Đề tài Một số cải cách chính sách thương mại của Trung Quốc kể từ sau khi gia nhập WTO và bài học kinh 5 nghiệm cho Việt Nam

Tài liệu Đề tài Một số cải cách chính sách thương mại của Trung Quốc kể từ sau khi gia nhập WTO và bài học kinh 5 nghiệm cho Việt Nam: 1 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 4 Chương I: NHỮNG CAM KẾT CỦA TRUNG QUỐC KHI GIA NHẬP WTO 6 I. Tiến trình Trung Quốc gia nhập WTO 6 1. Tiến trình đàm phán 1.1 Đàm phán đa phương 1.2 Đàm phán song phương 1.3 Nhận xét về tiến trình Trung Quốc đám phán để gia nhập WTO 6 6 9 10 2. Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO 2.1 Đối với bản thân Trung Quốc 2.2 Đối với quốc tế 2.3 Đối với khu vực Châu Á - ASEAN 12 12 15 15 II. Cam kết của Trung Quốc trong quá trình gia nhập WTO 21 1. Nhận xét chung 21 2. Một số cam kết cụ thể 2.1 Thương mại hàng hoá 2.1.1 Ngành ô tô 2.1.2 Ngành dệt may 2.1.3 Lĩnh vực nông nghiệp 2.1.4 Lĩnh vực năng lượng – dầu mỏ 2.2 Thương mại dịch vụ 23 23 23 23 23 24 24 2 2.2.1 Lĩnh vực viễn thông 2.2.2 Chứng khoán 2.2.3 Ngành ngân hàng 2.2.4 Lĩnh vực bảo hiểm 2.2.5 Phân phối – bán lẻ 24 25 25 26 26 Chương II: MỘT SỐ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG QUỐC SAU KHI GIA N...

pdf81 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 860 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số cải cách chính sách thương mại của Trung Quốc kể từ sau khi gia nhập WTO và bài học kinh 5 nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 4 Chương I: NHỮNG CAM KẾT CỦA TRUNG QUỐC KHI GIA NHẬP WTO 6 I. Tiến trình Trung Quốc gia nhập WTO 6 1. Tiến trình đàm phán 1.1 Đàm phán đa phương 1.2 Đàm phán song phương 1.3 Nhận xét về tiến trình Trung Quốc đám phán để gia nhập WTO 6 6 9 10 2. Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO 2.1 Đối với bản thân Trung Quốc 2.2 Đối với quốc tế 2.3 Đối với khu vực Châu Á - ASEAN 12 12 15 15 II. Cam kết của Trung Quốc trong quá trình gia nhập WTO 21 1. Nhận xét chung 21 2. Một số cam kết cụ thể 2.1 Thương mại hàng hoá 2.1.1 Ngành ô tô 2.1.2 Ngành dệt may 2.1.3 Lĩnh vực nông nghiệp 2.1.4 Lĩnh vực năng lượng – dầu mỏ 2.2 Thương mại dịch vụ 23 23 23 23 23 24 24 2 2.2.1 Lĩnh vực viễn thông 2.2.2 Chứng khoán 2.2.3 Ngành ngân hàng 2.2.4 Lĩnh vực bảo hiểm 2.2.5 Phân phối – bán lẻ 24 25 25 26 26 Chương II: MỘT SỐ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG QUỐC SAU KHI GIA NHẬP WTO 28 I. Nhận xét chung 28 II. Một số cải cách thương mại cụ thể 31 1. Một số cải cách thương mại cụ thể 1.1 Cải cách liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ 1.2 Đưa quyền tự chủ sản xuất và kinh doanh ngoại thương xuống các địa phương 1.3 Cơ cấu lại nền kinh tế 1.4 Thay đổi các quy định phù hợp với thông lệ quốc tế 1.5 Tập trung cho các ngành công nghiệp mũi nhọn 1.6 Đủ ngũ cốc để nuôi sống 1,3 tỷ dân 1.7 Giữ tốc độ tăng trưởng bình quân 7% trong năm năm tới 1.8 Cơ chế quản lý 31 31 32 34 36 37 39 40 41 2. Kết quả sau một năm gia nhập WTO 2.1 Xuất nhập khẩu và nội tiêu 2.2 Kết quả FDI 2.3 Thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử 2.4 Hội nhập kinh tế toàn cầu 43 43 50 53 54 Chương III: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT 56 3 NAM I. Trung Quốc gia nhập WTO mang đến cơ hội cho Việt Nam 56 1. Cơ hội cho việc tích cực cải cách để phát triển kinh tế 2. Cơ hội cho việc hình thành môi trường kinh doanh ở châu Á 3. Cơ hội đẩy nhanh tiến trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế 4. Cơ hội thu hút FDI 5. Cơ hội học tập kinh nghiệm về điều chỉnh cơ cấu kinh tế 56 57 58 58 60 II. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ quá trình đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc 61 1. Cần kiên trì “không nóng vội” và kiên định “bảo vệ lợi ích của mình” 2. Bài học về công tác chuẩn bị tốt, đầy đủ trong quá trình đàm phán 3. Bài học về sự điều hành hữu hiệu của Chính phủ 4. Bài học về tạo ra điều kiện mở cửa bằng cách “Thí điểm trước - áp dụng rộng rãi sau” 5. Bài học về sự chủ động phát triển thương mại quốc tế dựa vào lợi thế so sánh 6. Những việc Việt Nam cần thực hiện để chuẩn bị cho tiến trình gia nhập WTO 61 62 64 65 65 66 KẾT LUẬN 69 PHỤ LỤC 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 4 LỜI NÓI ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế hoá nền kinh tế hiện nay, hội nhập và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế không thể nào đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình, và Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung này. Tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế (WTO) - tổ chức thương mại toàn cầu lớn nhất và quan trọng nhất, thu hút tới 144/ 200 1 nước thành viên Liên hiệp quốc và chi phối tới 95% tổng kim ngạch thương mại toàn thế giới, là đích hội tụ và mẫu số chung của các nước trong xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế. Việc tham gia WTO sẽ mang lại cho quốc gia thành viên nhiều cơ hội mới, lớn lao về mở rộng thị trường xuất - nhập khẩu, tiếp nhận những hàng hoá, dịch vụ, công nghệ kỹ thuật và quản lý, được đối xử công bằng trên thị trường quốc tế, cải thiện các điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong nước. Nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của việc tham gia “sân chơi quốc tế” này, Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu trở thành thành viên chính thức của WTO vào năm 2005. Để thực hiện được mục tiêu này, Việt Nam cần tham khảo, xem xét, đánh giá và rút kinh nghiệm từ các nước đi trước trong quá trình đàm phán gia nhập và kết quả sau khi gia nhập WTO nhằm tìm ra được hướng đi đúng đắn, phù hợp với điều kiện Việt Nam nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu của WTO. Chính vì lý do này, em đã chọn vấn đề: “Một số cải cách chính sách thương mại của Trung Quốc kể từ sau khi gia nhập WTO và bài học kinh 5 nghiệm cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương của mình. 1 Tính đến ngày 12/11/2001 Trung Quốc chính thức gia nhập WTO (Nguồn: www.wto.org/english/thewto-e) Mục đích nghiên cứu: - Phân tích vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn trong quá trình gia nhập WTO của Trung Quốc. - Phân tích kết quả sau một năm Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO cũng như một số cải cách chính sách thương mại. - Rút ra những bài học cho Việt Nam trong quá trình đàm phán để sớm gia nhập có hiệu quả vào WTO. Đối tượng của phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của đề bài là những cam kết của Trung Quốc trong quá trình gia nhập WTO, một số cải cách của chính sách thương mại của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO. - Do mức độ rộng lớn của vấn đề này trong phạm vi một khoá luận tốt nghiệp đại học, phạm vi nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp này chỉ phân tích những vấn đề liên quan đến một số chính sách cải cách về thương mại nói chung, không đi sâu vào chính sách thương mại từng lĩnh vực cụ thể. Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; và quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng. Đề bài này cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: thu thập, so sánh, phân tích và tổng hợp. Bố cục của khoá luận: Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, kết cấu đề tài được chia thành 3 chương: 6 Chương 1: Những cam kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO. Chương 2: Một số cải cách chính sách thương mại của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO. Chương 3: Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. CHƯƠNG I NHỮNG CAM KẾT CỦA TRUNG QUỐC KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI I. TIẾN TRÌNH TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO 1. Tiến trình đàm phán Nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa vốn là một trong số 23 quốc gia tham gia ký kết thành lập Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) vào năm 1947. Tuy nhiên đến năm 1950, do chính phủ Quốc dân Đảng ở Đài Loan tuyên bố rút lui nên Trung Quốc cũng đã rút khỏi GATT. Ngày 11/7/1986, đại sứ Trung Quốc ở Liên Hiệp Quốc Tiền Giai Đông đã gửi công hàm cho GATT, chính thức đề xuất việc Chính phủ Trung Quốc xin khôi phục địa vị nước tham gia ký kết GATT. 1.1 Đàm phán đa phương Năm 1987, GATT đã thành lập “Nhóm công tác về địa vị nước tham gia ký kết Hiệp định chung của Trung Quốc” để thảo luận các điều kiện trở thành thành viên nhưng do hậu quả của sự kiện Thiên An Môn năm 1989, quá trình đàm phán bị tạm hoãn lại. Đàm phán được khôi phục vào năm 1992, nhưng Trung Quốc đã không đạt được thoả thuận về sự phê chuẩn đa phương không chính thức với GATT trước khi GATT chính thức được thay thế bởi WTO vào tháng 1/ 1995. Chính vì vậy mà quá trình đàm phán của Trung Quốc phải tiếp tục. Trung Quốc nộp đơn xin trở thành thành viên WTO vào tháng 12/1993; đồng thời đổi tên “Tổ công tác về việc khôi phục lại vị trí của Trung 7 Quốc tại GATT” thành “Tổ công tác về việc đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc”. Từ những năm 1993, 1994 Trung Quốc đã tổ chức một cuộc vận động để trở thành thành viên sáng lập của WTO nhưng cuộc vận động đã không thành công. Quá trình đàm phán tiếp tục diễn ra trong nhiều năm nhưng không có thành viên nào đi đến một thoả thuận cuối cùng cho việc gia nhập WTO của Trung Quốc. Đối với Trung Quốc đây là một sự chờ đợi lâu dài và không có kết quả. Chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố rằng nếu không có được một quyết định vào cuối năm 1994 thì Chính phủ Trung Quốc sẽ không chủ động tìm kiếm đàm phán song phương và đa phương nữa. Sau những nỗ lực để trở thành thành viên sáng lập của WTO nhưng không thành công, Trung Quốc có phần nào trùng lại. Thay cho dự định sớm gia nhập WTO từ năm 1994, 1995, Trung Quốc đã đưa ra một lịch trình mới không đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO để hạn chế những tác động tiêu cực quá lớn của tổ chức này đối với nền kinh tế trong nước. Các quan chức Trung Quốc trong một số xí nghiệp quốc doanh và một số nghành công nghiệp được bảo hộ nhiều (xe hơi, tài chính, động cơ điện ...) đề nghị kéo dài thời hạn gia nhập WTO để có thời gian chuẩn bị và thích nghi trước những thách thức và cạnh tranh của thị trường mở. Việc làm này của Trung Quốc làm cho sự nhiệt tình của các thành viên WTO bị suy giảm. Qúa trình đàm phán được tổ công tác mở lại vào tháng 5/1995. Nhiều quốc gia trong đó có Nhật, Liên minh Châu Âu (EU), Mỹ đã yêu cầu nối lại các cuộc nói chuyện với Trung Quốc. Cuối cùng thì Trung Quốc cũng đã đồng ý nối lại các cuộc nói chuyện và trở lại bàn đàm phán ở Geneva vào tháng 7/1995. Trong cuộc gặp cấp cao không chính thức tại Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ở Osaka tháng 11/1995, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã thông báo, Trung Quốc sẽ tự nguyện giảm thuế hơn 4000 mặt 8 hàng với mức trung bình 30% và sẽ huỷ bỏ hạn ngạch nhập khẩu hơn 170 hạng mục hàng hoá vào năm 1996. Sau đó trong một buổi làm việc không chính thức giữa các thành viên WTO vào tháng 12/1995, Trung Quốc tiếp tục thông báo một số dự định mới: - Rút ngắn lịch trình giảm thuế trong các ngành sản xuất và khai thác mỏ từ 6 năm xuống còn 3 năm, trong nông nghiệp từ 10 năm xuống còn 