Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự dụng vốn ở công ty may Hưng Thịnh –Hà Tây

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự dụng vốn ở công ty may Hưng Thịnh –Hà Tây: Lời Mở Đầu Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ,các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định tuỳ thuộc vào qui mô, lĩnh vực mà doanh nghịêp đó hoạt động. Lượng vốn này bao gồm vốn cố định,vốn lưu động và các nguồn vốn chuyên dụng khác. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải huy động và sử đúng sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc chính và chấp hành pháp luật. Từ khi nền kinh tế hàng hoá còn chưa phát huy hết chức năng của nó, sản suất kinh doanh còn manh mún thì vốn đã nắm giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ngày nay khi nền kinh tế hàng hoá đã thực sự hoàn tiện thì vai trò của vốn . Vẫn không có sự thay đổi nó cùng với yếu tố con người và khoa học công nghệ góp phần vào sự hình thành tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp nhưng điều mà các nhà quản lý và lãnh đạo thực sự quan tâm đó là vốn được đưa vào sự dụng như thế nào, có hiệu quả hay kh...

doc71 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự dụng vốn ở công ty may Hưng Thịnh –Hà Tây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ,các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định tuỳ thuộc vào qui mô, lĩnh vực mà doanh nghịêp đó hoạt động. Lượng vốn này bao gồm vốn cố định,vốn lưu động và các nguồn vốn chuyên dụng khác. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải huy động và sử đúng sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc chính và chấp hành pháp luật. Từ khi nền kinh tế hàng hoá còn chưa phát huy hết chức năng của nó, sản suất kinh doanh còn manh mún thì vốn đã nắm giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ngày nay khi nền kinh tế hàng hoá đã thực sự hoàn tiện thì vai trò của vốn . Vẫn không có sự thay đổi nó cùng với yếu tố con người và khoa học công nghệ góp phần vào sự hình thành tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp nhưng điều mà các nhà quản lý và lãnh đạo thực sự quan tâm đó là vốn được đưa vào sự dụng như thế nào, có hiệu quả hay không? Ngày nay trong nền kinh tế thị trường kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Để đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản suất kinh doanh trong đó quản lý vốn là một bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất phát từ nhận thức thực của bản thân về tầm quan trong của việc sự dụng vốn và những kiến thức đã được học tại trường cùng với sự hướng dẫn của cô Hồ Bích Vân và sự giúp đỡ của cán bộ phòng kế toán thống kê “Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh- Hà Tây” em chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự dụng vốn ở công ty may Hưng Thịnh –Hà Tây” nhưng do kiến thức còn hạn chế và do phạm vi đề tài em chỉ xin đề cập đến những giải pháp trong việc sử dụng vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. Cuối cùng em xin cảm ơn cô Hồ Bích Vân và cán bộ phòng kế toán thống kê công ty may Thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịng-Hà Tây đã hướng dẫn tận tình để em hoàn thành đề tài này. Bố cục của bài viết ngoài phần mở đầu và kết luận ra, nội dung bài viết gồm 3 chương. Chương 1 : Tổng quan về vốn trong các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Dệt may nói riêng. Chương 2: đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty may xuất nhập khẩu hưng thịnh. Chương 3: một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiểu quả sử dụng vốn của công ty May thêu xuất nhập khẩu hưng thịnh. Chương I Tổng quan về vốn trong các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. I. Các khái niệm cơ bản : 1. Khái niệm về vốn: Vốn hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, vốn bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích luỹ của mỗi cá nhân, một doanh nghiệp, một Quốc gia. Trong đó vốn tiền tệ có vị trí rất quan trọng, là điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của các quá trình sản xuất kinh doanh. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá do vậy phạm trù vốn được biểu hiện bằng giá trị vốn, được phản ánh bằng động tiền. Nó đại diện cho một lượng giá trị nhất định của tài sản. Vốn được biểu hiện dưới hai hình thái giá trị và hình thái hiện thật. Tuy nhiên, nó luôn tồn tại ở những hình thái vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau nay sẽ quyết định đặc điểm chu chuyển vốn. Mà đặc điểm chu chuyển vốn lại là căn cứ khoa học để xác định phương thức quản lý vốn. Vốn luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy mà vốn luôn vận động từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật chất, từ đó cho thấy chỉ những tài sản được đưa vào kinh doanh, thương xuyên vận động trong quá trình sản xuất kinh doanh mới được gọi là vốn. Vốn là một lượng hàng hoá đặc biệt, được trao đổi trên thị trường tài chính, khi doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh hoặc do đặc điểm chu chuyển vốn của doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần có thêm vốn thì doanh nghiệp phải huy động vốn trên thị trường tài chính bằng cách mua quyền sử dụng, quyền định đoạt trong một thời kỳ nhất định. Người bán quyền sử dụng, quyền định đoạt vốn thu được một khoản tiền gọi là lợi tức. Hiện nay ở nước ta thị trường tài chính đang phát triển và hoàn thiện dần biểu hiện bằng việc hình thành thị trường chứng khoán. điều đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đa dạng hoá các kênh huy động vốn thay vì chỉ có thể huy động vốn từ các ngân hàng trong và ngoài nước, nhà nước… như trước đây. 2. Phân loại vốn. Vốn có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau 2.1 Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn được chia thành. - Vốn sản xuất. Vốn sản xuất là giá trị toàn bộ tư liệu sản xuất được doạnh nghiệp sử dụng hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch. Vốn sản xuất được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình của doanh nghiệp. Nếu là doanh nghiệp nhà nườc thì đại bộ phận vốn sản xuất được nhà nước cấp. Còn các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty liên doanh…vốn sản xuất được hình thành từ nhiều nguồn góp lại. Xét theo hình thái vật chất, vốn sản xuất gồm hai yếu tố cơ bản là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh trong bất kỳ đơn vị kinh tế nào. Hai yếu tố cơ bản này giữ một vị trí rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất kỳ đơn vị kinh tế nào. - Vốn đầu tư : Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình. Đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lần đầu tiên được thành lập vốn đầu tư được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị…để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân trong kỳ sản xuất kinh doanh lần đầu tiên Đồi với các cơ sở sản xuất kinh doanh đang hoạt động, vốn đầu tư dùng để mua sắm thêm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng ,và tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm tài sản cố định mới đã bị hư hỏng, hao mòn hữu hình và vô hình. Quá trình sử dụng vốn đầu tư xét về mặt bản chất, chính là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Như vậy quá trình sử dụng vốn đầu tư là nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực mới lớn hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt đời sống. 2.2 Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu chuyển giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành : - Vốn cố định : Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, là khoản tiền ứng ra hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp. Vốn cố định là một khoản đầu tư mua sắm tài sản cố định vì vậy quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định song đặc điểm vận động của tài sản cố định lại quyết định đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. -Vốn lưu động của doanh nghiệp. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài sức lao động và tư liệu lao động thì doanh nghiệp phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động biểu hiện dưới hình thái hiện vật gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động là tài sản bằng tiền mặt hoặc có thể chuyển đổi thành tiền trong một chu kỳ kinh doanh hay một chu kỳ hoạch toán của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế được tiền tệ hoá đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một số tiền để đầu tư mua sắm các tài sản lưu động, nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên hay nói một cách khác vốn lưu động là giá trị của tài sản lưu động. Nó bao gồm khoản phải thu, tiền mặt, dự trữ của doanh nghiệp.... 2.3 Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp : Vốn của doanh nghiệp được chia làm hai loại - Vốn chủ sở hữu : Là số tiền vốn của chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số này không phải là khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành khác nhau. Thông thường vốn chủ sở hưu bao gồm.: +Vốn góp: Vốn góp là số vốn của các bên tham gia thành lập liên doanh tiến hành đóng góp và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ xung tăng thêm hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh +Lãi chưa phân phối: Lãi là phần chênh lệch giữa một bên là toàn bộ doanh thu của các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và các khoản thu nhập bất thường với một bên là chi phí kinh doanh, chi phí từ hoạt động tài chính và các khoản chi bất thường. Số lãi này khi chưa phân phối cho các lĩnh vực được sử dụng trong quá trình kinh doanh sẽ được coi như vốn chủ sở hữu. - Vốn vay: Là số tiền mà doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị tổ chức, cá nhân. Do đó doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả. Phần vốn này doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định như thời hạn sử dụng, lãi xuất… nhưng không thuộc quyền sở hữu. Vốn vay có thể huy động từ hai nguồn chính: vay từ các tổ chức tài chính như ngân hàng, một phần vay dưới dạng tài trợ phát triển và phát hành trái phiếu và cổ phiếu doanh nghiệp. 2.4 Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể phân chia nguồn vốn kinh của doanh thành hai loại. - Nguồn vốn thường xuyên: Bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn đây là nguồn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn(dưới một năm)mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất ngắn hạn, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn nay bao gồm cac khoản vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng. 2.5. Căn cứ vào phạm vi huy động, có thể chia làm hai loại : - Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp : Là nguồn vốn có thể huy động từ bên trong doanh nghiệp, bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán- thanh lý tài sản cố định . - Nguồn vốn từ bên ngoài doanh nghiệp : Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm vay vốn ngân hàng, và các tổ chức kinh tế khác, phát hành cổ phiếu, trái phiếu,nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho việc xem xét huy động nguồn vốn của các doanh nghiệp đang hoạt động. 3. Vai trò của vốn trong ngành dệt may xuất khẩu ở việt nam : Ngành dệt may nước ta là ngành có truyền thống lâu đời, là ngành gắn bó với đời sống nhân dân từ thành thị đến nông thôn, cung cấp hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho nên kinh tế quốc dân đồng thời còn là ngành xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số kim ngạch xuất khẩu cụ thể năm 1998, ngành dệt may việt nam xuất khẩu đạt kim ngạch 1320USD, đứng thứ hai trong mười mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn. Với giá trị xuất khẩu khoảng415USD (chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu 1387 triệu USD của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) Ngành dệt may không chỉ có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng dệt may trong nước và tham gia xuất khẩu mà nó còn có vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết việc làm, mang lại thu nhập cho người lao động, góp phần tạo sự ổn định, về mặt kinh tế, chính trị và xã hội là một vần đề mà không phải ngành nào cũng làm được. Trong số 38 triệu người ở độ tuổi lao động, chúng ta còn hàng chục triệu người thiêú việc làm và hàng trục triệu người chưa có việc làm, trong khi đó ngành dệt may còn nhiêu công đoạn sản xuất mang tính chất thủ công phải sử dụng nhiều lao động do đó tạo điều kiện cho việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta. Mặt