Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần: Lời mở đầu Trong những năm gần đây thực hiện đường lối mới của Đảng và Nhà nước, với chủ trương phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tận dụng mọi hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, nên sự thiếu hụt về vốn đã phần nào được giải quyết. Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp đều phải thực hiện nguyên tắc hạch toán lấy thu bù chi và tạo ra lợi nhuận. Khi đã có vốn kinh doanh, vấn đề mang tính sống còn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp là vốn phải được sử dụng có hiệu quả và hiệu quả ngày càng cao. Tuy nhiên thực tế ở các doanh nghiệp, việc sử dụng và đánh giá hiệu quả của nó không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Vì vậy trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp in Hậu Cần em đã chọn đề tại chuyên đề tốt nghiệp: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần” nhằm phân tích, đánh giá vấn đề sử dụng vốn của doanh nghiệp...

doc51 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 904 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong những năm gần đây thực hiện đường lối mới của Đảng và Nhà nước, với chủ trương phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tận dụng mọi hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, nên sự thiếu hụt về vốn đã phần nào được giải quyết. Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp đều phải thực hiện nguyên tắc hạch toán lấy thu bù chi và tạo ra lợi nhuận. Khi đã có vốn kinh doanh, vấn đề mang tính sống còn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp là vốn phải được sử dụng có hiệu quả và hiệu quả ngày càng cao. Tuy nhiên thực tế ở các doanh nghiệp, việc sử dụng và đánh giá hiệu quả của nó không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Vì vậy trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp in Hậu Cần em đã chọn đề tại chuyên đề tốt nghiệp: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần” nhằm phân tích, đánh giá vấn đề sử dụng vốn của doanh nghiệp, đồng thời có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp. Với mục đích trên chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn GS.TS Cao Cự Bội và các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính, cùng các cô chú trong Xí nghiệp in Hậu Cần đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành chuyên đề này. Do thời gian và năng lực còn hạn chế em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các cô chú trong Xí nghiệp in Hậu Cần để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Chương 1: Lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.1.Nguồn vốn của doanh nghiệp. Vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, quản lý vốn của doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trọng trong quản lý tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quản lý nguồn vốn chúng ta chủ yếu đề cập tới các hình thức huy động vốn, xem xét ảnh hưởng của các nhân tố tới cách thức lựa chọn nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Để hiểu rõ hơn vấn đề này việc nghiên cứu vốn phải bắt đầu từ những khái niệm cơ bản và làm rõ vai trò của vốn đối với doanh nghiệp. 1.1.1.Khái niệm nguồn vốn. Theo Mark “ Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của một quá trình sản xuất”. Còn P. Samuelson thì cho rằng: “Vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để sản xuất ra những hàng hoá mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Một nhà kinh tế học khác là D. Begg đã đưa ra hai định nghĩa về vốn, vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp: “ Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá khác của doanh nghiệp”. Cả ba quan điểm trên đều thể hiện rất rõ ràng về đặc điểm của vốn, tuy nhiên vẫn có sự hạn chế bởi sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất, “Vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp sử dụng vào quá trình sản xuất- kinh doanh của mình”. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, vốn được quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và trong quá trình tiếp theo của doanh nghiệp. Như vậy, vốn không chỉ là một yếu tố đầu vào mà còn tham gia xuyên suốt quá trình sản xuất và tái sản xuất trong quá trình tồn tại của doanh nghiệp. Tóm lại, bản chất của nguồn vốn xét trên góc độ kinh tế là giá trị của tất cả các phương tiện của doanh nghiệp để có thể hoạt động theo phương hướng sản xuất kinh doanh đã định bao gồm “ Vốn hình thể” và “ Vốn phi hình thể”. 1.1.2.Đặc trưng của vốn. Để quản lý và sử dụng nguồn vốn đạt hiệu quả chúng ta cần nắm bắt được những đặc trưng của nó. Các đặc trưng cơ bản của vốn là: -Vốn phải đại diện cho một tài sản nhất định, hay vốn được biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp. -Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. -Vốn cần đ]ợc tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định thì mới phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. -Vốn có giá trị về mặt thời gian, đặc trưng này giúp ta tính được giá trị và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn. -Vốn phải luôn gắn với chủ sở hữu. -Vốn cỏ thể được coi như một hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán trên thị trường đó là thị trường vốn và thị trường tài chính. -Vốn không chỉ biểu hiện trong các tài sản hữu hình mà còn ở các tài sản vô hình. 1.1.3.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp. Qua nghiên cứu về nguồn vốn và các đặc trưng của nó ta có thể thấy rằng: doanh nghiệp không thể tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào nếu thiếu một lượng vốn nhất định. Số vốn này lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào chiến lược, quy mô của doanh nghiệp nhưng nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp. Về mặt kinh tế, vốn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, vốn được cung ứng ra để đầu tư tài sản cố định, tài sản lưu động cho doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Nó không chỉ cần cho hình thành mà cong phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục của doanh nghiệp. Vốn cũng là yếu tố quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ưu thế của doanh nghiệp trên thương trường. Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp cần không ngừng hiện đại hoá công nghệ để theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Muốn đạt được điều này, doanh nghiệp luôn cần có lượng vốn đủ lớn. Vốn cũng có vai trò quan trọng trong việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để phát triển doanh nghiệp, tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp cần phải đảm bảo trước hết là kinh doanh có lãi để bảo toàn vốn và phát triển. Đó là cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, mở rộng quy mô tăng uy tín cho doanh nghiệp. Hiểu được đầy đủ vai trò quan trọng của vốn, doanh nghiệp mới có thể sử dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả, tiết kiệm để đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn của cơ chế thị trường. Về mặt pháp lý: một doanh nghiệp muốn khởi nghiệp thì nhất thiết phải có một lượng vốn đủ lớn theo quy định của pháp luật goi là vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp. Mức này quy định đối với từng ngành nghề khác nhau do luật pháp quy định. Khi đó doanh nghiệp mới có đủ tư cách pháp lý để tham gia sản xuất kinh doanh. Nếu không đạt thì doanh nghiệp không được pháp luật công nhận về tư cách pháp lý. Trong quá tình kinh doanh, nếu doanh nghiệp là ăn thua lỗ, số vốn của doanh nghiệp không đạt được mức tối thiểu theo quy định của pháp luật thì sẽ bị tuyên bố phá sản. Như vậy vốn cũng là một yếu tố đảm bảo tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. 1.1.4.Phân loại nguồn vốn. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà quy mô của vốn cũng như cơ cấu thàn phần của chúng có sự khác nhau. 1.1.4.1.Căn cứ theo nguồn hình thành. Nguồn vốn của mỗi doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên mỗi một loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác trên một số nguồn nhất định. Vì thế, người ta có thể căn cứ vào nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp để nhận biết doanh nghiệp đó thuọcc loại nào. Chẳng hạn doanh nghiệp có nguồn vốn chủ yếu thuộc nguồn ngân sách nhà nước thì đó là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên một doanh nghiệp cho dù thuộc loại hình nào đi chăng nữa thì vốn kinh doanh của chúng cũng được khai thác, hình thành từ một trong những nguồn sau: FVốn chủ sở hữu Với mỗi loại hình doanh nghiệp vỗ chủ sở hữu lại có sự hình thành khác nhau, tuy nhiên đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới. Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập, bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước là nhà nước. Nguồn vốn này gọi là vốn ngân sách nhà nước. Đó là nguồn vốn được hình thành từ quỹ tích luỹ của ngân sách và được dùng vào mục đích chi phát triển kinh tế. Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty, mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia. Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, nhưng thông thường số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách đầu tư của nhà nước. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần( cổ tức) nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vây, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút. Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số vấn đề có liên quan như: -Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ -Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước -Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó. -Hiệu quả của việc tái đầu tư Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu. Trong hoạt động sản xuất-kinh doanh, doanh nghiệp cỏ thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Có rất nhiều loại cổ phiếu khác nhau: -Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng, trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. -Cổ phiếu ưu tiên: cổ phiếu ưu tiên thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là cổ tức nhất định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không nhận được cổ tức của kỳ đó. Khi nào thì cần phát hành và thu hồi cổ phiếu? Để trả lời câu hỏi này cần xem xét khía cạnh sau: Các doanh nghiệp thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ(mà không tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và trọn cách phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên, thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng chính xác. Việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thường ngẫu hứng, theo kiểu linh hoạt “ tuỳ cơ ứng biến”. FNợ. Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất- kinh doanh doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng và vay thông qua phát hành trái phiếu. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất-kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ số vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng có thể phân loại cho vay thành các loại như: cho vay đầu tư TSCĐ, cho vay đầu tư TSLĐ, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác nhau như: thời hạn cho vay, cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn( lãi suất). -Điều kiện tín dụng: các doanh nghiệp muốn vay vốn tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. -Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”. -Lãi suất vay vốn: lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vay vốn ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng thương mại. Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay mua bán trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm 40% tổng nguồn vốn. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ khá lớn. Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành của sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Vốn vay thông qua phát hành trái phiếu. Trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty. Trái phiếu còn được gọi là trái khoán. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khă năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính của nhiều nước, hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu doanh nghiệp sau: -Trái phiếu có lãi suất cố định: loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp (người đi vay) và người giữ trái phiếu(người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. -Trái phiếu có lãi suất thay đổi: tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Khi nào nên phát hành loại trái phiếu này? Trong điều kiện có lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự biến động của lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy một số người yêu thích trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên loại trái phiếu này có một số nhược điểm: +Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. +Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. -Trái phiếu cỏ thể thu hồi: đây là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Loại trái phiếu này có những ưu điểm sau: +Có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần thiết, các doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu tức là giảm số vốn vay. +Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó. 1.1.4.2.Căn cứ theo quá trình chu chuyển. Vì vốn luôn vận động luân chuyển trong kỳ sản xuất kinh doanh, việc quản lý vốn phải đề cập đến hoạt động luân chuyển của vốn, đến ảnh hưởng qua lại của các hình thức khác nhau của tài sản, hiệu quả của vòng quay vốn. Do đó phải xem xét đến vốn trong góc độ chu chuyển tức là trạng thái động với quan điểm hiệu quả. Căn cứ theo hình thức luân chuyển của vốn người ta phân chia vốn thành hai loại: vốn đầu tư vào tài sản cố định(vốn cố định) và vốn đầu tư vào TSLĐ( vốn lưu động). Vốn đầu tư vào TSCĐ( vốn cố định). Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp. Để có thể quản lý vốn cố định, điều cần thiết trước hết là phải tìm hiểu những đặc điểm về mặt hiện vật của chúng-TSCĐ. Có thể nói một cách khác, TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản: có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động( phương tiện để sản xuất kinh doanh) chứ không phải để bán. Theo quyết định số 1062/TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ trưởng Bộ tài chính”những tư liệu lao động đồng thời thoả mãn 2 tiêu chuẩn là có thời gian sử dụng từ một năm trở lên, có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên thì được coi là TSCĐ. Nếu phân chia theo hình thái vật chất( TSCĐ có hai loại là tài sản hữu hình và tài sản vô hình) -Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thức vật chất cụ thể như: đất kinh doanh, nhà xí nghiệp, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và những phương tiện công cụ khác trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. -Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể mà là những phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại, phí quảng cáo, thù lao cho luật sư… Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường và để nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải đầu tư các khoản chi phí lớn cho tài sản vô hình. Những chi phí này cũng được quản lý và thu hồi dần như những chi phí để mua sắm TSCĐ khác. Trong quá trình sản xuất-kinh doanh nhìn chung TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng năng lực sản xuất và giá trị của chúng giảm dần. Có hiện tượng đó là do trong quá trình tham gia vào sản xuất TSCĐ đã bị hao mòn. Có hai loại hao mòn là: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn có liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của TSCĐ, còn hao mòn vô hình lại có liên quan đến việc mất giá của TSCĐ. Trong nền kinh tế thị trường, biểu hiện của hao mòn vô hình là rất đa dạng, TSCĐ có thể bị mất giá do nhiều nguyên nhân. Những nguyên nhân cơ bản có thể được kể ra sau đây: -TSCĐ cũ có thể bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra với giá không đổi nhưng có năng lực sản xuất cao hơn. -TSCĐ cũ bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra có công suất bằng tài sản cũ nhưng giá lại rẻ hơn. -TSCĐ cũ bị mất giá do sản phẩm của chúng sản xuất ra không còn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, máy móc đã bị mất giá vì chu kỳ sống của máy móc đã không ăn khớp với chu kỳ sống của sản phẩm do nó tạo ra. Cũng tương tự, TSCĐ có thể bị mất giá do nguyên liệu, vật liệu sản xuất bị thay đỏi, năng lượng, nhiên liệu được thay thế bằng loại khác… Bộ phận giá trị đại diện cho phần hao mòn được gọi là tiền khấu hao. Tiền khấu hao là một yếu tố của chi phí sản xuất, một bộ phận của giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ, tiền khấu hao được trích lại để hình thành quỹ khấu hao. Những đặc điểm vận động về hình thái hiện vật và giá trị trên đây của TSCĐ đã quyết định tới sự vận động của vốn cố định. Đặc điểm vận động của vốn cố định là : -Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn cố định bị tách ra thành hai phần: một bộ phận giá trị tương ứng với phần giá trị của hao mòn sẽ gia nhập vào giá thành sản phẩm và được tích luỹ lại sau khi được tiêu thụ, còn bộ phận khác đặc trưng cho phần giá trị còn lại của TSCĐ. Các chu kỳ sản xuất cứ kế tiếp nhau tiếp diễn, phần thứ nhất của vốn cố định –quỹ khấu hao cơ bản cứ ngày càng gia tăng; còn phần thứ hai-giá trị còn lại của TSCĐ lại giảm dần. Sự biến thiên nghịch chiều ấy được kết thúc khi TSCĐ được khấu hao hết. Phần giá trị còn lại của TSCĐ đã được chuyển hoá toàn bộ sang vốn tiền tệ-quỹ khấu hao, đồng thời cũng là kết thúc vòng tuần hoàn của vốn cố định. -Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn, nó quyết định tới tốc độ tăng trưởng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư vào TSLĐ(vốn lưu động) Vốn lưu động của một doanh nghiệp là một bộ phận của nguồn vốn được ứng ra để mua sắm các TSLĐ sản xuất và tài sản lưu thông nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất-kinh doanh. Để tiến hành sản xuất, ngoài TSCĐ doanh nghiệp phải có TSLĐ. Tuỳ theo từng loại hình kinh doanh mà cơ cấu TSLĐ cũng khác nhau. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh TSLĐ thường được cấu tạo bởi 2 phần là TSLĐ sản xuất và tài sản lưu thông. -TSLĐ sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính, vật liệu phu, nhiên liệu… và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm, chi phí đợi phân bổ. -Tài sản lưu thông của doanh nghiệp gồm sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ(hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Trong quá trình sản xuất, khác với TSCĐ, TSLĐ luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm và vì vậy giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này đã quyết định tới sự vận động của vốn lưu động-hình thái giá trị của TSLĐ. Đặc điểm vận động của vốn lưu động có thể được tóm tắt như sau: -Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. Giai đoạn này vốn đã thay đổi hình thái từ vốn tiền tệ sang vật tư. -Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn sản xuất: qua công nghệ sản xuất, các vật tư dự trữ được chế tạo thành bán thành phẩm và thành phẩm. -Kết thúc vòng tuần hoàn, sản phẩm sau khi được tiêu thụ, hình thái hàng hoá hiện vật lại được chuyển sang vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu. Trong thực tế sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn lưu động không phải diễn ra một cách tuần tự như mô hình lý thuyết nêu trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được chuyển hoá thành vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang, thì một bộ phận khác của vốn lại chuyển từ sản phẩm, thành phẩm sang vốn tiền tệ. Cứ như vậy các chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được liên tục tuần hoàn và chu chuyển. Do phương thức vận động có tính chất chu kỳ, lặp đi lặp lại như trên, nên loại vốn này được gọi là vốn lưu động. Điều này có thể phân biệt với vốn cố định cả về phương thức vận động và độ dài thời gian của một chu kỳ chu chuyển. 1.2.Hiệu quả sử dụng vốn 1.2.1.Khái niêm hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn _Hiệu quả: là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được khi bỏ ra chi phí đó. Nếu chi phí bỏ ra càng ít mà kết quả thu được càng nhiều thì điều đó có ý nghĩa là hiệu quả càng cao và ngược lại. _Hiệu quả sử dụng vốn: Đó là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh thường người ta đánh giá trên hai góc độ: +Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng nhất đối với mỗi doanh nghiệp. Nó phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được về mặt kinh tế với các chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. +Hiệu quả xã hội của một quá trình sản xuất kinh doanh thể hiện mức độ tham gia của doanh nghiệp vào các chương trình kinh tế xã hội. Thông qua các hoạt động kinh doanh của mình thực hiện các chính sách: phúc lợi, tạo việc làm cho người lao động, môi trường, công bằng xã hội. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo chính để đánh giá trình độ điều hành, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá bằng hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả xã hội vì doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Đạt được hiệu quả xã hội cũng có vai trò đảm bảo và hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, nhà kinh doanh chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Có đạt được hiệu quả kinh tế mới đảm bảo cho hiệu quả xã hội. Nguồn vốn là nguồn lực kinh tế lớn nhất của doanh nghiệp nên có tác động rất lớn tới hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc nếu muốn nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Thông qua đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn cao là sử dụng, khai thác vốn để đảm bảo sinh lời lãi cao, đạt được mục đích tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn bằng nhiều phương pháp khác nhau. Để lượng hoá hiệu quả sử dụng vốn người ta sử dụng hệ thống chỉ tiêu và khả năng hoạt động và khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn. Nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ, đo chênh lệch giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được. Kết quả thu được mà càng cao so với chi phí bỏ ra thì có nghĩa là hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao. Do vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cần phải dảm bảo các điều kiện sau: _Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để, không để vốn nhàn rỗi, bị chết. _Phải sử dụng vốn một cách có hiệu quả và hợp lý nhất _Quản lý vốn chặt chẽ để vốn không bị thất thoát hay sử dụng sai mục đích. 1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chung về hiệu quả sử dụng vốn Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ngoài việc xem xét chung còn được đề cập tới từng bộ phận vốn: vốn cố định – TSCĐ, vốn lưu động – TSLĐ 1.2.2.1.Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định – TSCĐ Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thông qua kiểm tra tài chính doanh nghiệp có được những căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết định về mặt tài chính như điều chỉnh quy mô và cơ cấu đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hoá TSCĐ; về các biện pháp khai thác năng lực sản xuất của TSCĐ hiện có, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Để tiến hành kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định cần xác định đúng đắn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và TSCĐ của doanh nghiệp. Thông thường bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích sau đây: Thuộc các chỉ tiêu tổng hợp có: _Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Doanh thu thuần trong kỳ Số vốn cố định bq trong kỳ Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Số vốn cố định ĐK+Số vốn cố định CK Trong đó: 2 Số vốn cố định bq trong kỳ = Số vốn cố định bq trong kỳ _Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra 1 đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Doanh thu thuần trong kỳ Hàm lượng vốn cố định = LN trước thuế (hoặc LN sau thuế) Số vốn cố định bq trong kỳ _Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế) Tỷ suất LN vốn cố định = Ngoài các chỉ tiêu tổng hợp trên người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu phân tích sau đây: _Hệ số hao mòn TSCĐ: phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu Số tiền khấu hao luỹ kế Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá Hệ số hao mòn TSCĐ = Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) _Hiệu suất sử dụng TSCĐ: phản ánh1 đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ Hiêuh suất sử dụng TSCĐ = _Hệ số trang bị TSCĐ cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất: phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất Hệ số trang bị TSCĐ = 1.2.2.2.Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động – TSLĐ Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp có thể sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau đây: _Tốc độ luân chuyển vốn lưu động Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Vốn lưu động luân cuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ Tốc độ luân chuyển vốn lưu động có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số lần luân chuyển (số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn (số ngày của một vòng quay vốn). Số lần luân chuyển vốn lưu động phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong một thờ kỳ nhất định, thường tính trong một năm. Công thức tính toán như sau: Vốn lưu động bình quân trong kỳ Số lần luân chuyển của = VLĐ trong kỳ 360 Kỳ luân chuyển vốn phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động. Số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ Kỳ luân chuyển VLĐ = Vòng quay vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng hiệu quả. Tổng doanh thu thuần Ngoài ra người ta còn sử dụng các chỉ tiêu sau để xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Vốn lưu động bình quân Số vòng quay của VLĐ = Thời gian của kỳ phân tích Số vòng quay của VLĐ trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng lên chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại. Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển. Thời gian của một vòng luân chuyển = VLĐ * 360 DT = Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để cho VLĐ quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn. Vốn lưu động bình quân Tổng doanh thu thuần Hệ số đảm nhiệm VLĐ = Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng luân chuyển thì cần mấy đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao. 1.2.2.3.Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn Lợi nhuận trước thuế Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh dưới góc độ sử dụng TSCĐ, TSLĐ chúng ta cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lời. Đây là một trong những nội dung phân tích được các nhà đầu tư, các nhà tín dụng quan tâm một cách đặc biệt vì nó gắn liền với lợi ích của họ cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Để đánh giá khả năng sinh lời của vốn. Chúng ta sử dụng các chỉ tiêu sau: Tổng tài sản Hệ số sinh lời của vốn = Lợi nhuận Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này được gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư. Doanh thu thuần Hệ số doanh lợi doanh thu = Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thuần đem lại mấy đồng lợi nhuận. Trong công thức trên chỉ tiêu lợi nhuận thường là lợi nhuận ròng trước thuế hay sau thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc lợi tức gộp. Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu = Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu DT thuần VCSH Lợi nhuận DT thuần Hệ số quay vòng VCSH Hệ số doanh lợi DT thuần Từ công thức tính hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu và mối quan hệ với các nhân tố ảnh hưởng ta có: = = x = x Như vậy hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố và có thể xác định bằng phương pháp loại trừ. Hệ số quay vòng vốn chủ sở hữu phản ánh trong kỳ kinh doanh vốn chủ sở hữu quay được mấy vòng. Số vòng quay của vốn chủ sở hữu càng tăng thì hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu càng lớn và ngược lại. Hệ số doanh lợi doanh thu thuần cho biết một số đồng doanh thu thuần đem lại mấy đồng lợi nhuận. Lợi nhuận đem lại một đồng doanh thu thuần càng lớn thì khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu càng tăng. 1.2.3.Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.2.3.1.Chu kỳ sản xuất Chu kỳ sản xuất gắn với thời gian sử dụng vốn do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn. Chu kỳ sản xuất ngắn, vốn sẽ thu hồi nhanh, tránh rủi ro. Nếu chu kỳ sản xuất kéo dài doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu gánh nặng ứ đọng vốn và chi phí vốn cao. Tuy nhiên lợi nhuận thu được trong chu kỳ sản xuất ngắn thường thấp hơn ở chu kỳ sản xuất dài. 1.2.3.2.Đặc điểm về kỹ thuật sản xuất Nếu ngành nghề kỹ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ sử dụng máy móc hơn nhưng lại dễ bị cạnh tranh do chi phí đầu tư trang thiết bị không lớn. Doanh nghiệp ở ngành này dễ thu lợi nhuận, thu lại vốn nhưng không kéo dài được lâu. Còn đối với những doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi trang thiết bị máy móc công nghệ hiện đạim trình độ nhân công cao sẽ tạo ra được những lợi thế cạnh tranh rất tốt nhưng lại đòi hỏi đâu tư lớn, gây sức ép chi phí lớn, làm giảm lợi nhuận. 1.2.3.3.Đặc điểm về sản phẩm của doanh nghiệp Sản phẩm của doanh nghiệp sẽ quyết định xem doanh nghiệp có đạt được lợi nhuận không, có thể mở rộng tái sản xuất không vì nó là kết quả của quá trình sản xuất, nó chứa đựng bên trong các chi phí đầu tư. Sản phẩm của ngành công nghiệp nhẹ thì chu kỳ sản xuất ngắn, doanh nghiệp sẽ nhanh thu hồi được vốn, máy móc thiết bị đầu tư không quá tốn tiền. Sản phẩm của các ngành công nghiệp mà chu kỳ sản xuất dài hơn, vòng đời dài hơn, có giá trị lớn thì cũng đòi hỏi các dây chuyền công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến, do đó vốn đầu tư cũng lớn. 1.2.3.4.Tác động của thị trường Thị trường là yếu tố có thể quyết định tới sự thành bại trong kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Nếu có được một thị trường ổn định, lớn sẽ thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mở rộng, thu lợ nhuận và hiệu quả sử dụng vốn tăng lên. Nếu không có thị trường hay thị trường không ổn định thì doanh nghiệp không thể có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao được. Vốn bỏ ra cũng không thể có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Đối với những sản phẩm có tính thời vụ thì thị trường ảnh hưởng mạnh mẽ đến doanh thu, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.2.3.5.Trình độ nhân sự Yếu tố con người cũng không thể xem nhẹ trong các doanh nghiệp vì doanh nghiệp có vốn, có thị trường nhưng rất cần con người để hoạch định ra các chiến lược và thực hiện sản xuất ra sản phẩm. _Người quản lý: trong doanh nghiệp người quản lý phải điều hành việc sử dụng vốn, kết hợp các nguồn lực, yếu tố sản xuất một cách có hiệu quả, giảm chi phí, luôn luôn tìm cơ hội trên thị trường để doanh nghiệp phát triển tốt. Do vậy, đòi hỏi người quản lý phải có trịnh độ cao để đáp ứng được các yêu cầu trên của công việc. _Người lao động: người lao động phải có tay nghề để đáp ứng yêu cầu công việc, sử dụng máy móc trang thiết bị tốt sẽ khai thác tối đa công suất máy móc, tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.2.3.6.Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán – tài chính. Công tác kế toán sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như việc sử dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó ra các quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nên cũng tác động vào việc quản lý vốn. Vì vậy, thông qua công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, sẽ tìm ra những điểm tồn tại và có biện pháp giải quyết. 1.2.4.Nguyên tắc cơ bản của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Nguyên tắc cơ bản nhất trong sử dụng và quản lý vốn là bảo toàn và phát triển vốn. Khi chọn lựa bất kỳ giải pháp nào thì mục tiêu đặt ra đầu tiên là bảo toàn được vốn sau đó mới tiếp tục phát triển nó. Thực tế ở Việt Nam, trước đây do áp dụng cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp nên tính chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp kém. Doanh nghiệp được cấp vốn, cấp kế hoạch sản xuất, đầu ra cũng do nhà nước giải quyết. Tình trạng làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả rất phổ biến, nhà nước thường xuyên phải bù lỗ, cấp bù vốn thêm vốn. Chuyển sang cơ chế thị trường, trước đòi hỏi khắt khe của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp thường phải đặt ra nguyên tắc: “hiệu quả, bảo toàn và phát triển” trong sử dụng vốn. Yêu cầu bảo toàn vốn chính là duy trì giá trị, sức mua, năng lực của nguồn vốn chủ sở hữu. Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn khác nhau có thể là gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động, nhưng kết quả chỉ phản ánh vào nguồn vốn chủ sở hữu. Chính vì vậy doanh nghiệp phải đặt ra yêu cầu bảo toàn và phát triển nguồn vốn của chủ sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường giá trị của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp luôn luôn biến động. Do vậy bảo toàn vốn không phải là giữ nguyên về số tuyệt đối của giá trị tiền tệ. Doanh nghiệp cần phải quan tâm tới giá trị thực của các loại vốn tức là khả năng tái sản xuất các yếu tố đầu vào, vì thế nguyên tắc bảo toàn vốn đối với các loại vốn của doanh nghiệp không giống nhau. Đối với từng loại, tuỳ theo đặc điểm về sự chu chuyển, sự tham gia vào quá trình sản xuất,… để yêu cầu bảo toàn vốn là khác nhau. _Đối với vốn cố định: nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn cố định là một yêu cầu bắt buộc với doanh nghiệp do những lý do sau đây: +Vốn cố định chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu vốn, quyết định tới yếu tố tăng trưởng của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và cả hiệu quả kinh doanh. +Vốn cố định có chu kỳ vận động kéo dài hơn nhiều so với vốn lưu động. Phải sau một thời gian dài sử dụng doanh nghiệp mới có thể thu hồi được lượng vốn bỏ ra. Hơn nữa trong thời gian tồn tại, vốn cố định luôn có khả năng bị thất thoát, giảm vốn do nguyên nhân khách quan như lạm phát, hao mòn vô hình. +Vốn cố định không chuyển dịch giá trị vào sản phẩm một lần và thu hồi một lần như vốn lưu động. Ngoài phần nhỏ vốn bằng tiền nằm trong quỹ khấu hao thì phần lớn giá trị vốn cố định nằm trong tài sản cố định. Nếu gọi phần nằm trong quỹ khấu hao là động thì phần giá trị tài sản cố định là phần tĩnh của vốn cố định. Giả sử chưa hề tính đến rủi ro do nguyên nhân khách quan và chủ quan làm giảm giá trị tài sản cố định thì muốn bảo toàn nguồn vốn cố định có nghĩa phải chuyển phần tĩnh sang phần động. Nhưng đây là một quá trình rất phức tạp và khó khăn dễ gây ra thất thoát. _Đối với vốn lưu động Vốn lưu động có đặc trưng cơ bản là dịch chuyển một lần vào giá trị sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất, hình thái giá trị của nó thì thay đổi liên tục qua các giai đoạn của qúa trình sản xuất. Vì thế quản lý và sử dụng vốn lưu động chính là khâu quan trọng trong quản lý tài chính doanh nghiệp. Vốn lưu động được sử dụng, phân bổ quản lý như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn lưu động tồn tại dước các hình thái tiền tệ, vật tư hàng hoá,… đây là những tài sản dễ gặp rủi ro do những nguyên nhân chủ quan và khách quan đem lại. _Vật tư, hàng hoá bị ứ đọng do doanh nghiệp không tiêu thụ được. _Khi kinh doanh bị thua lỗ kéo dài dẫn đến tình trạng thiếu hụt vốn do lợi nhuận giảm. Những nguyên tắc chung mà mọi doanh nghiệp đều phải tuân theo trong quản lý và sử dụng để bảo toàn và phát triển vốn lưu động là: _Thời điểm kết thúc vòng quay của vốn nên trùng với kỳ của kế toán, vòng quay của vốn lưu động thường trùng với chu kỳ sản xuất kinh doanh. _Giá trị bảo toàn vốn căn cứ trên chỉ số giá chung hoặc chỉ số của từng vật tư hàng hoá chủ yếu phù hợp với yêu cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp. _Phải đảm bảo tái sản xuất giản đơn về vốn lưu động. Đó là những nguyên tắc chủ yếu trong việc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Dựa vào những nguyên tắc chung và đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp để nhà quản lý có những biện pháp hợp lý hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đảm bảo thực hiện “bảo toàn và phát triển vốn”. Chương 2: Hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần 2.1.Khái quát về Xí nghiệp in Hậu Cần 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp in Hậu Cần Căn cứ vào nghị định số 15/CP ngày 2/3/1993 của Chính Phủ về nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm quản lý của nhà nước, của bộ và cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào luật doanh nghiệp được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/4/1995. Xí nghiệp in Hậu Cần được thành lập theo quyết định số 152 do đồng chí Võ Văn Cẩn phó chủ nhiệm tổng cục Hậu Cần ký ngày 15/4/68. Những ngày đầu thành lập Xí nghiệp in Hậu Cần bao gồm 56 cán bộ công nhân viên cùng với trang thiết bị máy móc: 6 máy in Typo với 4 chủng loại khác nhau cùng một số trang thiết bị khác. Xí nghiệp in được tổ chức thành 6 tổ sản xuất với nhiệm vụ in tài liệu huấn luyện nghiệp vụ của các tổng cục hậu cần – Bộ quốc phòng với sản lượng đạt được 63 triệu trang in. Những năm sau sản xuất ổn định, sản lượng trang in năm sau tăng hơn năm trước. Đến năm 1975, hoà chung niềm vui của cả nước sản lượng đạt 229 triệu trang in, vượt 3,44%. Từ năm 1976 đến năm 1980 mặc dù gặp nhiều khó khăn về vật tư, nhất là giấy in nhưng Xí nghiệp in Hậu Cần đã khắc phục để vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ và tự khẳng định mình. Đến năm 1981, xí nghiệp in Hậu Cần được đổi thành Xí nghiệp in Hậu Cần, với sự nhạy bén trong điều hành sản xuất, Xí nghiệp mạnh dạn sử dụng cơ chế mới trong trả lương: từ lương theo thời gian sang lương theo sản phẩm và hình thức trả lương này đã khuyến khích tập thể cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên của Xí nghiệp có nhiều sáng kiến, dám nghĩ, dám làm tạo ra một khối lượng sản phẩm ngày càng tăng. Trong thời gian qua, những năm trên đường thực hiện chủ trương đổi mới, Xí nghiệp in Hậu Cần cũng đã phải bươn trải vượt qua không ít khó khăn thử thách để trụ vững và phát triển đi lên. Khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường, Xí nghiệp in Hậu Cần chuyển sang hạch toán kinh tế, tinh giảm biên chế, tinh giảm bộ máy quản lý, tổ chức lại sản xuất và chuyển sang công nghệ in pôset để đảm bảo được nhiệm vụ chính trị là in các tài liệu phục vụ tổng cục và nội bộ quân đội. Song bên cạnh đó, Xí nghiệp cũng là một doanh nghiệp sản xuất chịu sự tác động của cơ chế thị trường, nên ngoài nhiệm vụ in ấn tài liệu phục vụ quân đội, Xí nghiệp còn in các tạp chí, sách giáo khoa của khách hàng bên ngoài quân đội đặt hàng. Thực hiện chủ trương của Nhà nước và Bộ quốc phòng, xét tình hình thực tế và tính chất của hàng hoá mà Xí nghiệp in sản xuất, thứ trưởng tổng cục Hậu Cần đã quyết định từ 1/5/1995 Xí nghiệp in Hậu Cần thuộc quyền lãnh đạo, quản lý của cục chính trị tổng cục hậu cần. Tháng 12/1995 Bộ tổng tham mưu có quyết định số 720/QĐ chuyển Xí nghiệp sang hạch toán nội bộ. Theo quyết định mới, nhiệm vụ của xí nghiệp in chủ yếu phục vụ nhu cầu in ấn của nội bộ tổng cục hậu cần và quân đội. Trong những năm gần đây, khi chuyển sang loại hình Xí nghiệp in hạch toán nội bộ, các chỉ tiêu sản xuất giảm đi, song chất lượng sản phẩm được nâng cao không ngừng. Sự đổi mới từng bước công nghệ đảm bảo cho Xí nghiệp cơ bản đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. 2.1.2.Cơ cấu tổ chức của Xí nghiệp in Hậu Cần Tên gọi chính thức của đơn vị: Xí nghiệp in Hậu Cần Trụ sở: thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình – Từ Liêm – Hà Nội Tổng số cán bộ chiến sĩ công nhân viên của đơn vị hiện nay là 67 người trong đó có 7 đồng chí trình độ đại học, 14 đồng chí trình độ trung cấp kỹ thuật và bình quân thợ là bậc 6. Cơ cấu quản lý của Xí nghiệp tổ chức theo mô hình trực tuyến quản lý theo chế độ một thủ trưởng. *Đứng đầu là giám đốc: người có trách nhiệm cao nhất chịu trách nhiệm với quân đội, với Nhà nước về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Giám đốc cũng là người giữ vai trò điều hành toàn bộ hoạt động của Xí nghiệp. *Phó giám đốc: là người giúp việc cho giám đốc, quản lý hành chính hậu cần, doanh trại. Phó giám đốc là người chịu trách nhiệm trước giám đốc về những công việc được phân công và có thể thay giám đốc thực hiện những công việc được giám đốc uỷ quyền. *Các phòng ban chức năng _Phòng Kế hoạch – vật tư: điều hành sản xuất theo hợp đồng kinh tế. Đảm bảo vật tư cho sản xuất kinh doanh, quản lý kỹ thuật trang thiết bị. Quản lý chất lượng sản phẩm, thường xuyên cử người đi mua vật tư, tổ chức quản lý tình hình nhập xuất vật tư một cách chặt chẽ, thống kê vật tư, thời gian hoạt động cho từng công đoạn, từng ấn phẩm. _Phòng tài chính +Đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh +Phản ánh, ghi chép mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong sản xuất và tiêu thụ. +Hạch toán chi phí sản xuất và tiêu thụ, tính giá thành sản phẩm, phân phối thu nhập. +Kiểm tra giám sát mọi hoạt động kinh tế, cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả sản xuất cho giám đốc. +Cung cấp chính xác kịp thời các tài liệu về cung ứng, dự trữ sử dụng các loại tài sản để góp phần quản lý các tài sản đó hợp lý. _Phòng hành chính quản lý +Thực hiện công tác văn thư lưu trữ, soạn thảo công văn theo yêu cầu của lãnh đạo Xí nghiệp. +Bảo đảm sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật. +Tiếp đón khách, tổ chức phục vụ hội nghị, chăm lo đời sống cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong toàn Xí nghiệp. Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy quản lý PX máy in Ban giám đốc Phòng KH - KT Phòng HCQT Phòng Tài chính PX sách 2.1.3.Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp in Hậu Cần 2.1.3.1.Khái quát về sản phẩm của đơn vị Để phù hợp với nền kinh tế thị trường và để phát huy những mặt mạnh, từ hình thức trả lương theo sản phẩm nên khi nền kinh tế tập trung bao cấp xoá bỏ, chuyển sang hạch toán kinh tế, Xí nghiệp đã bắt kịp phương thức quản lý mới. Không những đảm bảo được nhiệm vụ chính trị là in các tài liệu phục vụ tổng cục và nội bộ quân đội, đơn vị còn in các tạp chí, sách giáo khoa của khách hàng bên ngoài quân đội. Hiện nay Xí nghiệp in Hậu Cần chỉ in ấn những tài liệu phục vụ cho tổng cục và bộ quốc phòng, không nhận in ấn những văn bản tư liệu từ bên ngoài. 2.1.3.2.Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất Từ những tài liệu ban đầu như: tài liệu bản thảo, đánh máy, bản thảo tranh ảnh,… cho đến khi được một sản phẩm hoàn chỉnh phải trải qua các bước công đoạn sau đây: _Lập maket: Trên cơ sở những trang đánh máy vi tính sẽ tiến hành bố trí các trang in, tranh ảnh, phụ bản, dòng, cột, kiểu chữ,… _Sắp chữ vi tính: Từ những trang bản thảo, bộ phận vi tính sẽ đánh máy vi tính sắp xếp. _Bình bản: Từ các makét tài liệu, bộ phận bình bản tài liệu sẽ làm nhiệm vụ sắp xếp bố trí dán lên các tờ trình bằng mica theo từng trang in. _Chế bản khuôn in: Trên cơ sở các tấm mica do bộ phận bình bản chuyển sang, bộ phận này chế bản các khuôn in kẽm sau đó mang đi phơi. _In: Nhận được chế bản in khuôn bản, bộ phận in offset sẽ tiến hành in hàng loạt theo các chế bản khuôn in đó. _Đóng sách: Khi nhận được các bản in, bộ phận đóng sách sẽ tiến hành gấp sách thành trang, bắt giấy theo thứ tự trang thành các tay sách sau đó đóng thành quyển. Sơ đồ 2: Quy trình in của Xí nghiệp in Hậu Cần Bản thảo Sắp chữ vi tính Bình bản Chế bản In Giấy + vật liệu # Đóng sách 2.1.3.3.Đặc điểm tổ chức sản xuất Xí nghiệp in Hậu Cần tổ chức sản xuất gồm 2 Phân xưởng _Phân xưởng in: có nhiệm vụ đánh vi tính, bình bản, phơi bản chính phục vụ cho quá trình in. Trong Phân xưởng in có bộ phận cắt, dọc giấy tuỳ theo mỗi đơn đặt hàng mà cắt, dọc khổ giấy theo yêu cầu. Các tờ giấy đã được cắt, dọc được đưa sang bộ phận in để in thành sản phẩm. _Phân xưởng đóng sách: là Phân xưởng cuối cùng của quy trình công nghệ làm các công việc sau đây: +Gấp giấy: có nhiệm vụ điều khiển máy gấp các tờ giấy in từ Phân xưởng in chuyển sang. +Bắt giấy: chủ yếu làm bằng tay vào các tay sách. +Đóng sách: có nhiệm vụ đóng các tay sách thành quyển +Xén gọn: cắt 3 mặt sách bằng máy +Đóng gói: đóng gói sản phẩm chuyển giao cho khách hàng. 2.2.Thực trạng sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu cần 2.2.1.Tình hình tổ chức nguồn vốn của Xí nghiệp in Hậu cần Để tiến hành hoạt động sản xuất, đơn vị cần đầu tư để hình thành các loại tài sản: tài sản lưu động và tài sản cố định. Nguồn hình thành các loại tài sản này chủ yếu là nguồn vốn được cấp từ ngân sách Nhà nước. Một phần nữa là từ nguồn vốn vay. Do đặc trưng của Xí nghiệp in là đơn vị sự nghiệp nên nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn chủ sở hữu. Để hiểu rõ hơn ta có thể xem xét nguồn hình thành vốn của Xí nghiệp in Hậu cần trong bảng dưới đây: Bảng 1: Nguồn hình thành vốn của xí nghiệp in Hậu Cần Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Tăng giảm năm 2003 so với năm 2002 Số tiền Tỷ lệ Tổng nguồn vốn 2.282.298.202 3.312.456.588 1.030.158.386 45,13 Nợ phải trả 626.974.501 438.991.778 -187.982.723 -29,98 Vốn chủ sở hữu 1.655.323.701 2.545.871.310 890.547.609 53,78 Tỷ suất tự tài trợ 0,725 0,768 0,864 1,19 (Nguồn: phòng tài chính Xí nghiệp in Hậu Cần) Từ bảng trên ta thấy tổng nguồn vốn của xí nghiệp năm 2003 tăng so với năm 2002 là 1.030.158.386 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 45,13% điều đó có được là do: _Vốn chủ sở hữu năm 2003 so với năm 2002 tăng lên 890.547.609 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 53,78%. _Tỷ suất tự tài trợ năm 2003 tăng so với năm 2002 là 0,864 lần với tỷ lệ tăng 1,19 lần. _Nợ phải trả của xí nghiệp lại giảm với tỷ lệ -29,98%. Như vậy nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn) của xí nghiệp từ vốn chủ sở hữu và vốn vay, trong đó nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao hơn nguồn vốn vay, nguồn vốn vay của xí nghiệp có su hướng tăng hơn một chút nhưng không đáng kể mặc dù quy mô sản xuất ngày cangf mở rộng. Tổng nguồn vốn của xí nghiệp ngày càng tăng, điều đó chứng tỏ khả năng tự chủ tài chính của Xí nghiệp cao. 2.2.2.Kết cấu vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần Kết cấu vốn của đơn vị phản ánh cơ cấu đầu tư, mà cơ cấu đầu tư lại ohụ thuộc vào chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp. Điều này được phản ánh rất rõ nét qua kết cấu tài sản của doanh nghiệp. Bảng 2: Kết cấu tài sản của Xí nghiệp in Hậu Cần Đơn vị : đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2002 so với năm 2003 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tỷ lệ (%) Tổng tài sản 2.282.298.202 3.312.456.588 1.030.158.386 45,15 TSLĐ và ĐTNH 667.657.760 29,25 1.267.816.146 -38,27 600.158.386 0 89,98 TSCĐ và ĐTDH 1.614.640.442 70,74 2.044.000.000 61,72 430.000.000 0 26,63 (Nguồn: phòng tài chính Xí nghiệp in Hậu Cần) Dựa vào bảng kết cấu tài sản của Xí nghiệp in Hậu Cần ta nhận thấy rằng tài sản cố định và đầu tư dài hạn chiểm tỷ trọng lớn hơn tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của đơn vị và là một đơn vị sản xuất. Ta cũng nhận thấy rằng tốc độ tăng của TSLĐ và ĐTNH lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của TSCĐ và ĐTDH điều đó cho thấy rằng trong năm 2003 khối lượng sản phẩm sản xuất ra phù hợp với dặc điểm của đơn vị. 2.2.3.Hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần 2.2.3.1.Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Xí nghiệp Hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá qua các hệ số tài chính, bằng những chỉ tiêu này năng lực sử dụng vốn của đơn vị sẽ được phản ánh cụ thể. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chúng ta phải gắn liền nó với doanh thu và lợi nhuận. Bảng 3: Hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2003 so với năm 2002 Số tiền Tỷ lệ (%) Doanh thu (DT) 2.300.000.000 2.956.742.767 656.742.767 28,55 Lợi nhuận (LN) 116.000.000 418.124.509 302.124.509 260,45 Vốn kinh doanh (VKD) 2.282.298.202 3.312.456.588 1.030.158.386 45,13 Hiệu suất DT/VKD 1,01 0,89 -0,12 -0,12 Hiệu suất LN/VKD 0,05 0,12 0,07 140 (Nguồn: phòng tài chính Xí nghiệp in Hậu Cần) Từ bảng trên ta thấy : Tổng doanh thu của Xí nghiệp in Hậu Cần năm 2003 tăng so với năm 2002 là 656.742.767 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 28,55%. Tổng lợi nhuận năm 2003 tăng so với năm 2002 là 302.124.509 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 260,45%. Tổng vốn kinh doanh năm 2003 so với năm 2002 tăng 1.030.158.386 đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 45,13%. Như vậy, tỷ lệ tăng của nguồn vốn kinh doanh nhỏ hơn tỷ lệ tăng của lợi nhuận. Xí nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả đảm bảo tỷ lệ sinh lời năm sau cao hơn năm trước. Sau đây chúng ta cụ thể hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp qua chỉ tiêu hiệu suất, chỉ tieue này càng cao càng tốt, năm sau cao hơn năm trước là tốt. Hiệu suất LN/VKD (2002) = 0,07 đồng, điều đó nói lên rằng một đồng vốn được sử dụng trong năm 2002 mang lại 0,07 đồng lợi nhuận. Năm 2003 một đồng vốn được sử dụng mang lại 0,12 đồng lợi nhuận. Hiệu suất LN/VKD (2003) tăng hơn so với năm 2002 là : Số tiền = 0,07 đồng Tỷ lệ = 140% Như vậy Xí nghiệp sử dụng vốn kinh doanh đảm bảo khả năng sinh lời và đạt hiệu quả cao, hiệu quả sử dụng vốn năm sau cao hơn năm trước. Vốn kinh doanh hàng năm đều tăng nhưng tỷ lệ tăng nhỏ hơn tỷ lệ tăng của doanh thu và lợi nhuận. Để hiểu được một cách cụ thể về hiệu quả sử dụng vốn chúng ta xem xét cụ thể về hiệu quả sử dụng của từng loại vốn. 2.2.3.2.