân dân ủng hộ. Đến năm 1997, diện tích rừng nhận bảo vệ là 400 ha. Sau 3 năm thực hiện đã thu được nhiều kết quả, 98% dân số đã huyển đổi từ nghề rừng sang nghề làm vườn, trồng chọt chăn nuôi, 80% sè gia đình đã tận dụng chấy để đun nấu. Ngoài nhận khoán bảo vệ rừng, cộng đồng Khe Su còn tham gia vào hoạt động du lịch sinh thái ở thác Thuỷ điện và Đá Trắng. Như vậy, mô hình bảo tồn Vườn quốc gia bạch Mã có sự tham gia của người dân tại thôn Khe Sun có thể xem như là một mô hình tốt không những áp dụng ở Vườn quốc gia Bạch Mã mà còn có thể áp dụng ở Vườn quốc gia Ba bể hiện nay có cả một xã Nam Mộu năm trong khu bảo vệ nghiêm ngặt. Kinh nghiệm một số vườn quốc gia đã làm cho chóng ta thấy rõ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc kết hợp một cách thức sự giữa ban quản lý khu bảo tồn với các chính quyền địa phương, cũng như vận động các giá làng, già bản tham gia. Điều này cần thực hiện mang tính nguyên tắc là gắn liền quyền lợo của người dân ở các khu vùng đệm với việc bảo tồn tài nguyên, bảo tồn hệ sinh thái, bảo tồn nền văn hoá của từng sắc tộc, làm cho người dân địa phương nhận rõ quyền lợi thực sự họ được hương, đồng thời nghĩa vụ cụ thể của họ đối với khu bảo tồn thiên nhiên. 1.6.2. Trên thế giới. Trung Quốc là một nước đông dân nhất thế giới xấp xỉ 1,13 tỉ. Theo thông kê, diện tích rừng của Trung Quốc tổng cộng là 10.137 tỉ m2 với tỉ lệ đất phủ rừng là 13,29% chiếm 3% diện tích toàn thế giới. trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc, dân tộc Dai ở Vân Nam đã nổi tiếng là thông minh vận dụng thiên nhiên một cách tinh vi và kinh tế. Trong thời gian dài thực hành các loại cây, người Dai đã tìm ra phương pháp nhận diện "tìm ra cái khác trong giống, tìm ra cái giống trong các khác nhau", xây dựng "hệ thống hai chỉ định để phân loại cây". Họ giáo dục con cháu họ cách sử dụng các loại cây từ đời này sang đời khác dưới dạng các bài thơ trào phúng và các câu tục ngữ do tổ tiên để lại. Ví dụ khi thu hoạch tre, độ dài nhất có thể cắt đốn đi nên ngắn hơn 25% tổng độ dài, những câu tục ngữ "Đốn tre chừa lại búp non". Sử dụng tài nguyên thực vật một cách thích hợp, bền vững trong thời gian dài, dân tộc Dai đã hình thành nền văn minh canh tác riêng của họ. Người Dai đã hiểu ra lợi Ých của việc bảo vệ rừng: "không có rừng thì không có nước, không có nước thì không có đất, không có đất thì không có thức ăn và không có thức ăn thì không có sự sống" và "Đốn cây làm bạn giầu lên trong thời gian ngắn, nhưng những quả đồi trọc làm thế hệ sau nghèo khổ bần cùng". Nh­ vậy đa dạng sinh thái có ảnh hưởng đến đa dạng văn hoá, và đa dạng văn hoá bảo tồn và thức đẩy đa dạng sinh học. Nhiều nước trên thế giới như Australia, New Zealand, Canada, Inđônêxia… có những kinh nghiệm trong việc phối hợp giữa Nhà nước với người dân địa phương trong quản lý các Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Ở Inđônêxa vẫn có 13 bản làng người dân địa phương sinh sống ở đó và việc sưn bắn cổ truyền của họ vẫn tồn tại. Ở khu bảo tồn Nerfu ở Zambia Luangua, các cộng đồng địa phương vẫn được quyền thực hiện việc săn bắn truyền thống. Ở Vườn quốc gia Sagarmatha tại vùng núi Everest, người ta đã đem lại quyền lợi cho người dân tộc Sherpa và thu hút họ vào làm cho Vườn quốc gia theo chế ddộ người gác rừng. Các dẫn chứng trên cho ta thấy rằng vai trò to lớn của cộng đồng dân địa phương trong việc bảo vệ rừng và khu bảo tồn. Họ gìn giữ những tri thức bản địa vô cùng phong phú và đa dạng tự nguyện bảo vệ nơi sinh sống một cách bền vững. Chương 2 Khái quát vườn quốc gia ba bể 2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 2.1.1. Lịch sử vườn quốc gia Ba Bể Rừng cấm quốc gia Ba Bể được thành lập theo quyết định số 41/ TTg ngày 10 tháng 1 năm 1977 của Thủ tướng chính phủ do một đơn vị trực thuộc hạt kiểm lâm của huyện (Tỉnh Bắc Thái cũ )quản lý. Từ năm 1978 đến 1989 thành lập ban quản lý rừng cấm vườn quốc gia Ba Bê thuộc chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng. Vườn quốc gia Ba Bể chính thức được thành lập theo quyết định số 83/TTg ngày 10/11/1992 của Thủ tướng chính phủ với tổng diện tích tự nhiên7610ha. Năm 1995 Bộ lâm nghiệp (cũ) và Chính phủ phê duyệt mở rộng diện tích Vườn quốc gia là 23.340ha và diện tích vùng đệm là 9538 ha. Hiện nay, vườn thuộc quản lý của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 2.1.2. Vị trí danh giới vườn quốc gia Ba Bể Vườn quốc gia Ba Bể nằm vùng núi đá vôi thuộc xã Nam Mẫu và các xã vùng cao trung bình Pia Biooc, có toạ độ địa lý: Từ 105034' đến 105049' kinh độ Đông. Từ 22014' đến 22030' vĩ độ Bắc. Vườn có độ cao từ 150m đén 1500m so với mặt biển. Vườn quốc gia có ranh giới hành chính nh­ sau: bắt đầu từ ranh giới với tỉnh Tuyên Quang, qua đỉnh Cam bon 1299, theo ranh giới của các xã Cao Thượng. + Phía Đông : theo ranh giới 2 xã Cao Trí và Cao Thượng tới đỉnh Pia Linh 833m, kéo dài theo đông núi tới sông Năng. Sau đó, dọc theo sông Năng tới động Puông, qua núi đá lên tới đỉnh 698 và chân núi đá đỉnh 789, vượt qua đường nhựa Nà Nầm tới chân đỉnh cao 817 men theo chân núi Khát Vọng (thuộc các đỉnh 916 ,1098) tới Pu Cát Hạ .Sau đó chạy thẳng tới sông Lèn .Ranh giới vườn quốc gia qua bản Nứa, men theo vùng núi đá vôi Quảng Khê.Từ đây theo độ cao 400m đến suối Nam Teo Tót, men theo núi đá Pia Bang vòng qua bản Chân ,ngựoc lên đỉnh Pia Biooc 1502m. Từ đỉnh cao này theo đai độ cao 700m phía đông dãy Pia Biooc thuộc các xã Yến Dương và Chu Hương đến ranh giới huyện Ba Bể và Chợ Đồn thuộc đông núi Hoa Sơn. +Phia tây và nam là ran giới giữa hai tỉnh Bắ Kạn Tuyên Quang, huyện Ba Bể và Chợ Đồn.Với ranh giới này, vườn quốc gia Ba Bể mở rộng bao gồm diện tích rừng và đất rừng của 9 xã huyện Ba Bể, thuộc vùng núi đá vôi cacxtơ đặc trưng. Khu đông bắc và các dãy núi đất thuọc dãy Pia Biooc . 2.1.3.Địa hình địa mạo . Vừơn quốc gia Ba Bể bao gồm một phức hệ sông suối, núi đá vôi, núi đất có đọ cao từ 150 đến 1500m so với mặt nước biển. Hồ Ba Bể là phần cuối của sông Chợ Lèn mở rộng, trước khi đổ vào sông Năng. Do đó,hồ vừa mang tính chất sông vừa mang tính chất hồ, với tổng diện tích mặt hồ là 301,4ha, hướng dòng chảy từ nam lên bắc. Phía bắc là sông Năng chảy theo hướng đông tây bắc và đổ vào sông Gâm. Sông Gâm bắt nguồn từ dãy Pia Biooc, trước khi đổ xuống thác Đầu Đẳng chảy qua động Puông dài 300m ở núi Lũng Nham . Ở phía tây còn có 2 suối Tả Han và Pó Lù. Suối Pó lù bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn, chảy ngầm qua dãy núi đá vôi đổ ra cửa động Nà Phòng và chảy vào hồ Ba Bể . Hồ Ba Bể có một số đảo đá vôi nhỏ: An Mã ,Khẩu Cúm,Pò Già Mải(đảo bà goá).