khác nước ta so với nước khác giá sinh hoạt thấp hơn do đó giá nhân công rẻ hơn đây cũng là ưu thế của nước ta nói chung và cũng là ưu thế của ngành dệt may nói riêng trong việc giảm giá thành sản phẩm tạo sức cạnh tranh cho hàng hoá ở thị trường trong nước và trên thế giới. Hơn nữa,ngành dệt may nước ta có đội ngũ nhân công lành nghề, có khả năng tiếp thu kỹ thuật nhanh và có thể sản xuất được nhiều sản phẩm chất lượng cao do đó may công nghiệp việt nam đang là một thị trường gia công hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nghành và giải quyết được vấn đề trên thì nghành cần có một lượng vốn đáng kể. Vốn có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển của nghành, con giải quyết được những nhu cầu bức xúc cho việc đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Là một ngành may phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu và nhất là trong điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hiện nay,ngành rất cần vốn để đầu tư đổi mới máy móc và lắp đặt dây truyền công nghệ mới nhất. Nguồn vốn tự có của ngành có hạn vì vậy sự hỗ trợ từ bên ngoài là rất cần thiết. Nhờ các nguồn vốn này mà ngành dệt may của nước ta bắt đầu hoà nhập vào thị trường ngành dệt may thế giới. Nguồn vốn của ngành có thể huy động từ các nguồn sau đây: * Nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp : Đây là nguồn vốn được nhà nước duyệt chỉ cho phát triển kinh tế. Nó là số chênh lệch giữa tổng thu so với tổng chi của ngân sach nhà nước. * Vốn tự bổ xung của ngành : Đây là nguồn vốn rất quan trọng cho phát triển của ngành. Nguồn vốn này được hình thành từ hai nguồn: - Trích khấu hao cơ bản - Phần lợi nhuận còn lại bổ xung vào vốn kinh doanh. Ngoài ra ngành có thể bổ xung vốn hình thành từ chênh lệch giá không phải nộp, vốn vay sau khi đã trả nợ và lãi xuất tiền vay. Việc tăng hay giảm vốn này tuỳ thuộc vào hoạt động kinh doanh và việc phân cấp quản lý của nhà nước đối với mỗi doanh nghiệp. * Nguồn vốn vay ngân hàng , các tổ chức tín dụng : Vốn vay của ngân hàng có thể chia thành hai loại: - Vốn dài hạn và trung hạn: Là các khoản vay mà ngành dệt may sử dụng vào đầu tư dài hạn cho tài sản cố định. Hình thức này có thời hạn sử dụng lâu dài và lãi xuất ưu đãi. - Vốn ngắn hạn : Chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động. Sử dụng vốn này phải chịu sức ép lớn về thời gian và lãi xuất. Vốn vay ngân hàng là một nguồn vốn rất quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng bởi dễ huy động để phục vụ cho nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với các hình thức huy động doanh nghiệp có thể tập trung được một lượng vốn lớn nhanh chóng phục vụ mục tiêu sản xuất kinh doanh . Nếu doanh nghiệp đạt tỷ suất lợi nhuận cao nhờ vốn này thì đây là hình thức tín dụng có lợi nhất so với các hình thức góp vốn khác như cổ phiếu,trái phiếu…. * Nguồn vốn huy động thông qua liên doanh : Công ty liên doanh là hình thức đầu tư trong đó bên nước ngoài và bên Việt Nam cùng góp vốn thành lập một doanh nghiệp theo tỷ lệ đã thoả thuận. * Tiền trả trước của khách hàng. * Vốn trong dân: Nguồn vốn nhàn rỗi của dân được hình thành từ nhiều nguồn: Đó là sự tiết kiệm trong nước của đại bộ phận dân cư, tiền tiết kiệm của những người đi lao động, công tác ở nước ngoài.Thế nhưng do ở nước ta trình độ phát triển kinh tế còn thấp , thu nhập chưa cao nên tiết kiệm từ thu nhập của dân còn rất hạn chế. Hiện nay phần lớn nguồn vốn các doanh nghiệp may xuất khẩu huy động được là nhờ vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng. II. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn : 1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định : Việc phân tích tính hình sử dụng tài sản cố định có biện pháp sử dụng triết để và có hiệu quả về số lượng , thời gian và công suất của máy móc thiết bị sản xuất và tài sản cố định khác là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn trong vốn kinh doanh do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định sẽ góp phần quyết định đến nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp từ đó sẽ quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau : * Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ = Số dư bình quân TSCĐ trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt . * Sức sản xuất của TSCĐ Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ = Nguyên giã TSCĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ quản lý và sử dụng TSCĐ. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. * Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định Tổng lợi nhuận trong kỳ = _____________________________ 100% Vốn cố định bình quân trong kỳ Nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận theo số tuyệt đối thì mới chỉ đánh giá đươc hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mà chưa thể đánh giá đúng được chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy ta phải sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận để nói lên chất lượng của hoat. động sản xuất kinh doanh đồng thơì còn để đánh giá và so sánh hiệu quả sử dụng vốn ở trong doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định được sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.nếu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định cao hơn tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất kinh doanh thì chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng vốn này có hiệu quả. Trong quá trình phân tích , đánh giá nhà quản lý phải kết hợp các chỉ tiêu trên , so sánh giữa các thời kỳ , so sánh với các doanh nghiệp có điều kiện tương đương và so sánh với chỉ tiêu trung bình ngành để đánh giá chính xác hiệu quả sử dụng vốn cố định để từ đó kịp thời đưa ra các giải pháp hợp lý . 2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động : Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp . Do đó phân tích , đánh giá ,xem xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phân tích , đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động thường dùng các chỉ tiêu sau: * Sức sản xuất của vốn lưu động Tổng doanh thu thuần = _________________________ Vốn lưu động bình quân * Sức sinh lời của vốn lưu động Lợi nhuận thuần = ___________________________ Vốn lưu động bình quân Hai chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản lượng , doanh thu thuần , hay lợi nhuận thuần (lợi nhuận sau thuế ). Khi phân tích nhà quản lý có thể so sánh giữa các năm , giữa thực tế đạt đươc với số kế hoạch. Nêú sức sản xuất và sức sinh lời của vốn lưu động tăng lên chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng lên và ngược lại nếu sức sản xuất và sức sinh lời của vốn lưu động giảm đi thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm đi . * Số vòng quay của vốn lưu động: Tổng số doanh thu thuần = ______________________ Vốn lưu động bình quân Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động thường xuyên tăng lên hoặc giảm xuống xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất do đó đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp giải quyết nhu cầu về vốn lưu động. Chỉ tiêu số vòng quay của vốn cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ, nếu số vòng tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại. * Thời gian của một vòng luân chuyển Thời gian của kỳ phân tích = _____________________________ Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ Chỉ tiêu nay thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng ngắn thì tốc độ luân chuyển vốn càng nhanh tức là vốn lưu động được sử dụng triệt để hơn. * Hệ số đảm nhiệm lưu động vốn lưu động bình quân = ______________________ tổng số doanh thu thuần Khi phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngoài những chỉ tiêu trên người ta con tính đến hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Thông qua chỉ tiêu này ta biết được để có một đồng luân chuyển cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Trong khi tính hệ số đảm bảo nhiệm vốn lưu động thì doanh thu thuần và tổng số doanh thu thuần được xác định như sau. Tổng doanh thu thuần = tổng doanh thu bán hàng trong kỳ-(tổng thuế phải nộp + chiết khấu+giảm giá hàng bán+doanh thu hàng bán bị trả lại)-Vốn lưu động bình quân năm = Tổng vốn lưu động bình quân 3 quý 4 3. Hệ thống chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu : a. Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán : Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu sau * Khả năng thanh toán hiện hành Tổng số tài sản lưu động = ________________________ Số nợ ngắn hạn * Khả năng thanh toán nhanh tiền +chứng khoán gắn hạn +khoản phải thu = Tổng nợ ngắn hạn Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ . * Hệ số thanh toán tức thời Vốn bằng tiền = _____________ Nợ đến hạn Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ đã đến hạn phải thanh toán của doanh nghiệp. Nợ đến hạn bao gồm các khoản nợ gắn hạn và các khoản nợ dài hạn đã đến hạn phải thanh toán b. Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn : Chỉ tiêu nay dùng để đo lường phần góp vốn của các chủ sở hữu doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu để thể hiện mức độ tin cậy vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu như sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi do trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng các huy động vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn số tiền lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ tăng lên đáng kể. Bao gồm các chỉ tiêu sau: * Chỉ số mắc nợ chung tổng nợ = tổng tài sản * Khả năng thanh toán lãi vay = lợi nhuận trước thuế + lãi vay Lãi vay Chỉ tiêu này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động : Các chỉ tiêu hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhà phân tích, quản lý không chỉ đo lường hiệu quả sử dụng tổng nguồn vốn mà còn chủ động tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau. * Vòng quay tiền = Doanh thu tiêu thụ Tiền mặt và chứng khoán dễ chuyển nhượng Tỷ lệ này cho biết số vòng quay của tiền trong năm * Vòng quay dự trữ = Doanh thu tiêu thụ Gía trị hàng tồn kho * Kỳ thu tiền bảo quản Các khoản phải thu = x 360 Doanh thu tiêu thụ Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân. Để thấy được khả năng hoạt động của từng loại tài sản trong phân tích người ta đề cập đến hiệu suất sử dụng tài sản. * Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu tiêu thụ Tổng tài sản d. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi : Nhóm chỉ tiêu này không phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp như các nhóm tỷ lệ trên mà nó phán ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn có của doanh nghiệp. * Chỉ số doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. = Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi tiêu thụ Chỉ số này phản ánh số lợi nhuận sau thuế cho một đồng doanh thu * Doanh lợi vốn tự có = lợi nhuận sau thuế Vốn tự có Chỉ số này được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn tự có. * Doanh lợi vốn = Lợi nhuận trước thuế + lãi hoặc lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một số đồng vốn đầu tư, chỉ tiêu này còn gọi là chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn. Trong khi phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn áp dụng tổng hợp hệ thống chỉ tiêu trên cho phép chúng ta có được một cái nhìn đầy đủ và đúng đắn về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp từ đó để tìm ra các giải pháp hữu hiệu 4. Sự cần thiết phải sử dụng hệ thống chỉ tiêu nêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp. Việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu nêu trên cho phép doanh nghiệp nhìn thấy được thực lực hoạt động cuả mình, thấy được vốn của doanh nghiệp mình có được, sử dụng có hiệu quả hay không, có hợp lý hay không và đúng mục đích không đồng thời cũng thấy được là doanh nghiệp hoạt động đang trên đà phát triển hay đi xuống và nguyên nhân đó là do đâu để từ đó có cơ sở để đánh giá, xem xét và vạch ra yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn có của doanh nghiệp .từ đó có biện pháp phát huy những mặt tích cực và có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những mặt hạn chế. 5. Đánh giá chung về ngành dệt may xuất khẩu. Thế mạnh và khả năng khai thác nội lực của nước ta hiện nay chính là nguồn nhân lực trong tổng số 38 triệu người trong độ tuổi lao động chúng ta còn hàng chục triệu người thiếu việc làm và hàng triệu người chưa có việc làm. Trong đó ngành dệt - may (nhất là may) còn nhiều công đoạn sản xuất mang tích thủ công