Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc: LỜI MỞ ĐẦU Xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề rộng lớn và phức tạp của nhiều quốc gia trên thế giới. Tình trạng đói nghèo và kinh tế kém phát triển của khu vực nông thôn là mối quân tâm lớn của các chính phủ, được nhiều ngành khoa học đi sâu vào nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp trước mắt và lâu dài. Đất nước Việt Nam hàng nghìn năm lịch sử luôn gắn bó với nền văn minh lúa nước. Vấn đề nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng, nhà nước và nhân dân quan tâm đến vấn đề này. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần có nhiều giải pháp và nhiệm vụ cơ bản như: Hoàn thiện quy hoạch tổng thể về công nghiệp nông thôn, làm cơ sở cho kế hoạch hoá và đầu tư cho cơ sở hạ tầng; tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua các chính sách và giải pháp cụ thể cho từng thời kỳ… Để tăng cường vai trò tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với việc phát triển sản xuất, thúc đẩy côn...

doc79 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 965 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề rộng lớn và phức tạp của nhiều quốc gia trên thế giới. Tình trạng đói nghèo và kinh tế kém phát triển của khu vực nông thôn là mối quân tâm lớn của các chính phủ, được nhiều ngành khoa học đi sâu vào nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp trước mắt và lâu dài. Đất nước Việt Nam hàng nghìn năm lịch sử luôn gắn bó với nền văn minh lúa nước. Vấn đề nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng, nhà nước và nhân dân quan tâm đến vấn đề này. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần có nhiều giải pháp và nhiệm vụ cơ bản như: Hoàn thiện quy hoạch tổng thể về công nghiệp nông thôn, làm cơ sở cho kế hoạch hoá và đầu tư cho cơ sở hạ tầng; tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua các chính sách và giải pháp cụ thể cho từng thời kỳ… Để tăng cường vai trò tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với việc phát triển sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp xác định nông thôn là thị trường cho vay, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu của mình. Cần tạo mọi điều kịên thuận lợi về vốn để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đạt kết quả tốt. Muốn vậy ngân hàng nông nghiệp phải thực hiện: Đa dạng hoá hình thức hình thức huy động vốn theo phương châm “đi vay để cho vay” chủ yếu là huy động tại chỗ để đầu tư tại chỗ. Tích cực tham gia vào thị trường vốn của ngân hàng nhằm tạo nguồn vốn cho đầu tư tín dụng. Gắn việc huy động tiền gửi với việc cung cấp tín dụng, tạo ý thức tiết kiệm và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn dân, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền… Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Yên Lạc em đã nghiên cứu và mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc”. Kết cấu chuyên đề gồm: Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về ngân hàng và tín dụng ngân hàng. Phần II: Thực trạng công tác huy động vốn và vay vốn của NHNo & PTNT Yên Lạc. Phần III: Giải pháp huy động vốn và cho vay vốn của NHNo & PTNT Yên Lạc. Với trình độ còn hạn chế nên bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể nhận thức được vấn đề một cách sâu sắc hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT và các cơ quan hữu quan huyện Yên Lạc đã tận tình giúp đỡ, cung cấp số liệu. Em xin cảm ơn các thầy cô trong khoa KTNN & PTNT trường ĐH KTQD HN và đặc biệt là TS Đào Duy Cầu đã tận tình giúp em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đê tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGÂN HÀNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG. I. NGÂN HÀNG NHNo & PTNT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Lịch sử hình thành. Ngân hàng NHNo & PTNT được hình thành và phát triển qua một quá trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỉ từ XV-XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau, đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng. Sang thế kỉ thứ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện các chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân hàng được phân làm hai nhóm: + Thứ nhất là các ngân hàng được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành sau chuyển thành NHTƯ. + Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế gọi là ngân hàng trung gian. Đây là một mắt xích cực kỳ quan trọng nối NHTƯ với nền kinh tế, cũng như là cầu nối để những người có vốn với những người cần vốn trong xã hội gặp nhau. Thời kỳ đầu khi mới thực hiện phân hoá hệ thống ngân hàng, các ngân hàng trung gian thực hiện tất cả các hoạt động như nhận tiền gửi, cho vay và làm các nhiệm vụ thanh toán. Ban đầu chủ yếu là nhận tiền gửi không kỳ hạn, cho vay ngắn hạn. Về sau nhận cả cho vay trung và dài hạn bằng nguồn vốn trung hạn, dài hạn do huy động tiền gửi và phát hành chứng khoán. Hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển với sự phát triển của thị trường chứng khoán đòi hỏi hình thành nên những ngân hàng, những trung gian tài chính chuyên hoạt động một lĩnh vực nào đó, đã phân chia các ngân hàng trung gian thành các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực riêng: NHNo & PTNT, NHĐT,…trong đó ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ đạo. 2. Khái niệm ngân hàng. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Theo luật ngân hàng Pháp năm 1914: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận tiền gửi cho công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Luật ngân hàng Ấn Độ năm 1950, được bổ xung năm 1959 đã nêu: “ ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Ở Việt Nam, theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào ngày 23/05/1990: “Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ triết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Sau khi có luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng thì tại điều 20 luật các tổ chức tín dụng đã nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Tóm lại ta nhận thấy các NHNo & PTNT đều có chung một tính chất là việc nhận tiền kí thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. 3. Vai trò của ngân hàng NHNo & PTNT. 3.1 NHNo & PTNT là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân phải mở rộng quy mô cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế, làm được điều này phải có vốn. Ngược lại khi nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ tạo ra nhiều vốn. NHNo & PTNT là chủ thể chính cung cấp vốn cho sản xuất kinh doanh. NHNo & PTNT đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp…trong nền kinh tế. Bằng vốn huy động được trong xã hội, thông qua nghiệp vụ tín dụng NHNo & PTNT đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng vốn kịp thời cho quá trình tái sản xuất. 3.2 NHNo & PTNT là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường. Trong điều kiện kinh tế thị trường hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan vì thế sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường trên mọi phương diện. Để làm được điều này doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng lao động, cải tiến máy móc, công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất…Những hoạt động này đòi hỏi có một lượng vốn đầu tư lớn nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết doanh nghiệp tìm đến ngân hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu về vốn của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. 3.3 NHNo & PTNT là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng nghiệp vụ tín dụng và thanh toán giữa các NHNo & PTNT trong hệ thống, các NHNo & PTNT đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHNo & PTNT thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô “ nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”. 3.4 NHNo & PTNT là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Sự phát triển kinh tế mỗi nước luôn gắn liền với sự phát triển toàn thế giới. NHNo & PTNT cùng hoạt động kinh doanh của mình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Thông qua các hoạt động thanh toán, mua bán ngoại hội, quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, hệ thống NHNo & PTNT đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. 4. Chức năng của NHNo & PTNT. 4.1 Chức năng trung gian tín dụng. Đây là chức năng đặc trưng nhất của NHNo & PTNT. NHNo & PTNT nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cho vay. Chính là đã chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư. Người có tiền dư thừa có thể mua công cụ tài chính như: cổ phiếu, trái phiếu…trực tiếp thông qua thị trường tài chính. Tuy nhiên tài chính trực tiếp đôi khi không mang lại hiệu quả cao nhất cho nhà đầu tư vì người có tiền đầu tư và người sử dụng tiền đầu tư thiếu thông tin chính xác về nhau, hay phí giao dịch quá lớn và do đó rủi ro đầu tư là tương đối cao. Chính vì những hạn chế đó mà các trung gian tài chính ra đời và phát triển rất nhanh, điển hình là các NHNo & PTNT. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú và chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực NHNo & PTNT đã thực sự góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. 4.2 Chức năng trung gian thanh toán. NHNo & PTNT thực hiện chức năng này trên cơ sở huy động mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu khách hàng: Trích tiền thanh toán hàng hoá, dịch vụ nhập tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế: + Thứ nhất: thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn, cho phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh tróng, chính xác và hiệu quả. + Thứ hai: Việc cung ứng một dịch vụ thanh toán có chất lượng làm tăng uy tín cho khách hàng do đó tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút nguồn vốn tiền gửi. + Thứ ba: Việc thanh toán không dùng tiền mặt được mở rộng giúp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát lượng tiền trong lưu thông cua NHTƯ. 4.3 Chức năng tạo tiền. Với khoản tiền gửi mới tăng lên ban đầu do khách hàng gửi vào hệ thống hoặc số dự trữ tăng thêm do NHTƯ tiếp vốn cho NHNo & PTNT qua hoạt động tái cấp vốn hoặc hoạt động qua nghiệp vụ thị trường mở thi hệ thống NHNo & PTNT có thể mở rộng khối lượng tiền tối đa theo công thức: Khả năng mở rộng tiền tối đa = Số tiền gửi mới tăng thêm x 1/Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Điều kiện thực hiện mở rộng tiền gửi tối đa là sự kết hợp hai chức năng: Trung gian tín dụng và trung gian thanh toán. Bởi vì thông qua chức năng làm trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay được lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ. Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện nhiệm vụ cho vay thì ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. 5. Các nghiệp vụ cơ bản của NHNo & PTNT. 5.1 Nghiệp vụ thuộc tài sản nợ. Đây là nghiệp vụ quan trọng nhất của NHNo & PTNT vì nó chính là nghiệp vụ tạo vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. NHNo & PTNT là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên vốn lại càng quan trọng. Chỉ khi ngân hàng là tổ chức được một nguồn vốn đủ lớn và ổn định thì ngân hàng mới có thể mở rộng được hoạt động kinh doanh của mình. 5.2 Vốn tự có. Vốn tự có của NHNo & PTNT là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHNo & PTNT song nó là điều kiện cần thiết khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể sử dụng chủ động vào các mục đích khác nhau: Trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định…phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin đối với khách hàng. 5.3 Nghiệp vụ cho vay. Đây là nghiệp vụ tạo ra khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các NHNo & PTNT. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh lợi của ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn và trung hạn đối với nền kinh tế. 5.4 Nghiệp vụ trung gian. Nghiệp vụ trung gian là hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT liên quan đến nghiệp vụ bên có và bên nợ. Nghiệp vụ này có xu hướng ngày càng phát triển mạnh và mang lại nguồn lợi không nhỏ cho ngân hàng. Bản chất của nghiệp vụ này là nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu nào đó của khách hàng. NHNo & PTNT có khả năng cung cấp, trên cơ sở đó làm tăng thu nhập cho ngân hàng: Séc thanh toán, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng… Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ: Làm đại lý phát hành chứng khoán, nghiệp vụ uỷ thác đầu tư… II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1. Khái niệm về vốn. Vốn của NHNo & PTNT là những giá trị tiền tệ do NHNo & PTNT tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Thực chất nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn, tiền tệ cho ngân hàng để rồi ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời chính hoạt động đó lại quyết định sự phát triển kinh doanh của ngân hàng. Nhìn chung vốn chi phối mọi hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHNo & PTNT. 2. Khái niệm về tín dụng. Tín dụng ra đời từ rất sớm cùng với sự phân công lao động và sở hữu tư nhân về tư liệu sản suất. Trong những năm qua có nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra định nghĩa tín dụng. + Theo quan điểm của Mác thì “ Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu với một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng một thời gian nhất định, nó lại quay lại người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn ban đầu”. + Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: “ Tín dụng là lòng tin, nghĩa là cho vay tin tưởng và người đi vay sử dụng vốn đúng mục đích hiệu quả và hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời gian quy định”. + Một số tác giả cho rằng “ Tín dụng là việc sử dụng vốn của người khác và hứa sẽ trả sau”. Như vậy, nói cách khác tín dụng là quan hệ vay mượn bằng tiền hoặc hàng hoá trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi suất một thời gian nhất định giữa người đi vay và người cho vay. 3. Bản chất của tín dụng. Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay và giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động giá trị tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình vận động được khái quát qua các giai đoạn sau: Giai đoạn 1: giai đoạn phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hoá được chuyển từ tay người dùng sang người đi vay. Đây là giai đoạn cơ bản khác với việc mua bán hàng hoá thông thường là khi vay giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay mà không thay đổi hình thái tồn tại. Giai đoạn 2: Bên vay sử dụng toàn bộ giá trị nguồn vốn vay như phần tài sản của mình lúc này người đi vay chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu vốn tín dụng. Giai đoạn 3: Là giai đoạn cả gốc và tiền lãi được hoàn trả cho người cho vay. Đây là giai đoạn cuối kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng và sự hoàn trả tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với phạm trù kinh tế khác. 4. Phân loại tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú. Người ta thường dựa vào tiêu thức sau để phân loại tín dụng: + Theo thời hạn cho vay, tín dụng gồm: Tín dụng ngắn hạn (dưới một năm), tín dụng trung hạn (từ 1-5 năm), tín dụng dài hạn (trên 5 năm). + Theo đối tượng tín dụng, tín dụng gồm: Tín dụng vốn lưu động cho vay để hình thành tài sản lưu động, tín dụng vốn cố định cho vay để hình thành tài sản cố định. + Theo mục đích sử dụng vốn, phân thành: Tín dụng sản suất và lưu thông hàng hoá được cấp cho các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh và tín dụng tiêu dùng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. + Theo chủ thể tín dụng, gồm tín dụng thương mại (quan hệ tín dụng được biểu hiện dưới hình thức mua bán hàng hoá), tín dụng ngân hàng (quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác, với các nhà doanh nghiệp và cá nhân), tín dụng nhà nước (quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư hoặc các tổ chức kinh tế xã hội khác), tín dụng tư nhân, cá nhân (quan hệ tín dụng giữa cá nhân và tư nhân cho vay nặng lãi hay giữa các cá nhân với nhau), tín dụng thuê mua (quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp là người thuê với các tổ chức tín dụng thuê mua). + Theo phương diện tổ chức tín dụng chính thức và tín dụng không chính thức. “Tín dụng chính thức là hình thức tín dụng được tổ chức theo luật định của quốc gia, bao gồm các ngân hàng Nhà nước và ngân hàng tư nhân, hợp tác xã tín dụng và một số hình thức khác tín dụng không chính thức là tín dụng do các tổ chức cá nhân nằm ngoài các tổ chức đã kể trên thực hiện. 5. Vai trò của vốn tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng ra đời tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá bởi nó gắn liền với sự phân công lao động xã hội và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó bất kỳ xã hội nào có sản xuất hàng hóa thì tất yếu phải có sự hoạt động của tín dụng. Trong những năm qua, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường đã thực sự đi vào đời sống kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam. Trong nông nghiệp, nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, đầu tư vốn mua sắm tư liệu, công cụ sản xuất, hướng vào đầu tư nuôi trồng cây con có giá trị kinh tế, từ đó cơ sở vật chất của người dân được bảo vệ và nâng cao. Để đạt được những thành tựu to lớn và để tiếp tục duy trì sản xuất mang lại những cơ hội tốt nhất cho sản xuất kinh doanh thì vốn tín dụng đã trở thành công cụ đắc lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và không thể thiếu được đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vốn tín dụng có những vai trò sau: * Góp phần đáp ứng nhu cầu đầu tư thâm canh từ đó góp phần khai thác mọi tiềm năng về đất đai ở đồng bằng, trung du, đồi núi, ven biển; lao động và tài nguyên địa phương. * Góp phần hình thành thị trường vốn ở nông thôn. Thị trường vốn tín dụng chính là cầu nối để người cần vốn đến người có vốn nhàn rỗi dễ dàng hơn. Chính vì vậy, đây là yếu tố quan trọng để giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế ở nông thôn. * Góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Nhờ có vốn tín dụng mà hệ thống đường xá, mương máng, cơ sở vật chất của nhiều vùng nông thôn được cải tạo, hoặc xây dựng mới. Theo đó các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến được với người dân dễ dàng hơn. * Góp phần khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cổ truyền, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập từng bước xoá đói, giảm nghèo. * Góp phần giải quyết các biến động và hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Hoạt động nông nghiệp có tính thời vụ rõ nét nên nhu cầu về chi tiêu và thu nhập thường không trùng khớp về thời gian. Sử dụng tín dụng có thể giảm bớt căng thẳng về vốn và chênh lệch thu, chi trong năm, từ đó chống lại những rủi ro có thể xảy ra làm giảm thu nhập, nhiều khả năng thanh toán. * Góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp, phát triển kinh tế đất nước. III. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHNo & PTNT 1. Hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Hệ thống ngân hàng Việt Nam tổ chức như sau: * Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng quản lý tiền tệ của Nhà nước. * Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và được phân làm 4 loại: - Ngân hàng thương mại quốc doanh gồm: + Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, thương nghiệp và dịch vụ. + Ngân hàng Ngoại thương kinh doanh chủ yếu trong ngành xuất khẩu, tổ chức thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và các dịch vụ ngoại hối khác. - Ngân hàng thương mại cổ phần. - Ngân hàng liên doanh được thành lập do sự liên kết giữa ngân hàng thương mại Việt Nam và nước ngoài. - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. * Ngân hàng đầu tư và phát triển nhận vốn từ ngân sách Nhà nước, chủ yếu để đầu tư trong các dự án của Nhà nước về phát triển kinh tế. * Công ty tài chính chủ yếu cho vay để mua hàng hoá và dịch vụ bằng nguồn vốn riêng hay huy động vốn của dân. * Hợp tác xã tín dụng thuộc sở hữu của xã viên có mục đích huy động vốn của xã viên và cho xã viên vay để sản xuất hay tiêu dùng. Ngân hàng có chức năng sau: - Chức năng tạo nguồn tài chính và sử dụng vốn: Ngân hàng thực chất đi huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, lấy vốn đó cho nền kinh tế vay để phát triển kinh doanh và cải thiện đời sống. Ngân hàng một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội từ các doanh nghiệp, hộ gia đình, các cơ quan và tổ chức. Mặt khác, ngân hàng dùng chính số tiền đã huy động được cho vay đối với các thành phần kinh tế khi chúng tạm thời thiếu vốn. Thông qua chức năng này ngân hàng góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế. - Chức năng thanh toán: Ngân hàng thực hiện phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá, dịch vụ của xã hội với các hình thức thanh toán phù hợp, thủ tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến. Vì vậy, việc thanh toán trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm. - Chức năng dịch vụ khác: Ngân hàng đảm nhận một số dịch vụ khác cho khách hàng: Sử dụng dịch vụ chuyển séc, tiền mặt, ngoại tệ, nhận lệnh phát hành, mua, bán cổ phiếu, trái phiếu. Chính ngân hàng cũng đầu tư mua bán trái phiếu để kiếm lợi nhuận. Ngoài ra, ngân hàng kết hợp với nhiều ngân hàng ở trong nước và ngoài nước thiết kế dự án lớn để tài trợ cá nhân và doanh nghiệp. 2. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 2.1 Hệ thống tổ chức “Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt là ngân hàng nông nghiệp Việt Nam) là doanh nghiệp nhà nước dạng đặc biệt, bao gồm các thành viên có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng, đầu tư phát triển nông thôn và các dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính - tiền tệ - ngân hàng” Là một ngân hàng thương mại nhưng đặc thù riêng của NHNo & PTNT Việt Nam là mọi hoạt động kinh doanh chủ yếu đều gắn với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, xây dựng và tổ chức mạng lưới rộng đến tận thôn xã, bản làng, huy động và cho vay tại chỗ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tiết kiệm chi phí và giảm bớt phiền hà. Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam có chức năng cung cấp tín dụng khu vực nông thôn, chính thức được thành lập theo quyết định số 400CT ngày 14/11/1999 của hội đồng bộ trưởng với tư cách là ngân hàng thương mại của nhà nước và là một tổ chức tài chính tín dụng lớn nhất ở khu vực nông thôn. Khi thành lập ngân hàng chỉ có 30.000 cán bộ công nhân viên và 500 chi nhánh cấp huyện. Đến năm 1997, ngân hàng được đổi tên là NHNo và PTNT Việt nam. Đặc biệt sau khi có quyết định 67/TTG của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng của ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đã thúc đẩy việc xã hội hoá hoạt động của ngân hàng, khắc phục được nhiều trở ngại trong quan hệ tín dụng giữa nông dân với ngân hàng, thủ tục điều kiện vay vốn được nới lỏng, mạng lưới ngân hàng đã được mở rộng tới tận thôn, xã. Hiện nay, hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam được phân thành 4 cấp: Cấp I: Ngân hàng Trung ương (NHNo & PTNT Việt Nam) Cấp II: Chi nhánh NHNo & PTNT cấp tỉnh. Các chi nhánh này được đặt tại các tỉnh, thành trong cả nước có chức năng huy động và cung cấp tín dụng trong phạm vi tỉnh. Cấp III: Chi nhánh NHNo & PTNT cấp huyện có chức năng huy động và cung cấp tín dụng trong phạm vi huyện. Cấp IV: Chi nhánh NHNo & PTNT cấp xã, cụm xã. Đến nay ngân hàng đã có 2.600 chi nhánh lớn nhỏ đến tận làng, xã, liên xã với gần 105.000 nhân viên thường xuyên bám sát địa bàn nông thôn được biên chế trong hàng nghìn tổ cho vay lưu động, hàng trăm xe ô tô lưu động. Đặc biệt chỉ riêng khu vực đồng bằng Sông Hồng, hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam đã có 271 đơn vị ngân hàng các cấp, trong đó ngân hàng cấp IV (liên xã) là 155 chi nhánh. NHNo & PTNT là ngân hàng thương mại duy nhất có mạng lưới trên toàn quốc. Mở rộng mạng lưới xuống tận cấp huyện vùng sâu, vùng xa là chiến lược phát triển lâu dài của ban lãnh đạo NHNo & PTNT Việt Nam từ đó tạo ra ưu thế cạnh tranh của mình, đảm bảo kênh chuyển vốn và phục vụ mọi đối tượng khách hàng. Khách hàng có thể gửi một nơi và lĩnh nhiều nơi. NHNo&PTNT Việt Nam Ngân hàng cấp II (cấp tỉnh) Ngân hàng cấp III (cấp huyện) Ngân hàng cấp IV (cấp xã) Ngân hàng cấp III (cấp huyện) Ngân hàng cấp IV (cụm xã) Ngân hàng cấp IV (cụm xã) Ngân hàng cấp IV (cụm xã) Sơ đồ: Hệ thống tổ chức Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 2.2 Vai trò của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. * Vai trò trung gian tài chính: “Sự phát triển của nền kinh tế thường xuyên phát sinh nhu cầu về vốn rất lớn và cũng xuất hiện khả năng cung ứng vốn của các cá nhân và tổ chức có vốn nhàn rỗi”. Từ đó xảy ra một thực trạng là có nhiều cá nhân và tổ chức không có hoặc không có đủ vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh. Mâu thuẫn giữa hiện tượng thừa và thiếu vốn phát sinh trong quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có hình thức tổ chức giải quyết mâu thuẫn này. Trước thực tế đó thì việc hình thành các tổ chức tài chính, tín dụng trung gian nói chung và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng tham gia vào lĩnh vực cung cấp vốn tín dụng để phát triển kinh tế nông thôn là một yêu cầu cần thiết. NHNo&PTNT huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, lấy vốn đó cho vay để phát triển sản xuất kinh doanh và cải thiện đời sống. Nó là trung gian tài chính quan trọng để đưa vốn tạm thời thừa sang cho người thiếu vốn. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình tái sản xuất ngày càng cao, càng cần đến vai trò của NHNo & PTNT. *Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông thôn: NHNo & PTNT chính là đơn vị duy nhất trong ngành ngân hàng bám sát và thực hiện đắc lực cho quá trình chuyển đổi kinh tế nông thôn, đã mở ra và thực hiện thành công việc cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Cùng với các tổ chức tín dụng khác, NHNo & PTNT đã góp phần thực hiện thành công các chương trình dự án của chính phủ như chương trình cho vay người nghèo, chương trình cho vay thu mua lương thực, chương trình mía đường. * Góp phần nâng cao năng lực, dân trí, kiến thức kinh doanh cho đối tượng sử dụng vốn: Các chi nhánh NHNo & PTNT có tác dụng mạnh mẽ, tiếp cận gần hơn với các hộ sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, góp phần khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống. * Góp phần thực hiện các chính sách của nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và người nghèo. Điều này thể hiện qua việc NHNo & PTNT ngoài hoạt động thương mại còn làm dịch vụ cho các ngân hàng chính sách như: Ngân hàng người nghèo, ngân hàng nhà ở trong điều kiện các ngân hàng này còn hạn chế về mạng lưới hoạt động. Ngoài ra, qua việc thường xuyên tiếp xúc với nông thôn, nông dân các cán bộ ngân hàng có cơ sở để phản ánh, đề đạt với chính phủ nguyện vọng của người dân và những người có quan hệ vay vốn của ngân hàng hơn. Hoạt động tín dụng của ngân hàng ngoài việc đầu tư vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn còn giúp cho người dân biết cách sử dụng, tính toán đồng vốn có hiệu quả, từng bước làm quen với sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường sôi động. Tín dụng ngân hàng đã trở thành cầu nối giữa các hộ nông dân và ngân hàng, cùng hỗ trợ nhau để cùng phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá, tiền tệ. 3. Những vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT 3.1 Hoạt động huy động vốn. Huy động vốn có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động tín dụng vì có huy động được vốn thì ngân hàng mới có nguồn vốn để thực hiện chức năng cho vay của mình. Nếu ngân hàng phát huy tốt công tác huy động vốn không những mở rộng được công tác cho vay, tăng cường cho nền kinh tế mà còn mang tới cho ngân hàng nhiều lợi nhuận. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng được huy động từ các nguồn chính sau: - Vốn huy động nhàn rỗi từ các nhà tổ chức kinh tế và các tổ chức xã hội. + Tiền gửi không kỳ hạn: chính là tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp có mở tài khoản tại ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu thanh toán. + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Tiền gửi chủ yếu từ tiền tiết kiệm của dân (lãi suất thấp). + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, phân thành: Tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng. Tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng. Tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng. -Vốn nhà nước cấp hoặc cho vay: Nhà nước trích một phần ngân sách của mình để đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Vốn uỷ thác từ các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, vốn bảo trợ, tài trợ, đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp và nông thôn theo chương trình chỉ định. - Vốn từ phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có mục đích, các chứng chỉ tiền gửi. 3.2 Hoạt động cho vay vốn. Cùng với hoạt động huy động vốn thì hoạt động cho vay vốn là hoạt động rất quan trọng và cần thiết. NHNo & PTNT thu lợi nhuận chủ yếu bằng cách cho vay. Hoạt động cho vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo vừa phục vụ tốt cho sự phát triển kinh tế trên địa bàn, vừa mang lại hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng thường cho vay vốn với các mục đích. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Dịch vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và sản phẩm tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Đối tượng vay vốn của ngân hàng là các doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể, đặc biệt là hộ gia đình nông dân có nhu cầu vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh. Đối với từng đối tượng cụ thể thì ngân hàng áp dụng quy chế về cho vay, mức lãi xuất, thời hạn và mức cho vay phù hợp theo đúng quy định. Để hoà nhập vào thị trường chung thì hiện nay NHNo & PTNT đã không bó hẹp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn mà còn mở rộng ra khỏi khu vực nông thôn trong lĩnh vực tín dụng sản xuất và tiêu dùng. 3.3 Lãi suất tín dụng. Lãi suất tín dụng là một trong những biến số có ảnh hưởng đến quyết định của các bên tham gia hoạt động tín dụng. Lãi suất tín dụng được định nghĩa như sau: “ Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền mà người đi vay phải trả thêm cho người vay trên số tiền vay sau một thời gian sử dụng số tiền vay đó”. Ngân hàng nói chung và NHNo & PTNT nói riêng có hai loại lãi suất là: Lãi suất huy động và lãi suất cho vay. - Lãi suất huy động: là lãi suất quy định tỷ lệ lãi ngân hàng phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng. - Lãi suất cho vay: Là lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho ngân hàng. +_- +_- +_- = = Lãi suất Lãi suất Chi phí Rủi ro Lợi nhuận của Cho vay huy động hoạt động tối thiểu ngân hàng Vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải điều chỉnh cả hai mức lãi suất sao cho vừa có thể đáp ứng được yêu cầu của khách hàng có tiền nhàn rỗi cũng như các cá nhân và các tổ chức có nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh vừa đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. 3.4 Chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của người vay phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng phù hợp với thực lực bản thân ngân hàng, tạo điều kiện gia tăng khả năng sinh lời sản phẩm dịch vụ do giảm được các loại chi phí, giảm sự chậm trễ, giúp ngân hàng thực hiện được nhiệm vụ và phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thoả mãn yêu cầu tín dụng của khách hàng về các khoản tín dụng, phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng, tạo cho ngân hàng có được những khách hàng trung thành. Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Chất lượng tín dụng góp phần phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, góp phần vào sự phát triển đi lên của kinh tế - xã hội địa phương. Với ưu thế trên, việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với NHNo & PTNT là sự cần thiết khách quan. Nếu hiểu được một cách đúng đắn bản chất của chất lượng tín dụng cũng như xác định được nguyên nhân tồn tại của chất lượng tín dụng sẽ giúp ngân hàng có sự quản lý, tổ chức hoạt động chặt trẽ để duy trì nâng cao được chất lượng tín dụng. 3.5 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng. * Các chỉ tiêu xác định khối lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Doanh số huy động vốn (tổng nguồn vốn huy động). - Doanh số cho vay (tổng số vốn cho vay). - Doanh số huy động và cho vay trên một cán bộ ngân hàng. - Số lượng đơn vị, cá nhân vay vốn từ ngân hàng. Các chỉ tiêu này tăng lên thì hoạt động tín dụng của ngân hàng tăng lên. * Các chỉ tiêu xác định kết quả hoạt động tín dụng của ngân hàng: - Doanh thu: bao gồm thu từ hoạt động cho vay vốn của ngân hàng (lãi cho vay, lệ phí). - Lãi: Là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Chi phí gồm chi trả lãi tiền gửi cho các cá nhân và tổ chức có vốn nhàn rỗi, chi phí hoạt động khác của ngân hàng. Lãi là kết quả quan trọng nhất của ngân hàng vì với một doanh nghiệp thì lãi càng cao càng tốt. * Các chỉ tiêu xác định hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ lãi so với doanh thu = (%) Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất. Khi chỉ tiêu này âm, tức là ngân hàng hoạt động bị lỗ, bằng không là hoà vốn và dương tức là hoạt động của ngân hàng có lãi. Vậy chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. - Doanh thu tính trên một cán bộ ngân hàng: chỉ tiêu này nói lên hiệu quả sử dụng lao động của ngân hàng. - Tốc độ luân chuyển vốn: Tốc độ luân chuyển vốn càng tăng thì ngân hàng hoạt động càng có hiệu quả. Tốc độ luân chuyển vốn = * Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ sử dụng vốn = (%) Tỷ lệ nợ quá hạn = (%) Chỉ tiêu này cho biết tinh hình sử dụng vốn, hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng tốt nguồn vốn huy động được. IV. CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI. Quá trình phát triển kinh tế những thập niên gần đây của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy nền kinh tế tăng trưởng nhanh hay chậm, thậm trí suy thoái, nó phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách kinh tế vĩ mô với vai trò là những công cụ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế ở Mỹ La Tinh năm 1984, ở Đông Nam Á những năm cuối thập kỷ 90 vừa cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc chọn lựa và hoạch định một cách đúng đắn và phù hợp các chính sách tài chính, tiền tệ trong đó có chính sách tín dụng. Các nước đều sử dụng chính sách tín dụng làm công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các định hướng phát triển kinh tế, với các mục tiêu khai thác tối đa và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên cơ sở ổn định kinh tế, kiềm chế lạm phát, định hướng và tạo tiền đề cho các hoạt động tín dụng của các tổ chức trung gian tài chính phát triển. Tuy nhiên do sự khác nhau của cơ chế quản lý và nền tảng kinh tế mỗi nước làm cho chính sách tín dụng cuả mỗi nước có những điểm khác biệt. Do đó, việc tổng hợp những kinh nghiệm, chắt lọc từ thực tiễn phong phú, đa dạng của các nước trong khu vực và một số nước Châu Á có ý nghĩa tham khảo bổ ích vận dụng cho Việt Nam. - Chính sách tín dụng hướng vào phát triển thị trường tín dụng tự do cạnh tranh. Các nước có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước phát triển trên thế giới, kinh tế thị trường đạt mức phát triển cao thì sự hoàn hảo của các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường tín dụng gần như đạt đến đỉnh cao của nó. Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á như Đài Loan, Singapo đã và đang áp dụng chính sách khích lệ các thị trường vốn, tín dụng và gia tăng tài chính nhằm mở rộng phạm vi dịch vụ, thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Các nước này đã đổi mới chính sách tín dụng theo hướng tạo cơ sở cho sự đa dạng hoá các nghiệp vụ tín dụng, các hình thức dịch vụ và các loại hình tổ chức tín dụng. Ở Đài Loan là một ví dụ, có rất nhiều loại hình tổ chức tín dụng phát triển một thị trường tín dụng sôi động trong một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. - Chính sách tín dụng đảm bảo vai trò kiểm soát của chính phủ đối với hoạt động tín dụng. Đối với các nước có nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu như: Bangladesh, Philippines, Việt Nam đều khẳng định: Để thực hiện một bước công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì vai trò can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực tài chính đẻ tạo nguồn vốn đầu tư có khối lượng lớn, lãi suất thấp, thời hạn dài là rất cần thiết. Ngoài việc đặt nền móng cho một hệ thống các chính sách tài chính, tiền tệ vững mạnh, hầu hết chính phủ các nước đều quan tâm tới việc can thiệp vào các hoạt động tín dụng, nhằm hướng các nguồn vốn vào các lĩnh vực kinh tế quan trọng. Để thực hiện vấn đề này, chính phủ một số nước đã thành lập ra các định chế tài chính có chức năng chuyên trách cung ứng các khoản tín dụng chính sách cho các đối tượng cần thiết như là ngân hàng người nghèo (Bank for Agricultural Cooperative) ở Thái Lan. Ngoài ra cũng có nhiều nước thực hiện chính sách cung cấp đủ 100% vốn tự có cho một ngân hàng thương mại để làm nhiệm vụ cho vay chính sách, ưu đãi các ngân hàng thương mại khác có trách nhiệm dành một phần vốn huy động chuyển cho ngân hàng chính sách để bổ xung cho nguồn vốn cho vay. Điển hình của mô hình này là các nước Ấn Độ, Thái Lan, Myanma. - Xây dựng chính sách tín dụng mở và hướng tới tự do hoá trong kinh tế thị trường. Nhiều nước phát triển và đang phát triển đã thực hiện từng bước để tự do hoá hệ thống tài chính trong thập kỷ vừa qua. Các chính sách kinh tế vĩ mô có thể xem như là nội dung cải cách, vừa là công cụ cải cách để hướng tới mục tiêu tự do hoá hệ thống tài chính. Trong đó chính sách tín dụng một phần nội dung cơ bản của tiến trình cải cách đó. Về tổng thể, hướng tới một hệ thống tài chính mở và tự do hoá các hoạt động tín dụng đã giúp cho viẹc tăng cường huyđộng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lứ còn khan hiếm. Xu hướng vận động này vừa đáp ứng những yêu cầu và đòi hỏi khách quan của cơ chế vận động kinh tế thị trường. Mặt khác bản thân sự vận động đó lại tạo điều kiện túc đẩy sự hoàn thiện và phắt triển kinh tế thị trường ở mưc độ cao hơn. PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN VÀ VAY VỐN CỦA NHNo & PTNT YÊN LẠC. I. SƠ LƯỢC VỀ NHNo & PTNT VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN. 1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của NHNo & PTNT Yên Lạc. NHNo & PTNT huyện Yên Lạc được thành lập theo quyết định 498 của tổng giám đốc NHNo Việt Nam, là chi nhánh trực thuộc đơn vị thành viên (NHNo tỉnh), bước vào hoạt động từ ngày 01/01/1996 với biên chế có 35 CBNV, nguồn vốn 3,1 tỉ, dư nợ 12,7 tỉ, cơ sở vật chất nghèo nàn (vốn trước đây là cơ sở của một phòng giao dịch thuộc NHNo Vĩnh Lạc cũ), Tuy vậy đến 31/12/2004 tổng thu nguồn vốn 81,6 tỉ tăng 0,7 tỉ, tổng dư nợ là 205.551 triệu đồng tăng 53% so với kì trước khẳng định được vị trí của mình tại địa phương cũng như trong hệ thống NHNo & PTNT. 2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Đến nay NHNo & PTNT huyện Yên Lạc có 53 cán bộ công nhân viên (trong đó 2/3 có trình độ đại học), bộ máy tổ chức như sau: - Ban giám đốc (3 người). + Một giám đốc: thực hiện nhiệm vụ theo phân chia cấp uỷ quyển, chịu trách nhiệm trước cấp trên và pháp luật, phụ trách công tác tổ chức, kế hoạch, kế toán, kiểm soát, trực tiếp là phó bí thư chi bộ. + Một phó giám đốc: phụ trách về hành chính, ngân quỹ, chủ tịch công đoàn. + Một phó giám đốc kinh doanh tín dụng. - Phòng kế toán và ngân quỹ (13 người): Tổ chức hạch toán tài sản và các hoạt động kinh doanh của đơn vị nhanh chóng, chính xác, đầy đủ và kịp thời. - Phòng kinh doanh (10 người): có nhiệm vụ xây dựng tổ chức thực hiện kế hoạch cân đối về nguồn vốn, sử dụng vốn, trực tiếp cho vay. - Công tác kiểm soát (1 người): có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ. - Phòng hành chính (4 người): có nhiệmvụ quản lý nhân sự, tiền lương và hành chính. - Có 3 ngân hàng liên xã: + Ngân hàng liên xã Nguyệt Đức: huy động và cho vay trên địa bàn 5 xã. + Ngân hàng liên xã Đồng Văn: huy động và cho vay trên địa bàn 4 xã. + Ngân hàng liên xã Liên Châu: huy động và cho vay trên địa bàn 4 xã. Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHNo & PTNT huyện Yên Lạc như sau: Giám đốc Các phó giám đốc Kiểm tra kiểm toán nội bộ Phòng nghiệp vụ kinh doanh Phòng kế toán và ngân quỹ Phòng Hành chính Các ngân hàng liên xã 3. Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Yên Lạc. Huyện Yên Lạc là một trong tám huyện và thị xã của tỉnh Vĩnh Phúc với 16 xã và thị trấn có vị trí địa lí như sau: - Phía Đông giáp với huyện Bình Xuyên và Mê Linh. - Phía Tây giáp huyện Vĩnh Tường. - Phía Nam giáp tỉnh Hà Tây. - Phía Bắc giấp thị xã Vĩnh Yên. Diện tích đất tự nhiên là 10.672 ha, trong đó đất nông nghiệp là 7.780 ha (chiếm 72,9%). Dân số toàn huyện tính đến năm 2005 là 129.349 người (chiếm 91,5%) với 72.778 lao động và 30.520 hộ trong đó nông nghiệp là 27.830 hộ (chiếm 91%). Năm 2005 huyện có những khó khăn và thuận lơi sau: * Thuận lợi: Kinh tế chung của cả nước, của tỉnh ở mức tăng trưởng khá. Các mục tiêu kinh tế của huyện đạt và vượt mức kế hoạch đề ra, chuyển dịch kinh tế mạnh, chú trọng phát triển ngành nghề, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao. Chính trị ổn định, an ninh quốc phòng đảm bảo, xây dựng nông thôn, cơ sở hạ tầng… đều được quan tâm và đạt hiệu quả. Năm 2001 huyện được vinh dự đón nhận “Huân chương lao động hạng ba”, “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang trong thời kì chống Pháp” là động lực phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của huyện phát triển. * Khó khăn: Yên Lạc là huyện sản xuất nông nghiệp, thu nhập người dân phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp. Nhưng trong khi chi phí sản xuất cao thì giá bán và khả năng tiêu thụ còn thấp, mô hình kinh tế lớn chưa nhiều lại chịu ảnh hưởng lớn của thiên nhiên, thời tiết nên đời sống người dân gặp phải nhiều khó khăn. Một số giống mới trong chăn nuôi được triển khai như: bò sữa, tằm…cho năng suất cao nhưng giá còn thấp, tỉ suất lợi nhuận đem lại chưa cao. Một số mặt hàng rớt giá …Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến thu nhập người nông dân. Hoạt động ngân hàng đan xen và cạnh tranh gay gắt (có 5 tổ chức tín dụng cùng hoạt động và cạnh tranh trên địa bàn). Cùng với sự đổi mới của đất nước, phát huy những điều kiện thuận lợi và khai thác những tiềm năng vốn có của địa phương đồng thời khắc phục những khó khăn trước mắt năm 2005 huyện Yên Lạc đã đạt được những kết quả đáng kể, trong đó: II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHNo & PTNT YÊN LẠC 1. Thực trạng nguồn vốn của NHNo & PTNT Yên Lạc. Thực hiện mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn, tạo tiền đề vững chắc để mở rộng kinh doanh và đầu tư tín dụng NHNo & PTNT Yên Lạc đã thể hiện một vai trò quan trọng của một ngân hàng thương mại hoạt động trên cơ sở nguồn vốn đi vay để cho vay là chính. Việc thể hiện đa dạng các nguồn vốn, các hình thức huy động vốn trong dân cư đã làm cho nguồn vốn của ngân hàng phong phú hơn, không bó hẹp trong khuôn khổ nguồn vốn Trung ương cấp hay một vài hình thức huy động tiết kiệm nhỏ hẹp như trước nữa. Nguồn vốn của ngân hàng hiện nay được huy động từ ba nguồn chính: Nguồn vốn huy động tại địa phương, nguồn vốn của ngân hàng thế giới (WB), nguồn vốn ưu đãi hộ nghèo. Hiện tại NHNo & PTNT Yên Lạc đang dần thực hiện lãi suất linh hoạt hơn với phương hướng tối đa hoá lãi suất huy động và tối thiểu hoá lãi suất cho vay trong khung lãi suất cho phép. Phương châm này vừa đảm bảo lợi ích cho khách hàng mặt khác thu hút khá triệt để nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư trong khi đó vẫn đảm bảo thu nhập của ngân hàng. Chính vì vậy mà nguồn vốn ngân hàng liên tục được tăng qua các năm. Chỉ tiêu 2003 2004 2005 So sánh(%) Số lượng (tr.đồng) Cơ cấu (%) Số lượng (tr.đồng) Cơ cấu (%) Số lượng (tr.đồng) Cơ cấu (%) 2004/2003 2005/2004 BQ Tổng nguồn vốn 391.716 100 425.658 100 553.840 100 108,66 130,11 118,90 I Nguồn nội tệ 340.504 86,93 361.658 84,96 468.696 84,63 106,21 129,60 117,32 1.Huy động tại ĐP 324.000 95,15 342.051 94,58 441.399 94,20 105,57 129,08 116,73 - Tiền gửi tiết kiệm 279.409 86,24 289.584 84,66 369.182 83,61 103,64 127,79 114,95 - Phát hành kỳ phiếu 16.262 5,02 27.416 8,02 37.494 8,49 168,59 136,76 151,84 - Tiền gửi các tổ chức kinh tế 28.329 8,74 25.051 7,32 34.860 7,90 88,43 139,16 110,93 2.Nguồn vốn uỷ thác 9.453 2,78 15.534 4,29 21.798 4,65 164,33 140,32 151,85 3.Nguồn vốn ưu đãi hộ nghèo 7.051 2,07 4.073 1,13 5.362 1,15 57,76 131,65 87,26 II Ngoại tệ 51.212 13,07 64.000 15,04 85.144 15,37 124,97 133,04 128,94 Bảng 1: Kết quả huy động vốn của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc Nguồn: Phòng kinh doanh NHNo & PTNT Yên Lạc Qua bảng 1 ta thấy, tổng số vốn huy động tăng nhanh qua các năm bình quân 3 năm tăng 18.09%. Cụ thể năm 2003 là 391.716 triệu đồng, năm 2004 là 425.658 triệu đồng tăng 8,66% so với năm 2003, năm 2005 là 553.840 triệu đồng tăng 128.182 triệu đồng tương ứng với 30,11% so với năm 2004. - Nguồn vốn huy động từ nội tệ chiếm tỉ trọng chủ yếu trong tổng số vốn huy động của ngân hàng, bình quân 3 năm tăng 17,32% trong đó: + Nguồn vốn huy động tại địa phương: chiếm tỉ trọng chủ yếu 90% trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Điều đó chứng tỏ công tác huy động vốn trong dân cư của ngân hàng là rất tốt, tiềm năng về vốn nhàn rỗi trong nhân dân Yên Lạc là nhiều và huy động vốn chiếm vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc tạo nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Chúng ta thấy nguồn vốn huy động tại địa phương không ngừng được tăng lên cả về số lượng và cơ cấu: Năm 2003 là 324.000 triệu đồng, năm 2004 là 342.051 triệu đồng tăng 5.57% so với 2003 và năm 2005 là 441.536 triệu đồng chiếm 90.24 % trong tổng nguồn vốn nội tệ của ngân hàng tăng hơn năm 2005 là 29.08 %. Bình quân 3 năm tăng 16.73% . NHNo & PTNT huyện Yên Lạc đặc biệt chú trọng đến công tác huy động vốn, nhất là các huy động tại địa phương được huy động tại địa phương bằng tiền gủi tiết kiệm, tiền gửi kỳ phiếu và tiền gửi các tổ chức kinh tế. Trong đó: - Nguồn vốn tiết kiệm chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu huy động vốn tại địa phương, thường chiếm từ 80-85%. Đạt được kết quả như vậy là do công tác huy động vốn ngày một tốt hơn, tạo được lòng tin tốt hơn với nhân dân, gửi tiền vào, rút tiền ra thuận tiện nhanh chóng. Vì vầy, qua 3 năm hình thức gửi tiết kiệm này đã huy động được số lượng vốn tương đối khá cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Năm 2004 số tiền gửi tiết kiệm tăm chậm so với năm 2003 tăng 10.175 triệu tương ứng 3.64% . Sở dĩ như vậy là do vào thời điểm 25/04/2003 ngân hàng phát hành kỳ phiếu, người dân không gửi tiết kiệm nhiều hoặc rút tiền gửi tiết kiệm ra để mua kỳ phiếu, vì lãi suất của chúng luôn cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm khoảng 0.2% / tháng đến năm 2005 số lượng tiền gửi này tăng mạnh, tăng 79.598 triệu đồng so với năm 2004 chiếm 83.64% trong tổng vốn huy động tại địa phương. Lý do trên đã dẫn đến năm 2004 kỳ phiếu tăng 11.154 triệu đồng tức 65.59% so với năm 2003. Tuy nhiên ta thấy nguồn vốn này cũng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn huy động tại địa phương cũng như trong tổng vốn của ngân hàng chiếm 5.02% năm 2003 và 8.01% năm 2004, 8.49% năm 2005 trong tổng vốn huy động tại địa phương. - Ngoài các hình thức huy động vốn trên ta thấy Yên Lạc là một địa bàn có các hoạt động kinh tế diễn ra tương đối mạnh, nhiều công ty, nhiều doanh nghiệp nhưng lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế này không nhiều, chỉ chiếm một tỷ trọng 7-10% trong tổng vốn huy động tại điạ phương. Năm 2004 giảm 11,57% so với năm 2003. Nguyên nhân này cũng một phần là do các tổ chức kinh tế đã đầu tư sang của một kỳ phiếu hoặc họ gửi vào ngân hàng mà chuyển sang kinh doanh khác. Sức hút từ nguồn này còn hạn chế vì còn tuỳ thuộc vào điều kiện tài chính và của các đơn vị trên thị trường Đến năm 2005 lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế có tăng nhưng không đáng kể.Năm 2005 tăng 39.16% so với năm 2004. Mức tăng này là do các ngân hàng đã phục vụ tốt các khoản thanh toán của mình để thu hút lượng tiền gửi của các doanh nghiệp. Qua tìm hiểu được biết Doanh nghiệp thường gửi tiền vào ngân hàng số vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi suất Huy động vốn để để đảm bảo hoạt động kinh doanh gắn với đầu tư cho hoạt động kinh tế là chức năng quan trọng của ngân hàng, càng quan trọng hơn khi các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, độc lập trong kinh doanh và phải cạnh tranh với nha. Điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải khai thác có hiệu quả các nguộn vốn với khối lượng chi phí bỏ ra hợp lý. Nhìn chung trong những năm qua công tác huy động vốn của các ngân hàng có những chuyển biến tích cực, tạo ra sự tăng trưởng trong nguồn vốn và góp phần mỏ rộng khối lượng tín dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế trên địa. Tóm lại sự đa dạng hoá các hình thức huy động vốn sẽ là một cách thiết thực trong việc khuyến khích tiền nhàn rỗi vào ngân hàng. Vì vậy ngân hàng phải có những cải tiến trong cách thức gửi tiền so cho thuận tiện hơn và đa dạng hơn nữa đối với nhân dân trong huyện. + Nguồn vốn uỷ thác đầu tư từ ngân hàng thế giới( WB). Ngoài nguồn vốn tự huy động bằng chình khả năng của mình, NHNo & PTNT huyệnh Yên Lạc sử dụng hình thức tín dụng dịch vụ đó là: Nguồn vốn uỷ thác đầu tư từ ngân hàng thế giới để thực hiện cho vay hộ sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nội tệ của ngân hàng từ 2-6%. Sự tăng trưởng không đều thể hiện: Năm 2004 là 9.435 triệu đồng chiếm 5.88% tổng nguồn vốn nội tệ đến năm 2005 con số này được tăng lên là 15.534 triệu đồng tăng 64.3% so với năm 2004. Đến năm 2005 nguồn vốn này đã tăng thêm 21.798 triệu đồng tăng 40,32% so với năm 2004. Bình quân ba năm tăng 51.85%, mặc dù tăng lên như vậy nhưng nó vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần cố gắng hơn nữa để tạo cơ hội thu hút sự đầu tư của các tổ chức tài chính tăng mức huy động vốn từ nguồn uỷ thác đầu tư làm tăng tổng nguồn vốn của ngân hàng. - Nguồn vốn ưu đãi hộ nghèo. Cùng với nguồn vốn dịch vụ NHNo & PTNT Yên Lạc còn được ngân hàng chính sách xã hội uỷ thác cho một lượng vốn nhất định dành riêng cho hộ nghèo vay mà ngân hàng làm dịch vụ dải ngân. Nguồn vốn này cũng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng là 1.2%. Bình quân ba năm giảm 12,8%. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm của huyện uỷ, Uỷ ban Nhân dân và các tổ chức ngân hàng đối với các hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn sản xuất kinh doanh để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia. * Công tác huy động vốn ngoại tệ của ngân hàng tăng nhanh qua 3 năm. Điều này có ý nghĩa rất tốt để hỗ trợ, bổ sung thêm cho nguồn vốn nội tệ của ngân hàng. Năm 2004 nguồn vốn huy động ngoại tệ tăng 12.788 triệu đồng tức 24,98% so với năm 2003. Đến năm 2005 con số này đã lên đến 85.144 triệu đồng tăng 21.444 triệu đồng tức tăng 3304 triệu đồng so với 2004. Bình quân 3 năm tăng 28,94%. Như vậy việc mở rộng kinh doanh đa năng như mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại, mua bán ngoại tệ của ngân hàng là hoàn toàn có căn cứ, có cơ sở khoa học và có hiệu quả. Trong những năm tới, ngân hàng cần mở rộng hình thức kinh doanh này mở ra cho ngân hàng một hướng đi mới trong chiến lược huy động vốn của ngân hàng. Tóm lại qua 3 năm vốn huy động của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc tăng mạnh đáp ứng tốt yêu cầu vốn vay cho dân cư (ngân hàng sử dụng tối đa nguồn vốn tiết kiệm để tăng cường đầu tư và giảm thiểu số lượng vốn tài trợ để có thể tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình). 2. Huy động vốn theo thời gian. Để nghiên cứu kỹ hơn về công tác huy động vốn của ngân hàng ta đi sâu nghiên cứu tiền gửi tiết kiệm của dân cư là nguồn vốn huy động chính và quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hiệu quả tín dụng của ngân hàng có đạt kết quả cao hay không, không những tuỳ thuộc vào hình thức huy động vốn mà còn tuỳ thuộc vào thời hạn huy động vốn. Tiền gửi được chia theo hai loại đó là tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Trong hai hình thức này thì loại tiền gửi có kỳ hạn chiếm đa số nguồn vốn huy động. Cụ thể năm 2003 là 292.890 triệu đồng chiếm 90,43% tổng số vốn huy động tại địa phương. Năm 2004 là 309.051 triệu động chiếm 90,35% và tăng hơn so với năm 2003 là 16.071 triệu đồng tức 5,49%, năm 2005 là 395.961 triệu đồng chiếm 89,76% tăng 86.565 triệu đồng, tương ứng 28,12% so với năm 2004. Chính vì tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao hơn tiền gửi không kỳ hạn, đã giúp ích rất nhiều cho ngân hàng tạo sự ổn định và sự chủ động về nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải xem xét thêm không chỉ đơn giản tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn tiền gửi không kỳ hạn đã đảm bảo được lợi ích kinh doanh của ngân hàng. Ở đây, số lượng vốn ngắn hạn huy động được lại cao hơn nhiều so với vốn trung hạn cụ thể: Năm 2003 là 78.121 triệu đồng chiếm 60,69% trong tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn tiền gửi không kỳ hạn. Năm 2004 là 188925 triệu đồng chiếm 61,13% . Năm 2005 là 243.453 triệu đồng chiếm 61,48%. Bình quân 3 năm tăng 31,62%. Điều này ảnh hưởng xấu đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Nguyên nhân này là do trên địa bàn huyện có nhiều tổ chức tín dụng khác cùng thực hiện huy động vốn như: Ngân hàng chính sách, quỹ tiết kiệm….Các ngân hàng này có mức lãi suất huy động vốn trung và dài hạn cao hơn NHNo & PTNT huyện Yên Lạc. Vì vậy nhân dân chuyển sang gửi tiền ở các tổ chức tín dụng đó. Tuy nhiên nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng qua 3 năm đã có bước tăng đáng kể cả về số lượng và cơ cấu bình quân 3 năm tăng 15,23%. Tiền gửi ngắn hạn đang có xu hướng giảm, tiền gửi trung và dài hạn co xu hướng tăng, ngân hàng cần cố gắng hơn nữa để mở rộng hình thức huy động vốn trung và dài hạn thu hút khách hàng gửi tiền để đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị để không chỉ giúp cho hoạt động của ngân hàng được tiện hơn mà còn là biện pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của huyện. 3. Lãi suất huy động vốn. Lãi suất có tác động trực tiếp và ảnh hưởng đến quyết định gửi tiền của dân cư, khả năng huy động vốn của ngân hàng. Nếu mức lãi suất càng cao thì lượng tiền gửi vào ngân hàng càng nhiều và ngược lại. Nếu lãi suất thấp họ sẽ không gửi tiền vào ngân hàng mà chuyển sang lựa chọn phương án đầu tư tốt hơn. Vì vậy để cạnh tranh được các tổ chức tín dụng trên địa bàn cùng với thực hiện đúng với quy định cho phép của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc đã linh hoạt điều chỉnh lãi suất huy động vốn sát với thực tế tình hình địa bàn nhằm khai thác triệt để nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Lãi suất huy động vốn NHNo & PTNT huyện Yên Lạc có nhiều mức lãi suất khác nhau tuỳ hình thức và từng thời điểm khác nhau. + Đối với nguồn vốn ngoại tệ (USD) lãi suất tiền gửi được chia theo loại không kỳ hạn, kỳ hạn 3 tháng, kỳ hạn 6 tháng và kỳ hạn 12 tháng. Nhìn chung 3 năm lãi suất huy động ngoại tệ không thay đổi ở mức 1,5% đối với loại không kỳ hạn 2,5-3,5% đối với kỳ hạn 3 tháng và 3-5% đối với kỳ hạn 6 tháng, còn kỳ hạn 12 tháng lãi suất huy động cao hơn các kỳ hạn khác từ 3-3.5% nguồn vốn huy động này có sự phân biệt cá nhân và pháp nhân. + Đối với nguồn nội tệ: Lãi suất tiền gửi ngân hàng không áp dụng lãi suất phân biệt với đối tượng là người gửi mà chỉ có sự khác nhau về thời hạn huy động. Với loại tiền gửi có kỳ hạn có sự biến động qua các năm. Năm 2004 là năm lãi suất huy động này biến đổi ít nhất với hai lần điều chỉnh lãi suất huy động số là vào ngày 31/1/2004 và 18/12/2004. Năm 2005 lãi suất huy động có thay đổi ở một vài thời điểm như sự dao động giữa lãi suất cũ và mới không nhiều. Ngân hàng chỉ đạo bắt đầu từ ngày 1/6/2005 thực hiện theo quyết định số 1267/2001/QĐ- NHNN, LSTT thay cho LSCP, tuy lãi suất cơ bản vẫn được ngân hàng công bố hàng tháng và chỉ có tình chất định hướng, cơ chế lãi suất trực tiếp sẽ tác động mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhất là chiến lược huy động vốn và cho vay vốn. Muốn huy động được nhiều vốn buộc ngân hàng phải đưa các mức lãi suất hấp dẫn. Vì vậy, từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2004 ngân hàng đưa ra mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn hẳn các kỳ hạn trước đó. Loại kỳ hạn trước 9 tháng có mức lãi suất cao nhất là 0,67%/tháng, cao hơn hẳn các kỳ hạn trước đó. Lãi suất phát động do phát hành kỳ phiều không thay đổi nhiều. Ngân hàng phát hành kỳ phiếu huy động hộ ngân hàng Trung ương với mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi khoảng 0,2%/ tháng. Qua đó ta thấy lãi suất huy động vốn của ngân hàng không thay đổi nhiều và ổn định, điều này rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng làm cho lòng tin của nhân dân khi gửi tiền vào ngân hàng được tăng lên, hạn chế những bất ổn trong hoạt động lưu thông tiền tệ. 4. Thủ tục nhận tiền gửi. Thủ tục nhận tiền gửi của khách hàng hiện nay đơn giản hơn, người dân không phải băn khoăn khi đi gửi tiền. Khách hàng sau khi đăng ký với nhân viên kế toán và nhận được tờ kỳ phiếu hoặc sổ tiết kiệm thì làm cùng với nhân viên ngân hàng các thủ tục sau: + Khách hàng viết giấy gửi tiền đến bàn tiết kiệm và ký tên hay điểm chỉ theo mẫu in sẵn của ngân hàng, kèm theo giấy chứng minh thư (nếu có). + Căn cứ vào giấy gửi tiên tiết kiệm, kế toán giao dịch viết thẻ lưu tiết kiệm, sổ tiết kiệm. + Khách hàng ký chữ của mình vào nơi quy định trên thẻ lưu. + Khách hàng nộp tiền mặt vào ngân hàng (nộp thủ quỹ). + Thủ quỹ sau khi thu tiền vào quỹ của ngân hàng, ký tên chứng từ (gồm cả giấy gửi tiết kiệm và sổ tiết kiệm) trả lại cho bộ phận kế toán. + Thủ quỹ vào sổ ký quỹ. + Kế toán giá mở tiết kiệm cho khách hàng, trong sổ tiết kiệm phải có đủ chữ ký của kế toán và thủ quỹ đóng dấu của ngân hàng. Như vậy khách hàng đã hoàn tất xong thủ tục tiền gửi. 5. Những mặt hạn chế và tồn tại trong việc huy động vốn của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc. - Tiềm năng về vốn nhàn rỗi trong dân cư rất nhiều. Điều đó cho thấy NHNo & PTNT Yên Lạc chưa phát huy hết nội lực để thu hút hết nhân lực trong dân. - Có rất nhiều vốn uỷ thác của các tổ chức nước ngoài như: ODA, WB…nhưng hiện nay ngân hang mới chỉ thu hút được nguồn vốn từ ngân hàng thế giới (WB). - Do tính chất của ngân hang là “đi vay để cho vay”, trong kinh doanh phải nghĩ tới lợi nhuận mà ngân hang sẽ thu được. Do vậy ngân hang không thể đi vay với lãi suất lớn hơn với lãi suất cho vay, nhưng lãi suất đi vay của NHNo & PTNT lại phụ thuộc vào khung lãi suất do NHNN quy định, điều này cũng góp phần làm giảm nguồn vốn huy động của ngân hang. Người gửi luôn hi vọng là mình sẽ thu được phần lợi nhuận cao, nghĩa là lãi suất phải cao, nhưng thực tế NHNo & PTNT không thể đáp ứng được, do mô hình hoạt động của NHNo & PTNT không cho phép bởi họ cần đảm bảo kinh doanh có lãi. - Huy động vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài, nguồn vốn từ tài trợ, uỷ thác để giảm lãi suất đầu vào là một biện pháp tốt. Tuy nhiên việc này rất khó đối với NHNo & PTNT Yên Lạc vì nguồn này còn rất hạn chế. III. THỰC TRẠNG CHO VAY VỐN CỦA NHNo & PTNT HUYỆN YÊN LẠC. 1. Quy chế tín dụng cho vay vốn của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc. Theo quyết định số 72/QD-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 về việc ban hành quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam như sau: Khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo đúng các nguyên tắc điều kiện, thủ tục cho vay vốn ghi trong quyết định này. 2. Các hình thức cho vay vốn của NHNo & PTNT Huyện Yên Lạc. 2.1 Cho vay trực tiếp với khách hàng Tổ nhóm Ngân hàng Khách hàng 1 2 3 4 3 4 Sơ đồ: Chuyển tải vốn tín dụng tới khách hàng 1. Ngân hàng xét duyệt cho khách hàng vay vốn và chuyển vốn trực tiếp tới khách hàng. 2. Ngân hàng nhận tiền gốc và lãi trực tiếp từ khách hàng khi đến hạn. 3. Thông qua tổ nhóm ngân hàng chuyển vốn tới khách hàng. 4. Khách hàng trả gốc và lãi cho ngân hàng thông qua tổ, nhóm. Cho vay trực tiếp đến khách hàng đây là hình thức an toàn nhất hạn chế được tiêu cực của các khâu trung gian. Nhằm hỗ trợ vốn kịp thời cho khách hàng trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Tuy nhiên cho vay trực tiếp đòi hỏi tốn công và hạn chế mở rộng tín dụng. 2.2 Cho vay gián tiếp Cho vay theo hình thức này đã được triển khai rộng khắp trên toàn huyện thông qua các tổ chức chính trị xã hội, các tổ nhóm như: Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh của các xã, thị trấn. NHNo & PTNT huyện Yên Lạc ký hợp đồng liên doanh vay vốn với các xã, thị trấn thành lập được 15 tổ vay vốn, số tổ chức đã được giải ngân là 15, số lượng thành viên được vay vốn qua tổ là 7.500 thành viên. Việc vay trả của nhân dân hết sức rõ ràng, khách hàng hầu như không phải trực tiếp đến trụ sở ngân hàng giao dịch nên tránh được những phiền hà, tiết kiệm được thời gian và chi phí. Hội đồng trách nhiệm của địa phương là chủ tịch xã, thị trấn cùng chịu trách nhiệm với ngân hàng nên khách hàng được vay vốn nhiều hơn gấp 3-4 lần so với các xã chưa ký liên doanh, vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh kịp thời và thuận lợi hơn. Về phía ngân hàng, qua tổ liên doanh cán bộ tín dụng nắm bắt tình hình địa bàn, con nợ thuận tiện hơn, chắc chắn hơn. Sự kết hợp của cán bộ địa phương đã phần nào giúp giảm bớt công sức lao động của cán bộ ngân hàng, mối quan hệ chặt trẽ giữa chính quyền địa phương và ngân hàng tạo thuận lợi cho việc đầu tư vốn cũng như giải quyết tốt những tồn tại của ngân hàng. 3. Kết quả cho vay vốn của NHNo & PTNT Huyện Yên Lạc. 3.1 Số lượng vốn cho vay theo ngành kinh tế. Chi nhánh NHNo & PTNT huyện Yên Lạc hoạt động trên địa bàn của tỉnh Vĩnh Phúc, là nơi đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các ngành kinh tế trong huyện như: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ… hầu hết các hoạt động của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc đều nhằm mục đích phục vụ cho định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Thực trạng cho vay vốn của ngân hàng được thể hiện qua nội dung sau: Bảng 2: Thực trạng cho vay vốn phân theo ngành kinh tế. Chỉ tiêu 2003 2004 2005 So sánh (%) Số lượng (tr.