Đáy hồ không bằng phẳng, có nhiều đỉnh đá vôi ngầm, có chổ sâu tới 30m, trung bình từ 15 đến 20m, chổ nông nhất đạt 9 đến 10m.Ven hồ phần lớn là vách đá hiểm trở, nhiều chỗ dựng đứng. Bao quanh hồ chủ yếu là các núi đá vôi: phía bắc là núi Lũng Nham, nói An với các đỉnh cao 689m,765m, 822m phia đông là núi Keo Dìu, Khau Vạy,với các đỉnh cao 600m,799m và 642m.Phía tây là núi Pù Nộc Chấp,Pù Che với các đỉnh cao 1043m,975m,694m và 677m. Hai đỉnh cao nhất trong khu vực là núi đất . Phía nam và phía đông nam là núi đá Quảng Khê và núi cao trung bình của dãy Pia Biooc, với các đỉnh Pia Biooc 1502m,Hoa Sơn 1517m và 1525m. Đây là thượng nguồn của con sông Chợ Lèn.Xen kẽ vùng núi đất là một vài núi đá vôi nhỏ.Vì vậy vườn quốc gia Ba Bể là tổng thể bao gồm một vùng núi đa vôi dốc mạnh và vùng đất cao trtung bình, kết hợp với sông hồ tạo nên cảnh quan đa dạng và phong phó. 2.1.4 Khí hậu. Hồ Ba Bể là phần cuối của lưu vực các suối thuộc hệ núi phía nam Pia Biooc, Hao Sơn và cũng là phần dự ttrữ nước của con sông Năng, do vậy nước ở đây không bao giờ cạn. Sự bốc hơi nước của sông suối hồ diễn ra liên tục tạo nên vi khí hậu của vùng hồ luôn mát mẻ và Èm. Sự chênh lệch giữa hai mùa không nhiều lắm 2.1.5.Thuỷ văn. Hồ Ba Bể là trung tâm của vườn quốc gia có diện tích rộng 301,4ha, nếu tính cả hồ phụ và sông có diện tích 375ha. Hồ có tốc độ dòng chảy trung bình 0,5m/s. Vào mùa lũ dòng chảy ứ lại nước chảy chậm và dâng cao. Hồ được coi là bể chứa nước của sông Năng khi mùa lũ và mang hai tính chất rõ rệt : +Tính chất của hồ nứơc lớn tự nhiên +Tính chất của một khúc sông rộng, sâu, được coi là phụ lưu của sông Năng Nước hồ có màu xanh gần nh­ quanh năm. Nhiệt độ nước tầng mặt của hồ biến thiên theo nhiệt độ không khí +Mùa hè nhiệt độ từ 260C đến 290C +Mùa đông nhiệt độ từ 160C đến 170C Càng xuống sâu nhiệt độ càng giảm, sự chênh lệch nhiệt độ trên và dưới không lớn lắm, về mùa hè từ 10 - 30C mùa đông 10C. Mùa lũ thường tập trung vào các tháng mưa nhiều (tháng 6 -9).Khi sông Năng có lũ lớn đột ngột, nước trong hồ Ba Bể không chảy ra sông Năng, sẽ dâng lên có khi đến 2,8m. Khi lũ sông Năng hạ xuống, nước hồ lạichảy vào sông Năng và đổ vào sông Gâm. 2.1.6. Địa chất thổ nhưỡng. Hồ Ba Bể nằm trong vùng cacxtơ Chợ Rã - Hồ Ba Bể-Chợ Đồn với hai khối là đá vôi Givét nằm trên đá phiến Protezoi. Tuổi tuyệt đối của đá Granit là kỷ Krate muộn, khoảng thời gian là 200 triệu năm. Điều này giải thích sự già nua của địa hình cacxtơ ở đây, mà ảnh hưởng của tân kiến tạo cũng không làm cho địa hình cacxtơ trẻ lại như nơi khác. Trong vùng Chợ Rã - Ba Bể, phổ biến là những thung lũng và các cánh đông cacxtơ, dưới dạng nuíi cacxtơ sót. Độ cao trung bìnhcủa núi cacxtơ ở đây là 800-900m. Do địa hình độ cao nên địa hình đáy sông Năng không bằng phẳng có dạng xẻ sâu. Đặc biệt, ở khu vực núi Lũng NHam sông Năng chảy ngầm dưới hang cacxtơ trên chiều dài 300m rộng 40-60m gọi là động Puông. Tại nhiều nơi sông Năng đã đào sâu tới các lốp đá phiến Protezoi, cắt qua nhiều lớp đá có đọ rắn khác nhau, tạo thàh thác ghềnh, điển hình là thác Đầu Đẳng bao gồm 3 bậc mỗi bậc chênh nhau 7-8m. Hồ Ba Bể hiện nay là một cánh đông cacxtơ nằm trên đường đứt gãy đã bị tụt xuống do ảnh hưởng của hoạt động tân kiến tạo. Đới tân kiến tạo trung bình rộng 500m, rộng nhất là 800m, chạy thoeo hướng Bắc Nam, thắt lại tạo thành ba hồ nên có tên gọi là hồ Ba Bể . Nguồn gốc của cánh đồng cacxtơ cũng được chứng minh bằng sự tồn tại của các bán đảo đá vôi nh­ An Mã, Khẩu Cúm, Pò Già Mải. Ngoài ra các cánh đông cacxtơ Chợ Rã trên đường Phủ Thông, còn thấy các núi đá vôi sót lại. Bên cạnh khối núi đá vôi này là khối Granit Pia Biooc, hình thành sau hoạt động nâng lên Inđôxini. Vận động tân kiến tạo sau đó tạo thành các khối xâm nhập Granit thuộc phức hệ Pia Biooc và Gabro thuộc phức hệ núi Chúa. Hệ núi này không cao(biến động ttrong khoảng 1000-1500m), và mức độ hoạt động địa chất không mạnh như vùng núi Tây Bắc. Nhưng vì nằm trong vùng mưa Èm có thời kỳ lũ kéo dài, nên qua strình xâm thực phá huỷ bóc mòn ở đây cũng không kém phần mãnh liệt . 2.1.7.Thảm thực vật. Do điều kiện khí hậu, địa hình đất đai của vườn quốc gia phân cắt nhiều, thảm thực vật rừng gồm nhiều kiểu rừng và trạng thái rừng: *Rừng kín lá rộng thường xanh mưa Èm nhiệt đới trên núi đá vôi, phân bố ở độ cao từ 400m đến dưói 1000m với thực vật chủ yếu có các loài Nghiến, Trai, Đinh, ngoài ra còn có các loài Lát hoa, một số loài họ Giẻ. *Rừng thứ sinh trên núi đá vôi, rừng đã qua khai thác chọn phân bố đều khắp trên diện tích núi đá vôi, với các loài Sờu, Thung, Đinh thối vên hồ có các loại Trám trắng,Si, Mùng quân, Trâm vôi. * Rừng kín lá rộng thường xanh mưa Èm nhiệt đới trên núi cao trung bình đã qua tác động, phân bố chủ yếu ở độ cao từ 600- 1500m. Đây là rừng qua khai thác, có các loại cây: Giẻ, Thích, Côm. Thấp hơn có Đinh, Lát, Sấu ở những rừng phục hồi sau nương rẫy có Hu, Trám, Sói, Chẹo. *Thảm cây bụi gỗ rải rác (trên núi đá vôi và núi đất ), đa phần là các cây gỗ tạp nh­: Thôi Ba, Thôi Chanh, Hồng bì rừng và các cây bụi:Tổ kén, Cò kè. *Rừng tre nứa với các loại Vầu, Trúc sào và một Ýt diện tích rừng nứa. Trúc dây thường thấy mọc tập trung ơ các vách đá ven lòng hồ và sông Năng. Bảng Số liệu thống kê diện tích rừng và đất đai vườn quốc gia ba Bể Xã Cộng (ha) Núi đá Núi đất Rừng tre nứa Đất canh tác nông nghiệp Hồ sông suối Rừng nguyên vẹn Rừng đã bị tác động Cây bụi gỗ rải rác Rừng đã bị tác động Cây bụi gỗ rải rác Diện tíchVQG 23340 614 7129 1885 5472 7020 158 687 375 1. Cao Thượng 4550 1172 532 611 2036 199 2. Cao Trĩ 592 281 311 3. Nam Mộu 5161 614 2976 821 195 75 105 375 4. Khang Ninh 911 518 393 5. Quảng Khê 1229 830 212 187 6. Hoàng Trĩ 3763 987 320 1052 1135 269 7. Đông Phúc 5291 365 2528 2201 83 114 8. Yến Dương Hai xã 9. Chu Hương 1843 1281 562 Nguồn:Dự án xây dựng vườn quốc gia Ba Bể mở rộng 1997 2.1.8 Khu hệ thực vật Thực vật vườn quốc gia Ba Bể phần lớn thuộc thành phần khu hệ bản địa Bắc Việt Nam -Nam Trung Hoavà khu hệ India-Mianmar di cư đến. Nhân tố đất và đá mẹ đã chi phối mạnh đến sự hình thành và hệ thực vật ở đây. Các loài thực vật được nhà nước quy định bảo vệ nghiêm nghặt là: -Đinh -Nghiến -Lát hoa -Sa nhân Ngoài ra còn có Trai, Lý, Kẹn Bảng : Tổng hợp thành phần loài thực vật bậc cao có mặt trong vườn quốc gia Ba Bể Nhóm nghành thực vật Số họ Sè chi Số loài Sốlượng Tỉ lệ % Sốlượng Tỉ lệ % Sốlượng Tỉ lệ % Thông đất 2 1,75 2 0,66 4 0,95 Dương xỉ 12 10,52 17 5,66 26 6,23 Hạt trần 3 2,63 3 1,00 3 0,72 Hạt kín 97 85,08 278 92,66 384 92,08 Nguồn: Báo cáo chuyên đề thực vật Vườn quốc gia Ba Bể Sự đa dạng về số loài, số chi và số họ của hệ thực vật vườn quốc gia Ba Bể thể hiện rõ trong số liệu các bảng Bảng . So sánh tính đa dạng của hệ thực vật ở các vườn quốc gia Vườn quốc gia Diện tích(ha) Số loài thực vật Vườn quốc gia Ba Bể 23.340 602 Vườn quốc gia Cát Bà 15.200 745 Vườn quốc gia Cúc Phương 22.200 1880 Vườn quốc gia Yokdon 58.200 464 Vườn quốc gia Tam Đảo 36.883 490 Vườn quốc gia Bến Ðn 16.634 462 Nguồn: Báo cáo chuyên đề hệ thực vật vườn quốc gia Ba Bể 1997 2.1.9. Khu hệ động vật. Kết quả điều tra năm 1995-1997 do PTS Phậm Nhật và các cộng sự Viện điều tra