nếu có khả năng giải quyết nhiều lao động mà suất đầu tư cho một chỗ làm việc lại rất thấp (khoảng 8 đến 10 triệu đồng). Ngành dệt - may Việt Nam đang đón nhận sự chuyển dịch từ các nước đang phát triển với đội ngũ lao động khéo tay và có kỷ luật, nếu chúng ta có cơ chế, chính sách tốt sẽ khai thác nhanh và có hiệu quả những ưu thế đó. Rút ra kinh nghiệm từ bài học đi lên công nghiệp hoá giai đoạn đầu ở các nước NIC (Nam Triều tiên, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo) và các nước Đông nam á (Thái Lan, Indonêxia,Malayxia, Philipins...) cũng bắt đầu từ ngành công nghiệp dệt may. Hiện nay có nước có trên nửa triệu người lao động làm việc trong ngành công nghiệp dệt may và khoảng nửa triệu người làm dệt may gia đình, thủ công. Ngành dệt may còn có nghĩa vụ quan trọng đảm bảo đầy đủ nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong nước “ Sau ăn mặc” Đồng thời còn có khả năng vươn lên trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực năm 1996 xuất được 1,1 tỷ USD. Tuy vậy, ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều thiết bị cũ, lạc hậu, sản lượng vải cho xuất khẩu chưa cao, uy tín nhãn hiệu hàng hoá thấp, phụ liệu thiếu và chưa đồng bộ, mẫu mã thời trang chỉ mới bắt đầu được quan tâm. Phần lớn sản phẩm xuất khẩu vẫn chiếm tỷ lệ gia công là chính. Do vậy đòi hỏi toàn ngành phải nỗ lực hơn để thực hiện nhiệm vụ hướng ra xuất khẩu và khai thác triệt để tiềm năng “nội lực” về lao động. Trong hai năm 1997,1998 tổng công ty dệt may và các đơn vị thành viên đã chuyển dịch sản xuất từ 2 ca, 3 ca sang 1 ca/ngày, tiếp tục mở rộng quy mô chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là việc chuyển dịch cơ cấu, đư0a các nhà máy về thị trấn ở các địa phương để vừa tận dụng nhà xưởng, vừa thu hút lao động nông nhàn, vừa công nghiệp hoá nông thôn. Hai năm qua tổng công ty và các đơn vị thành viên đã liên kết, liên doanh với các ngành, các địa phương mở mang được 45 xí nghiệp, giải quyết được gần 2 vạn lao động. Thuộc 18 tỉnh thành trong cả nước, nếu tính toàn ngành thì mỗi năm có thêm hàng trăm nhà máy mới ra đời, thu hút thêm 3 đến 4 vạn lao động, góp phần tăng kim ngạch bình quân khoảng 35% năm. Mục tiêu đặt ra của ngành là tiếp tục mở rộng thị trường, nhất là thị trường mới (Mỹ). Thị trường truyền thống (Đông Âu, Liên Xô), thị trường Phi quata. Đẩy mạnh và tăng cường hình thức mua đứt bán đoạn (FOB) giảm dần tỷ lệ gia công, coi trọng thị trường nội địa, hình thức siêu thị, cửa hàng, đại lý phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa. Đẩy mạnh đầu tư nâng cấp chất lượng vải, đồng bộ phụ liệu, đầu tư những sản phẩm mới, sản phẩm quốc gia, huy động mọi nguồn lực phục vụ các chương trình đầu tư kể cả tạo mode và uy tín nhãn hiệu hàng hoá, bản quyền. Đầu tư chiều sâu, đầu tư mới, đầu tư mở rộng, tiếp tục phát huy việc đầu tư liên doanh, liên kết kể cả trong và ngoài nước để tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý. Để làm tròn nhiệm vụ đặt ra ngành cần có chính sách đầu tư phát triển, giải quyết về vốn, tài chính, thuế, đào tạo nguồn nhân lực tạo cho ngành thu hút thêm nhiều lao động hơn nữa để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Một thời gian dài việc xuất khẩu hàng dệt may dựa vào nghị định thư hàng năm hoạt động tiếp thị thời kỳ này vẫn còn yếu kém nhất là khi tiếp cận với thị trường các nước có nền kinh tế phát triển, nhưng khách hàng yêu cầu cao, khó tính lại chưa quen thuộc với thị trường Việt Nam. Hạn ngạch EU giành cho Việt Nam đã hạn chế những số lượng ký hợp đồng trực tiếp với EU còn ít, phần lớn dựa vào nước thứ ba như Nam Triều Tiên, Hồng Kông, Đài Loan..) gia công cho họ dựa vào thị trường EU. Từ khi nhà nước ta có chủ trương thực hiện chính sách đổi mới đưa quyền chủ động sản xuất kinh doanh về cơ sở, các doanh nghiệp trở nên năng động và sản xuất kinh doanh có hiệu quả, song bên cạnh những kết quả tốt đẹp đã đạt được cũng bộc lộ nhiều những sai sót như sự thiếu quản lý chặt chẽ về tài chính, chưa có một thị trường tài chính hoàn thiện đã khiến cho việc huy động vốn hết sức khó khăn đây là một hạn chế. Đây là yếu tố mà tự doanh nghiệp không có khả năng khắc phục và gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiêiụ qủa quản lý, sử dụng vốn của doanh nghiệp hơn nữa trong ngành dệt may của ta, các cơ sở còn thiếu sự phối hợp giúp đỡ nhau nhất làgiá cả gia công với nước ngoài, cạnh tranh không có tổ chức dẫn tới thiệt thòi chung cho ngành, chất lượng sản phẩm không được quản lý chặt chẽ, hiện tượng làm xấu của một số cơ sở đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín hàng dệt may Việt Nam. Đầu tư thiếu sự định hướng, tập trung vào một số mặt hàng nêu hầu như chưa tạo được hệ thống các mặt hàng chủ lực. Tất nhiên, để hiểu sâu hơn về tình hình hoạt động và sử dụng vốn của ngành may, các phần dưới đây sẽ phân tích kỹ về tình hình sử dụng vốn ở xí nghiệp may thuê xuất nhập khẩu Hưng Thịnh nhằm đưa ra những giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp may như góp phần tạo ra một diện mạo mới cho ngành dệt may trong tổ chức công nghiệp nhẹ và có thể hội nhập quốc tế và khu vực. Chương II Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây. I. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây : Công ty may thêu Xuất nhập khẩu Hưng Thịnh Hà Tây được thành lập ngày 30/05/1989 theo Quyết định số 183/QĐ - UB và sau đó công ty được thành lập lại theo quyết định số 203/QĐ - UB ngày 24/04/1993 của UBND tỉnh Hà Tây, Công ty trực thuộc ban tài chính - quận chi thành uỷ Hà Tây, là đơn vị trực tiếp làm kinh tế xây dựng ngân sách của Đảng. Ra đời từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp ngành dệt may Việt Nam cho đến giai đoạn trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chủ yếu là sản xuất theo kế hoạch nhà nước và nằm trong chương trình hiệp định 19/5 giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên Xô cũ. Hàng hoá sản xuất ra chủ yếu xuất sang Liên Xô theo kế hoạch phân bổ của nhà nước. Đến năm 1990 khi Liên Xô tan rã hiệp định 19/5 bị phá vỡ toàn bộ ngành dệt may lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng không có thị trường tiêu thụ, công nghệ máy móc thiết bị lạc hậu và không có kinh nghiệm trong thị trường may mặc thế giới, nhiều doanh nghiệp đã không thể đứng vững được trước sóng gió của cơ chế thị trường. Sau những biến động của các sự kiện chính trị quốc tế năm 1990 công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh mất đi thị trường cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ chủ yếu, sản xuất bị đình đốn, đời sống của cán bộ công nhân viên gặp rất nhiều khó khăn, lúc này công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã có những kết quả ban đầu đánh kích lệ. Với niềm tin mãnh liệt vào đường lối của Đảng vào thành qủa tất yếu của công cuộc đổi mới và sự tự tin vào bàn tay, khối óc của tập thể, công ty đã tháo gỡ dần khó khăn tìm kiếm thị trường mới vào tháng 4/1992 công ty đã chính thức ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng Nam Triều Tiên, tháng 6/1992 chuyến hàng đầu tiên đã được giao đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng đảm bảo, từ đó khách hàng trong và ngoài nước đến quan hệ đặt hàng ngày càng nhiều công ty đã giữ vững được mối quan hệ lâu dài với nhiều khách hàng như: Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Hà Lan. Thành công lớn nhất của công ty là công ty đã ký được hợp đồng gia công dài hạn 5 năm với hãng Hahabacinternation (Nam Triều Tiên) tạo khả năng ổn định sản xuất, giải quyết việc làm với thu nhập ổn định cho công nhân viên của công ty. Bảng số 1: Kết quả sản xuất từ năm 1998 đến năm 2000 Stt Chỉ tiêu ĐVT 1998 1999 2000 1 Tài sản cố định Triệu 6.080,9 9.290,3 9.764,3 2 Nguồn vốn kinh doanh Nt 5.990 8.130,6 8.825,2 3 Doanh thu sản xuất kinh doanh Nt 18.200 25.300 30.000 4 Phân xưởng sản xuất quy ra áo jacket làm chuẩn Cái 292.400 350.900 400.900 5 Lợi nhuận trước thuế 1000 354.000 516.000 857.000 6 Thực hiện nghĩa vụ với nhà nước Nt 360.000 4.500.000 5.300.000 7 Số lượng công nhân viên Người 490 550 640 8 Thu nhập bình quân đầu người đ/người 440.000 460.000 500.000 Mặc dù với số vốn ban đầu khi thành lập rất ít Vốn cố định: 851.500.000đ Vốn lưu động: 163.500.000đ Nhưng qua những năm hoạt động doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, thay thế các thiết bị đã cũ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Toàn bộ nguồn vốn đầu tư doanh nghiệp huy động bằng nguồn vay ngân hàng với thời hạn trả nợ từ 3 đến 5 năm. Năm 1993 Công ty đầu tư một dàn máy thêu tự động TA - SI - MA của Nhật và dây chuyền may dệt kim với tổng số vốn đầu tư của Nhật và dây chuyền may dệt kim với tổng vốn đầu tư là 2,3 tỷ đồng. Chỉ đến năm 1995 công ty hoàn thành kế hoạch trả nợ, nguồn vốn trả nợ chiếm tới 80% là từ khấu hao cơ bản của bản thân tài sản hình thành bằng nguồn vốn vay. Đầu năm 1996 công ty lập luận chứng kinh tế đầu tư mở rộng nhà xưởng mua sắm máy móc thiết bị trị giá 3,8 tỷ đồng, đưa vào khai thác ngay năm1997 và đã trả nợ vay được 1 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 100 lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Qúa trình hình thành và phát triển về mọi mặt của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh như trở thành hình mẫu của sự chuyển hướng kịp thời của doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp dệt may nói riêng nhằm hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nó khẳng định sự tồn tại và phát triển đi lên của một doanh nghiệp bằng cách luôn giữ được khách hàng truyền thống như Hồng Kông, Nhật Bản, Ba Lan và không ngừng mở rộng các khách hàng mới như Malaixia, Plestin. Sản phẩm của công ty có mặt ở nhiều thị trường thế giới như khối ASEAN, Đông Âu, và Nam Phi.... khởi đầu một cơ hội phát triển cho ngành dệt may mặc xuất nhập khẩu của tỉnh Hà Tây nhất là về năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giải quyết được việc làm ổn định cho trên 640 lao động. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay thì trước những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, kỹ mỹ thuật ngày càng cao thì ngoài việc mở rộng mặt bằng sản xuất, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất doanh nghiệp còn phải quan tâm đến vấn đề đổi mới thiết bị và công nghệ tiên tiến, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước. Sớm nhận thức được điều đó, năm 1998 công ty đã lập dự án vay ngân hàng 1400 triệu đồng để đầu tư mua sắm máy giác mẫu và bắt đầu dựa vào thiết kế bằng máy vi tính, chấm dứt việc giác mẫu thủ công sơ đồ và chỉ sau 5 tháng hoạt động công ty đã gặt hái đựơc những thành công. Toàn bộ giác mẫu được chuyển đến phòng kỹ thuật và 8 công nhân giác mẫu đã được bố trí sắp xếp công việc khác. Thay vào đó việc sử dụng CAD/CAM với nhân viên kỹ thuật có trình độ cao đẳng và đại học. Thành công này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công tác chuẩn bị sản xuất của công ty, đồng thời cũng là mốc son đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của ngành dệt may Việt Nam. Vừa qua, do ảnh hưởng của sự khủng hoảng tiền tệ ở các thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm của công ty bị giảm sút, công ty đã mạnh dạn tiếp cận với thị trường ở một số nước phát triển như Pháp, Đức..... và bước đầu đã có những đơn đặt hàng đảm bảo mức sản xuất bình thường, ổn định. 2. Cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty. Cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty có thể được khái quát qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty may thêu Xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. ( Biểu hình sơ đồ 1) Là một doanh nghiệp có quy mô vừa với số lượng công nhân là 600người, việc tổ chức bộ máy quản lý của công ty đòi hỏi phải hợp lý và gọn nhẹ, phân công từng bộ phận có chức năng và nhiệm vụ cụ thể đáp ứng yêu cầu quản lý khoa học và chất lượng cao. Chức năng của giám đốc và các phòng ban ta có thể hiểu như sau: - Ban giám đốc Là người điều hành toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đồng thời là người chịu trách nhiệm cao nhất về tất cả các hoạt động của công ty, đồng thời ban giám đốc cũng phải tham mưu ý kiến các phòng ban. - Phòng hành chính. Là phòng thực hiện chức năng tham mưu giúp giám đốc trong công tác cơ cấu tổ chức bộ máy, công tác nhân sự, quản lý cán bộ và lao động, công tác tiền thưởng, giải quyết chế độ chính sách và quyền lợi đối với người lao động theo quy định của nhà nước và công ty. Phòng hành chính thực hiện mọi vấn đề quản lý hành chính pháp chế công tác quản trị, công tác đời sống. - Phòng