đồng) Cơ cấu (%) Số lượng (tr.đồng) Cơ cấu (%) Số lượng (tr.đồng) Cơ cấu (%) 2004/2003 2005/2004 BQ Doanh số cho vay 225.488 100 388.192 100 515.321 100 172,16 132,74 151,17 1. Ngành nông nghiệp 21.389 9,49 35.814 9,23 43.345 8,40 167,44 121,02 142,35 2. Tiểu thủ CN 15.796 7,01 40.646 10,47 47.219 9,20 257,32 116,17 172,89 3. Công nghiệp 157.916 70,03 238,162 61,35 339.658 65,90 150,82 142,61 146,65 4. Thương mại- dịch vụ 14.795 6,56 43.905 11,31 49.463 9,6 296,76 112,65 182,83 5. Cho vay khác 15.592 6,91 29.665 7,64 35.627 6,9 190,26 120,10 151,16 Nguồn: Phòng kinh doanh NHNo & PTNT Huyện Yên lạc Qua bảng 2 ta thấy doanh số cho vay qua các năm đều tăng lên đáng kể. Bình quân 3 năm tăng 50,17%. Doanh số cho vay năm 2004 là 388.192 triệu đồng tương ứng 72,16% so với năm 2003. Đến năm 2005 doanh số cho vay là 515.321 tăng 127.129 triệu đồng tức 32,75%. Bình quân 3 năm tăng 51,17%. Yên Lạc trong những năm gần đây đã có sự đổi mới đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác. Do vậy, tỉ trọng cho vay ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn cho vay của ngân hàng nhưng số vốn cho vay này càng tăng lên cả về số lượng và cơ cấu. Cụ thể năm 2003 là 21.389 triệu đồng chiếm 9,49% tổng số vốn cho vay của toàn ngành, năm 2004 là 35.824 triệu đồng chiếm 9,23% và năm 2005 là 43.345 triệu đồng chiếm 8,40% tăng so với năm 2004 là 7.531 triệu đồng tương ứng với 21,02%. Bình quân 3 năm tăng 42,35%. Nguyên nhân này là do những năm qua do áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi. Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để phát triển hướng sản xuất hàng hoá và xuất khẩu đồng thời được sự hướng dẫn của cán bộ địa phương trong sản xuất người dân đã mạnh dạn đầu tư vốn để mở rộng các ngành nghề. Trồng trọt, chăn nuôi phát triển góp phần nâng cao thu nhập và hiệu quả sử dụng vốn tín dụng. Tuy nhiên, nền kinh tế còn nhiều mất cấn đối, thị trường các sản phẩm nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, giá cả không ổn định, giá đầu vảo của một số vật tư chủ yếu tăng, sản xuất phân tán, ruộng đất manh mún, trình độ dân trí nông dân thấp đã ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng nên con số vay ngành nông nghiệp chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu vốn cho vay của ngân hàng. Chúng ta cần có các biện pháp cố gắng phát huy hơn nữa mở rộng quy mô cho vay phát triển sản xuất mở ra một hướng đi mới cho phát triển kinh tế của huyện. Theo định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, huyện Yên Lạc đang khuyến khích cho việc phát triển các ngành nghề phụ. NHNo & PTNT huyện Yên Lạc đặc biệt quan tâm nhằm hỗ trợ vốn cho khách hàng khôi phục các ngành nghề truyền thống tại địa phương. Cùng với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thì thương mại - dịch vụ hiện nay cũng là một ngành quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của huyện Yên Lạc. Với địa thế thuận lợi trong giao lưu kinh tế với các huyện trong khu vực, thuận lợi cho phát triển thương mại - dịch vụ. Nhưng số vốn đầu tư cho ngành này lại không nhiều, chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu cho vay toàn ngành. Tuy nhiên số lượng vốn cho vay lại tăng nhanh qua các năm, bình quân 3 năm tăng 82,83%. Đây là một chiều hướng đáng mừng tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Vì vậy, các cá nhân trong ngân hàng cần phát huy lợi thế này làm tăng doanh số cho vay của ngân hàng đồng thời góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế của huyện. Trong 3 năm qua, trên địa bàn huyện xuất hiện một số các doanh nghiệp công nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhu cầu vốn mở rộng cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp này rất lớn. Do vậy ngân hàng đầu tư cho vay lĩnh vực này chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn cho vay của ngân hàng. Cụ thể năm 2003 doanh số cho vay là 157.916 triệu đồng chiếm 70,03% tổng số vốn cho vay toàn ngành, năm 2004 là 238.162 triệu đồng chiếm 61,35% tăng 50,82% so với năm 2003. Năm 2005 là 339.658 triệu đồng chiếm 65,9% tăng 42,61%. Bình quân 3 năm tăng 46,65% so với năm 2004. NHNo & PTNT Huyện Yên Lạc, với mục tiêu kinh doanh của mình đã thực hiện cho vay vốn tới tất cả các ngành kinh tế. Tuy nhiên có sự chênh lệch quá lớn giữa số lượng vốn cho vay các ngành. Vì vậy, ngoài việc chú trọng đầu tư cho vay phát triển ngành công nghiệp, ngân hàng cần phải có sự quan tâm đúng mức điều hoà vốn, áp dụng mức lãi suất thấp hơn để đa dạng đầu tư phát triển các ngành kinh tế khác trong huyện đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. (1). Tình hình sử dụng vốn vay của ngành nông nghiệp. Bộ mặt nông thôn trong huyện đang dần được đổi mới tuy nhiên sự đổi mới đó chưa đồng đều, chưa rộng khắp. Để đẩy mạnh phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho nông nghiệp nhằm khắc phục tình trạng cho vay đầu tư sản xuất theo hộ gia đình với quy mô quá nhỏ bé, manh mún. Vì vậy, việc đầu tư cho nông nghiệp là rất quan trọng và cần thiết. NHNo & PTNT huyện Yên Lạc cung cấp vốn phục vụ cho nông nghiệp đặc biệt là trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế khác trên địa bàn phát triển. Ngành nông nghiệp được chia làm 3 nhóm ngành chính: Trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Yên Lạc là một huyện có diện tích đất nông nghiệp tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ rất thuận tiện cho cây trồng phát triển nhưng trong mấy năm gần đây do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá nên diện tích đất nông nghiệp giảm dần. Thêm vào đó Yên Lạc là một huyện phát triển nhất của tỉnh nhưng trồng trọt không phải là ngành sản xuất chính của huyện. Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn vay của ngành nông nghiệp. Chỉ tiêu ĐVT 2003 2004 2005 So sánh (%) Số lượng Cơ cấu (%) Số lượng Cơ cấu (%) Số lượng Cơ cấu (%) 2004/2003 2005/2004 BQ I Tổng vốn cho vay toàn ngành Tr.đ 21.389 100 35.814 100 43.355 100 167,44 121,05 142,34 - Trồng trọt Tr.đ 864 4,04 912 2,55 1.379 3,20 105,56 151,20 126,38 - Chăn nuôi Tr.đ 17.699 82,75 30.625 85,51 36.827 85,0 173,3 120,25 144,25 - Nuôi trồng thuỷ sản Tr.đ 2.826 13.21 4.277 11.94 5.149 11.8 151.34 120.38 134.92 II Số lượt hộ vay Lượt/hộ 8.441 11.670 12.043 119,45 103,20 138,86 III Mức vốn vay Tr.đ/lượt/hộ 2,53 3,07 3,6 121,34 117,26 119,23 Nguồn: Phòng kinh doanh NHNo & PTNT huyện Yên Lạc Qua bảng 3 ta thấy, lượng vốn vay đầu tư cho ngành trồng trọt không cao, chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu vốn vay ngành nông nghiệp. Năm 2003 số lượng vốn đầu tư cho ngành trồng trọt là 864 triệu đồng chiếm 4,04% tổng doanh số vay toàn ngành, năm 2004 là 912 triệu đồng chiếm 2,55% năm 2005 là 1.379 triệu đồng chiếm 3,18%. Hộ vay vốn trồng trọt đầu tư cho các cây trồng chính thức như: cây hoa, cây ăn quả, cây rau, cây giống… Bên cạnh việc đầu tư vốn cho trồng trọt thì ngành chăn nuôi được chú trọng đầu tư phát triển hơn. Bởi lẽ trong những năm gần đây chăn nuôi là một thị ngành tương đối phát triển và là một thế mạnh lớn của huyện. Hiện nay trên địa bàn huyện đã xuất hiện nhiều hộ gia đình chăn nuôi giỏi có nhu cầu về vốn cao, đòi hỏi kỹ thuật nhiều hơn. Lợi nhuận của ngành chăn nuôi mang lại cao hơn ngành trồng trọt, các hộ gia đình rất tích cực đầu tư cho chăn nuôi theo hướng công nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường. Hộ vay vốn tập trung chăn nuôi các loại con lợn hướng nạc, gà công nghiệp, bò sữa…trong đó chủ yếu là chăn nuôi lợn. Với phương trâm đa dạng hoá sản phẩm, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân thì đầu tư cho chăn nuôi là một vấn đề đáng quan tâm góp phần phát triển kinh tế nông thôn. Do việc mở rộng quy mô nhu cầu vốn để đầu tư cho chăn nuôi là rất lớn vì thế lượng vốn người dân cần là rất cao. Doanh số vay cho chăn nuôi tăng mạnh và chiếm tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu vay vốn toàn ngành. Cụ thể năm 2003 vốn vay cho chăn nuôi chiếm 82,75% tổng vốn toàn ngành, năm 2004 chiếm 85,51% tăng 73,03% so với năm 2003, năm 2005 chiếm 85,00% tăng 20,25% so với năm 2004. Bình quân 3 năm tăng 44,24%. Điều này chứng tỏ ngành chăn nuôi của huyện đang ngày càng phát triển, người nông dân đã mạnh dạn hơn dám nghĩ, dám làm đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình. Hàng năm cung cấp ra thị trường một khối lượng sản phẩm lớn. Ngân hàng nên quan tâm về số lượng vốn vay/ hộ/ lượt vẫn còn ở mức thấp, nhu cầu vốn hộ cần vay cao hơn nhiều. Họ cho rằng ngân hàng nên mở rộng mức cho vay và thời hạn vay vốn đối với họ. Với sự phát triển ngành chăn nuôi như hiện nay thì trong tương lai các hộ vay chăn nuôi sẽ trở thành khách hàng lớn của ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn tiến hành cho hộ cho vay vốn đầu tư vốn cải tạo hồ ao thả cá, mua sắm ngư cụ và cá giống. Doanh số vốn vay tăng lên nhưng cơ cấu vốn lại giảm xuống chiếm tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu vốn vay toàn ngành. Năm 2003 vốn vay đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản là 2.826 triệu đồng chiếm 13,21% năm 2004 là 4.227 triệu đồng chiếm 11,94%, năm 2005 là 5.149 triệu đồng chiếm 11,8%. Nguyên nhân này là do trong mấy năm gần đây diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của huyện đang bị thu hẹp dần do quá trình phát triển dân cư các lòng hồ, ao bị lấp dần nên người dân chuyển sang chăn nuôi các con vật khác. Chính hiện tượng này làm giảm diện tích ao hồ sẽ ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp do không có ao hồ để giữ nước và thoát nước phục vụ cây trồng. Để khắc phục tình trạng này thì nhiệm vụ đầu tiên chính là chính quyền các cấp cần phải có những biện pháp hạn chế san lấp ao hồ để xây dựng nhà cửa, nâng diện tích nuôi trồng thuỷ sản bởi lợi nhuận thu được từ nguồn này cao hơn so với trồng lúa. Mặc dù vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp có xu hướng tăng lên song bản thân ngành nông nghiệp kết quả sản xuất chưa cao, lại chịu nhiều rủi ro. Do vậy hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn vau không cao. Nên ngoài việc đầu tư cho nông nghiệp thì đa số các hộ nông dân chú trọng quan tâm đến các ngành kinh tế khác để nâng cao thu nhập cho gia đình. (2) Tình hình sử dụng vốn vay của ngành tiểu thủ công nghiệp. Theo định hướng CNH – HĐH nông thôn thì việc phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp đang được các cấp, các ngành chính quyền huyện quan tâm chú trọng đầu tư cho phát triển. Trong nhữn năm trở lại đây giá trị sản xuất ngành tiểu thủ công nghiệp trong huyện tăng nhanh và cơ cấu tổ chức của các đơn vị (hộ gia đình) cũng được mở rộng để thích ứng với sự phát triển của ngành này vì vậy vốn vay đầu tư tăng nhanh. Bình quân 3 năm tăng 72,89%. Vốn đầu tư cho sản xuất ngành nghề gồm các đối tượng sau: Tái chế nhựa, nghề mộc, và một số ngành nghề khác. Các ngành nghề này các hộ sản xuất đều áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã, mở rộng quy mô phục vụ sản xuất. Muốn làm được điều đó cần một lượng vốn đầu tư. NHNo & PTNT huyện Yên Lạc đã có những biện pháp tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích phát triển đa dạng các ngành nghề và đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển sản xuất. (3). Tình hình sử dụng vốn vay của ngành thương mại – dịch vụ. Hộ gia đình vay vốn cho kinh doanh dịch vụ đầu tư vào một số lĩnh vực sau: Dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ đồ dùng sinh hoạt, dịch vụ ăn uống. Kể từ khi có chế độ cho vay hộ sản xuất số 499 của NHNo & PTNT Việt Nam đến nay. NHNo & PTNT huyện Yên Lạc đã thực hiện cho vay đầu tư các ngành với số lượng vốn đầu tư cho các ngành nghề đều làm tăng lên và cơ cấu đầu tư cho các ngành nghề biến đổi theo chiều hướng tích cực. Cơ cấu vốn cho sản xuất ngành nông nghiệp giảm, cơ cấu vốn cho sản xuất ngành nghề và kinh doanh dịch vụ tăng lên góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong huyện, từng bước hình thành ngành nghề, sản phẩm hàng hoá trong nông thôn Yên Lạc. 3.2 Số lượng vốn vay theo các thành phần kinh tế. Khi tìm hiểu kết quả hoạt động của một NHNo & PTNT không phải được đánh