qui hoạch rừng, đã thống kê được 65 loài thú, 140 loài chim, 30 loài bò sát, 15 loài Õch nhái, 49 loài cá. Với tổng số 299 loài thuộc các họ, bộ và nhóm động vật trên cạn, dưới nươc và biết bay. *Lớp thú có 65 loài thuộc 7 bé, 23 họ và 52 giống với 22 loài có trong sách đỏ của Việt nam. Trong đó có một số loài cần đặc biệt là Voọc mũi hếch, Gấu chó, Hổ, Báo hoa mai, Gấu ngựa, Voọc đen má trắng. *Líp chim có 140 loài thuộc 17 bé, 47 họ và 110 giống với 6 loài trong danh sách đỏ Việt nam như:Cốc đế,Hồng hoàng. *Lớp bò sát có 30 loài thuộc 2 bé, 11 họ và 23 giống với 12 loài trong danh sách đỏ của Việt nam như:Kỳ đà nước, Rùa hít. *Lớp lưỡng cư có 15 loài thuộc 1 bé ,4 họ và 6 giống với 2 loài trong danh sách đỏ của Việt nam như:Êch ang, Êch gai. *Lớp cá có 49 loài trong đó có 10 loài trtong danh sách đỏ của Việt nam nh­: Chép kính, Trảu, Chày đất . Bảng . Số liệu tổng hợp các loại động vật có xương sống trên cạn vườn quốc gia Ba Bể Lớp nhóm Số bé Số họ Số giống Số loài Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Lớp thó 7 25,93 23 27,06 52 27,22 65 26 Líp chim 17 62,96 47 55,29 110 57,59 140 65 Lớp bò sát 2 7,41 11 12,94 23 12,04 30 12 Lớp lưỡng cư 1 3,7 4 4,71 6 3,71 16 6 Cộng 27 100 85 100 151 100 250 100 Nguồn: Báo cáo chuyên đề hệ thực vật vườn quốc gia Ba Bể 1997 Gía trị thực tế của khu hệ động vật vườn quốc gia Ba Bể là rất cao gồm giá trị săn bắt, giá trị bảo tồn nguồn gen với nhiều loài quý hiếm. Tuy nhiên tình trạng thành phần loài của khu hệ động vật và trữ lượng của nhièu loài đang bị đe doạ nghiêm trọng cho thấy mật độ các loài ở cấp nhiều chỉ có 16,8% tổng số loài tập trung chủ yếu ở bộ lẻ thuộc lớp chim. 2.1.10.Tài nguyên du lịch . Vườn quốc gia Ba Bể trong đó có hồ Ba Bể là một tài sản thiên nhiên quý giá của nước ta, một mẫu của hệ sinh thái rừng điển hình của vùng Đông Bắc. Do đặc điểm cấu tạo địa chất phức tạp nên địa hình của khu vực đa dạng, sinh động hấp dẫn khách du lịch với những phong cảnh ngoạn mục như:Động Puông, thác Đầu Đẳng, động Tiên, động Thẳm Khít, ao Tiên và một số nơi còn là di tích lịch sử như động Nà Phòng(trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đài phát thanh tiếng nói Việt nam đóng tại đây). Ngoài ra các điều kiện về thời tiết vùng hồ nhìn chung thuận lợi cho sức khoẻ con người và các hoạt động du lịch. Cảnh quan trong khu vực còn lại khá phong phó, do đó vườn quốc gia Ba Bể có thể khai thác du lịch theo loại hình du lịch sinh thái, vãn cảnh thiên nhiên băng thuyền trên sông, hồ kêt hợp leo núi thăm một số bản dân tộc Ýt người mang đặc trưng văn hoá điển hình của một số dân tộc thiểu số Bắc Việt nam 2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội. 2.2.1.Dân số dân tộc và lao động. Tình hình dân số dân tộc và lao động của các xã vườn quốc gia Ba Bể đựơc tổng hợp và trình bày trong bảng sau. Bảng . Tổng hợp tình hình dân số dân tộc và lao động các xã trong vùng TT Xã Số hé Nhân khâu Lao động Thành phần dân tộc Kinh Tày Nùng Dao Hmông 1 Chu Hương 673 3890 1949 284 2522 50 1034 2 Yến Dương 380 2151 1078 179 1202 30 740 3 Quảng Khê 525 2958 1482 47 2337 18 556 4 Đông Phóc 403 2483 1244 48 1791 580 64 5 Cao Trĩ 392 2237 1121 52 1784 9 392 6 KhangNinh 579 3289 1648 60 2123 114 992 7 Nam Mẫu 432 3119 1563 9 1481 110 1519 8 Hoàng Trĩ 205 1312 657 821 17 474 9 CaoThượng 435 2810 1407 22 1141 797 850 Tổng 4024 24.249 12.148 701 15.202 238 5675 2443 Nguồn: Kết quả điều tra tình hình kinh tế - xã hội VQG Ba Bể 1997 Thành phần dân tộc của các xã vườn quốc gia Ba Bể bao gồm người Kinh, Tày, Nùng, Dao, Hmông. Trong đó đông nhất là người Tày 15.202 người, tiếp đến là người Dao 5675người Hmông 2433, Kinh 701người, Nùng 238 người. Diện tích đất lâm nghiệp chiếm 88,3% diện tích tự nhiên, trong khi đó chỉ có 2% lao dộng sản xuất lâm nghiệp. Đây là sự mất cân đối nghiệm trọng giữa tiềm năng lao động và đất lâm nghiệp. Tập quán du canh du cư làm rãy của đồng bào Hmông, Daolà một trong những nguyên nhân làm suy giảm tài nguyên rừng. Dân số có 24.249 người chiếm 35,56% dân số toàn huỵện, với tỷ lệ tăng dân số cao 2,4% mật độ dân số 61,9người/km2 trình độ học vấn dân cư trong vùng thấp. Tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ chiếm 30%. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 50,1% trong đó lao động nông lâm nghiệp chiếm hơn 95%, còn lại là các ngành nghề khác. Trình độ học vấn thấp có khoảng 80%lao động có học vấn dưới lớp 5. Nhìn chung nhân dân cần cù lao động, nhưng trình độ lao động trong vùng thấp, tập quán canh tác đơn giản và đang thiếu việc làm. Do vậy lực lượng lao động chưa được sử dụng một cách thích đáng, nếu có quy hoạch sử dụng đất đai hợp lý, lâu bền sẽ thu hút được lao động này hoạt động tích cực vào sản xuất nộng nghiệp, bảo vệ trồng rừng và phát triển rừng một cách thích đáng trong giai đoạn mới. 2.2.2.Thực trạng kinh tế . Với điều kiện tự nhiên phức tạp, ảnh hưởng hậu quả chiến tranh biên giới, hạ tầng kỹ thuật kém, bình quân GDP/người/năm đạt 73 USD, bằng 40% mức tổng trung bình cả nước. Tỷ lệ người nghèo đói thường xuyên cao 29,8%. Nguồn thu của nhân dân không có gì ngoài sản xuất nông lâm nghiệp. Cân đối về ngân sách thu không đủ chi. Kinh tế địa phương chưa có tích luỹ. Hàng năm,phải nhận trợ cấp từ tỉnh 90%. Nh­ vậy điểm xuất phát kinh tế xã hội trong vùng là thấp . 2.2.3. Sản xuất nông lâm nghiệp. Hiện nay các xa nằm trong quy hoạch của vườn quốc gia chủ yếu sống bằng nông nghiệp, làm ruộng kết hợp với làm nương rãy. Tuy nhiên cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hộ gia đình chưa thoát khỏi độc canh. Một số thế mạnh chưa được khai thác và phát huy. Trong chăn nuôi số lượng đàn vật nuôi vẫn còn thấp so với tiềm năng đồng cỏ có trong vùng(diện tích chăn thả chiếm 178ha). Tỷ trọng chăn nuôi chiếm 17,7% trong nông nghiệp, bình quân mỗi hộ mới nuôi 1,5 con trâu; 0,44 con bò và 2,2 con lợn. Tổng diện tích đất có khả năng lâm nghiệp của vùng là 38.817,4ha tuy nhiên người dân vẫn chủ yếu khai thác tài nguyên rừng mà chưa quan tâm tới trồng và bảo vệ rừng. Diện tích đất lâm nghiệp chiếm 91,4% diện tích tự nhiên. Diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm 49,2%. Diện tích rừng tự nhiên, rừng trồng chiếm 42,2%. Đây là diện tích cần được bảo vệ nghiêm ngặt bởi nếu bị khai thác sẽ có rất Ýt khả năng phục hồi được, ảnh hưởng nghiêm trọng môi trương sinh thái toàn vùng . 