kế toán tài vụ. Là phòng chuyên môn nghiệp vụ có chức năng quản lý tài sản, quản lý sản xuất bằng tiền vốn, quản lý công tác thu chi, tổng hợp và hệ thống hoá các số liệu hạch toán. Phòng này tham mưu giúp giám đốc xây dựng phương hướng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch và phương án thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu đề ra. Để làm được điều đó công ty phải thường xuyên nắm vững diễn biến và nhu cầu của thị trường, điều chỉnh kịp thời kế hoạch sản xuất nhằm sản xuất kinh doanh có lãi. - Bộ phận KCS. Là bộ phận thuộc sự chỉ đạo của giám đốc công ty làm chức năng tham mưu về kỹ thuạt sản xuất hàng hoá cùng với phòng kỹ thuật. Nhiệm vụ chính của bộ phận này là tiến hành kiểm tra chất lượng từ khâu nhập nguyên liệu đến khi hoàn thành đóng gói và nhập kho mang đi tiêu thụ. - Các phân xưởng. Là đơn vị trực thuộc, thực hiện chức năng sản xuất theo kế hoạch phục vụ cho sản xuất chính và mục tiêu phát triển của công ty. Vậy với một cơ cấu sản xuất như vậy công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh sẽ có điều kiện để hoạt động một cách có hiệu quả cao nhất. 3. Cơ cấu sản xuất kinh doanh của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh : Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là một doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng may mặc xuất khẩu nên cơ cấu tổ chức sản xuất được hình thành theo nguyên tắc lập ra các phân xưởng. Hiện nay công ty có 3 phân xưởng may và 1 phân xưởng thêu. Phân xưởng thuê chủ yếu sản xuất tự động thêu trên quần áo theo mẫu của đơn đặt hàng phục vụ cho phân xưởng may. Các phân xưởng may chuyên sản xuất các mẫu hàng khác nhau nhưng quy trình công nghệ bố trí tương đối nhau, liên hoàn từ khâu đầu đến khâu cuối. Trước khi đưa vào sản xuất cần thực hiện một số công đoạn mang tính chất bắt buộc, công đoạn này do bộ phận kỹ thuật của công ty tiến hành, đó là bộ phận giác mẫu theo mẫu của khách hàng. Công tác kiểm tra đối chiếu tác nghiệp, kiểm tra chủng loại, màu sắc và chất liệu cả vải và phụ liệu khác kèm theo có phù hợp không. Nếu vướng mắc phải có biện pháp khắc phục kịp thời sau đó mới đưa vào dây chuyền sản xuất. Sau khi sản phẩm hoàn thành nó sẽ chuyển sang công đoạn đóng gói theo các cỡ quy định tất nhiên trong quá trình may, trước khi đưa vào mỗi công đoạn đều được bộ phận KCS kiểm nghiệm và giám sát trong quá trình thực hiện. Để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất công ty đã bố trí bộ máy quản lý sản xuất và quản lý doanh nghiệp một cách đồng bộ tại các phân xưởng sản xuất. Thường thì mỗi phân xưởng có một quản đốc và một nhân viên kinh tế. Trong mỗi phân xưởng được chia làm 5 đến 6 tổ sản xuất. Từ tổ cắt phục vụ cho toàn phân xưởng, còn các tổ khác đều được lập theo một dây chuyền khép kín. ở các tổ có tổ trưởng quản lý trực tiếp từ 33 đến 40 công nhân và một tổ phó chịu trách nhiệm kỹ thuật và thu hàng, kiểm hàng khi sản xuất xong. 4. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và các mặt hàng chủ yếu của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh : Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là một doanh nghiệp nhà nước trực tiếp làm kinh tế xây dựng ngân sách đảng với nhiệm vụ chủ yếu là may thêu hàng may mặc xuất khẩu và phục vụ thị trường trong nước. Các mặt hàng chính của công ty là áo Jacket và dệt kim. Trước đây, việc kinh doanh của công ty rất đơn giản nhà nước cấp vốn hoàn toàn, mặt hàng sản xuất thị trường tiêu thụ đều do nhà nước chỉ định và thị trường tiêu thụ chính là Liên Xô và Đông Âu. Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường dưới sự cạnh tranh của rất nhiều doanh nghiệp may mặc, việc kinh doanh của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh không còn đơn giản nữa, lúc này mọi doanh nghiệp đề phải tự tìm kiếm cho mình nguồn hàng, nguyên liệu và cả khách hàng.... mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng công ty đã có nhiều cố gắng giữ vững lòng tin với khách hàng và công ty đã bước đầu gặt hái được những thành công. Cũng như nhiều đơn vị may khác, việc sản xuất kinh doanh của công ty 100% làm theo đơn đặt hàng trong đó 80% là hàng may gia công, chỉ còn lại khoảng 20% là sản xuất theo mua nguyên liệu bán thành phẩm. Khách hàng đến với công ty phần lớn là khách hàng truyền thống. Thường ký kết các hợp đồng dài hạn. Thế nhưng để quá trình sản xuất được diễn ra liên tục công ty đã ký những hợp đồng ngắn hạn, tăng cường mở rộng thị trường để tìm kiếm những khách hàng mới. Tuy nhiên, hiện nay công ty mới chỉ chú trọng đến thị trường xuất khẩu mà chưa quan tâm tới thị trường trong nước. Hiện nay công ty chủ trương tiếp tục củng cố và giữ vững thị trường xuất khẩu vốn có như Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Hồng Kông, Hà Lan.. mở rộng sang các thị trường như Pháp, Đức.. thường xuyên nâng cao chất lượng hợp tác để có được thị trường lâu dài, ổn định và hiệu quả. Công ty tập trung mạnh mẽ vào đầu tư chiều sâu bằng cách cải tạo, xây dựng nhà xưởng, lắp đặt thiết bị máy móc hiện đại theo dây chuyền công nghệ tiên tiến, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật. Đây là yếu tố quyết định sự phát triển của công t 5. Đặc điểm về lao động. Hiện nay công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh có 640 lao động cả gián tiếp và lao động trực tiếp với mức thu nhập bình quân là 500.000đ/ tháng. Qua bảng số liệu sau đây ta sẽ thấy rõ cơ cấu về cán bộ, lao động của công ty. Bảng số 2: Cơ cấu cán bộ, lao động của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh Chỉ tiêu Số cán bộ lao động Tỷ trọng 1. Lao động gián tiếp 40 6,25 Trong đó - Trình độ đại học 27 4,22 - Trình độ dưới đại học 13 7,03 2. Lao động trực tiếp 600 93.75 - Lao động lành nghề 590 92,19 - Lao động phổ thông 10 1,56 3. Tuổi đời bình quân Với đặc điểm là một công ty may thêu xuất nhập khẩu với 640 lao động, thì đây không phải là một lượng lớn nhưng số lao động này được đào tạo theo những chuyên ngành khác nhau để phục vụ cho công tác quản lý và trực tiếp sản xuất. Phần lớn là cán bộ của công ty được đào tạo theo 3 chuyên ngành chủ yếu là: - Công nhân may - Quản lý kinh tế - Tài chính kế toán Lao động gián tiếp của công ty là 40 người chiếm 6,25% trong tổng lao động là 640 người. Trong đó trình độ đại học chíêm 4,22% như vậy có thể nói rằng trình độ đại học được nâng cao ở số cán bộ quản lý vì với bộ phận quản lý họ cần phải có trình độ cao để luôn nhanh nhạy tiếp thu được những công nghệ mới, tìm kiếm phát triển được thị trường cũng như trình độ tổ chức kinh doanh. Số lao động trực tiếp là 600 người chiếm 93,73% trong tổng số lao động. Trong đó lao động lành nghề chiếm 92,19% , lao động phổ thông chỉ chiếm 1,56% số lao động này đều được đào tạo qua các lớp do doanh nghiệp tổ chức và thi tuyển và tuỳ theo trình độ của mỗi người mà công ty có thể xắp xếp công việc sao cho hợp lý. Số cán bộ đại học chiếm 4,22% là 27 người hầu hết cán bộ này đều được tốt nghiệp ở các trường đại học trong và ngoài nước, họ có đầy đủ kiến thức quản lý tiên tiến phục vụ cho trước mắt và lâu dài. Số cán bộ dưới đại học chiếm 2,03% tương ứng là 13 người và số này đều là công nhân được đào tạo ngay tại các trường về công nghệ may. Số lượng công nhân làm trực tiếp của cônog ty phần lớn tuổi đời còn rất trẻ nhưng họ cũng đã có một trình độ tương đối cao. Trong thời gian vừa qua công ty đã xây dựng dự án mở rộng quy mộ sản xuất, tuyển thêm công nhân có tay nghề cao đồng thời tạo điều kiện cho những cán bộ có trình độ dưới đại học nâng cao năng lực quản lý, đủ khả năng tiếp thu công nghệ tiên tiến và hiểu sâu về thời trang. Mặt khác công ty cùng chăm lo bồi dưỡng, bổ xung cán bộ giảng dạy có trình độ cao gắn liền với đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật máy móc nhằm đưa công ty ngày càng phát triển, thu hút được khách hàng trên thị trường quốc tế. II. Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của Công ty May thêu xuất nhập khẩu Hưng Thinh. Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là một doanh nghiệp Nhà nước. Để đứng vững trong cơ chế thị trường, nó phải chủ động trong mọi công tác tổ chức quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty như một doanh nghiệp tư nhân thực thụ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong công tác quản lý sử dụng vốn, nó chịu tác động của nhiều yếu tố mang tính khách quan, có yếu tố ảnh hưởng tích cực, có yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó chúng ta phải nhận biết chúng để phát huy nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, điều chỉnh nhân tố chủ quan theo hướng thích nghi với các yếu tố khách quan, nhằm tạo ra những hiệu ứng tốt trong quá trình sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty nói riêng. Sau đây là một số nhân tố . 1. Nhân tố về cạnh tranh Cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại, phát triển và thích ứng với thị trường thì Công ty luôn phải giải quyết các vấn đề cơ bản như: sản xuất mặt hàng may mặc nào? Đối tượng sử dụng là ai? Số lượng và chất lượng như thế nào? Nguồn cung cấp ở đâu? Với mục tiêu là đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về hàng may mặc không những ở thị trường trong nước và nước ngoài. Cy may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh đã cố gắngđầu tư đổi mới trang thiết bị máy móc, tìm kiếm và nắm bắt kịp thời những mẫu mã mới, thị hiếu của người tiêu dùng, cố gắng hạ thấp giá thành gia công sản phẩm và đảm bảo nguồn hàng luôn ổn định, ít biến động. Do sự nỗ lực, cố gắng của Công ty mà doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của Công ty năm sau luôn cao hơn nắm trước. Tuy nhiên với nhu cầu làm đẹp ngày càng cao thì nhu cầu về hàng may mặc ngày càng lớn nhưng trong những năm qua mức tăng của lợi nhuận, doanh thu tiêu thụ của Công ty chưa tương xứng với mức độ tăng của nhu cầu về hàng may mặc trên thị trường. Nguyên nhân chủ yếu đó là do hiện nay Công ty đang có rất nhiều đối thủ cạnh tranh quyết liệt trên cùng một địa bàn hoạt động. Chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay có tới 4 Công ty may may lớn nhỏ, trong đó có một Công ty liên doanh. Chính sự tồn tại của các doanh nghiệp cạnh tranh này đã gây trở ngại lớn cho Công ty trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ và tìm kiếm nguồn hàng. Mặt khác những Công ty khác đã sẵn sàng ký những đơn đặt hàng với giá rất thấp để mong muốn mở rộng thị trường hoặc nhằm giải quyết công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của họ. Chính vì vậy làm bên đối tác nước ngoài luôn tìm cách dìm giá mua khiến cho lợi nhuận của Công ty không cao, đồng thời Công ty vẫn chưa tạo được cho mình nhiều khác hàng truyền thống thường xuyên và việc xâm nhập vào các thị trường mới vẫn còn nhiều khó khăn. 2. Cơ chế chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước : Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh cũng có những thay đổi căn bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp Công ty tiến hành sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh. Còn trong cơ chế thị trường, Công ty phát huy tính chủ động sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, từ khâu huy động vốn, tìm kiếm nguồn hàng cho đến khâu tiêu thụ, về công tác huy động vốn ngoài phần vốn do Nhà nước cấp, Công ty được phép chủ động huy động từ các nguồn vốn khác cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn tự huy động của Công ty chủ yếu là vay ngắn hạn và dài hạn ngân hàng, Công ty phải tự tìm kiếm lấy thị trường và tổ chức tiêu thụ. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng đến Công ty còn được thể hiện qua việc thực hiện nghĩa vụ của Công ty đối với Nhà nước như quy định về doanh thu thuế xuất - nhập khẩu, thuế VAT ngoài ra về khoản thu sử dụng vốn ngân sách, theo nghị định 22/HĐBT ngà nghị định 39/CP của Chính phủ. Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác hàng tháng phải nộp khoản thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để đảm bảo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế, hiện nay về khoản thu này đang tiếp tục tranh cãi vì nếu sắp tới đây, Nhà nước thống nhất bỏ khoản thu này thì Công ty sẽ có thêm cơ hội để thực hiện tái đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh. Nói chung hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty luôn phải chịu sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, chính sách mở cửa của Nhà nước mà ngành dệt may nói chung và Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh nói riêng đã có rất nhiều thuận lợi đẻ mở rộng thị trường tiêu thụ, tiếp cận với các máy móc thiết bị hiện đại, học hỏi kinh nghiệm với các bạn hàng nước ngoài. Đây là những được hết sức thuận lợi mà Công ty phải tận dụng. Trong những năm vừa qua Nhà nước đã có nhiều chính sách và chủ trương đúng đắn, kịp thời đối với ngành dệt may. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn của Công ty. 2.1. Khắc phục lạm phát và chỉnh đốn ổn định vĩ mô Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là ngành sản xuất kinh doanh với những máy móc thiết bị chủ yếu phải nhập từ nước ngoài và sản phẩm chủ yếu gia công cho các bạn hàng nước ngoài. nếu như sảy ra lạm phát tức là đồng tiền bị mất giá hay nói một cách khác giá của hàng hoá dịch vụ tăng đáng kể điều đó sẽ làm cho việc nhập máy móc hay ký kết các đơn đặt hàng là hết sức khó khăn từ đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. 2.2. Chính sách thu hút vốn đầu tư. Muốn hoạt động kinh doanh của Công ty thuận lợi và đạt được kết quả cao thì trước hết phải đảm bảo nhu cầu về vốn. Để xác định được chính xác nhu cầu về vốn đầu tư thì phải xuất phát từ nhu cầu thị trường và thông qua việc tìm hiểu về nhu cầu thị trường Công ty sẽ đi đến quyết định về phương án sản xuất và số lượng sản phẩm sẽ sản xuất ra. Tất nhiên, chất lượng mẫu mã sẽ do bên đặt hàng quyết định.Còn lượng vốn kinh doanh là bao nhiêu để có thể đáp ứng yêu cầu sản xuất là do phía Công ty định liệu, thường thì trước khi sản xuất một lô hàng nào đó Công ty phải đầu tư máy móc thiết bị mới để sản xuất. trước khi ký hợp đồng Công ty cần phải có một dự toán hoàn chỉnh. Công ty phải có chính sách huy động vốn để chủ động bổ sung cho vốn cố định của mình. Do đó mà nếu chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước mà thông thoáng sẽ tạo được thuận lợi cho Công ty huy động vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua hình thức liên doanh liên kết nhằm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và tạo thêm vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Hiện tại Công ty chỉ giám huy động vốn vay dưới 50% phần còn lại là sử dụng vốn ngân sách. trong thời gian tới nếu Công ty không mạnh dạn vay thêm vốn để có thể mở rộng quy mô sản xuất thì chắc chắn rằng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty sẽ khó có thể đạt được kết quả cao và sản phẩm của Công ty cũng khó có khả năng cạnh tranh được với sản phẩm của doanh nghiệp khác. 2.3. Chính sách đào tạo chuyên môn của Công ty Chuyển đổi sang cơ chế thị trường, một trong những vấn đề đáng quan tâm là trình độ quản lý của cán bộ và trình độ chuyên môn của công nhân sản xuất - Một bộ máy tổ chức tốt và trình độ quản lý cao sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của Công ty đạt kết quả cao và ngược lại. Chuyển sang cơ chế mới, chỉ một số ít cán bộ công nhân viên của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh thích ứng được với cơ chế thị trường. Số còn lại vẫn còn nhiều người mang nặng tác phong lao động của người quan liêu bao cấp. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động của Công ty. Mặc dù đã nhận thức được vấn đề trên nhưng do được khó khăn về kinh tế cũng như công tác tổ chức, việc đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật, quản lý về chuyên môn cho cán bộ công nhân viên của Công ty hiện tại còn chưa được thực hiện. Theo kế hoạch những năm tới Công ty sẽ cố gắng tạo điều kiện cho anh chị em đi học đại học tại chức về các lĩnh vực có liên quan đến trình độ kinh doanh mà Công ty đang cần. mặt khác Công ty sẽ thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo để nâng cao tay nghề cho công nhân. Hiện nay Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh chưa có được đội ngũ làm marketing nhanh nhạy, sáng tạo, năng động và giỏi ngoại ngữ. Đó là yêu cầu quan trọng, bức thiết của chính sách đào tạo cán bộ của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh trong giai đoạn tới. Tóm lại: Trong quá trình phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh-Hà Tây thấy có rất nhiều mặt đạt được và có những hạn chế. Để đáp ứng nhu cầu về các mặt hàng may mặc và có thể cạnh tranh được trên thị trường thì đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp tốt cho trước mắt và cũng như cho lâu dài nhằm khắc phục những tồn tại và phát huy thế mạnh của mình nhằm ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn cũng như hiệu qủa kinh doanh của Công ty III. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu. Trước đây công ty hoạt động chủ yếu dựa trên vốn nhà nước cấp, mọi đơn đặt hàng, nơi tiêu thụ đều do nhà nước chỉ định về số lượng, giá cả. Do công ty không phát huy được vai trò chủ động của mình mà phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước. Hơn nữa trong thời kỳ đó thường xảy ra hiện tượng báo cáo có lãi để lấy thành tích được biểu dương nên công tác hạch toán kinh doanh của công ty luôn luôn thiếu chính xác, luôn trong tình trạng lãi giả, lỗ thật. Sau năm 1991 khi Liên Xô tan rã, hiệp định 19/5 bị phá vỡ, ngành dệt may nói chung và công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây nói riêng đã phải chủ động hoàn toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên một phần vốn mà nhà nước giao cho, chủ động trong hạch toán kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. Sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước. Trong cơ chế thị trường công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh gặp không ít những khó khăn, phải cố gắng từng bước khắc phục những khó khăn đó đề tồn tại và phát triển. Một trong những vấn đề khó khăn của công ty đó là vấn đề vốn. Vốn luôn là bài toán hóc búa không chỉ đối với mọi ngành kinh doanh mà đối với công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh cũng vậy, để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên công ty đã áp dụng phương pháp hạch toán theo cơ chế mới và sử dụng vốn có hiệu quả cao hơn. 1. Thực trạng về cơ cấu vốn và qúa trình huy động vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. 1.1. Cơ cấu vốn của công ty. Để xem xét, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty trong những năm gần đây ta không thể không quan tâm đến cơ cấu vốn (tỷ trong từng bộ phận) và những tác động vai trò kinh tế của chúng để từ đó có cái nhìn tổng quát về tình hình quản lý, sử dụng vốn của công ty để có phương pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệuquả sử dụng vốn ở công ty hiện nay. Vốn kinh doanh của công ty được chia thành vốn cố định (TSCĐ) và vốn lưu động (TSLĐ) được thể hiện qua bảng 2 dưới đây. Bảng 2. cơ cấu vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh Đơn vị tính: 1000đ Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % - Tổng vốn KD 6.553.706 100 9.247.622 100 10.736.870 100 - Tổng TSCĐ (thuần) 4.209.236 64 5.662.031 61 7.209.811 67 - Tổng TSLĐ 2.344.470 36 3.583.591 39 3.527.039 33 Qua số liệu trên ta thấy trong cả 3 năm tổng vốn cố định của công ty luôn chiếm trên 60% tổng vốn kinh doanh. Điều này nói lên rằng với đặc điểm là một công ty chuyên may gia công xuất khẩu nên TSCĐ luôn chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên tỷ trọngvốn lưu động chiếm dưới 40% cũng không nhỏ vì đây là bộ phận có nhu cầu thường xuyên nên nó cũng đặt ra cho công ty nhiều điều cần giải quyết. Cụ thể tổng số vốn của công ty năm 2000 so với năm 1999 tăng 1.489.248 điều này thể hiện quy mô cơ sở vật chất của công ty có được đầu tư thêm. Tỷ lệ TSCĐ của công ty cũng tăng lên 6% do trong năm qua công ty đã mua sắm thêm máy móc thiết bị mới nhưng TSLĐ năm 2000 so với năm 1999 giảm đi 6%. Việc giảm lượng TSLĐ này do rất nhiều nguyên nhân. Việc tìm giải pháp để làm tăng hiệu quả sử dụng từng bộ phận vốn sẽ góp phần thúc đẩy tăng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng như giảm tỷ lệ vốn lưu động trong tổng vốn. Việc áp dụng đầy đủ hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đối với vốn cố định và vốn lưu động là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty. TSLĐ của công ty trong 3 năm qua mặc dù chỉ chiếm dưới 40% nhưng nó có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty . Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Cơ cấu TSLĐ được thể hiện qua bảng sau Bảng 3: Cơ cấu gía trị TSLĐ Đơn vị tính: 1000đ Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % - Tổng TSLĐ 2344470 100 3585591 100 3327059 100 1. Tiền mặt 449.135 19 421.784 11,7 401.564 11,3 2. Khoản phải thu 759.446 32,4 1.463.361 41 1474.610 41,7 3. Dự trữ 542.381 23,2 1486.184 41,3 1367384 39 4. TSLĐ khác 393.308 25,4 212.282 6 283.301 8 Qua số liệu bảng 3 cho ta thấy. Tiền mặt năm 1999 và năm 2000 đều giảm đi so với năm 1998 cụ thể năm 1999 giảm so với năm 1998 là 27351.000đ giảm 7,7% năm 2000 giảm so với năm 1999 là 20.220.000đ giảm đi 0,3%. Sở dĩ có sự giảm đi này là do công ty đã đầu tư nhiều vào vào việc mua sắm nâng cấp các máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Các khoản phải thu đều tăng lên qua3 năm cụ thể năm 1999 tăng so với năm 1998 là 705. 915.000đ tương ứng là tăng 8,6%. Năm 2000 tăng so với năm 1999 là 9.249.000đ tương ứng tăng 0,7%. Nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng tăng lên của khoản phải thu là do đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành dệt may đưa lại bởi vì sản phẩm dệt may sản xuất ra công ty bàn giao cho bên đặt hàng nhưng không phải cứ giao hàng là công ty được thanh toàn toàn bộ mà phần lớn chỉ được thanh toán một phần như đã thoả thuận trong hợp đồng. Phần còn lại phải chờ cho bên B tiêu thụ được sản phẩm mới thanh toán nốt phần còn lại. Hơn nữa trong cơ chế thị trường tình trạng chiếm dụng vốn của nhau giữa các doanh nghiệp diễn ra phổ biến do đó nếu công ty không chấp nhận điều này và không năng động thì công ty sẽ khó ký được những hợp đồng lớn. Qua bảng 3 ta thấy một điều đặc biệt là lượng dự trữ luôn chiếm 1 tỷ lệ cao trong tổng TSLĐ khoảng trên dưới 40% tổng TSLĐ mà lượng dữ trự này phần lớn là hàng tồn kho. Nguyên nhân chính của tình trạng này là trong thời gian này một số nguyên liệu công ty mua về nhưng lỗi thời không phù hợp với tình hình hiện nay và một số sản phẩm sản xuất sai quy cách và bị khách hàng trả lại. Mặt khác ta thấy tài sản dự trự là lượng vốn lưu động cần thiết dự trữ để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hàng liên tục và thường xuyên vì vậy việc xây dựng một lượng tài sản dự trữ hợp lý là điều kiện kiên quyết để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bởi vì nếu dự trữ thừa sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn do đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn ngược lại nếu dự trữ quá nhỏ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hàng một cách bình thường. Như vậy ta thấy trong 2 năm 1999 và năm 2000 tổng TSLĐ của công ty có sự thay đổi trong đó chủ yếu là sự tăng thêm của các khoản phải thu. Điều này chứng tỏ vốn lưu động của công ty bị chiếm dụng khá lớn. Với đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty là sản phẩm của công ty chủ yếu là may gia công theo đơn đặt hàng chiếm tới 80% tổng sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp, còn lại 20% may theo phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm bởi vậy TSLĐ của công ty chủ yếu được hình thành nhằm hỗ trợ cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và chiếm tỷ lệ thấp trong tổng vốn kinh doanh do đó muốn tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động chung ta có thể tăng doanh thu nghĩa là công ty phải ký được nhiều hợp đồng muốn thực hiện được điều này thì công ty phải ký được nhiều hợp đồng và thực hiện tốt công tác tìm hiểu nhu cầu của thị trường, cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác triệt để thị trường để nhằm tăng tổng doanh thu. Trong những năm gần đây TSCĐ của công ty luôn chiếm trên 60% nhưng tài sản cố định của công ty chủ yếu là các phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị và các phân xưởng sản xuất. Mặc dù vậy trong những năm gần đây TSCĐ của công ty luôn được đầu tư thêm đây là một điều rất đáng kích lệ vì chỉ có đầu tư máy móc thiết bị hiện đại thì công ty mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Cơ cấu của TSCĐ được thể hiện ở bảng sau: Bảng 4: Cơ cấu TSCĐ của công ty. Đơn vị tính: 1000đ Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % - Tổng TSCĐ (thuần) 4209.236 100 5662031 100 7209811 100 1.TSCĐ dùng cho sản xuất 3861974 91,75 5322.309 94 6921418,3 96 2. TSCĐ dùng trong quản lý 189.416 4,5 181.185 3,2 144.196 2,0 3. TSCĐ chờ thanh lý 42.092 1 67944,4 1,2 86517,7 1,2 4.TSCĐ phúc lợi 29.465 0,7 28310,2 0,5 21629,4 0,3 5.TSCĐ chưa cần dùng 86.289 2,05 62282,4 1,1 