giá bởi hoạt động của ngân hàng đối với hộ nông dân. NHNo & PTNT Yên Lạc là một ngân hàng thương mại chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nên số đối tượng khách hàng của ngân hàng bao gồm tất cả các thành phần kinh tế như: Hộ nông dân, Doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty TNHH. Doanh số cho vay đến các thành phần kinh tế tăng lên đáng kể. Số lượng vốn vay chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước. Năm 2003 vốn cho vay doanh nghiệp nhà nước là 153.223 triệu đồng chiếm tới 97.03% tổng doanh số cho vay. Cơ cấu có giảm vào năm 2004 và 2005 song vẫn chiếm tỉ trọng cao với 199.894 triệu đồng năm 2004 chiếm 83,93% và năm 2005 là 299.068 triệu đồng chiếm 67,44% tổng doanh số cho vay. Đối với các hộ thì ngân hàng chia thành hai đối tượng phân biệt đó là cho vay hộ nghèo và vay hộ khác không thuộc diện nghèo đói gọi tắt là “hộ sản xuất”. Hộ sản xuất ngân hàng không phân biệt hộ trung bình hay hộ khá. Các hộ nông dân tuy đã mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất xong chưa đủ điều kiện vay vốn nhiều nên lượng vốn cho vay đến hộ ít hơn so với lượng vốn cho vay đối tượng khác 4. Kết quả thu hồi vốn vay của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc. 4.1 Thực trạng dư nợ tại NHNo & PTNT huyện Yên Lạc. * Theo đối tượng khách hàng. Tổng dư nợ qua 3 năm tăng lên, bình quân 3 năm tăng 41.46%, doanh nghiệp nhà nước là đối tượng có số vốn vay cao nhất nên dư nợ chiếm tỉ trọng cao nhất từ 70-80% bình quân 3 năm tăng 41,89%. Như vậy, ngân hàng đã thu hut được lòng tin của khách hàng, nên khả năng mở rộng tín dụng trong tương lai là rất dễ dàng. Ngân hàng cần mở rộng đầu tư và quan tâm hơn nữa đến đối tượng này. Đối với hộ sản xuất đây là đối tượng có tốc độ tăng trưởng dư nợ cũng tương đối cao. Bình quân 3 năm tăng 40,4%. Dư nợ tín dụng đối với hộ nghèo cũng có xu hướng tăng, bình quân 3 năm tăng 19,01%. Chứng tỏ ngân hàng đã có sự quan tâm đến đối tượng này, tạo điều kiện cho hị thoát khỏi ngưỡng nghèo đói. * Theo thời hạn vay. Mặc dù ngân hàng đã có sự chuyển hướng đầu tư sang cho vay trung và dài hạn nhưng số lượng vay vốn không nhiều. Do vậy, dư nợ trung và dài hạn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ của ngân hàng. Năm 2003 dư nợ trung hạn là 31.784 triệu đồng, năm 2004 là 40.746 triệu đồng chiếm 12,67%, năm 2005 là 53.439 triệu đồng chiếm 12,9%. Dư nợ dài hạn chiếm từ 31-37% tổng dư nợ ngân hàng. Ngân hàng cần có biện pháp tích cực hơn nữa để tăng cường thu hút vốn trung và dài hạn để đáp ứn nhu cầu vốn đang ngày càng tăng nhanh. 4.2 Dư nợ quá hạn của khách hàng Trong 3 năm qua, dư nợ quá hạn của ngân hàng có chiều hướng giảm đi nhiều. Vốn vay từ nguồn uỷ thác luôn có dư nợ quá hạn cao hơn so với vốn vay từ nguồn ưu đãi hộ nghèo. Cụ thể dư nợ quá hạn vay từ nguồn vốn uỷ thác bình quân 3 năm tăng 29,89%, vốn ưu đãi hộ nghèo bình quân 3 năm giảm 17,69%. Xét về thời hạn thì dư nợ quá hạn của khoản vay trung hạn chiếm tỷ trọng cao hơn dư nợ quá hạn ngắn hạn. Chiếm từ 50-78% tổng dư nợ quá hạn. Doanh số cho vay trung hạn thấp hơn, dư nợ thấp hơn nhưng cuối năm lại nhiều hơn đây là vấn đề ngân hàng cần xem xét vì trong tương lai hướng mở rộng tín dụng của ngân hàng lại khuyến khích vào cho vay vốn trung và dài hạn. 4.3 Tình hình hoàn trả vốn vay của hộ nông dân. Để thực hiện được mục tiêu kinh doanh của mình NHNo & PTNT Yên Lạc đã bằng mọi biện pháp tăng dư nợ cho vay và giảm tới mức thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn đối với hộ nông dân. Ngân hàng phân các hộ gia đình thành hai loại để phân biệt lãi suất và mức cho vay là hộ nghèo và hộ sản xuất (bao gồm các hộ không thuộc hộ nghèo gọi là hộ sản xuất, các hộ này được đối xử bình đẳng như nhau về mặt lãi suất và các quy chế khác). Trong khi tổng dư nợ của ngày càng tăng lên, bình quân 3 năm tăng 46,93% thì số lượng dư nợ quá hạn của đối tượng này giảm đi đáng kể (bình quân 3 năm giảm 33,97%). Do đó tỷ lệ nợ quá hạn của các hộ này luôn giảm qua các năm. Có được điều đó là do chất lượng tín dụng của ngân hàng đã ngày được nâng cao hơn, ngân hàng đã phát huy triệt để các chính sách tín dụng, công tác tổ chức quản lý, chất lượng nhân sự, xử lý nhanh nhạy thông tin tín dụng trên thị trường. Một nguyên nhân quan trọng khác nữa là vốn vay của hộ nông dân ngày một hiệu quả hơn do trình độ, kinh nghiệm trong lựa chọn phương án đầu tư cũng như trong sản xuất kinh doanh của hộ được nâng cao từng bước và ở đây yếu tố con người không thể không đề cập tới. Đa số hộ nông dân có ý thức tốt, khi đến hạn họ đều cố gắng bằng mọi cách để trả nợ ngân hàng bởi lẽ họ không muốn quá hạn mất lòng tin với ngân hàng. Nếu phải quá hạn họ nói rằng do rủi ro trong sản xuất mới dẫn đến như vậy. 5. Tác động của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ gia đình. Ngân hàng đã cố gắng phần nào đáp ứng vốn cho hộ nông dân theo nguyên tắc của ngân hàng là đáp ứng được 50-60% tổng vốn đầu tư vào mục đích kinh doanh của nông hộ. Ngân hàng cần tăng trưởng tỷ lệ này trong tương lai nhằm tăng lòng tin của khách hàng với ngân hàng. Mục đích vay vốn của hộ nông dân nhằm phát triển sản xuất và cuối cùng là nâng cao thu nhập. Hầu hết các hộ vay vốn của ngân hàng thu nhập đều tăng chỉ một số ít trường hợp hộ gặp rủi ro do các nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì giảm thu nhập. Hộ sử dụng vốn của ngân hàng rất có hiệu quả thể hiện là thu nhập trung bình một hộ sau khi vay vốn đều tăng lên so với trước khi cho vay. Với mục đích trồng trọt thu nhập trung bình của hộ tăng 178,26%, mục đích chăn nuôi tăng 207,6%, mục đích kinh doanh dịch vụ tăng 84,97%, mục đích phát triển ngành nghề truyền thống tăng 115,25%. Như vậy vốn vay có tác dụng tăng thu nhập mạnh ở mục đích trồng trọt và chăn nuôi do từ khi có vốn vay hộ mạnh dạn đầu tư vào phân bón, giống cây, giống con có năng suất cao, mở rộng cơ cấu đầu tư, kết hợp với nguồn lực sẵn có của gia đình, phát triển sản xuất nên sản lượng thu được cao hơn từ đó thu nhập của hộ tăng lên. Tóm lại qua đánh giá mức độ cho vay vốn và tác động của vốn tín dụng đối với thu nhập của hộ thấy rằng ngân hàng với vốn vay của mình đã đáp ứng nhu cầu vốn của họ. Vốn của ngân hàng thực sự có ích đối với hộ trong mọi mặt của đời sống. Nhưng để phát huy hiệu quả tín dụng thì ngân hàng cần hướng dẫn hộ phương án sản xuất để giảm tâm lý không dám vay tiền do sợ gặp rủi ro. 6. Những mặt hạn chế và tồn tại trong việc cho vay vốn của NHNo & PTNT huyện Yên Lạc. Như trên đã đề cập đến NHNo & PTNT là doanh nghiệp của nhà nước kinh doanh tiền tệ với phương châm “đi vay để cho vay” nên mong muốn của ngân hàng là cho vay nhiều và cho vay đúng đối tượng. Thực tế mong muốn đó chỉ là mong muốn bởi nhiều doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh hay hộ sản xuất… khi lập dự án là rất có khả thi nhưng trong quá trình hoạt động họ gặp nhiều khó khăn, nhiều thiên tai lũ lụt…cũng có thể do họ thiếu kinh doanh nên nguồn vốn có thể bị thâm hụt, mặc dù họ muốn trả nợ nhưng không có khả năng. Trong khi muốn vay tiếp phải trả được nợ hay có tài sản đảm bảo thế chấp cả phần vay cũ và vay mới, điều này là khó có thể thực hiện được đối với người đi vay. Đối với hộ sản xuất biết rằng chính phủ có khuyến khích cho vay dưới 10 triệu đồng chỉ cần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng họ không được bên sở nhà đất cấp giấy vì thế NHNo & PTNT cũng không thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các đối tượng này. Lãi suất cho vay cũng là hàng rào cản trở việc cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Vì thế NHNo & PTNT phải xem xét việc điều chỉnh lãi suất cho hợp lý hơn đồng thời việc gia hạn nợ cho vay ngân hàng phải xem xét vào khả năng trả nợ của khách hàng. Cho vay kinh tế hộ còn hạn chế. Chênh lệch lãi suất còn thấp. Ngân hàng chưa chủ động tham gia tiếp cận các dự án theo chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của huyện. Mức cho vay và thời hạn vay vốn còn chưa phù hợp với nhu cầu vay và chu kỳ sản xuất kinh doanh và thu nhập của người vay. Trong hoạt động tín dụng còn thiếu chủ động trong phân tích thực trạng của khách hàng, chưa xác định rõ tiềm ẩn rủi ro đối với nợ tồn đọng. Khả năng dự báo, thẩm định tổ chức sản xuất kinh doanh của khách hàng còn hạn chế đối với cán bộ tín dụng, chưa thích ứng nhanh với cơ chế thị trường. Chưa có khoản cho vay dài hạn nào đối với hộ nông dân. PHẦN III. GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN VÀ CHO VAY VỐN CỦA NHNo & PTNT YÊN LẠC. I. GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN. 1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn phù hợp với nhu cầu lợi ích của nông dân và các tổ chức kinh tế xã hội. Nghiên cứu và áp dụng các hình thức huy động vốn phong phú về loại hình và đa dạng về lãi suất, kỳ hạn và phương pháp trả lãi tạo ra sự hẫp dẫn đối với dân cư và các tổ chức kinh tế. Chú trọng tăng tỉ trọng nguồn vốn có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, đảm bảo nguồn vốn trung và dài hạn chiếm 50% tổng nguồn vốn huy động. Để đạt được mục tiêu này cần: - Duy trì và mở rộng loại hình tiền gửi kỳ hạn 1 năm như hiện nay. - Phát hành kỳ phiếu có kỳ hạn 1-2 năm song cũng cần nghiên cứu và đề nghị áp dụng hình thức huy động vốn dài hạn từ 5-10 năm. Trong điều kiện chúng ta đã có thị trường chứng khoán, nên phát hành dưới dạng các mệnh giá lớn (300 triệu hoặc 500 triệu đồng) với lãi suất được quy định bằng sự thoả thụân trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng, trong điều kiện Việt Nam nên quy định cao hơn kỳ phiếu ngân hàng, cao hơn trái phiếu kho bạc vì những người mua kỳ phiếu loại này rất nhạy cảm với lãi suất. - Xúc tiến thâm nhập các lĩnh vực tiết kiệm mới như tiết kiệm học đường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm có thưởng. - Nhanh chóng triển khai loại tiết kiệm gửi một nơi có thể lĩnh nhiều nơi, tạo thêm lợi ích cho khách hàng. Do đặc điểm thu nhập cá nhân, hộ gia đình phân bố trên địa bàn huyện không đồng đều và mặt bằng thu nhập chưa cao, thu nhập có tích luỹ của các cá nhân không đều đặn; ví dụ như tiền thưởng, thu nhập trích lương tháng những nguồn thu nhập này thường được giữ lại cho gia đình. Phân tích cho thấy nếu gửi tiền không kỳ hạn vào ngân hàng sẽ được trả lãi thấp, với những khoản tiền nhỏ lẻ từ dân cư là không hấp dẫn. Nếu gửi tiền có kỳ hạn lãi suất cao hơn là điều hấp dẫn nhưng theo quy định nếu muốn rút tiền trước kỳ hạn thì người gửi phải rút với lãi suất áp dụng là lãi suất không kỳ hạn nên người gửi có nhiều tiền muốn gửi có kỳ hạn phải đối phó bằng cách mở nhiều sổ tiết kiệm để tránh bị thiệt khi kỳ hạn chưa đến mà phải rút tiền, điều này gây phiền hà cho cả khách hàng và ngân hàng vì thủ tục giấy tờ mà họ quản lý quá nhiều. Còn những người ít tiền, thu nhập trung bình sẽ không muốn gửi có kỳ hạn vào ngân hàng vì nếu phải rút trước kỳ hạn thì quyền lợi cũng ngang bằng gửi không kỳ hạn trong lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, lại không mấy hấp dẫn. Để loại bỏ tình trạng này ngân hàng có thể đưa ra các thay đổi: - Cho phép khách hàng gửi một lần và rút nhiều lần với tiền gửi 12 tháng trở lên. Lãi rút tiền có thể tính theo lãi suất kỳ hạn nhỏ hơn nhưng có tính một mức lãi suất chiết khấu hợp lý tuỳ theo thời điểm rút. Ví du: Khách hàng gửi 60 triệu đồng loại kỳ hạn 12 tháng, sau 6 tháng khách hàng muốn rút 10 triệu đồng ngân hàng sẽ tính lãi kỳ hạn 6 tháng và một tỷ lệ khấu trừ cho phù hợp tại thời điểm rút. Và nếu thời điểm rút có thời hạn nhỏ hơn 12 tháng ngân hàng sẽ áp dụng lãi suất không kỳ hạn. - Có thể quy định lại loại tiền gửi mà khách hàng gửi và rút lãi và gốc đúng kỳ hạn với lãi suất cao nhất và áp dụng hình thức gửi kỳ hạn gửi một lần có thể lấy lãi nhiều kỳ (vốn gửi vẫn giữ nguyên cho đến khi đáo hạn). Với lãi suất thấp hơn nhứng vẫn đảm bảo cao hơn lãi suất gửi không kỳ hạn. - Tiết kiệm bằng vàng: Ngân hàng nên quan tâm đến loại hình tiết kiệm này, ngân hàng nhà nước đã ban hành quyết định số 432/2000/QĐ-NHNN ngày 3/10/2000 về huy động bằng vàng và huy động bằng VNĐ đảm bảo bằng vàng. Cần khai thác trên góc độ tâm ký người Việt Nam rất coi trọng vàng và quan niệm vàng có thể giữ giá. Cần phải nói thêm rằng để thực hịên có hiệu quả các loại hình có tiền gửi thì hệ thống ngân hàng chi nhánh phải thật rộng, khách hàng phải được gửi một nơi có thể rút nhiều nơi để khách hàng có thể nhanh chóng rút tiền. 2. Mở rộng thêm nhiều đối tượng huy động vốn trên địa bàn huyện Yên Lạc. Ngoài các đối tượng huy động vốn truyền thống ngân hàng cần mở rộng đối tượng huy động vốn theo