2.2.4. Giao thông. Ba Bể cách Hà nội 240km, cách Phủ thông (quốc lộ 2) 60km và thị trấn Chợ Rã 18km. Trong vườn quốc gia việc đi lại chủ yếu bằng thuyền máy,thuyền độc mộc và đi bộ trên những con đường mòn xuyên qua các xã. Từ Chợ Rã đi Chợ Đồn một đoạn đường phải qua vườn quốc gia Ba Bể. Đây là một khó khăn trong công tác bảo vệ vườn cần phải có phương pháp khắc phục. Ngoài ra còn có các con đường mòn, xe máy đi được mới làm: +Đường Pắc Ngòi đi Quảng Khê, Hoàng Trĩ và Đồng Phúc +Đường mòn theo sông Năng ở phía bắc từ Chợ Rã đi cao Trĩ, Cao Thượng qua Tà Kèn sang Tuyên Quang. Việc đi lại bằng thuyền gắn máy ,nhất là máy dầu Diesel ngày càng gia tăng làm tăng thêm ô nhiễm vùng lòng hồ và mất đi vẻ đẹp tự nhiên. Chương 3 Hiện trạng dân cư, kinh tế xã hội VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ 3.1. Đặc điểm tự nhiên 3.1.1. Vị trí địa lý: Vùng đệm Vườn quốc gia Ba Bể nằm ở phía Tây và Tây Nam của huyện Ba bể bao gồm 4 xã: Khang Ninh, Cao Trĩ, Đồng Phúc, Quảng Khuê. Toàn bộ diện tích của Vùng đệm là 17.996 ha trong đó được chia ra làm các loại: Diện tích đất nông nghiệp: 1.276,6ha chiếm 7% Diện tích đất Lâm nghiệp là: 16.278,3ha chiếm 90% Ngoài ra còn có các loại đất dùng làm nhà ở và các mục đích khác chiếm 3%. Trong diện tích đất lâm nghiệp thì có 6.712,7ha chiếm 41,3% diện tích là cỏ rừng, còn 9.356,6 ha chiếm 58,7% là đất trống đồi trọc. Đây là dấu hiệu rừng đang cạn kiệt. Người dân đã khai thác rừng vùng đệm như thế nào. Nếu như chúng ta không kịp thời phủ xanh đất trống đồi núi trọc thì Vùng đệm không đảm bảo chức năng giảm bớt sự tác động trực tiếp của con người vào trung tâm Vườn quốc gia hay vung lõi. Diện tích đất trống đồi núi trọc cũng cho ta thấy tiềm năng sử dụng đất đai vào lâm nghiệp. Nếu nh­ được đầu tư đúng mực thì đây lại là vùng tạo ra hiệu quả kinh tế bảo đảm đời sống nhân dân và bảo vệ Vườn quốc gia. Các diện tích này có thể được phủ xanh nh­ hoạt động trồng rừng, trồng cây đặc sản, cây ăn quả hay cũng có thể trồng cây phong cảnh tạo tiềm năng phát triển du lịch. 3.1.2.Đặc điểm tự nhiên. a. Địa hình: Vùng đệm có địa hình phức tạp gồm các núi đá vôi, đồi núi đất và ruộng bãi nương ven sông hồ. Đây là vùng đất phát triển trên đá vôi có nhiều đình cao như Piayeng cao 1304m, Pontiany cao 1200m, Tacna cao 1215m, Pounoetiap cao 1092m. Giữa các dãy đồi núi là các thung lũng tương đối bằng phẳng rất phù hợp với phát triển cây trồng nông nghiệp và chăn nuôi gia súc. Phía Tây là dãy núi đá cao và dốc của Vườn quốc gia ba Bể, đây cũng là đầu nguồn của các con suốichảy vào sông Năng và suối chợ Lèn. Dân cư tập trung chủ yếu ven suối và ven đường từ chợ Rã đi Ba Bể. b. Khí hậu: Khí hậu ở Vùng đệm mang tính chất chung của khí hậu Bắc Kạn: khí hậu nhiệt đới giá mùa, một năm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa nóng Èm và mùa khô lạnh. Qua bảng : Số liệu khí hậu thuộc khu vực Ba Bể cho thấy. (trang sau) Biểu ngang - Nhiệt độ trung bình năm của khu vực là 22°C nhưng ổn định biên độ nhiệt trong năm và biên độ nhiệt ngày đêm quá lớn (13,4°C năm và trên 12°C ngày đêm). Nhiệt độ cao nhất cũng không vượt quá 40°C và nhiệt độ thấp nhất cũng không xuống dưới 0°C. Hiện tượng sương muối hay sương mù thường xuyên xảy ra trong tháng đặc biệt là về mùa đông. Lượng mưa ở Vùng đệm khá thấp (1378mm) và phân bố không đều trong năm. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4-10 chiếm 91% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11-3 năm sau chiếm 9% cả năm. Với lượng mưa tập trung theo mùa cường độ mưa lớn có ngày lượng mưa đạt tới 183mm để gây ra xói mòn đất, rửa trôi chất dinh dưỡng đặc biệt là những nơi có địa hình dốc, không có thảm thực vật rừng che phủ. Điều này cho thấy để đảm bảo an toàn môi trường đất cần phải phục hồi rừng, xây dựng những hệ canh tá đất dốc bền vững, lâu dài cho người dân. Độ Èm không khí trung bình cao, nhất là vào các tháng mùa mưa, giảm dần vào các tháng khô, thấp nhất vào tháng 2-3. 3.2. Đặc điểm kinh tế xã hội 3.2.1. Dân số, dân tộc và lao động a. Dân số dân tộc Toàn bộ vùng đệm có 1899 hộ với 10.967 người chiếm 16,3% dân số toàn huyện Ba Bể. Tỷ lệ tăng dân số khá cao: 2,5% Mật độ dân số trong vùng 61,9 ngươi/Km2. Trình độ dân trí của nhân dân trong vùng đệm thấp, tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ chiếm 30% theo số liệu ở bảng sau: Bảng . Dân số, dân tộc và lao động các xã vùng đệm Vườn quốc gia Ba Bể Xã Số hé Nhân khẩu Lao động Thành phần dân tộc Kinh Tày nùng Dao H’mông 1 Quảng Khê 525 2958 1482 47 2337 18 556 2. Đông Phúc 403 2483 1244 48 1791 580 64 3. Cao trĩ 392 2237 1121 52 1784 9 392 4. Khang Ninh 579 3289 1648 60 2123 114 992 Tổng 1899 10967 5495 207 8035 141 2520 64 Nguồn: UBND huyện Ba Bể 1998 Tay, Nùng, Dao, H'mông, kinh. Trong đó người Tày là nhiều nhất 8035 người chiếm 73,3% tiếp đến là người Dao 2520 người chiếm 23%, người Kinh 207 chiếm 1,9%, người Nùng 141 người chiếm 1,2% còn lại là người H'mông 64 người chiếm 0,6%. Người dân ở đây sống gắn bó với núi rừng, có tập quán canh tác nông lâm nghiệp là phổ biến. Tuy nhiên thu nhập thì còn thấp, trình độ canh tác lúa nước còn lạc hậu, diện tích rừng bị thu hẹpnên các sản phẩm khai thác từ rừng ngày càng giảm. Đời sống người dân khó khăn hơn. b. Lao động Dân sè trong độ tuổi lao động của Vùng đệm là 5495 người chiếm 50,1% dân số. Lao động nông lâm nghiệp chiếm hơn 95% còn lại là các ngành nghề khác và khối cơ quan hành chính. Trình độ lao động của người dân còn thấp có khoảng 80% lao động dưới lớp 5. Thời gian rỗi còn nhiều, việc làm chủ yếu là nông nghiệp nhưng chỉ hết 1/2 thời gian. Do vậy 1/2 thời gian còn lại là tập trung vào khai thác sản phẩm rừng. Trình độ lao động quá thấp, nghề phụ chưa phát triển sức Ðp về tăng dân số vùng đệm đã đe doạ lên tài nguyên rừng của Vườn quốc gia. 3.2.2. Thực trạng kinh tế a. Đặc điểm kinh tế Đời sống của nhân dân Vùng đệm Vườn quốc gia Ba Bể rất thấp. Bình quân GDP/1người. Năm 1996 chỉ khoảng 73USD bằng 40% mức sống trung bình của cả nước. Tỷ lệ người nghèo đói thường xuyên lại cao 29,8%. Nhu câu tối thiểu về ăn, ở đã không được đảm bảo thì người dân phải vào rừng khai thác. Vào những tháng đói trong năm họ phải vào rừng đào bới tìm kiếm các loại củ cây có chất bột hay các loại lâm sản ngoài gỗ như măng, nấm... để nuôi gia đình mình. Đời sống của nhân dân không ổn định đã trực tiếp tác động đến tài nguyên rừng và đa dạng sinh hoạc của Vườn quốc gia. Cân đối về ngân sách thu chi của xã thâm hụt nặng nề, tổng ngân sách trên địa bàn huyện chỉ đảm bảo cho chi 10% năm. Do vậy sự phát triển kinh tế của vùng có điểm xuất phát thấp, sự đầu tư của Nhà nước là rất cần thiết và quan trọng Nhà nước cần có sự hỗ trợ vốn để phá vỡ caí vòng luẩn quản (Nghèo-Đói-Phá rừng-Mất rừng-Nghèo) b. Cơ cấu phát triển kinh tế. Tỷ trọng nông lâm nghiệp vẫn là chủ yếu, chiếm trên 90%. Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dịch vụ và tất cả các ngành nghề khai thác tỉ trọng rất thấp. * Ngành sản xuất nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp của vùng vẫn còn rất kém, trình độ canh tác lạc hậu các xã phía Bắc vẫn còn giữ nếp canh tác một vụ, một số xã phía Nam đã áp dụng giống lúa mới cho năng suất cao. Vụ đông xuân có giống CR203 cấp 1, cấp 2, cấp 3, vụ mùa có bao thai lùn, ải lùn, đoàn kết... giống tạp giao 5 Trung Quốc. Trong sản xuất nông nghiệp thì sản xuất chăn nuôi và trồng trọt ở các xã có sự khác nhau. Ở các vùng cao của xã trong vùng đệm cũng nh­ vùng lõi thì do thời tiết không thuận lợi cấy lúa chỉ được một vụ còn là làm nương rẫy. Diện tích trồng ngô, khoai sắn và các hoa màu khác chiếm 50% diện tích trồng trọt, hoạt động chăn nuôi cũng do địa hình cao nhiều đồi núi nên số lượng trâu bò chiếm cao 60% vật nuôi. Ngoài ra còn có thêm các gia sóc gia cầm như lợn, vịt... Ở các thôn vùng thấp, nơi gần hồ, suối có điều kiện về đất đai thì cấy lúa được nhiều hơn (chiếm 70% diện tích trồng trọt) nhưng do diện tích đất đai nhỏ manh mùn, trình độ canh tác thấp nên vẫn không đảm bảo được lương thực cho tiêu dùng. * Ngành sản xuất lâm nghiệp: Diện tích đất sử dụng cho lâm nghiệp là rất lớn (16278.3 chiếm 90% diện tích toàn vùng)nhưng chưa được đầu tư sử dụng. Chủ yếu vẫn là sự khai thác bừa bãi của người dân việc trồng và phục hồ rừng chưa có. Với tiềm năng to lớn về vườn rừng thì hướng giải quyết đảm bảo ổn định đời sống người dân là phải đi từ lâm nghiệp Hiện nay đã có một số hộ nông dân có trang trại vừa và nhỏ. Bước đầu đã tạo ra sản phẩm hàng hoá trao đổi nhưng hoạt động này còn quá Ýt và phải được sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, thuế bao tiêu sản phẩm... * Ngoài hoạt động sản xuất nông lâm nghiêp các hộ gia đình ở khu vực giáp sông hồ còn có thêm một số nghề phụ như đánh bắt cá, chạy xuồng phục vụ giao thông, du lịch, chạy xe ôm chở khách. Tuy nhiên số hộ có khả năng chạy xuồng không nhiều (chủ yếu tập trung ở xã Nam Mầu). Các hộ gia đình ở xã Khang ninh, Cao Tử có nguồn thu nhập phụ là hoạt động kinh doanh buôn bán nhỏ ven đường quốc lộ, chạy xe ôm theo tuyến đường từ hồ Ba Bể đi chợ Rã. Nguồn thu nhập phụ này có tính chất thời vụ, không lâu dài. 3.2.3. Thu nhập và đời sống dân cư: Theo số liệu thống kê từ cuộc điều tra kinh tế hộ của Uỷ ban nhân dân 4 xã Quảng Khuê, Khang Ninh, Cao Vũ, Đông Phúc Bảng. Chỉ tiêu phân loại kinh tế hộ gia đình Đơn vị Chỉ tiêu phân loại Hộ đói Nhà tranh hoặc nhà gỗ đơn sơ Đông con (trung bình 5,7 nhân khẩu/hộ) Thu nhập thấp (50.000đ/tháng) Thiếu ruộng sản xuất Thiếu ăn từ 3-5 tháng Hộ nghèo Nhà cửa sơ sài Ýt ruộng nương Chăn nuôi kém phát triển Thu nhập bình quân 50.000-70.000đ/tháng Thiếu lương thực 1-2 tháng Hé trung bình và khá Nhà sàn bằng gỗ to và nhà xây Có đủ ruộng canh tác và đủ ăn Có nghề phụ Thu nhập trung bình trên 100.000đ Toàn vùng đệm có 10% hay 1899 hộ thuộc diện đói. Các hộ này lại tập trung chủ yếu ở các vùng cao của các xã chiếm tới 60% số hộ ở các vùng cao naỳ. Cho ta thấy ở các vùng cao này đời sống của nhân dân thấp kém như thế nào. Số hộ nghèo là 436,77 chiếm 23%. Số hộ gia đình thuộc diện trung bình và khá là 1272,33 chiếm 67% chủ yếu là những gia đình có nhiều ruộng nương hay người nhà làm cán bộ địa phương có thu nhập ổn định. 3.3. Tình trạng giáo dục và y tế 3.3.1. Giáo dục Hầu hết các xã đều có trường cấp I và hai xã Khang Ninh, Cao Trĩ có trường cấp II. Nhưng điều kiện kinh tế khó khăn cộng với địa hình miền núi dân cư không tập trung nên số lượng học sinh Ýt, trường lớp phải phân tán thành các cơ sở nhỏ ở các thôn bản để tiện đi lại cho các con em học sinh. Xã Khang Ninh có 15 lớp học thêm mở ở 5 khu vực vùng cao. Tỷ lệ tái mù chữ của trẻ em vùng đệm còn cao (khoảng 30%). Vì vậy đi đôi với công tác xoá mù chữ thì luôn cần triển khai liên tục công tác xoá mù chữ ở các thôn bản vùng cao, vùng sâu. Tỷ lệ người biết chữ so với tổng số người trong độ tuổi từ 13-35 là 90% ở xã Khang Ninh. Còn đối với các xã còn lại của vùng đệm thì tỷ lệ này là khoảng 60-70%. Hiện tại công tác giáo dục ở vùg đệm có các khó khăn nh­ sau: Trình độ giáo viên còn thấp Địa hình phức tạp, học sinh gặp nhiều khó khăn khi đi học. Bất đồng ngôn ngữ giữa các giáo viên và học sinh vùng cao, đòi hỏi các giáo viên phải học tiếng trong quá trình giảng dậy. Đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, không ổn định Nhìn chung, công tác giáo dục của cá xã vùng đệm trong những năm gần đây đã có nhiều cố gắng, nhằm nâng cao nhận thức giáo dục cộng đồng dân cư, họ là lực lượng bảo vệ, giữ gìn cho vùng đệm của Vườn quốc gia tốt nhất. 3.3.2. Y tế Tại mỗi xã đều có một trạm y tế với đội ngữ nhân viên y tế từ 3-4người/trạm. ngoà ra ở xã Khang Ninh đã xây dựng được 1 trạm y tế đa khoa tương đối hiẹn đại. Ở vùng đệm thường có các bệnh phổ biến là viêm phổi, viêm đường hô hấp, sốt rét. Vào mùa đông là mùa có nhiều bệnh xẩy ra hơn cả. Người dân cũng không có thói quen đi trạm xã để khám và chữa bệnh vì nhận thức người dân còn thấp, họ không tin tưởng vào y học hiện đại, vẫn còn tin vào các tập quán địa phương vào thầy lang và các kinh nghiệm cổ truyền. Công tác vệ sinh ở thôn bản không có, các gia súc vẫn còn để thả rông và chất thải của gia súc là nguồn lây nhiễm dịch bệnh chính. Hiện nay công tác tuyên truyền vận động làm chuồng trại cho gia súc, vật nuôi hạn chế thả rông đang được chú ý. 3.3.3. Cơ sở hạ tầng Tại vùng đệm chỉ có đường ô tô từ trung tâm huyện đi hai xã Cao Trĩ, Khang Ninh và đi đến bờ hồ Ba Bể. Các xã còn lại chưa có đường ô tô đến trụ sở mà chỉ có đường thuỷ chạy xuôi theo sông Năng đến một số xã Quảng Khuê 30Km. Trong tương lai sẽ mở một con đường dân sinh từ chợ Rã qua Khang Ninh, Quảng Khuê đi tới Đồng Phúc. Con đường này sẽ giảm bớt sự đe doạ đối với khu vực lòng hồ và cũng là con đường mang lại đời sống Êm no cho dân 4 xã vùng sâu. Trong 4 xã vùng đệm chỉ duy nhất mới có xã Khang Ninh là có đường điện lưới quốc gia về đến trung tâm xã 3.4. Các hoạt động kkai thác tài nguyen vùng đệm 3.4.1. Khai thác gỗ,củi. a. Khai thác gỗ. Lấy gỗ để làm nhà là nhu cầu thiết yếu của người dân sống trong vườn quốc gia Ba Bể .Theo tập quán lâu đời và sinh sống trong điều kiện tự nhiên ưu đãi về gỗ,người dân vào rừng chặt đốn các cây gỗ to chắc như: Nghiến, Trai, Đinh, Lát... về sẻ ra từng tấm ván dày từ 1-1,5cm, chiều dài tuỳ theo kích cỡ nhà ghép lại tạo thành các bức tường nhà. Một ngôi nhà trung bình thường sử dụng từ 7-8m3gỗ.Chính vì nhu cầu đó mà hiện tượng khai thác gỗ lén lút vẫn xảy ra tuy có sự kiểm soát gắt gao của kiểm lâm. Mục đích khai thác gỗ cho thương mại không có ở đây. Hiện nay rừng đã bị cạn kiệt,các cây gỗ to có giá trị đã bị khai thác hết, ở ven rừng vì vậy người dân đã mở rộng và lấn sâu vào khu vực bảo vệ thuộc vườn quốc gia . Tình hình vi phạm khai thác gỗ ở vườn quốc gia Ba Bể được trình bày ở bảng sau: Bảng.Tình hình vi phạm khai thác gỗ tại vườn quốc gia Ba Bể Năm Số vô Phương tiện vi phạm Khai thác Vận chuyển Cưa xẻ Cưa cắt Búa Dao đinh móc 1998 41 68 31 4 6 30 1999 13 68 10 3 2 10 28 Nguồn: Hạt kiểm lâm vườn quốc gia Ba Bể 1999 b.Khai thác gỗ củi. Vấn đề cấp bách và nan giải hiẹn nay là gỗ củi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Đối với nhân dân vùng đệm nhu cầu gỗ củi là rất lớn và đây là nguyên nhân chủ yếu của sự cạn kiệt và tăng diện tích đất trống đồi trọc. Khai thác gỗ củi còn làm mất đi sự đa dạng phong