36049,4 0,5 Qua bảng 4 ta thấy: Công ty đã đầu tư rất đúng với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình. 80% sản phẩm của công ty là may gia công điều này có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh cũng như là hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty vì vậy TSCĐ dùng trong sản xuất luôn chiếm trên 90% tổng TSCĐ cụ thể năm 2000 TSCĐ dùng trong sản xuất tăng so với năm 1999 là 1399109300đ tương ứng là 0,2%. Điều này thể hiện công ty đã chú trọng vào việc đầu tư mua sắm các máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất. Qua bảng 4 ta cũng thấy được. Tài sản chờ thanh lý năm 2000 cũng tăng so với năm 1999 là 18573300đ nguyên nhân chính của việc tăng lên của TSCĐ chờ thanh lý đó là do tiến bộ của khoa học công nghệ của ngành ngày một tăng nên mức khấu hao vô hình cũng tăng lên. Mặt khác nhiều máy móc thiết bị được trang bị đã khấu hao hết nhưng vẫn chưa được đầu tư thay thế vì vậy để đáp ứng nhu cầu của xã hội thì công ty cần phải đổi mới máy móc thiết bị. Qua bảng số liệu trên ta có nhận xét: - Kết cấu TSCĐ của công ty là hợp lý vì phần lớn TSCĐ được dùng vào quá trình sản xuất kinh doanh điều này cũng phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty là chuyên may gia công xuất khẩu. - Mặc dù có sự tăng lên về TSCĐ của công ty nhưng thực tế chưa đạt được như mong muốn vì năng lực của TSCĐ tương đối lớn nhưng công ty vẫn chưa khai thác được hết. Nguyên nhân chính là máy móc thiết bị có công suất tương đối lớn nhưng vẫn chưa được sử dụng hết trong khi đó công ty vẫn phải trích khấu hao bảo dưỡng và vận hành. Có thể coi đây là nguyên nhân chính làm cho hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty chưa đạt được như kế hoạch đề ra. Nhìn chung với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ngày một tăng do mức sống của người dân đã tăng lên do đó có nhiều cơ hội để khai thác thị trường nên chắc chắn trong tương lai gần khi mà máy móc thiết bị được sử dụng hết công suất thì hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty sẽ đạt được như kế hoạch đề ra. 1.2. Qúa trình huy động vốn của công ty. Là một doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường nguồn vốn của công ty gồm có nguồn vốn do ngân sách cấp và nguồn vốn tự bổ xung. Hai nguồn vốn này không thể đáp ứng đủ nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được diễn ra liên tục và không thể đáp ứng nhu cầu cho việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị được. Chính vì vậy công ty sẽ phải huy động vốn ở bên ngoài. Nguồn vốn tự huy động của công ty chủ yếu là nợ ngân hàng và nợ các nhà cung ứng. Trong hoạt động vay ngân hàng công ty chủ yếu vay ngắn hạn bổ xung vốn lưu động và vay dài hạn để đầu tư cho TSCĐ. Cơ cấu nguồn vốn của công ty được thể hiện ở bảng sau. Bảng 5. Cơ cấu nguồn vốn của công ty Đơn vị tính: 1000đ Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % I. Nợ phải trả 3234710 40,7 3845354 42,8 4484536 45,4 1. Nợ ngắn hạn 2338751 32 1392194 17,73 1499294 15,2 2. Nợ dài hạn 693939 8,7 2233160 25,2 2983262 30,2 II. Vốn chủ sở hữu. 4705499 39,3 5134957 57,2 5389983 54,6 Tổng nguồn vốn 7940209 100 8980311 100 9874541 100 Qua bảng 5 ta thấy lượng vốn vay của công ty luôn xấp xỉ lượng vốn chủ sở hữu. Điều này phản ánh nhu cầu về vốn của công ty là rất lớn. Mặt khác máy móc thiết bị công ty đều nhập từ nước ngoài nên công ty không thể trông chờ vào nguồn vốn tự bổ xung mà phải tìm mọi cách để huy động vốn từ bên ngoài cụ thể: Năm 1999 hệ số nợ là 0,428 Năm 2000 hệ số nợ là 0,454 Như vậy năm 2000 so với năm 1999 hệ số nợ tăng lên 0,026 điều này phán ánh mức độ đi vay của công ty năm 2000 tăng so với năm 1999, đồng thời hệ số này cũng phản ánh mức độ độc lập về tài chính của công ty Hệ số nợ dài hạn năm 1999: 0,252 Hệ số nợ dài hạn năm 2000: 0,302 Hệ số nợ dài hạn phản ánh khả năng hoàn trả của công ty đối với các khoản vay dài hạn, đồng thời nói cũng phản ánh khả năng rủi ro về tài chính có thể xảy ra đối với các khoản vay có thời hạn sử dụng từ một năm trở lên. Hệ số nợ dài hạn năm 2000 tăng so với năm 1999 là 0,03 chứng tỏ công ty đã tích cực đầu tư nhưng phần lớn dựa vào nguồn vốn tự bổ sung và nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Qua bảng 3 ta thấy khoản nợ ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong toàn bộ cơ cấu vốn của công ty. Như vậy lượng vốn thực có của công ty không lớn và đầy đủ có thể là nguyên nhân chính giải thích vì sao tỷ lệ may theo hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm của công ty chiếm tỷ trọng nhỏ. Mặc dù tiềm lực của công ty không phải là lớn song ngoài việc giải quyết công ăn việc làm cho 640 công nhân những năm gần đây công ty cũng đã có những đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước. 1.3. Tình hình thanh toán của công ty. Để thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh cùng các doanh nghiệp nhà nước khác phải nộp thu sử dụng vốn ngân sách cho nhà nước theo Nghị định 22/HĐBT ra năm 1991, khoản thu sử dụng vốn ngân sách của công ty được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng theo Nghị định 59/CP của Chính phủ ra năm 1996 công ty phải trích từ lợi nhuận sau thuế để nộp thu sử dụng vốn ngân sách cho nhà nước. Việc thực hiện nghĩa vụ của công ty đối với nhà nước thể hiện qua bảng sau. Bảng 6. Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Đơn vị tính: 1000đ Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Tổng nộp cho nhà nước 1205434 1506793 4423598 1. Thuế doanh thu 16120 20130 47724 2. Thuế nhập khẩu 739833 3899318 3.Thuế sử dụng vốn ngân sách 350402 438003 216604 4.Thuế lợi tức 163178 206473 189914 5. Nộp khác 81.866 102.332 69.821 Như vậy hàng năm công ty phải trích một khoản khá lớn từ lợi nhuận sau thuế để nộp cho nhà nước về thu sử dụng ngân sách. Mặc dù con số này khá lớn nhưng hàng năm công ty vẫn thanh toán đủ cho nhà nước không nợ nần dây dưa, không có tình trạng trốn thuế. Điều này có lợi cho nhà nước và thể hiện rõ trách nhiệm của công ty. Về khoản thuế doanh thu hiện nay đã được áp dụng luật thuế mới là thuế thu nhập và thuế VAT . Điều này có phần tốt cho công ty ở chỗ thuế sẽ kích thích xuất khẩu vì lúc đó thuế sẽ được khấu trừ. Tuy nhiên do thuế nhập khẩu cao, do đó lượng khách đến đặt hàng sẽ bị hạn chế vì giá sẽ tăng. Tuy nhiên việc áp dụng luật thuế mới này sẽ có nhiều thuận lợi cho công ty cụ thể là: - Nhà nước sẽ quản lý hàng nhập khẩu chặt chẽ hơn tránh tình trạng hàng nhập lậu. - Khi hạch toán tính thuế công ty chỉ phải hạch toán một lần, tránh được tình trạng tính lặp lại nhiều lần. - Do đa số các nước đều áp dụng luật thuế VAT, mà ngành dệt may lại phần lớn may gia công xuất khẩu nên khi hai bên cùng hạch toán tính toán sẽ tránh được sự khác biệt về phương pháp hạch toán. 2. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ở công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây. 2.1.Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Xem xét, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định là một yêu cầu rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh vì vốn cố định luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh. Theo số liệu về cơ cấu vốn ở bảng 2 cho ta thấy TSCĐ các năm của công ty luôn chiếm trên 60% tổng vốn kinh doanh. Điều này nói lên rằng vai trò của tài sản cố định đối với kết quả kinh doanh của công ty là rất lớn. Nhưng thực tế TSCĐ của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là đã cũ, lạc hậu, một số máy móc thiết bị đã khấu hao gần hết do đó năng suất bị giảm sút. Trong năm 1997 và năm 1998 công ty có đầu tư thêm một máy giác mẫu và nâng cấp, thay thế toàn bộ máy móc thiết bị ở phân xưởng 2. Đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ một cách chính xác là một trong những việc làm quan trọng và cần thiết để tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định từ đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Trên thực tế công ty đã dùng các chỉ tiêu sau để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định - Hệ số đảm nhiệm vốn cố định - Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định Đây là 3 chỉ tiêu quan trọng để đánh giá, xem xét một cách khá chính xác tình hình sử dụng vốn cố định của công ty có ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh như thế nào. Trong điều kiện không có mức trung bình ngành ta chỉ có thể đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty theo thời gian (so sánh kết quả trong 2 năm gần đây). Bảng 7: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng TSCĐcủa công ty năm 1999 - 2000 Đơn vị tính: 1000đ Năm 1999 2000 2000 so với 1999 Chỉ tiêu Số tuyệt đối Số tương đối Doanh thu tiêu thụ 10.290.684 18.146.776 7.856.092 176,34 Vốn cố định bình quân 5.662.031 7.209.811 1.547.780 127,34 Lợi nhuận 450.643 590.640 139.997 131,06 1. Hiệu suất sử dụng TSCĐ 1,82 2,3 0,68 137,36 2. Hệ số đảm nhiệm của VCĐ 0,55 0,4 -0,13 72,7 3.Tỷ suất lợi nhuận của VCĐ 0,08 0,082 0,002 102,5 Qua số liệu bảng trên ta thấy Doanh thu tiêu thụ năm 2000 tăng so với năm 1999 là 7.856.092 đ tức là tưang 76,34%, lợi nhuận năm 2000 tăng so với năm 1999 là 1547780.000đ tương ứng với 27,34% trong khi đó vốn cố định bình quân năm 2000 tăng là 139997.000 tương ứng với 31,06% so với năm 1999 điều này chứng tỏ trong năm 2000 công ty sử dụng TSCĐ có hiệu quả hơn năm 1999 bởi vì mức tăng doanh thu và mức tăng lợi nhuận lớn hơn mức tăng của TSCĐ. * Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định (HVCĐ) - Năm 1999 HVCĐ (99) = Điều này nói lên rằng trong năm 1999 cứ 1 đồng tiền vốn cố định tạo ra được 1,82 đồng doanh thu tiêu thụ - Năm 2000 HVCĐ (2000) = =2,5 Như vậy trong năm 2000 thì cứ 1 đồng tiền vốn cố định tạo ra được 2,5 đồng doanh thu tiêu thụ tăng 0,68 đồng so với năm 1999 nghĩa là vốn cố định được công ty sử dụng trong năm 2000 có hiệu quả hơn năm 1999. * Chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm của VCĐ. - Năm 1999 hệ số đảm nhiệm VCĐ = = 0,33 Nghĩa là trong năm 1999 để tạo ra 1 đồng doanh thu doanh nghiệp cần 0,55 đồng vốn cố định sang năm 2000 thì Hệ số đảm nhiệm VCĐ = = 0,4 Giảm 0,13 đồng tức là giảm 27,3% so với năm 1999 Hiệu quả sử dụng vốn cố định được thể hiện cụ thể qua kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của VCĐ. - Tỷ suất lợi nhuận VCĐ (1999) = =0.08đ Chỉ tiêu này phản ánh trong năm 1999, 1 đồng vốn cố định mang lại cho công ty 0,08 đồng lợi nhuận Trong năm 2000 - Tỷ suất lợi nhuận VCĐ (2000) = = 0,082 Ta thấy tỷ suất lợi nhuận VCĐ trong năm 2000 tăng so với năm 1999 là 0,002 đồng tương ứng là 2,5% tức là trong năm 2000 một đồng vốn cố định tạo ra 0,082 đồng lợi nhuận. Tuy nhiên xét một cách tổng quát hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty năm sau cao hơn năm trước. Đây là dấu hiệu tốt cho công ty đạt được mục tiêu ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu của việc tăng hiệu quả sử dụng vốn cố định của năm 2000 so với năm 1999 là do kết quả của việc đầu tư mới 1 máy giác mẫu tự động và đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị ở phân xưởng 2. Kết quả đầu tư này phát huy tác dụng chủ yếu vào năm 2000. Việc công ty chú trọng đến việc đổi mới và nâng cấp TSCĐ là kết quả của việc nhận thức được tầm quan trọng của khâu kỹ thuật đối với chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng, bảo đảm cho sản phẩm của công ty đủ sức cạnh tranh ở thị trường trong và ngoài nước. Việc sử dụng vốn cố định của công ty có hiệu quả biểu hiện ở việc tăng doanh thu tất nhiên để hiểu đúng hơn tình hình này chúng ta cần xét thêm chỉ tiêu về lượng vốn cố định tiết kiệm được. Qua bảng trên ta thấy lượngVCĐ để tạo ra 1 đồng doanh thu năm 2000 giảm 0,15 đồng so với năm 1999 tức là giảm 27,3%. Nếu cùng với hệ số đảm nhiệm VCĐ như năm 1999 muốn tạo ra mức doanh thu tiêu thụ như năm 2000 thì cần 1 lượng vốn cố định là VCĐ (2000) = 0,53 x 18.146.776.000 = 9980.728.000 đ Nhưng thực tế VCĐ bình quân năm 2000 là 7.209.811.000đ Như vậy công ty đã tiết kiệm được 1 lượng VCĐ là 9.980.728.000 - 7.209.811.000 = 2.770.917.000đ Mặc dù trong 2 năm qua VCĐ của công ty đã được đầu tư đáng kể song để đáp ứng được nhu cầu của thị trường về mặt hàng dệt may xuất khẩu. Về lâu dài công ty phải chú trọng đầu tư thích đáng để đổi mới TSCĐ nhằm không ngừng phát huy hiệu quả của chúng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 2.