các hướng: - Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn từ dân cư. Bên cạnh viêc đa dạng hoá các loại tiền gửi như đã phân tích ở trên cần khuyến khích mở tài khoải tiền gửi cá nhân dưới dạng tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiền gửi bảo hiểm, tài khoản tiền gửi hưu trí song song với việc đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Mở các hình thức thanh toán và tổ chức các dịch vụ như séc cá nhân, chuyển tiền điện tử, thực hiện thanh toán giữa các cá nhân bằng chuyển khoản, thanh toán thẻ cùng với lắp đặt hệ thống rút tiền tự động tại ngân hàng. Thông qua đó làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, tăng lượng vốn thanh toán qua ngân hàng, làm tăng lượng kết dư nguồn vốn qua thanh toán có thể đưa vào kinh doanh, giải quyết một phần về nhu cầu nguồn vốn. Tuy nhiên để thực hiện được việc này các ngân hàng cần phổ biến và hướng dẫn tới người dân làm quen với các dịch vụ ngân hàng, phải có chính sách truyền thống để nhân dân tin tưởng khi gửi tiền vào ngân hàng, phá vỡ tâm lý giữ tiền mặt trong dân chúng. - Tranh thủ nguồn vốn không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế. Các tổ chức kinh tế như: Kho bạc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, điện lực, xăng dầu là những khách hàng thường xuyên có số dư tài khoản gửi tại ngân hàng cao. Mở rộng quan hệ bạn hàng trên tinh thần hợp tác, thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Đối với họ nên có những ưu tiên nhất định trong việc chuyển tiền, cần thực hiện nối mạng thanh toán với các tổ chức này và áp dụng mức phí chuyển tiền ưu đãi trong nội tỉnh. Yên Lạc là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, cần tiếp cận động viên các doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng bằng cách tạo thêm nhiều tiện ích cho họ như việc đảm bảo thanh toán nhanh chóng, chính xác, kịp thời, tranh thủ các ngân hàng cơ sở hoặc mở thêm nhiều chi nhánh phục vụ trực tiếp các nhu cầu của khách hàng như thu chi tiền mặt trực tiếp, trả lương, chuyển tiền nhanh, nối mạng thanh toán với khách hàng. Quảng bá sự thuận tiện của hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử với khách hàng. Đối với khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Lãnh đạo ngân hàng tỉnh cần phải trực tiếp quan hệ, ký kết các hợp đồng trên nguyên tắc thoả thuận cụ thể về thể thức thanh toán, lãi suất, phí chuyển tiền. - Mở rộng việc huy động vốn ngoại tệ và tổ chức tốt công tác thanh toán quốc tế. Làm tốt việc thực hiện thanh toán quốc tế và chi trả kiều hối ở tất cả các huyện trong tỉnh thông qua các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các dự án kinh tế do nước ngoài tài trợ để tiếp cận và huy động được nguồn vốn bằng ngoại tệ. Thông qua việc tổ chức tốt công tác thanh toán quốc tế có thể tạo được mối quan hệ với các bạn hàng với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn huyện, là cơ sở để huy động số lượng vốn lớn bằng ngoại tệ. - Khai thác và sử dụng tối đa nguồn uỷ thác đầu tư từ bên ngoài để bù đắp sự thiếu hụt về nguồn vốn tự huy động. Đặc biệt là nguồn vốn uỷ thác đầu tư từ nước ngoài, vốn chỉ định. Tiếp nhận và thực hiện tốt các nguồn vốn uỷ thác, nguồn vốn tài trợ do các nước và tổ chức phi chính phủ tài trợ. Hiện nay cần sử dụng tốt các nguồn vốn uỷ thác của ngân hàng thế giới (WB), cần khai thác thêm các nguồn như: Dự án tài chính nông thôn của ngân hàng Châu Á (ADB), dự án của Pháp (AFD) và nguồn uỷ thác cho vay xoá đói giảm nghèo. 3. Các giải pháp quản trị và điều hành trọng việc huy động vốn - Mở rộng mạng lưới hoạt động bám sát địa bàn, mở rộng mạng lưới địa bàn tiết kiệm, phòng giao dịch, các chi nhánh cấp 3 để tạo điều kiện thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi. - Đẩy mạnh công tác Marketing ngân hàng. Tổ chức các hoạt động truyền thống như quảng cáo, tờ rơi, hội nhị khách hàng. Nội dung tuyên truyền là thủ tục, thể lệ các hình thức huy động, đặc biệt phải làm rõ lơi ích và sự thuận tiện, an toàn khi gửi tiền vào ngân hàng với các tầng lớp dân cư. Mục đích của công tác truyền thông là cho người dân thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. Đây là biện pháp không mới nhưng thực tế mấy năm qua không được mấy quan tâm, do đó kết quả người nông dân không hiểu đúng về hoạt động ngân hàng, tâm lý giữ tiền và cho vay nặng lãi còn lớn, do đó có thể thấy đây là giải pháp cần quan tâm để đẩy mạnh hoạt động ngân hàng không chỉ ở lĩnh vực huy động vốn mà còn cả trong lĩnh vực cho vay vốn. - Hàng kỳ ngân hàng nên xây dựng và tổ chức huy động vốn trên địa bàn. Thực hiện việc giao dịch chỉ tiêu kế hoạch nguồn vốn cho từng đơn vị kết hợp với kế hoạch dư nợ, việc thực hiện kế hoạch tăng trưởng nguồn vốn là chỉ tiêu bắt buộc đồng thời là chỉ tiêu thi đua. Ngân hàng tỉnh thực hiện chỉ đạo điều hành hoạt động huy động vốn của chi nhánh huyện có trọng tâm, trọng điểm đảm bảo cân bằng nguồn vốn, sử dụng vốn, cơ cấu nguốn nguồn vốn về số lượng thời hạn. Làm tốt công tác điều hoà nguồn vốn ngân hàng tỉnh cần lắm bắt kịp thời những biến động của nguồn vốn và sử dụng vốn kịp thời để điều hành hoạt động huy động vốn của ngân hàng chi nhánh. Đảm bảo cân đối nguồn vốn sử dụng vốn, tránh rủi ro lãi suất. - Thực hiện bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi là công cụ để duy trì niềm tin của người gửi tiền và hệ thống ngân hàng. Qua đó ngân hàng có thể tăng lượng số tiền gửi vào ngân hàng. Theo nghị định 89/1999 NĐ-CP ngày 1/9/1999 của chính phủ về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các tài khoản tiền gửi (gồm cả gốc lẫn lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm, tiền gửi tối đa là 30 triêu đồng. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi là 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân. II. GIẢI PHÁP CHO VAY VỐN. Cho vay là nhiệm vụ cơ bản và truyền thống của ngân hàng, hoạt động cho vay của ngân hàng gắn liền với các hoạt động kinh tế của các chủ thể cho vay của ngân hàng. Đối với Yên Lạc, một huyện mà nhu cầu vay vốn cho phát triển kinh tế đối với các thành phần kinh tế đang trở thành vấn đề cấp bách thì việc mở rộng khối lượng và nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo đà cho sự phát triển kinh tế. Có thể nói nhiệm vụ của ngân hàng là phải có giải pháp gia tăng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế phải là tín dụng có chất lượng và hiệu quả cao, làm như vậy ngân hàng vừa đảm bảo mục tiêu kinh doanh là đạt được lợi nhuận và phát triển, vừa đảm bảo vị thế của mình trong việc điều hoá các nguồn vốn trong nền kinh tế. 1. Xây dựng và xác lập chiến lược khách hàng phù hợp trong hoạt động tín dụng. Chiến lược mà khách hàng mà các ngân hàng lựa chọn là các doanh nghiệp nhà nước để cho vay là chủ yếu. Mặc dù thời gian gần đây ngân hàng đang mở rộng cho vay sang khu vực tư nhân, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng tỷ lệ chưa cao và còn nhiều khúc mắc. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có sự bình đẳng trong mối quan hệ giữa các ngân hàng thương mại với các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng và đảm bảo sự hoạt động bền vững, hiệu quả và xác lập vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế. Muốn vậy cần giải quyết một số nội dung sau đây: - Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Hiện có 20 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trên địa bàn huyện, các doanh nghiệp này hầu hết thuộc quy mô vừa và nhỏ và mới hoạt động từ vài năm nay. Thực tế khối lượng tín dụng cung cấp cho khối kinh doanh nghiệp này còn hạn chế, các ngân hàng mới chỉ cho vay những dự án khả thi của doanh nghiệp và phải có tài sản thế chấp và chưa cho vay hỗ trợ lưu thông thường xuyên. Nhìn chung ngân hàng còn e ngại khi các doanh nghiệp này vay vì tính không chắc chắn trong sản xuất kinh doanh. Do đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có hệ thống sổ sách kế toán, mức vốn đăng kí, quy định về kiểm toán không đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng về quản lý tín dụng, điều kiện tín dụng cho cách quản lý mang tính gia đình, sổ sách kế toán không rõ ràng, hạch toán vốn chủ sở hữu trong sổ sách kế toán thấp hơn vốn chủ sở hữu thực tế. Nhận thức được vị trí phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện sẽ là một bộ phận quan trọng để giải quyết các đầu ra. Ngân hàng chủ động tiếp thị và đầu tư lựa chọn khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh để cho vay, nâng cao trình độ của nhân viên tín dụng để họ có khả năng đánh giá và tư vấn cho doanh nghiệp. Tìm cách giải quyết bài toán lãi suất thu hút các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, có thể đặt ra một mức lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thông thường hiện nay. Trên phương diện để phá vỡ mối nghi ngại về tính không chắc chắn về các khoản vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể đề nghị ngân hàng cấp trên cho phép trích lợi nhuận trước thuế của ngân hàng để hùn vốn với các doanh nghiệp, việc làm này có thể làm tăng tính kết nối giữa doanh nghiệp vói ngân hàng, ngân hàng có thể có đầy đủ những thông tin và giảm thiểu rủi ro tín dụng hoặc cho các doanh nghiệp sử dụng tài sản được hình thành từ vốn vay để làm tài sản thế chấp. Cũng nên nới lỏng các điều kiện vay vốn của các doanh nghiệp. Hiện tại các ngân hàng yêu cầu phải có 20% vốn tự có trong phương án vay vốn ngắn hạn và 30% khi vay vốn trung va dài hạn, ngân hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải có 2 năm sản xuất kinh doanh có lãi mới được xét duyệt cho vay, trong lúc doanh nghiệp mới thành lập đang cần có vốn là yêu cầu không thực tế. Vì vậy, ngân hàng phải tập trung vào phát triển hệ thống thông tin, tăng cường khả năng tiếp cận khách hàng, tăng cường khả năng thanh toán quốc tế và tận dụng về cơ chế cho vay là ngân hàng Nhà nước đã giao quyền tự chủ chocác tổ chức tài tín dụng. - Đối với kinh tế hộ, nét đặc biệt của kinh tế hộ trên địa bàn huyện Yên Lạc là số hộ sản xuất chiếm trên 70% tổng số hộ kinh tế, mục tiêu trước mắt của huyện đặt ra là phát triển kinh tế hộ, đặc biệt là hộ sản xuất nông nghiệp để vừa nâng cao đời sống nhân dân vừa tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trên cơ sở có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp. Việc cho vay đối với hộ sản xuất được đánh giá là tiềm ẩn nhiều rủi ro khó dự đoán, địa bàn cho vay rộng, số lượng đối tượng đông. Giải pháp để đầu tư cho hộ sản xuất ngân hàng cần thực hiện. + Trước hết kiện toàn và mở thêm các ngân hàng cấp 4, phấn đấu đạt bình quân 4 xã có một ngân hàng cấp 4. Vị trí ngân hàng phải đặt ở những điểm tập trung đông dân cư và trung tâm kinh tế từng địa bàn và có phương án hoạt động cụ thể. + Cần đơn giản hơn nữa thủ tục về điều kiện đi vay. Những khó khăn chủ yếu đối với việc vay vốn ngân hàng hiện nay là các vấn đề thế chấp, bảo lãnh thủ tục phê duyệt các dự án, hợp đồng tín dụng và cân đối cho vay của các tổ chức tín dụng mà thực tế là quy trình phức tạp khiến người dân băn khoăn khi tiếp xúc với thủ tục vay vốn tại ngân hàng. Vấn đề đặt ra là đơn giản hơn nữa các giấy tờ, hồ sơ cho vay, giảm những nội dung không cần thiết, rườm rà, trùng lặp. + Thực hiện tốt chương trình phối hợp các tổ chức chính trị , xã hội: Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh..nhằm tạo nhiều kênh dẫn vốn thuận lợi nhất cho hộ nông dân, hinhg thành các tổ chức cho vay vốn tại các địa bàn, thông qua các tổ chức truyền thông về tín dụng đối với sản xuất các nội dung như thủ tục, các lợi ích và ưu đãi mà họ được hưởng. + Xây dựng các dự án đầu tư tín dụng theo vùng kinh tế hoặc theo ngành nghề theo quy hoạch phát triển và thưo chu kỳ sản xuất. Các dự án này được sự tham gia của các cấp có thẩm quyền. Sâu đó triển khai thực hiện theo các chương trình dự án đi vào thực hiện. + Tiếp tục mở rộng cho vay đời sống đối với cán bộ, công nhân viên, mạnh dạn đầu tư với các đối tượng khác như: hộ nông nghiệp, hộ phi nông nghiệp và các khách hàng có nhu cầu vay vốn phục vụ đời sống trên cơ sở khách hàng có điều kiện vay vốn ngân hàng. Song song với việc cho vay các thành phần kinh tế, ngân hàng phải thường xuyên khảo sát nhu cầu vốn của khách hàng, chú trọng hộ sản xuất, kinh doanh giỏi, hộ kinh tế trang trại, những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, để có kết quả kinh doanh. Đồng thời giám sát quản lý chặt chẽ các khoản vay và có các biện pháp tích cực, linh hoạt xử lý các khoản nợ đến hạn, nghiêm túc thực hiện việc chuyển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12656.DOC
Tài liệu liên quan