phú về chủng loại thực vật gây tiệt chủng nhiều loài có giá trị. Các cây được sử dụng làm gỗ củi rất đa dạng, bao gồm từ cây gỗ lớn, gỗ nhỡ cho tới cây bụi và cành nhánh ...Những loại cây mà người dan ưa thích sử dụng làm gỗ củi là: Nghiến ,Gứe,Thành nghành,Trẹo,Sau sau,Xoan ta,Bồ đề ,Tre...Trước đây người dân thường chọn những cây gỗ lớn cháy toả nhiều nhiệt,cho than nhiều,không khói làm gỗ củi. Nhưng ngày nay kể từ khi vườn quốc gia Ba Bể được thành lập, Đông thời có nhiều chủ trương bảo vệ rừng tự nhiên của nhà nước thì vấn đề gỗ củi trở lên khó khăn với người dân. Việc chuyển sử dụng cây gỗ lớn sang sử dụng những cây nhỏ cây bụi và cành nhánh đang diễn ra và càng ngày càng gây cạn kiệt hơn. Theo báo cáo tổng kết dự án: Điều tra đánh giá nhu cầu và khả năng cân bằng gỗ củi tại hai thôn Nà Làng và Nà Cọ thuộc xã Khang Ninh huyện Ba Bể . *. Nhu cầu gỗ củi hiện nay :trung bình một ngày một hộ gia đình cần 25-30kg gỗ củi, mỗi một năm nhu cầu gỗ củi trên một đầu người là 5tấn . Nếu lấy kết quả điều tra gỗ củi hai thôn Nà Làng Nà Cọ làm tiêu chuẩn để đánh giá nhu cầu gỗ củi thì toàn xã Khang Ninh trong một năm sẽ cần 17.255tấn ,toàn vùng đệm là 54.835tấn. Mặt khác mức tăng trưởng hàng năm của rừng tự nhiên là 7-8m3/năm/ha do vậy sức Ðp đối với rừng tự nhiên của vườn quốc gia là rất lớn. Xem xét các mối quan hệ giữa người dân và nhu cầu gỗ củi ta thấy : +Nhu cầu gỗ củi không có quan hệ với các gia đình giàu có, trung bình hay là nghèo mà quan hệ với các hoạt động trong gia đình như: nấu cơm,nấu rượu, chăn nuôi, sưởi Êm... +Giữa các thôn vùng thấp và vùng cao: thôn Nà Làng(vùng thấp) cần 5,3 tán/năm; thôn Nà Cọ (vùng cao) cần 4,7tấn/năm. +Quan hệ chặt chẽ giữa nhu cầu gỗ củi và số thành viên trong gia đình .Số người trong gia đình càng lớn thì nhu cầu gỗ củi càng cao. *.Nhu cầu gỗ củi trong tương lai:qua tìm hiểu cho thấy trong những năm tới nhu cầu gỗ củi của người dân địa phương phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày không giảm đi bao nhiêu. Ơ thôn Nà Cọ 100% số hộ vẫn sẽ sử dụng gỗ củi làm chất đốt, còn ở thôn Nà Làng do có điện nên 5 hộ dự định sẽ chuyển sang dùng thêm điện một phàn để nấu cơm, nước. Các mục đích sử dụng khác vẫn dùng gỗ củi. Các vật liêu thay thế gỗ củi khác nh­ than, trấu ,dầu hoả không được người dân quen dùng. Hiện nay tỷ lệ tăng dân số trung bình trong khu vực là 2,4%như vậy tính trung bình cứ sau một năm dân số xã tăng lên 60 người và nhu cầu gỗ củi sẽ tăng thêm 300 tấn. Tình hình này cho thấy nhu cầu gỗ củi của hai thôn cũng như toàn xã và vùng đệm sẽ không giảm mà có chiều hướng tăng. c.Đánh giá khả năng cung cấp gỗ củi. Ơ nước ta gỗ củi thường được khai thác từ các nguồn: +Rừng tự nhiên. +Rừng trồng. +Vườn nhà và cây trông phân tán. +Cây bụi mọc trên đất trống đồi núi trọc. Ta xem xét khả năng cung cấp của từng nguồn . *Rừng tự nhiên: Nhà nước ta có chủ trương quản lý chặt chẽ vốn rừng tự nhiên, chỉ cho phépkhai thác một số lượng hạn chế và ở một số nơi nhất định. Đối với rừng tự nhiên vườn quốc gia Ba Bể thì không cho phếp khai thác gỗ, củi chỉ cho phép thu nhặt cành khô. Nh­ vậy về nguyên tắc thì nguồn cung cấp gỗ củi từ rừng tự nhiên là không có . *Rừng trồng: trong khu vực thì rừng trồng hầu như chưa có chỉ có một số Ýt hé gia đình mới bắt đầu trông Mai, Luồng để khai thác cây bán. Người dân địa phương chỉ quen với việc vào rừng chặt cây về làm củi chứ chưa quen trồn cây, trồng rừng để dược hưởng lợi. Nh­ vậy nguồn cung cấp gỗ củi trong khu vựclà không có, rừng phục hồi sau nương rãy ở thời điiểm hiện tại mới chỉ cung cấp được 20% nhu cầu . *Vườn nhà và cây trồng phân tán. Người dân ở đây chưa biết sử dụng vườn nhà một cách hợp lý. Các loại cây trong vườn nhà đều hỗn tạp, tự mọc không được chăm sóc do vậy không có năng suất. Các loại cây chủ yếu là hoa quả không có cây để lấy gỗ củi. Các loại cây trồng ở hàng rào nh­: Xoan, Mai...cho gỗ, cây củi đun đều chưa được chú ý trồng. *Cây bụi mọc trên đất trống đồi trọc: Hiện nay do rừng tự nhiên bị quản lý bảo vệ chặt người dân đã sử dụng đến các cây bụi mọc trên đất trống đồi trọc để làm củi.Tuy nhiên do nhu cầu lớn nên trong một thời gian ngắn nguồn cung cấp này đã bị cạn kiệt không đủ cung cấp. Hiện nay chỉ có thể đáp ứng được từ 15-20%. 3.4.2. Khai thác lâm sản ngoài gỗ. a. Săn bắn động vật hoang dã. Động vật hoang dã là một trong những nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và cần được bảo tồn trên khắp mọi miền của đất nước cũng nh­ trong khu vưc vườn quốc gia Ba Bể. Tuy nhiên do tính chất trong vườn có dân cư sinh sống ngay cả ở những nơi có yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt nên việc săn bắn khai thác thú rừng là không thể tránh khỏi. Người dân có thói quên đi săn theo phong tục tập quán để thể hiện sức mạnh của con người với tự nhiên, thể hiện năng lực của người đàn ông. Những năm gần đây theo cơ chế thị trường hoạt động săn bắn còn chịu sự chi phối của quy luật cung cầu. Tại vườn quốc gia Ba Bể các loài thú thường bị săn bắn là Nai, Sóc, Tắc Kè, Culi, Chồn...Nhưng thực tế hiện nay do còn Ýt thú nên bất khi đi săn bất kể gặp con gì cũng đều bắt hết. Bảng mét số động vật hoang dã bị tịch thu tại vườn quốc gia Ba Bể Năm Số vô Tang vật vi phạm Rắn Õch Kỳ nhông Rùa Tắc kè Cây sóng Bẫy 1996 8 200kg 100kg 60con 300con 4con 8chiếc 7cái 1998 2 42kg 19kg 2con 7con 1con 2chiếc 7cái 1999 5 56,8kg 7,5kg 4,2kg 0,8kg 3chiếc 5cái Theo nguồn cung cấp của hạt kiểm lâm Ba Bể năm 1999. Nhưng thực tế số lượng bị săn bắn còn nhiều hơn rất nhiều. Các động vật trong vùng ngày càng bị mất, một số loài quý hiếm đặc trưng hầu nh­ không còn nữa. b.Thu hái lâm sản ngoài gỗ: Rừng không chỉ cung cấp cho chóng ta các sản phẩm gỗ củi mà còn có phong phú các lâm sản ngoài gỗ nh­: Măng Mục nhĩ, Dược liệu, các loài rau. Đây là nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh khá nhanh, việc khai thác chúng cũng đem lại rất nhiều lợi Ých cho người dân địa phương. Nếu biết cách khai thác và bảo vệ nguồn thu này thì người dân sẽ được hưởng lâu dài và bền vững. Cuộc sống của họ được cải thiện hơn. Nhưng hiện nay hoạt động khai thác nguồn thu này không có tổ chức và chỉ vì mối lợi trước mắt mà họ đã gây ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học. Theo tài liệu cho thấy có khoảng 10% số hộ thường xuyên vào rừng khaithác măng, mộc nhĩ dược liệu. Ở các thôn vùng cao vào vụ giáp hạt thì 100% số hộ gia đình vào rừng lấy măng làm thực phẩm cho gia đình, hoặc mang ra chợ bán nấy tiền mua lương thực. Vào thời kỳ măng mọc, một người vào rừng trung bình một ngày nấy được 20-30kg Bảng : Mét số lâm sản bị tich thu tại vườn quốc gia Ba Bể Năm Lâm sản các loại (Kg) Măng khô Sa nhân Bách Bé Quả sấu Măng tươi Mác ca 1998 107 13,8 9 667 97 1999 64 40 27 50 20 Theo nguồn cung cấp của hạt kiểm lâm Ba Bể năm 1999. Việc khai thác quá mức sản phẩm lâm sản ngoài gỗ sẽ làm mất đi đa dạng sinh học