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây. Vốn lưu động tham gia trực tiếp vào sự hình thành nên thực thể sản phẩm biểu hiện bằng giá trị nguyên vật liệu chính, phụ, tiền lương...... trong giá thành sản xuất tỷ lệ vốn lưu động lớn hơn nhiều so với vốn cố định. Vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh đã áp dụng một số chỉ tiêu sau. Bảng 8: Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty Đơn vị tính: 1000đ Năm 1999 2000 So sánh năm 2000 với 1999 Chỉ tiêu Số tuyệt đối Số tương đối Doanh thu - thuế (doanh thu thuần) 10.270.534 18.099.032 7.828.318 176,221 Vốn lưu động bình quân 3383591 3527640 58.532 98,4 Lợi nhuận 450.690 390.640 139.997 131 - Số vòng quay VLĐ 2,864 5,131 2,267 179,15 - Thời gian 1 vòng luân chuyển 126 70 - 56 53,5 - Hệ số đảm nhiệm VLĐ 0,349 0,195 -0,154 55,9 - Tỷ suất lợi nhuận VLĐ 0,125 0,167 0,042 133,6 - Sức sản xuất của VLĐ 2,860 5,13 2,266 179 Qua số liệu bảng 8 cho ta thấy. * Sức sản xuất của vốn lưu động. - Trong năm 1999 ==2,864 Có nghĩa là 1 đồng vốn lưu động sử dụng trong năm 1999 đem lại cho công ty 2,864 doanh thu - thuế - Năm 2000 = =5,13 Trong năm 2000 Công ty đạt 5,13 đồng doanh thu - thuế trên 1 đồng vốn lưu động bỏ ra. Như vậy doanh thu - thuế trên 1 đồng VLĐ năm 2000 so với năm 1999 tăng 2,266 đồng tương ứng với 79,12%. Điều này có nghĩa là sức sản xuất của VLĐ của Công ty tăng lên trong năm 2000, tức là năng suất hoạt động của vốn lưu động tăng lên. Nguyên nhân chủ yếu mang lại kết quả của sức sản xuất của VLĐ tăng lên là do năm 2000 Công ty đã mở rộng thị trường tiêu thụ sang một số nước phát triển như: Đức, Pháp... và mở một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm . Kết quả là sản phẩm của Công ty được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết đến, thực hiện được nhiều đơn đặt hàng trong khi vốn lưu động vẫn còn ít. * Về tỷ suất lợi nhuận của VLĐ hay sức sinh lời trong năm 1999 So tỷ suất của VLĐ = Nghĩa là trong năm 1999 1 đồng vốn lưu động đem lại cho Công ty 0,125 đồng lợi nhuận. - Trong năm 2000 tỷ suất lợi nhuận của vốn lưu động là Tăng 0,042 đồng tương ứng là 33% So với năm 1999 đồng thời nó phản ảnh trong năm 2000 1 đồng vốn lưu động tạo ra 0,167đồng lợi nhuận. Qua số liệu bảng 8 ta thấy: Mặc dù lợi nhuận trên một đồng doanh thu giảm, (Lợi nhuận một đồng doanh thu năm 1999 là 0,0144 () năm 2000 là 0,033 đồng () nhưng do tổng lợi nhuận tăng 139997000đ lợi nhuận tăng trong khi VLĐ bình quân lại giảm đã dẫn đến tỷ suất lợi nhuận VLĐ tăng trong năm 2000. Qua hai chỉ tiêu vừa nêu ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng lên trong năm 2000. Nhưng để đánh giá tốc độ luân chuyển của VTĐ ta phải xét thêm 1 số chỉ tiêu sau: * Số vòng quay của VLĐ: Chỉ tiêu này nói lên rằng VLĐ đã quay được bao nhiêu vòng trong năm, qua số liệu bảng 8 ta thấy trong năm 2000 VLĐ đã quay được 5,131 vòng = trong khi đó năm 1999 VLĐ chỉ quay được c,864 vòng nghĩa là năm 2000 VLĐ quay nhanh hơn năm 1999 là 2,267 vòng trong khi đó VLĐ bình quân của năm 2000 lại thấp hơn so với năm 1999. Số vòng quay của VLĐ tăng là do ảnh hưởng của doanh thu tăng, cụ thể là doanh thu thuế năm 2000 tăng so với năm 1999 là 7828518000đ doanh thu tăng đã có tác dụng đẩy mạnh tốc độ quay của VLĐ. * Thời gian của một vòng luân chuyển: Tốc độ luân chuyển của VLĐ tăng cũng có nghĩa là thời gian của 1 vòng luân chuyển VLĐ giảm, để thuận tiện cho việc tính toán, người ta tính thời gian của 1 năm phân tích bằng 1 năm thương mại là 360 ngày. Theo số liệu ở bảng 8 cho thấy thời gian của 1 vòng luân chuyển VLĐ năm 1999 là 106 ngày () nhưng đầu năm 2000 thời gian cần thiết để VLĐ quay được 1 vòng là 70 ngày đã giảm 36 ngày so với năm 1999. Như vậy nếu căn cứ vào VLĐ quay được nhiều vòng hơn trong 1 năm tức là VLĐ được sử dụng hiệu quả hơn, triệt để hơn trong năm 2000 so với năm 1999 hay nói một cách khác hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong năm 2000 đạt hiệu quả cao hơn năm 1999. Ngoài 2 chỉ tiêu số vòng quay và thời gian của 1 vòng quay của vốn lưu động đã nêu trên, để đánh giá đúng hiệu quả và mức độ tiết kiệm VLĐ Công ty còn dùng chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm của VLĐ. Năm 2000 để tạo ra một đồng doanh thu - thuế Công ty chỉ phải sử dụng 0,15 đồng VLĐ trong khi đó trong năm 1999 phải sử dụng đến 0,349đ. Như vậy lượng vốn cho Công ty giảm đi 0,154đ tương ứng là 44,1%. Dựa theo hệ số đảm nhiệm VLĐ như năm 1999, trong năm 2000 để đạt được mức doanh thu - thuế là 18099052000đ lượng vốn lưu động cần thiết là : 0,349 x 18099052000 = 6316369100đ trong khi đó trên thực tế trog năm 2000 lương vốn lưu động chỉ cần là 3527059000đ. vậy lượng VLĐ mà Công ty có thể tiết kiệm được là: 62163691000 - 3327059000 = 2789310100đ Qua đây ta thấy rằng hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2000 so với năm 1999 tăng là hệ quả của nhiều hoạt động trong năm 1999. Trước hết là việc tăng đầu tư cho TSCĐ gồm đầu tư mới và nâng cấp đã khiến cho chất lượng, mẫu mã sản phẩm tăng lên đáng kể, đặt biệt là sản phẩm áo Jaket 3 lớp. Người tiêu dùng trong và ngoài nước thực sự tin tưởng vào sản phẩm của Công ty. Chính vì vậy nhiều hãng trong và ngoài nước đã ký kết hợp đồng , đơn đặt hàng lâu dài với Công ty. Mặc dù vốn lưu động trong năm 2000 thấp hơn so với năm 1999 nhưng hiệu quả sử dụng lại cao hơn năm 1999 điều này đã làm tăng nhanh doanh thu, lợi nhuận của Công ty trong năm 2000. IV. đánh giá một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu của Công ty may thêu xuất nhập khẩu hưng thịnh : 1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá về khả năng thanh toán của Công ty : Bảng 9. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán của Công ty Đơn vị tính :1000 đ Năm Chỉ tiêu 1999 2000 Tiền mặt 421.784 401.564 Khoản phải thu 1.465.361 1.474.610 VLĐ bình quân 3.585.591 3.527.059 - Nợ ngắn hạn 1.592.194 1.499.294 - Khả năng thanh toán hiện hành . 2,252 2,325 - Khả năng thanh toán nhanh . 1,185 1,251 Qua bảng 9 ta thấy: Tỷ lệ thanh toán hiện hành của công ty Hưng Thịnh năm 2000 cao hơn so với năm 1999 trong khi tổng VLĐ giảm. Để đạt được điều này lượng VLĐ bình quân của Công ty luôn cần phải lớn hơn so với lượng vốn vay. Mặc dù năm 2000, VLĐ bình quân có giảm nhưng bù vào đó khoản nợ ngắn hạn của công ty cũng giảm đi. Nếu với tỷ lệ thanh toán hiện hành trong năm 1999, công ty phải dùng đến 45% ( = 1.592.194.000/3.527.059.000 ) giá trị TSLĐ để trang trải đủ nợ thì đến năm 2000, để trả đủ nợ ngắn hạn, Công ty phải dùng đến một tỷ lệ cao hơn là 55%. Đây là một vấn đề mà Công ty cần phải quan tâm . Về khả năng thanh toán nhanh của công ty năm 2000 cũng cao hơn năm 1999. Điều này cũng nói lên rằng hoạt động SXKD của công ty đang đà phát triển . Qua 2 chỉ tiêu trên cho ta thấy khả năng thanh toán của công ty đã tốt lên trong năm 2000. Nếu công ty cố giữ ở tỷ lệ này thì công ty sẽ luôn đảm bảo khả năng thanh toán, đem lại uy tín cho công ty. Trong cơ chế cạnh tranh, chữ tín vô cùng quan trọng đối với sự sống còn của công ty. Vì vậy công ty nên cố gắng duy trì và phát huy mặt này . 2. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động của công ty : Chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn của công ty, nguồn vốn của công ty được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như TSLĐ, TSCĐ. Do đó, công ty không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả của từng bộ phận cấu thành vốn. Kết quả đánh giá của công ty may thêu XNK Hưng Thịnh được thể hiện qua bảng sau : Bảng 10. Bảng chỉ tiêu về tình hình hoạt động của Công ty. Đơn vị tính: 1000 đ Năm Chỉ tiêu 1999 2000 1. Doanh thu tiêu thụ 10.290.684 18.146.776 2. Tiền mặt 421.784 401.564 3. Dự trữ 1.486.184 1.367.384 4. Các khoản phải thu 1.465.361 1.474.601 5. Tổng tài sản hiện có 8.980.311 9.874.541 -Vòng quay tiền mặt 24,4 54,2 - Vòng quay dự trữ 6,9 13,3 - Kỳ thu tiền bình quân 51,26 29,25 - Hiệu suất sử dụng tổng tài sản 1,146 1,84 Qua bảng 10 ta thấy : Số vòng quay tiền mặt và vòng quay dự trữ tăng lên chứng tỏ việc quản lý tiền mặt và dự trữ năm 2000 hiệu quả hơn năm 1999, Cụ thể là năm 1999 vòng quay của tiền là 24,4 vòng ( = 10.290.684.000/421.784.000 ) nhưng sang năm 2000 vòng quay của tiền đã tăng lên con số là 54,2 vòng/năm (18.146.776.000/ 401.564.000 ) điều đó có nghĩa là tăng 29,8 vòng, tăng hơn 100%. Kỳ thu tiền bình quân theo đó giảm, cụ thể là năm 1999 kỳ thu tiền là 51,26 nhưng sang năm 2000 kỳ thu tiền bình quân đã giảm xuống còn 29,25 Điều đó chứng tỏ công ty thu được tiền nhanh hơn trong khi doanh thu tiêu thụ vẫn tăng nhanh, có nghĩa là thị trường tiêu thụ được mở rộng, hiệu quả kinh doanh cũng tăng lên hay nói cách khác công ty đã ký được nhiều đơn đặt hàng . Hiệu suất sử dụng tổng TS cũng tăng lên đáng kể. Cụ thể 1đ tài sản năm 1999 mang lại 1,146 đ doanh thu thì năm 2000 1đ tài sản mang lại 1,84 đ doanh thu, tăng 60,5%, một con số rất hiệu quả . Đây cũng là một thành công của công ty, đánh dấu chiều hướng phát triển của nó. Nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục duy trì và phát huy thêm thì chắc chắn thị trường tiêu thụ của công ty sẽ được mở rộng hơn nhiều hay nói cách khác, rất nhiều người sẽ sử dụng sản phẩm của công ty . 3. Nhóm chỉ tiêu về khả năng tiêu thụ : Ngoài các nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của công ty, chúng ta không thể không đề cập tới nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi. Nó phản ánh tổng hợp hiệu quả kinh doanh và hiệu quả quản lý vốn của công ty . Thông qua bảng 11 dưới đây ta thấy rõ hiệu quả sử dụng vốn sản xuất cụ thể là. Bảng 11: chỉ tiêu đánh giá về khả năng sinh lãi của vốn sản xuất năm 1999- 2000 Đơn vị tính : 1000 đ Chỉ tiêu 1999 2000 So sánh năm 1999- 2000 Chênh lệch % 1. Doanh thu 10.290.684 18.146.776 7.856.092 +76,3 2. Lợi nhuận 450.643 590.640 139.997 +31 3. Tổng tài sản hiên có 8.980.311 9.874.541 894.230 +10 4. Chỉ số doanh lợi tiêu thụ sản phẩm 0,044 0,032 -0,012 -2,72 5. Suất hao phí VSX (=3:1 ) 0,873 0,544 -0,329 -37,7 6. Tỷ lệ doanh lợi trên VSX ( = 2:3 ) 0,050 0,060 +0,01 +20 7. Hiệu quả sử dụng VSX (= 1:3 ) 1,146 1,837 +0,691 +60,3 Bảng 11 cho ta thấy : Năm 1999 chỉ số doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của công ty là 0,044 nhưng sang năm 2000 chỉ số doanh lợi chỉ còn 0,032 có nghĩa là giảm 0,012 tương ứng với tỷ lệ giảm là 27,27%. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm có nghĩa là lợi nhuận trên 1 đ doanh thu tiêu thụ giảm. Năm 2000 doanh thu tiêu thụ tăng rất mạnh so với năm 1999, cụ thể tăng 7.568.092.000 đ và tổng lợi nhuận năm 1999 tăng 139.997.000 đ, tương ứng với tỷ lệ tăng là 31% so với năm 1999. Đây là một xu hướng tốt mà công ty cần phát huy: giảm lợi nhuận trên một đồng doanh thu để khuyến khích các doanh nghiệp tới đặt hàng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước và kết quả lợi nhuận tăng . Mặt khác theo tổng tài sản có: phản ánh 1đ tài sản có bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu tổng doanh thu . Giả sử hiệu quả sử dụng vốn sản xuất năm 2000 bằng năm 1999 là 1,146. Để đạt được doanh thu năm 2000 là 18.146.776.000 thì phải sử dụng một lượng tài sản là : 15.834.883.000đ . Vậy thực tế tiết kiệm được là : 15.834.883.000 - 9.874.541.000 = 5.960.342.000 đ Suất hao phí vốn năm 1999 là 0,873; sang năm 2000 là 0,544. Vậy để tạo ra 1 đ doanh thu năm 1999 bỏ vào 0,873 đ vốn sản xuất. Vậy năm 2000 tiết kiệm hơn năm 1999 là : 0,873 – 0,544 = 0,329 . Tỷ lệ doanh lợi trên vốn sản xuất : Phản ánh 1 đ vốn sản xuất bỏ vào sản xuất kinh doanh thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận . Năm 1999 là 0,050 Năm 2000 là 0,060 Vậy năm 2000 tăng so với năm 1999 là 0,01 đ lợi nhuận trên 1 đ vốn . Nhìn chung với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội như hiện nay, mức sống của người dân tăng lên, đó chính là thị trường để Công ty khai thác. Bởi vậy chắc chắn trong tương lai gần, khi mà năng suất của máy móc được khai thác hết thì hiệu quả hoạtđộng của công ty sẽ đạt đươc như kế hoạch đề ra . Đó là những chỉ tiêu nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn của công ty, sau đây ta sẽ đi xem xét mức khấu hao TSCĐ hàng năm của công ty . 