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp Xí nghiệp in Hậu Cần là một Xí nghiệp có chức năng chủ yếu là sản xuất nên tỷ trọng vốn lưu động chiếm tỷ trọng nhỏ so với tỷ trọng vốn cố định phủ hợp với doanh nghiệp sản xuất. Bảng 4: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2003 so với năm 2002 Số tiền Tỷ lệ (%) Doanh thu (DT) 2.300.000.000 2.956.742.767 656.742.767 28,55 Vốn lưu động (VLĐ) 667.657.760 1.267.816.146 600.158.386 89,89 Số lần chu chuyển VLĐ 3,4 2,3 1,1 35,25 Mức tiêu thụ bình quân 1 ngày 6.610.472 13.206.418 -6.595.946 99,78 Số ngày chu chuyển VLĐ 101 96 -5 -4,83 (Nguồn: phòng tài chính Xí nghiệp in Hậu Cần) Tổng mức doanh thu trong kỳ Trong đó: Vốn lưu động bình quân trong kỳ Số lần chu chuyển VLĐ = Vốn lưu động bình quân trong kỳ Mức tiêu thụ bình quân mỗi ngày Số ngày chuy chuyển VLĐ = Nhận xét: Dựa vào số liệu bảng trên chúng ta thấy tổng doanh thu vốn lưu động của Xí nghiệp năm 2003 tăng so với năm 2002 là 600.158.386 đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 89,89%. Trong khi đó doanh thu năm 2003 tăng so với năm 2002 là 6.595.946 đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 99,78%. Như vậy tỷ lệ tăng của doanh thu lớn hơn tỷ lệ tăng của vốn lưu động làm cho số lần chu chuyển của vốn lưu động tăng lên, năm 2003 so với năm 2002 tăng 1,1 lần tương ứng với tỷ lệ tăng 32,35%. Mức tiêu thụ bình quân một nhày năm 2003 tăng so với năm 2002 là 6.595.946 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 99,78%, tỷ lệ tăng của mức tiêu thụ bình quân một ngày hơn tỷ lệ tăng của vốn lưu động đã làm cho số ngày chu chuyển vốn lưu động rút ngắn lại, năm 2003 so với năm 2002 giảm -5 ngày tương ứng với tỷ lệ giảm (-4,84%). Kết luận: Xí nghiệp sử dụng vốn lưu động đạt hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh, với tỷ lệ tăng vốn nhỏ hơn tỷ lệ tăng của doanh thu. Tốc độ chu chuyển vốn lưu động tăng lên, số ngày thực hiện một vòng quay vốn lưu động được rút ngắn lại. 2.2.3.3.Hiệu quả sử dụng vốn cố định của Xí nghiệp Đối với Xí nghiệp sản xuất thì tỷ trọng vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn. Vì vậy việc sử dụng vốn cố định có hiệu quả cao hay thấp bó ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Bảng 5: Hiệu quả sử dụng vốn cố định của Xí nghiệp in Hậu Cần Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2003 so với năm 2002 Số tiền Tỷ lệ (%) Doanh thu (DT) 2.300.000.000 2.956.742.767 656.742.767 28,55 Lợi nhuận (LN) 116.000.000 418.124.509 302.124.509 260,45 Vốn cố định 1.308.640.442 1.783.640.442 475.000.000 36,29 Hiệu suất DT/VCĐ 1,76 1,66 -0,1 -5,86 Hiệu suất LN/VCĐ 0,089 0,230 0,141 154,43 (Nguồn: phòng tài chính Xí nghiệp in Hậu Cần) Từ bảng trên ta thấy vốn cố định năm 2003 tăng so với năm 2002 là 475.000.000 đồng,tương ứng với tỷ lệ tăng là 36,29%. Vậy tỷ lệ tăng của tài sản cố định tăng hơn tỷ lệ của doanh thu và tỷ lệ tăng của lợi nhuận. Hiệu suất LN/VCĐ năm 2003 tăng so với năm 2002 là 0,141 đồng, tỷ lệ tăng 158,43%. Kết luận: Như vậy vốn cố định của Xí nghiệp năm 2003 so với năm 2002 tăng nhưng tỷ lệ tăng của vốn cố định chậm hơn tỷ lệ tăng của doanh thu và tỷ lệ tăng của lợi nhuận. Điều đó đã làm hiệu suất DT/VCĐ, hiệu suất LN/VCĐ tăng lên chứng tỏ rằng Xí nghiệp sử dụng vốn cố định có hiệu quả. 2.3.Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần 2.3.1.Những kết quả đạt được Với số liệu xem xét qua hai năm, góc nhìn có thể còn hạn chế. Nhưng xem xét chung qua hai năm 2002 và 2003 thì nhận thấy nguồn vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần tăng lên, kết cấu tài sản thay đổi để phù hợp với tình hình kinh doanh, khả năng tự chủ về tài chính của đơn vị tăng cao. Hiệu quả sử dụng vốn ngày càng tăng. _Đối với vốn cố định: hiệu suất vốn cố định tăng lên, tỷ lệ tăng cao, năm sau cao hơn năm trước. _Đối với vốn lưu động: số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ có xu hướng tăng qua các năm. Điều đó có được là do doanh thu tiêu thụ hàng hoá tăng, số ngày chu chuyển một vòng vốn lưu động được rút ngắn lại. Như vậy có thể nói rằng Xí nghiệp in Hậu Cần đã sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn qua các năm. 2.3.2.Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1.Hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn cố định Để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đáp ứng được sự đòi hỏi khắt khe của yêu cầu mới, đòi hỏi đơn vị phải thường xuyên đổi mới hiện đại hoá tài sản cố định. Tuy nhiên do những đặc điểm về hệ thống quản lý, xí nghiệp in Hậu Cần là một đơn vị không dễ dàng tự quyết định đầu tư tài sản cố định. Để đầu tư tài sản cố định đơn vị cần nguồn vốn dài hạn trong khi quy mô vốn nhỏ, chủ yếu in ấn những tài liệu phục vụ cho tổng cục Hậu Cần và cho quân đội. Việc không tự quyết định được nguồn vốn của mình nên việc quản lý và sử dụng vốn sẽ bị động mà không có sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt. Trong thời gian qua, việc đầu tư và sử dụng tài sản cố định của đơn vị chưa đạt hiệu quả cao. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định và hiệu quả sử dụng tài sản cố định năm sau đều giảm so với năm trước. Tài sản cố định đầu tư đổi mới với tốc độ chậm, chính điều này ảnh hưởng tới sản lượng của đơn vị. Trong công tác khấu hao, tài sản cố định quy mô nhỏ dẫn đến quỹ khấu hao nhỏ không thể đáp ứng yêu cầu về vốn để đầu tư đổi mới tài sản cố định. 2.3.2.2.Hạn chế trong quản lý sử dụng vốn lưu động Vốn lưu động tại Xí nghiệp in Hậu Cần chiểm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của đơn vị, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ góp phần rất lớn thúc đẩy hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên. Trong công tác quản lý và sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần cần khắc phục nưhngx hạn chế sau: Trong những phân tích ở trên đã chỉ ra rằng công tác quản lý vốn bằng tiền của đơn vị chưa thật hợp lý. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động còn rất chậm. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động giảm qua các năm. Để khắc phục được yêu cầu này đơn vị phải xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động để huy động và sử dụng cho hợp lý. Tính độc lập trong tài chính của đơn vị chưa cao nên cần sử dụng hiệu quả hơn phần vốn bằng tiền. Trên đây là những khó khăn hạn chế làm giảm hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần, nó đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Trên cơ sở phân tích đánh giá, sau đây tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần 3.1.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần 3.1.1.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định 3.1.1.1.Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư đổi mới tài sản cố định Để có thẻ nâng cao năng suất, chất lượng xí nghiệp in Hậu Cần có thể lựa chọn một trong hai cách sau: _Một là: có thể đổi mới máy móc trang thiết bị, bắt kịp công nghệ tiên tiến trên thế giới. Việc đầu tư này để tăng năng suất thiết bị, máy móc đảm bảo khả năng in ấn với kỹ thuật cao. Đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khắt khe của người đọc. Cách đầu tư này có ưu điểm là tăng khả năng sản xuất của đơn vị, với chất lượng cao. Tuy nhiên, đầu tư theo kiểu này đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, tăng chi phí khấu hao mà tài sản không phát huy được năng lực vì đặc điểm của Xí nghiệp là một đoưn vị sự nghiệp chịu sự quản lý của tổng cục Hậu Cần, do đó yêu cầu của công việc thường không ổn định. Có khi đòi hỏi làm việc rất nhiều nhưng cũng lúc không có việc để làm. Như vậy sẽ dẫn đến lãng phí về công nghệ không cần thiết. _Hai là: xí nghiệp có thể căn cứ vào yêu cầu của công việc và tình trạng tài sản cố định của đơn vị mà có kế hoạch đầu tư tài sản cố định. Theo cách này việc đầu tư tài sản cố định có trọng điểm hơn, nhanh chóng phát huy được năng lực sản xuất của tài sản cố định hơn. Tuy nhiên, làm theo cách này thường dễ lâm vào tình thế bị động, vì vậy cần phải có sự tính toán trước để đảm bảo khi có yêu cầu công việc xí nghiệp sẽ lập kế hoạch đúng thời gian tiến độ. Qua phân tích tình hình thực tế tại Xí nghiệp in Hậu Cần, và yêu cầu công việc cho thấy trong thời gian qua, việc đầu tư tài sản cố định chủ yếu phục vụ nhu cầu quản lý, vì thế mức độ đầu tư chậm, làm giảm năng suất và hiệu quả kinh tế, khó bắt nhịp với tốc độ phát triển của ngành. Do vậy trong thời gian tới xí nghiệp cần phải đổi mới thiết bị máy móc để đáp ứng được với đòi hỏi của công việc. Với lợi thế của một doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động nguồn vốn đầu tư dài hạn, vì thế doanh nghiệp có thể đầu tư theo cả hai cách thức trên. Đối với những tài sản cố định đòi hỏi yêu cầu công nghệ cao như: máy vi tính, máy in,... thì có thể lựa chọn theo cách thứ nhất. Còn những tài sản không đòi hỏi yêu cầu về công nghệ cao như chế bản, bình bản,... có thể lựa chọn đầu tư theo cách thứ hai. Để làm được điều này xí nghiệp in Hậu Cần cần có sự giúp đỡ về nguồn vốn dài hạn của tổng cục Hậu Cần và các ngân hàng. Còn đối với người thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản cố định trong đơn vị có trách nhiệm phải tìm hiểu những thông tin về thị trường khoa học công nghệ để đầu tư cho đúng yêu cầu. Xí nghiệp in Hậu Cần đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn vốn đầu tư dài hạn vì sự giúp đỡ của tổng cục Hậu Cần là có hạn, mà tích luỹ của xí nghiệp là thấp. Do đó thay vì đầu tư mua sắm mới tài sản cố định, xí nghiệp có thể đi thuê bằng nhiều hình thức khác nhau theo yêu cầu của công việc. 3.1.1.2.Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định Trong thời gian qua việc sử dụng tài sản cố định có hiệu quả thấp đã ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Xí nghiệp in Hậu Cần. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định là nâng cao thời gian sử dụng máy móc thiết bị. Giải pháp quan trọng nhất là đẩy mạnh hơn nữa việc tìm kiếm việc làm. Cái khó ở đây là xí nghiệp không tự quyết được công việc của chính mình, nói đúng hơn là xí nghiệp không có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đơn vị cần phải lập kế hoạch sản xuất cụ thể, để từ đó lập kế hoạch sử dụng tài sản cố định cho hợp lý nhất. 3.1.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động Trong công tác quản lý vốn lưu động tại xí nghiệp in Hậu Cần đã bộc lộ những hạn chế làm giảm hiệu quả sử dung vốn lưu động. Vốn lưu động nằm trong mọi khâu của quá trình sản xuất, và chiếm tỷ trọng rất lớn, do đó chu kỳ sản xuất kéo dài dễ gây ứ đọng vốn. Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Xí nghiệp in Hậu Cần, nhận thấy rằng những hạn chế trong công tác này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sau đây là một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp in Hậu Cần. 3.1.2.1.Quản lý tiền mặt tốt hơn Trong thời gian qua, tiền mặt của xí nghiệp đã đáp ứng yêu cầu thanh toán và cung ứng tức thời. Tuy nhiên do tiền mặt bị “chết” lớn đã làm cho xí nghiệp gặp khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tốc độ luân chuyển vốn chậm. Trong thời gian tới, xí nghiệp cần điều chỉnh cơ cấu cho phù hợp, tiền mặt cần được đưa vào chu trình sản xuất nhanh hơn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng và cấp thiết ở đây là xí nghiệp cần tăng cường tìm kiếm những hợp đồng mới để tiền mặt nhanh chóng chuyển sang hình thái khác, tạo hiệu quả cao, tránh lãng phí vốn. 3.1.2.2.Quản lý tốt hơn vốn lưu động trong khâu sản xuất Do đặc điểm của xí nghiệp, có những lúc khối lượng công việc rất lớn, nhưng cũng có những lúc lại không có việc, đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho xí nghiệp trong việc quản lý vốn lưu động trong khâu sản xuất chủ yếu là chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Ví dụ như trong quá trình sản xuất xí nghiệp phải tạm dừng sản xuất nếu có những yêu cầu thay đổi về mẫu mã, bản thảo làm thời gian sản xuất kéo dài, làm tăng chi phí bảo dưỡng máy móc và chi phí nhân công. Để khắc phục những thiệt hại trong trường hợp này xí nghiệp cần yêu cầu bên đối tác phải đưa ra những cam kết cụ thể về trách nhiệm vật chất đối với việc làm chậm tiến độ sản xuất trong hợp đồng để yêu cầu họ phải bồi thường. 3.1.2.3.Thực hiện công tác dự toán ngân quỹ Trên cơ sở thức hiện đồng bộ những giải pháp trên, xí nghiệp phải gắn công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh với công tác lập dự toán ngân quỹ. Việc lập dự toán ngân quỹ một cách chính xác sẽ giúp xí nghiệp chủ động trong quản lý tài chính mặc dù dự toán ngân quỹ chưa thể chính xác cao. Tuy nhiên mức biến động phải đạt ở mức thấp cho phép. Để dự toán được ngân quỹ, người quản lý phải nắm được chính xác kế hoạch sản xuất, quy mô thời điểm nhập xuất của các dòng tiền. Đặc điểm của Xí nghiệp in Hậu Cần là đơn vị hạch toán nội bộ, điều này là một thuận lợi cho việc dự toán ngân quỹ. Điều cần làm là xí nghiệp cần phải quản lý các dòng tiền xuất quỹ, dự trù chính xác tiền sửa chữa máy móc, dự trữ vật liệu, nguyên liệu, công cụ dụng cụ cho chính xác. Để dự trữ chính xác cần thanh toán vật liệu cho các đội sản xuất, phòng vật tư kế hoạch và phòng tài chính kế toán cần phối hợp xử lý chặt chẽ với các đội trưởng sản xuất. Ngay khi nhận được bản thảo, phòng vật tư kế hoạch phải căn cứ vào hợp đồng để xác định trước nhu cầu nguyên vật liệu từng giai đoạn theo yêu cầu của công việc. Dựa trên cơ sở đó phòng tài chính sẽ dự trù về ngân quỹ để đáp ứng cho phù hợp. Trong quá trình thực hiện tất nhiên sẽ xuất hiện những phát sinh, những chênh lệch cần điều chỉnh. Nhưng nếu có sự phối hợp đồng bộ của các phòng ban và các đội sản xuất thì việc điều chỉnh sẽ không quá khó khăn. 3.1.2.4.Xí nghiệp cần phải tổ chức nguyên vật liệu sản xuất một cách hợp lý Xí nghiệp cần phải tổ chức nguyên vật liệu sản xuất một cách hợp lý để giảm giá chi phí đầu vào bằng cách thay nguên vật liệu ngoại nhập bằng nguyên vật liệu trong nước vì có một số ấn phẩm cần phải in ấn trên nguyên liệu nhập từ nước ngoài. Với nguyên vật liệu trong nước thì chi phí đầu vào rẻ hơn, nó có tác động đến giá thành sản phẩm và công tác sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp. 3.2.Kiến nghị 3.2.1.Kiến nghị với Nhà nước Vì doanh nghiệp là hạt nhân của nền kinh tế, nó chịu sự điều khiển chung của các cơ quan Nhà nước. Do đó để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì sự điều chỉnh này phải có mục đích đúng đắn, đảm bảo công bằng, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp. Để tạo nên hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của Nhà nước về luật pháp, chính sách kinh tế vĩ mô. _Nhà nước cần tạo môi trường pháp luật phù hợp để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên phương diện bình đẳng thì doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại và phát triển. Tình trạng in lậu tràn lan, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Vì vậy chỉ có luật pháp thì mới có thể ngăn chặn được tình trạng đó, để tạo ra sự cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp. _Thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ cần gọn nhệ. Thủ tục hành chính gọn nhẹ có hai tác dụng. +Thủ tục vay vốn, cấp vốn nhanh giúp cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất để thu hút được nhiều bạn hàng, tăng doanh thu. Mặt khác thủ tục gọn nhẹ, thuận tiện sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được cơ hội, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hơn nữa doanh nghiệp còn tiết kiệm được các khoản chi phí cho thủ tục giấy tờ, giao dịch phát sinh. +Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp thu được khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất, tăng năng suất lao động từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 3.2.2.Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên Trong giai đoạn hiện nay nhà nước ta đang khuyến khích các doanh nghiệp tự chủ trong quá trình sanr xuất kinh doanh. Xí nghiệp in Hậu Cần với quy mô vốn nhỏ, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn cấp từ tổng cục Hậu Cần, thực hiện hạch toán nội bộ. Để cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được những kết quả khả quan hơn, có một số kiến nghị với tổng cục hậu cần: _Bổ sung thêm vốn cố định, vốn lưu động. _Giúp đỡ tạo thêm việc làm để xí nghiệp khai thác sử dụng nguồn vốn đã đầu tư tốt hơn. _Tổng cục Hậu Cần cần tạo điều kiện để xínghiệp chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong công tác đổi mới, hiện đại hoá tài sản cố định. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh là tất yếu khách quan. Để tạo được thế mạnh, doanh nghiệp phải xây dựng được sức mạnh về tài chính, cụ thể là phải có khả năng về vốn. Vốn là điều kiện cần thiết tạo ra sự tăng trưởng về sản lượng, về năng suất lao động,… Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một yêu cầu cấp bách đối với mọi doanh nghiệp. Có nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì mới tăng được doanh thu từ đó tăng được lợi nhuận, mở rộng sản xuất, giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập cho người lao động. Vì vậy đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cần phải được tiến hành rất cẩn thận, chính xác. Đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn chính là cơ sở để đưa ra các biện pháp nhằm sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả hơn. Trong nội dung chuyên đề này em đã cố gắng đưa ra một hệ thống chỉ tiêu đánh giá chung hiệu quả sử dụng vốn cũng như đánh giá riêng hiệu quả của từng nguồn vốn. Đồng thời vận dụng hệ thống chỉ tiêu đó vào để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần. Dựa vào kết quả đánh giá để khẳng định những mặt mạnh, chỉ ra những tồn tại, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần trong thời gian tới. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12774.DOC
Tài liệu liên quan