vốn có của rừng, ngoài ra còn làm mất đi cân bằng sinh thái, mất đi nguồn thức ăn của động vật, mất đi nơi sống, nhiễu loạn mùa sinh sản. Tóm lại các lâm sản ngoài gỗ đang bị khai thác qua mức làm cạn kiệt tài nguyên mà đời sống người dân vẫn nghèo đói. 3.4.3. Hoạt động du lịch . Vườn quốc gia Ba Bể có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Hồ Ba Bể là điểm du lịch đang phát triển hiện nay của huyện Ba Bể cũng nh­ của tỉnh Bắc Cạn. Trong những năm qua nghành du lịch đã có sự thay đổi, số lượng khách du lịch tới Ba Bể không ngừng gia tăng. Năm 1995 đón 2200 lượt khách, đến năm 1998 tăng lên 12000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 15%. Tuy nhiên mối quan hệ giữa mục đích khai thác du lịch với mục đích bảo tồn và phát triển đang có nguy cơ bị phá vỡ. Chạy dọc theo hai bờ sông Năng, suối chợ Lèn là những bản đồng bào dân tộc sinh sống với nền sản xuất chính là trồng trọt và chăn nuôi .Do vậy tình trạng nước thải sinh hoạt dồn hết xuống sông làm cho nguồn nước bị ô nhiễm và mất mỹ quan. Hoạt động của các phương tiện chuyên chở khách du lịch, buôn bán, sản xuất được gắn máy có động cơ trong khu vực vườn quốc gia đang làm mất đi những vẻ đẹp yên tĩnh vốn có của vườn và huỷ hoại môi trường bằng tiếng ồn và dâù mỡ. Tai hại hơn đó là sự xua đuổi những loài động vật mà vườn quốc gia và khách du lịch đều quan tâm. Về lâu dài khi du lịch phát triển và nhu cầu khách lên cao, thì nhân dân vùng đệm sẽ sẵn sàng cung cấp những sản phẩm phi gỗ hoặc động vật. Lúc đó sự cân bằng sinh thái ngày càng mong manh và nảy sinh những vấn đề phức tạp khác liên quan tới kinh tế và con người. CHƯƠNG 4 MộT Sè ý KIếN Về PHáT TRIểN BềN VữNG KINH Tế - Xã HộI vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể 4.1. Tìm hiểu chung Qua tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế xã hội vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể cho thấy yêu cầu cần phải nâng cao đời sống người dân ở đây là rất cần thiết. Nhưng để phát triển kinh tế vùng đệm chúng ta phải đi từ đâu, phải làm gì và làm nh­ thế nào thì người dân không tự mình biết được. Nếu không được nhà nước và các tổ chức đứng ra hướng dẫn người dân theo một kế hoạch, quy trình phát triển lâu dài thì tát yếu người dân sẽ tiếp tục khai thác tài nguyên một cách không có ý thức . Với yêu cầu giảm và hạn chế tác động trực tiếp của con người từ vùng đệm vào vườn quốc gia, góp phần phát triển đa dạng sinh học cho vườn quốc gia thì hoạt động phát triển kinh tế xã hội phải lồng ghép phát triển đa dạng sinh học, sử dụng tải nguyên rừng bền vững . Phát triển bền vững kinh tế xã hội ở đây chính là xây dùng cho họ một mô hình hay một cách thức sinh sống thích hợp .Phát triển kinh tế không làm suy giảm tài nguyên, kiến thức cổ truyền bản địa kết hợp với kết thức khoa học mới hiện đại tạo ra cách thức sản xuất hiệu quả. Sự phát triển của con người sẽ làm thiên nhiên phong phú hơn đa dạng hơn. Đối với vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể thì sự phát triển bền vững kinh tế xã hội cần xem xet các yêu cầu sau: + Phát huy kiến thức bản địa: Người dân đã sinh sống ở đây từ lâu đời, tổ tiên cha ông họ đã sống trước khi thành lập vườn. Do vậy họ tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm để tồn tại và phát triển ở nơi đây .họ rất am hiểu và thích nghi với thiên nhiên môi trường rừng núi. Không thể di chuyển họ ra định cư ở một khu vực mới hay đưa vào áp đặt một phương thức sản xuất mới. Chính xác là nên để họ sinh sống trong vùng đệm và phát huy tiềm lực của mình. + Sản xuất hướng tới kinh tế thị trường: Xu hướng tất yếu của phát triển kinh tế là hướng tới thị trường. Do vậy phát triển kinh tế ở vùng đệm cũng phải mang tính chất thị trường, không thể để nền kinh tế tự cung tự cấp. Kinh tế thị trường giúp người dân biết khai thác các lợi thế của mình hiện nay như: Cây lâm nghiệp (gỗ và các sản phảm từ gỗ ) cây lâm sản ngoài gỗ, chăn nuôi gia sóc gia cầm, du lịch sinh thái . +Kết hợp phát triển kinh tế với sinh thái: Đây là yêu cầu chính của sự phát triển bền vững . Đó là xây dựng một hệ thống sao cho đảm bảo các hoạt động sản xuất nh­: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, du lịch để nâng cao cuộc sống con người và bảo về môi trường . 4.2. Một số ý kiến về phát triển kinh tế xã hội của vùng đệm 4.2.1. Giải quyết lương thực . Hiện nay các xã vùng đệm vẫn đang trong tình trạng thiếu lương thực, không đủ ăn. Bình quân lương thực đạt 300 kg/ngườ/năm so với mức an toàn lương thực của Việt Nam ( từ 360 -370 kg/người/năm ) là thấp. Giải quyết vấn đề lương thực hiện nay là rất cần thiết. Người dân ở đây đã và đang trồng ngô và thấy rằng ngô có lợi thế hơn lúa vì ngô có thẻ trồng ở ven đồi thấp, ruộng nhỏ ven sông suối, trong các vườn cây ăn quả chưa có bóng. Ngô cho năng xuất cao và có thể trở thành hàng hoá mang đi trao đổi . Vì vậy hướng trồng ngô là tốt hơn cả, cần phải giúp đỡ người dân về giống phân bón, kĩ thuật thâm canh tăng vụ và thị trường tiêu thụ . 4.2.2. Kinh tế hộ gia đình . Phát triển kinh tế hộ gia đình là rất thích hợp với điều kiện đất đai rộng (trung bình mõi hộ 1 hecta ), nhân công dồi dào. Theo xu hướng của phát triển kinh tế nông nghiệp sản xuất kinh tế trang trại rất đang được nhiều người chú ý. Đây là loại hinh sản xuất mới với những ưu điểm vượt trội: vừa có khả năng tự cung tự cấp cho gia đình vừa tạo sản phẩm hàng hoá mang ra trao đổi trên thị trường. Từ loại hình sản xuất này người dân dần dần đi vào ổn định kinh tế, hạn chế khai thác tài nguyên rừng . Đối với vùng đệm thì đưa mô hình sản xuất trang trại sao cho vừa có hiệu quả kinh tế đảm bảo bảo vệ được tài nguyên rừng cũng như phủ xanh đất trống đồi trọc làm thoả mãn yêu cầu phát triển bền vững . a. Vườn sinh thái hộ gia đình : Đây là mô hình vườn gắn giữa cấu trúc sinh thái với hoạt động hàng ngày của hộ gia đình Cấu tróc: Hàng rào trồng cây lấy gỗ, cây đa mục tiêu nh­: trám, mây, sấu, keo Cây trong vườn: Xunh quanh vườn trồng các cây lâm sản ngoài gỗ nh­ :sấu, keo, lát. Trong vườn trồng xen lẫn cây ăn quả nh­: Hồng, Xoài, Mận, Sấu với cự ly phù hợp. Trong giai đoạn đầu khi cây ăn quả chưa có bóng thì trồng cây lương thực xen để tăng cường sử dụng đất. Hiệu quả: mô hình này đã tính đến việc chọn lựa các loại cây vừa mang lại hiệu quả kinh tế (tạo ra thu nhập từ câylương thực, gỗ củi và gỗ, các sản phẩm từ cây ăn quả...) vừa phát triển bảo vệ đa dạng sinh thái (các cây trồng được lựa chọn sao cho có khả năng phục hồi và phát triển đa dạng sinh học) b. Vườn sinh thái đồi. Đây là loại hình vườn không gắn với nhà ở của hộ gia đình, nếu có nhà là để bảo vệ hoặc để ở tạm thời. Vườn sinh thái đồi ở đây rất phù hợp vì điều kiên đất đồi nhiều. Loại vườn này thường nằm trên một mái đồi được sở hữu bởi một hộ hay một số hộ gia đình. Cấu trúc của loại vườn này là: +Phía trên dốc được trồng các loại cây Lâm nghiệp theo phương thức hỗn