4. Khấu hao TSCĐ: Khấu hao TSCĐ là sự tích luỹ về mặt giá trị, bù đắp giá trị hao mòn của chính tài sản cố định bằng cách chuyển dần giá trị tài sản cố định vào giá thành sản phẩm trong suốt thời gian sử dụng tài sản cố định . Để tính khấu hao chính xác theo yêu cầu phải tính đúng, tính đủ khấu hao, để tạo ra nguồn thay thế và duy trì khả năng sản xuất của tài sản cố định; bảo toàn vốn cố định, việc khấu hao sẽ cho phép hình thành nên nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất giản đơn tài sản cố định . Trong nhưng năm qua, công ty đã thực hiện tốt kế hoạch khấu hao, tính đúng, tính đủ và theo đúng tỷ lệ quy định. Điều này có thể thấy được qua việc thực hiện kế hoạch khấu hao của công ty . Trong thời gian vừa qua công ty thực hiện tính khấu hao theo phương pháp tính khấu hao theo giá trị còn lại. Phương pháp này còn gọi là phương pháp khấu hao kép trên giá trị còn lại. Công thức tính như sau : 2 x giá trị còn lại Mức khâu hao trích hàng năm = Số năm khấu hao Mỗi loại tài sản cố định được quy định số năm khấu hao khác nhau, ở Công ty may Hưng Thịnh, đối với Tài sản cố định dung trong sản xuất số năm khấu hao quy định là 4 năm . Ta xem xét tình hình thực hiện khấu hao của công ty năm 2000 qua bảng 12 . Trong những năm vừa qua công ty đã thực hiện tốt kế hoạch khấu hao tính đúng, tính đủ theo tỷ lệ quy định . Bảng 12. Khấu hao tài sản dùng trong sản xuất Đơn vị tính :1000 đ Năm Khấu hao Thực hiện Còn lại 1 10.736.870 10.736.870 0 2 5.368.435 5.368.435 0 3 2.684.218 2.684.218 0 4 1.342.109 1.342.109 0 Phương pháp này tính khấu hao theo giá trị còn lại bảo đảm thu hồi vốn nhanh đầy đủ, phù hơp với khả năng trang trải chi phí của Công ty. Trên thực tế phương pháp này đang được áp dụng phổ biến. Nhờ có phương pháp tính khấu hao này mà công ty có thể nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm , tăng lợi nhuận. Tuy nhiên nhiều khi do yếu tố trượt giá, TSCĐ hư hởng trước thời hạn, lạc hậu mà quỹ khấu hao không đủ bú đắp, điều náy cũng gây khó khăn lớn cho việc thực hiện nghĩa vụ sản xuất kinh doanh cũng như việc đổi mới TSCĐ. v. Đánh giá chung: Qua việc phân tích, đánh giá, xem xét hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh ta thấy rằng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn của Công ty năm sau luôn đạt hiệu quả cao hơn năm trước. Đây là một dấu hiệu tốt cho sự tồn tại và phát triển của Công ty. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay nhu cầu về mặt hàng may mặc ngày càng tăng ở cả trong và ngoài nước, trong khi doanh thu và lợi nhuận của Công ty còn ở mức thấp. Do đó Công ty cần phải có biện pháp khắc phục những tồn tại đã nêu như dự trữ quá lớn, chưa trú trọng đến việc mở mang thị trường trong nước, về lâu dài Công ty cần có những chiến lược đầu tư phát triển thích đáng để đáp ứng nhu cầu hiện nay của thị trường trong và ngoài nước để có thể đạt được hiệu quả cao hơn 1. Những thành tựu mà Công ty đạt được Trong thời gian qua Công ty đã cố gắng huy động bằng nguồn vốn vay để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty. Mặc dù nguồn vốn cho ngân sách cấp không đáng kể song Công ty đã chủ động vay vốn ngân hàng để đầu tư đổi mới TSCĐ. Mặc dù trong những năm qua tình hình kinh tế đất nước còn gặp nhiều những khó khăn nhưng Công ty đã huy động mọi nguồn vốn để đầu tư cải tiến máy móc thiết bị. Năm 2000 vốn cố định của Công ty tăng so với năm 1999 là 154778000đ. Ngoài ra Công ty còn ký được rất nhiều hợp đồng gia công vừa bảo đảm công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên, làm tăng được hiệu quả sử dụng vốn, vừa học hỏi được kinh nghiệm từ các bạn hàng. Trong nghiên cứu năm qua Công ty đã làm tốt Công ty bảo toàn vốn cố định mà Nhà nước giao và vốn chủ sở hữu. Mặt khác Công ty đã tổ chức và sử dụng vốn một cách linh hoạt và có hiệu quả đồng thời Công ty luôn quán triệt quan điểm “không ngừng sinh sôi nảy nở”. Trong quá trình kinh doanh đã năng động trong việc sử dụng đồng vốn chiếm dụng được hình thành trong quá trình kinh doanh, coi đó như một nguồn tài chính ngắn hạn được sử dụng triệt để trong việc thanh toán phát sinh trong quá trình hoạt động trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thanh toán. Đầu tư đúng hướng, đúng mục đích, nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng, bố trí cơ cấu vốn hợp lý với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình là có trên 60% vốn được đầu tư vào TSCĐ trực tiếp nhằm tạo ra doanh thu phù hợp với loại hình kinh doanh của Công ty. 2. Những mặt tồn tại : Công ty đã để một lượng vốn dự trữ tương đối lớn, luôn chiếm trên 30% tổng số TSLĐ, khiến cho vốn luân chuyển chậm, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Đặc biệt là lượng dự trữ này phần lớn là hàng tồn kho. Nguyên nhân chính là Công ty đã để một số nguyên vật liệu không phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Với khoản phải thu luôn chiếm trên 40% (Theo bảng 3) TSLĐ điều đó chứng tỏ công tác tổ chức thanh toán của Công ty còn chưa mạnh mẽ, hoạt động không hiệu quả đã gây ra tình trạng vốn kế hoạch thì dư thừa trong khi đó đồng tiền thực tế lại thiếu. Hay nói một cách khác là vốn của Công ty bị chiếm dụng khá lớn Trình độ cán bộ quản lý Công ty chưa cao nên còn nhiều sơ xuất trong công tác quản lý và sử dụng vốn gây ra tình trạng thất thoát làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Công ty chưa chú trọng đến việc mở rộng thị trường trong nước và không đầu tư sản xuất kinh doanh theo hình thức mua nguyên vật liệu bán thành phẩm. Có thể do lúc này lượng vốn của Công ty chưa đủ hoặc là Công ty sợ rủi ro sẽ dẫn đến phá sản. Nhưng với một đơn vị kinh doanh mà lượng vốn vay luôn chiếm dưới 30% thì Công ty nên xây dựng biện pháp sản xuất kinh doanh theo phương thức huy động vốn từ bên ngoài. Mặt hàng của Công ty mặc dù đã có mặt trên thị trường của một số nước phát triển như như Pháp, Đức nhưng Công ty vẫn chưa trực tiếp ký hợp đồng với họ mà còn phải thông qua một đơn vị trung gian khác khiến mức lợi nhuận thu được không cao. Tất nhiên việc khắc phục được các hạn chế đó cần phải có thời gian không thể một sớm một chiều mà khắc phục ngay được. Những tồn tại này một phần là do chưa có một tổ chức tài chính độc lập thuộc ngành đứng ra chuyên làm trách nhiệm thu hut vốn. Trong khi đó việc thu hút vốn của Công ty còn gặp rất nhiều những khó khăn. Chương III Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây. I. Phương hướng phát triển của Công ty từ nay đén năm 2005 1. Những thuận lợi và khó khăn. 1.1. Thuận lợi - Tình hình chính trị, kinh tế trong nước tiếp tục được củng cố, ổn định và phát triển. Hệ thống pháp luật ngày càng được hoà thiện tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư và hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hơn nữa nước ta có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công dẻ sẽ rất thuận lợi cho việc thu hút các đơn vị đặt hàng từ nước ngoài và góp phần quan trọng để tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá nước ta trên thị trường trong nước và thế giới. - Mặt khác ngành dệt may xuất nhập khẩu vốn là ngành vừa giải quyết được rất nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Hơn nữa nó lại ngành chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới sự nghiệp phát triển của ngành dệt may. những lý do này tạo điều kiện thuận lợi về mặt chỉ đạo điều hành việc đổi mới cơ chế chính sách và giao quyền tự chủ cho Công ty. - Về phần mình mấy năm qua Công ty đã cố gắng xây dựng và phát triển, bước đầu đã có những kinh nghiệm trong công tác điều hành và quản lý, huy động nguồn vốn, mở rộng được thị trường, đầu tư một số thiết bị hiẹn đại, chăm lo tới đời sống cán bộ công nhân viên. 1.2. Khó khăn Do có sự cạnh tranh gay gắt ở thị trường trong nước và quốc tế đòi hỏi Công ty muốn cạnh tranh được trên thị trường thì phải đầu tư, nâng cấp thiết bị máy móc hiện đại. Để làm được điều đó Công ty cần phải huy động được một lượng vốn lớn trong khi đó việc huy động các nguồn vốn trong nước đang gặp khó khăn trong khi đó vốn vay chủ yếu là vay ngắn hạn do đó doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thanh toán và hoàn nợ. Doanh nghiệp chưa mở rộng tìm hiểu cho mình được lượng khách hàng cần thiết trong khu vực cho sản phẩm của mình. Đó là sự lãng phí rất lớn. 2. Những phương hướng phát triển của Công ty từ nay đến năm 2005. Công ty dự kiến trong những năm tới sẽ đầu tư mua sắm thay thế những thiết bị hiện đại giúp cho 3 phân xưởng đều có năng xuất lao động đạt 100%. Mở rộng hình thức sản xuất kinh doanh, phát triển mở rộng cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt chú ý đến việc mở rộng hình thức sản xuất kinh doanh theo mua nguyên liện bán thành phẩm tới năm 2005 đạt năng xuất 800.000 áo/năm (Với áo Jaket làmchuẩn) phát triển rộng sang thị trường các nước phát triển như Đức, Pháp, Mỹ... Xây dựng gian hàng giới thiẹu sản phẩm của Công ty ở một số thành phố lớn trong nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Ngoài những mục tiêu nêu trên Công ty sẽ phấn đấu xây dựng thêm phân xưởng nhằm mở rộng quy mô sản xuất của Công ty. Những phương hướng phát triển của Công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 13: Dự kiến kết quả đạt được thông qua hình thức đầu tư sản xuất theo mua nguyên liệu bán thành phẩm: Vốn đầu tư 2001 – 2005 Đơn vị tính: 1.000đ Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 1. tổng vốn kinh doanh 15260.811 16.920.000 16.782.000 17.072.000 18.230.000 + TSCĐ 8.239.811 8.920.000 9.000.000 9.252.000 10.000.000 + TSLĐ 7.021.000 8.000.000 7.782.000 7.820.000 8.230.000 2. Doanh thu tiêu thụ 19.782.133 21.367.000 24.432.000 27.643.000 29.580.000 3. Tỷ lệ sản phẩm may thương mại 50% 31% 53% 55% 60% Số liệu bảng 13 cho thấy Công ty dự kiến sẽ đầu tư sản xuất theo hình thức mua nguyên liện bán thành phẩm do đó để thực hiện được điều này thì số TSLĐ của Công ty phải tăng lên và có thể nó sẽ chiếm tới gần 50% tổng vốn kinh doanh II/ Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. - Hà Tây 1. Về phía Công ty 1.1. áp dụng chính sách tín dụng thương mại nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá tăng doanh thu. Chấm dứt thời kỳ các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh. Có địa chỉ thu mua đầu vào, số lượng mãu mã do Nhà nước quy định và chỉ định địa chỉ tiêu thụ, tức là các doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Nhà nước. Ngược lại trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp có điều kiện phát huy hết khả năng sáng tạo và linh hoạt của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh tức là doanh nghiệp phải tự mình tìm kiếm nguồn đầu vào, tìm kiếm thị trường cho đầu ra của mình. Đứng trước nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm may mặc ngày càng tăng và đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng nhiều. Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh phải thông qua việc tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Công ty có thể đưa những sản phẩm có chất lượng, mẫu mã hợp thời trang để trên cơ sở đó xác định số lượng tiêu thụ, nguyên vật liệu cần bao nhiêu để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đây cũng là cơ sở để xác định lượng vốn kinh doanh phù hợp. Những năm vừa qua, sản phẩm của Công ty may gia công chiếm tới 80%, còn mang theo hình thức mua nguyên vật liệu bán thành phẩm chỉ chiếm khoảng 20%. Do đó, lượng vốn lưu động của Công ty chỉ chiếm khoảng dưới 40% tổng vốn kinh doanh. Qua bảng 13 (Bảng kế hoạch sản xuất của Công ty) ta thấy: Những năm tới Công ty dự kiến sẽ chú trọng vào hình thức may theo kiểu mua nguyên liệu bán thành phẩm và nó chiếm khoảng 50% tổng sản phẩm sản xuất của Công ty. Để sản xuất được như vậy, lượng tài sản lưu dộng của Công ty phải chiếm khoảng 50% tổng vốn kinh doanh. Hơn nữa, do hiện nay Việt Nam gia nhập ASEAN và Mỹ đã bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, sản phẩm của Công ty phải nhanh chóng chuyển từ nền sản xuất gia công buôn bán thương mại về thành phẩm. Công ty nên tổ chức đặt cơ quan đại diện, cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ lớn. Đẩy mạnh hoạt động mốt để sớm chuyển ngành hàng xuất khẩu theo FOB và sớm hội nhập vào thị trường thế giới. 1.2. Đa dạng hoá cá kênh huy động vốn. - Thực hiện tái đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh từ lợi nhuận để lại. - Lập kế hoạch về khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn các TSCĐ để xin duyệt và xin cấp kinh phí, để vay ưu đãi hoặc xin được sử dụng các quỹ khấu hao vào tái đầu tư. - Thực hiện vay ngân hàng hàng tháng để bổ sung vốn lưu động. Nhưng với đặc điểm từ trước đến nay Công ty chủ yếu sản xuất theo hình thức gia công nên vốn lưu động không cần nhiều và việc vay ngân hàng lại chủ yếu là vay dài hạn để đầu tư mới hoặc sửa chữa cho TSCĐ. Mục tiêu từ nay tới năm 2005, Công ty sẽ từng bước mạnh dạn vay vốn ngắn hạn ở ngân hàng để đầu tư vào mua nguyên liệu sản xuất. Nếu làm được điều này thì chắc chắn lợi nhuận sẽ đạt được cao hơn. - Hợp tác liên doanh với các đối tác trong và ngoài nước. Hiện nay, Công ty thực hiện gọi vốn theo hình thức này nhưng trong tương lai Công ty có thể gọi vốn ở các đối tác trong và ngoà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12277.DOC
Tài liệu liên quan