giao nh­: Trám, Lát, Keo,Tre,Trúc tuỳ theo điều kiên địa hình, đặc điểm đất của mỗi vườn đồi. Tạo hiệu quả vừa giữ đất ,nước, độ che phủ, đem lại lơi Ých kinh tế lâu dài + Sườn dốc được trồng các loại cây ăn quả có giá trị nh­: Hồng, Xoài, Mận kết hợp với cây nông nghiệp ngắn ngày (Ngô, sắn, củ mài) và trồng những băng cây xanh (cây cốt khí) chống xói mòn cải tạo đất. Một số nơi có điều kiên thì tạo thành các ruộng bậc thang trước khi trồng cây + Chân sườn, nơi đất Èm có điều kiện nên trồng các loại ưa Èm, chịu bóng nh­ Chuối, Sa nhân và Trúc hoặc Mai Hiệu quả: Mô hình vườn đồi tạo sự phát triển kinh tế nhờ các thu nhập từ vườn và nâng cao đa dạng sinh học, diện tích che phủ cho đồi hiện nay. c.Vườn rừng và trồng cây phân tán. Xây dựng loại vườn này ở nơi xa nhà, không dùng cho việc trồng cây nông nghiệp và cũng không thích hợp cho việc trồng cây ăn quả nhưng vẫn còn tính chất đất rừng. Loại này sử dụng cho các thôn vùng cao, có sẵn diệ tích đất trống đồi trọc. Cấu trúc: Trồng hỗn giao các loại cây có giá trị sử dụng cao và lâu ngày tuỳ theo điều kiện đất đai địa hình của mỗi vườn. Có thể trồng hỗn giao các loại cây Tre, gỗ nh­: Tre, tróc, Mai ở tầng dưới, Trám , Sấu, Lát vườn lên ở tầng trên, ở mặt đất còn có thể trồng thêm các loại cây thuốc, cây tái sinh tự nhiên. Trồng cây phân tán. Đây là hoạt động trồng cây phủ xanh các khoảng trống,đồi bụi...nhằm mục đích lấy gỗ, tăng độ che phủ, cải tạo môi trường. Các loại cây thích hợp là cây Trúc ở vùng đât còn tốt, cây Keo ở nơi đất bạc màu, đất xấu. Hiệu quả: Vườn rừng và cây phân tán làm tăng diện tích rừng trồng, độ che phủ của rừng, tạo lập đa dạng sinh học, môi trường cho các hệ động thực vật cư trú. Ngoài ra về lâu dài khi được khai thác sẽ đem lại một nguồn thu nhập lớn. Hàng năm còn có thể khai thác các cây lâm sản ngoài gỗ nh­ Măng, cây thuốc... 4.2.3. Trồng cây lâm sản ngoài gỗ . Nh­ ở phần các hoạt động khai thác ở vùng đệm đã đề cập, cây lâm sản ngoài gỗ đã và đang được khai thác bừa bãi làm cho số lượng bị giảm nghiêm trọng. Do vậy việc trồng và khai thác hợp lý sản phẩm từ cây lâm sản ngoài gỗ là rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ đa dạng sinh học. Các loại cây lâm sản ngoài gỗ được trồng ở các loại hình vườn: Sinh thái hộ gia đình, sinh thái đồi, rừng là : +Các loại cây Tre Tróc. +Các loại cây Song Mây: Mây nếp, tẻ. +Các loại cây lấy dầu- nhựa:Trám. +Các loại cây lấy quả:Trám, Sấu, Bồ Kết. +Các loại cây thuốc: Xa Nhân, Ba Kinh. +Các loại cây lấy sợi: Dứa sợi +Các loại cây cải tạo đất trống xói mòn: Cốt khí. +Các loại cây lấy củ: Rong, Gừng, củ Mài. +Các loại cây ăn quả: Hång Nhãn,Vải, Chuối. Việc trồng các loại cây lâm sản ngoài gỗ này cho các tác dụng sau: +Tạo môi trường sinh thái đa dạng che phủ đất giữ nước, hạn chế xói mòn. +Cải tạo đất tanưg độ phì nhiêu. +Tạo nguồn gỗ củi sử dụng hàng ngày.Ttrồng kết hợp tạo mô hình nông lâm có hiệu quả kinh tế tăng thu nhập tạo việc làm cho người dân, +Giảm sức Ðp với các loại lâm sản ngoài gỗ trong vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể 4.2.4. Chính sách đối với vùng đệm. Người dân tốc thiểu số sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, trải qua các thế hệ, đã có thành tích trong việc giữ và phát triển thảm thực vật. Họ biết giữ cây gì? Chặt cây gì? Nhưng ngày nay, do tác động của cơ chế thị trường họ đã quên hoặc mất đi bản chất tốt đẹp lức trước. Vì vậy, phải khơi dạy lại các tập quán tốt của cộng đồng địa phương bằng các chính sách chung. - Chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất. - Chính sách ưu tiên dầu tư của Chính phủ (chương trình dự án trồng năm triệu ha rừng, chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo) cho các xã vùng đệm của vườn quốc gia Ba Bể? - Chính sách khen thưởng động viên kịp thời bằng vật chất đối với các xã có công bảo vệ, quản lý vườn quốc gia. - Đào tạo, tập huấn cán bộ xã về lĩnh vực bảo vệ đa dạng sinh học về mặt Nhà nước. - Xây dựng một quy chế quản lý vùng đệm - Chính sách vốn đầu tư tín dụng: Vốn trung và dài hạn, đơn giản hoá điều kiện và thủ tục, tổ chức tín dụng nhân dân. - Tăng cường thể chế tự quản trong cộng đồng và hương ước, xây dựng các nhóm nông dân hạt nhân trong bản làng, tổ chức hợp tác kinh tế, giao quyền cho cộng đồng quản lý tài nguyên cộng đồng thôn bản. Ví dụ: Xã Khang ning đã xây dựng lên 2 bản hương ước về cấm chăn thả gia súc rông (nếu cán bộ VQG bắt được một con trâu, bò thì dắt xướng trưởng thôn thu 20.000 đồng, sau đó trưởng thôn có trách nhiệm thu lại của chủ gia súc). Kết quả trong năm 1999, hiện tượng thả rông trâu bò hầu nh­ không còn, hạn chế được cư dân vào rừng lấy cây làm hàng rào, các cây con mới được trồng được chăm sóc tốt và không bị chết. Với mô hình này ngày 20/12/1999, Ban quản lý Vườn quốc gia đã tập huấn cho cán bộ lãnh đạo 7 xã giáp với vườn và xây dựng được 1 bản hương ước "Hương ước về quản lý rừng, chăn thả gia súc, sử dụng lâm sản". Kết luận 1. Vườn quốc gia Ba Bể, trong đó có hồ Bả Bể là một di sản thiên nhiên quý giá của nước ta, có diện tích rừng chiếm trên 60% tổng diện tự nhiên, còn giữ được tương đối nguyên vẹn tính đa dạng sinh học của rừng trên núi đá vôi và rừng vùng núi cao trung bình phía Đông Bắc Việt Nam. Khu hệ động, thực vật của vườn thuộc loại đặc hữu và quý hiếm mà chúng ta cần bảo vệ. 2. Vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể có tổng diện tích là 9538 ha, bao gồm 4 xã Khang Ninh, Cao Trĩ, Quảng Khê, Đông Phúc. Đất đai chủ yếu là đất trống cây bụi, cây gỗ rải rác, nơi đầu nguồn của các con sông suối chảy vào hồ Ba Bể. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm tỉ lệ rất nhỏ khoảng 7% còn lại là đất lâm nghiệp chiểm 90,4%. Do đó, bình quân đất canh tác trên đầu người là rất thấp 0,1 ha/người. Đây là mối lo ngại đối với áp lực lên tài nguyên vườn quốc gia xuất phát từ đời sống dân vùng đệm rất thấp, thường xuyên thiếu đói 2 - 5 tháng, dân số tăng nhanh, tỷ lệ mù chữ cao. Vì thể việc nghiên cứu hiện trang dân cư vùng đệm là vấn đề cần thiết cho công tác bảo vệ các khu bảo tồn. 3. Đời sống của cộng đồng dân vùng đệm còn quá khó khăn nghèo, đói. Do đó áp lực về khai thác tài nguyên ở vườn quốc gia ngày càng lớn. Đó là phát rừng làm nương rãy, khai thác gỗ, củi, săn bắt động vật, thu hái lâm sản ngoài gỗ, hoạt động du lịch dịch vụ một cách bất hợp pháp. Vì thế nghiên cứu mối quan hệ giữa dân cư vùng đệm và vườn quốc gia để từ đó đưa ra kiến nghị về chính sách dân sinh, kinh tế với vùng đệm là rất cần thiết. 4. Những vấn đề cấp bách hiện này đối với vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể là cần được ưu tiên giải quyết an toán lương thực, phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Chế độ hộ quản ở cộng đồng thôn bản, xây dựng quy chế vùng đệm đặc biệt ở các xã phía Bắc, Nam và Tây vườn quốc gia. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMt12.doc
Tài liệu liên quan