5 năm. - Rút ngắn lịch trình huỷ bỏ quyền kinh doanh ngoại thương từ 8 năm xuống 5 năm. - Giảm thuế nhập khẩu từ 35% xuống còn 23% bằt đầu từ tháng 4/1996. Đến năm 1995, qúa trình đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc dường như hoàn tất, nhưng một lần nữa việc đàm phán lại không đi được đến thoả thuận và đàm phán lại diễn ra trong suốt năm 1996. Tại cuộc họp APEC ở Manila tháng 11/1996, Trung Quốc đã thông báo cắt giảm thuế và chính sách tiếp cận thị trường được đưa ra ngay trong chương trình hành động tình nguyện của APEC. Trung Quốc đã đặt ra kế hoạch đằng sau chuyển động này để tạo ra môi trường cho sự gia nhập WTO của Trung Quốc trước Nhật Bản và một số nước Châu Á khác; đồng thời tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước bên ngoài khu vực. Trung Quốc giới thiệu các chương trình hành động riêng lẻ bao gồm việc giảm thuế mới, mở cửa thị trường và quyền sở hữu trí tuệ. Theo kế hoạch, Trung Quốc thông báo sẽ: - giảm mức thuế trung bình từ 23% xuống còn 15% (vào năm 2000). - xem xét lại các biện pháp phi thuế quan đang tồn tại với 384 mặt hàng và bãi bỏ tất cả những biện pháp không phù hợp với luật lệ, quy tắc của WTO. - Mở cửa thị trường hơn trong các lĩnh vực như: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, bán lẻ, vận tải, thông tin, du lịch và các lĩnh vực khác. - Sửa đổi luật và các quy định có liên quan tới việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. 9 - Thực hiện một cách đầy đủ các thoả thuận của vòng đàm phán Urugoay sau khi gia nhập WTO. Trong quá trình đàm phán 15 năm qua, Trung Quốc đã tiến hành 37 lần hội nghị nhóm công tác địa phương, trong đó có 19 lần hội nghị đa phương được tổ chức với GATT (diễn ra trong thời gian từ 22/10/1987 - 20/10/1994) và 18 lần hội nghị với WTO (bắt đầu từ 22/3/1996). 1.2 Đàm phán song phương Bên cạnh việc đạt được sự thoả thuận trong các cuộc đàm phán đa phương, Trung Quốc cũng đã thực hiện thành công các đàm phán song phương với Mỹ, Canada, Brasil, Thuỵ Sĩ, Na-uy, ... Trung Quốc đã vượt qua trở ngại lớn nhất của qúa trình đàm phán bằng việc ký kết hiệp định Thương mại song phương với Mỹ ngày 15/11/1999. Để đạt được kết quả như vậy, trong giai đoạn 1986 -1989, hai bên đã thực hiện 10 lần đàm phán, nhiều lần hàn gắn rạn nứt trong quan hệ hai nước cũng như sự nhượng bộ và kiên định của Chính phủ Trung Quốc trong nỗ lực cố gắng gia nhập WTO, tổng cộng 13 năm thoả thuận và 6 ngày thương lượng nước rút. Ngày 18/6/2001, bên lề hội nghị Bộ trưởng thương mại APEC tại Thượng Hải, Trung Quốc đã đạt được thoả thuận với Mỹ về việc gia nhập WTO, giải quyết những bất đồng còn tồn tại giữa hai nước kể từ sau thoả thuận song phương về mở cửa thị trường. Cho đến ngày 26/9/1999, Trung Quốc đã đàm phán với 36 nước và EU, đạt được thoả thuận với trên 20 nước và ký hiệp định chính thức với 12 nước. Một đối tác quan trọng trong đàm phán song phương khác của Trung Quốc là EU. Sau nhiều phiên thảo luận, thương lượng, ngày 20/5/2000, Trung Quốc và EU đã chính thức ký kết hiệp định về việc Trung Quốc gia nhập WTO. 10 Ngày 17/9/2001, Hội nghị lần thứ 18 tổ công tác WTO họp tại Geneva đã thông qua văn kiện pháp lý của Nhóm công tác Trung Quốc gia nhập WTO bao gồm: nghị định thư gia nhập, báo cáo của tổ công tác bao gồm các phụ lục của Nghị định thư. Hội nghị quyết định trình các văn kiện này lên Đại hội đồng WTO. Như vậy, tổ công tác đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử 15 năm của mình. Mặc dù văn kiện pháp luật gia nhập WTO của Trung Quốc còn phải được kiểm tra và thông qua tại Hôị nghị cấp Bộ trưởng lần thứ 4 cuả WTO tổ chức ngày 9 - 13/11/2001 tại Doha, Quatar, song trên thực tế, Hội nghị này thuần tuý là vấn đề thủ tục. Toàn bộ quá trình đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc về cơ bản đã kết thúc. Ngày 11/12/2001, Trung Quốc đã chính thức được kết nạp, trở thành thành viên đầy đủ của WTO. 1.3 Nhận xét về tiến trình Trung Quốc đàm phán để gia nhập WTO Trải qua 15 năm nỗ lực và cố gắng, cuối cùng Trung Quốc đã bước chân vào WTO. Quá trình đàm phán gia nhập của WTO của Trung Quốc đã khẳng định việc Trung Quốc đã chủ động tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế, đơn phương đưa ra các chương trình hành động cụ thể với việc giảm thuế quan, bãi bỏ các biện pháp phi thuế quan ... Nhưng hết lần này đến lần khác, Trung Quốc vẫn vấp phải những trở ngại trong đàm phán. Nguyên nhân có thể thấy ở cả nhân tố chủ quan và khách quan gồm:  Vấn đề tư cách gia nhập của Trung Quốc: Trung Quốc luôn xác định là một nước đang phát triển, có nghĩa Trung Quốc thực hiện những quyền lợi và nghĩa vụ phù hợp với những đIều kiện của một nước đang phát triển. Nhưng các nước tham gia ký kết lại đánh gia cao trình độ và thực lực phát triển kinh tế của Trung Quốc, tuyên bố Trung Quốc nên gia nhập WTO theo những điều kiện của một nước phát triển. Điều này không những không phù hợp với thực trạng kinh tế TQ mà còn mâu thuẫn với hàng loạt 11 các chính sách Trung Quốc. Chính điều này đã gây ra những bất đồng dai dẳng trong khi đàm phán ký kết các thoả thuận song phương và đa phương.  Các bên đàm phán quan trọng như Mỹ đã không ngừng đưa ra cái “giá vào cửa” quá cao và hà khắc, tạo ra những trở ngại lớn trong việc Trung Quốc khôi phục lại địa vị tại GATT và gia nhập WTO. Về mặt thuế quan, đàm phán chủ yếu yêu cầu Trung Quốc thực hiện thuế suất 0% hoặc yêu cầu điều chỉnh mức thuế suất đối với hàng nhập khẩu. Đối với biện pháp phi thuế quan, Trung Quốc đã cam kết lịch trình bãi bỏ 600 trong tổng số hơn 700 các biện pháp được áp dụng nhưng các bên đàm phán lại yêu cầu Trung Quốc đưa ra lịch trình huỷ bỏ toàn bộ các biện pháp phi thuế. Về thương mại dịch vụ, Trung Quốc phải mở cửa và cam kết tiếp tục mở cửa các ngành: viễn thông, du lịch, vận tải, hàng không, ngân hàng ... mặc dù Trung Quốc đã tiến hành mở cửa 36 ngành nghề trên phạm vi toàn quốc trong lĩnh vực thương mại dịch vụ  Tiến trình đàm phán gia nhập WTO chịu ảnh hưởng nặng nề của các nhân tố chính trị. Nước Mỹ trong khi đàm phán với Trung Quốc đã đưa ra rất nhiều các điều kiện hà khắc, có mục đích chính trị rõ ràng, đặc biệt là một số còn mong muốn cản trở việc Trung Quốc gia nhập WTO để ngăn chặn việc nâng cao hơn nữa địa vị và sự phát triển của Trung Quốc. Mỹ đã chính trị hoá việc đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc, làm tăng thêm mức độ khó khăn trong đàm phán, đồng thời kéo dài tiến trình đàm phán.  Cùng với việc “giá vào cửa” tăng lên, mức độ khó khăn của việc gia nhập cũng tăng theo. Khi vòng đàm phán thương mại đa phương Urugoay bắt đầu, ngoài việc thảo luận những vấn đề mang tính truyền thống còn tăng 12 thêm 3 vấn đề mới: thương mại dịch vụ, bảo hộ độc quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại.  Ảnh hưởng của các nhân tố bảo hộ trong nước. Chế độ kinh tế vẫn có nhiều điểm chưa hoàn thiện, vẫn tồn tại sự cách biệt nhất định so với những yêu cầu của WTO, mức độ mở cửa của không ít các ngành còn thấp hơn so với mức tổng thể của các nước đang phát triển. Nói tóm lại, một mặt Trung Quốc không ngừng đẩy mạnh cải cách sâu rộng, hoà nhập vào quỹ đạo phát triển của thế giới, hội nhập vào thị trường quốc tế, mặt khác các khó khăn và trở ngại trên thể hiện việc Trung Quốc phản đối chủ nghĩa bá quyền, ra sức xây dựng một trật tự mới trong đó đề cao quyền lợi của Trung Quốc về mặt kinh tế, thương mại, từ đó dẫn đến ảnh hưởng của Trung Quốc trong WTO về những mặt khác. 2. Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO 2.1 Đối với bản thân Trung Quốc 2.1.1 Tác động tích cực: Việc gia nhập WTO giúp Trung Quốc duy trì và phát triển kinh tế trong khi tiếp tục trương trình cải cách và cơ cấu của mình. Những lợi ích được thể hiện ở mấy điểm sau đây: - Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt hai thập kỷ qua với mức tăng trưởng bình quân gần 10%/ năm. - Tham gia hình thành luật thương mại và đầu tư quốc tế với vai trò thành viên WTO - Bảo vệ lợi ích thương mại qua hệ thống giải quyết tranh chấp WTO Mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Trung Quốc và thúc đẩy thương mại phát triển. Hiện có tới 90% kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc là với các thành viên WTO, xuất khẩu của Trung Quốc, đặc biệt là 13 xuất khẩu hàng dệt may sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường thế giới. Dệt may được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tới 25% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Dự tính vào năm 2005 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng gấp đôi mức hiện nay và đạt 70 tỷ USD. Cộng với thu nhập từ các mặt hàng khác, hàng năm Trung Quốc có thể thu được thêm 116 tỷ USD, tương đương 1% tăng trưởng GDP 2. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá trong nước, Trung Quốc còn tận dụng cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập những hàng hoá có kỹ thuật cao, những công nghệ mới nhất, để nhanh chóng phát triển ngành có kỹ thuật cao, những ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới . - Tăng sức cạnh tranh trong mọi thành phần kinh tế. Gia nhập WTO dẫn đến cơ chế cạnh tranh buộc các xí nghiệp Trung Quốc phải dựa vào tiêu chuẩn 2 Nguồn: " Trung Quốc gia nhập WTO tác động đến Châu Á " - Ngoại thương 17 - 23/12/1999 quốc tế, vào yêu cầu thị trường để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tiến bộ kĩ thuật và nâng cao trình độ quản lý, từ đó nâng cao chất lượng tổng thể của xí nghiệp. Từ đây, người tiêu dùng Trung Quốc trực tiếp hưởng lợi: có thêm nhiều lựa chọn sản phẩm, giá thành hạ hơn, chất lượng cao hơn, nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ và quyền người tiêu dùng được nâng cao, và tăng tính hiệu quả và sản lượng sản xuất. - Tăng thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật nước ngoài. Theo tính toán của các chuyên gia, đến năm 2005, vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc có thể đạt 100 tỷ USD so với mức hơn 50tỷ USD/năm hiện nay3. Nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc sẽ đem theo công nghệ tiên tiến vào chuyển giao, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu thuế cho chính phủ. - Thúc đẩy nhanh hơn cải cách trong nước, xây dựng hệ thống luật pháp thông thoáng. Để nhập cuộc được cũng như để có thể tồn tại trong sân chơi 14 này, Trung Quốc phải thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách, đổi mới các chính sách kinh tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng nhanh cải cách theo hướng tự do hoá, từng bước xoá bỏ hàng rào thuế quan, tạo môi trường kinh tế vĩ mô tốt cho sự tăng trưởng ổn định. 2.1.2 Tác động tiêu cực: Là thành viên WTO, đồng thời với việc được hưởng những đãi ngộ, Trung Quốc cũng phải có những cống hiến tương xứng. Sau khi "mở cưả thị trường", các sản phẩm và dịch vụ của nước ngoài có sức cạnh tranh sẽ xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường Trung Quốc, do đó ảnh hưởng và gây khó khăn đối với nhiều ngành sản xuất trong nước.Trong điều kiện những biện pháp bảo hộ như hạn chế số lượng nhập khẩu, thuế quan cơ bản mất đi, các ngành công nghiệp của Trung Quốc sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập ngoại trên thị trường. Nhiều ngành đòi hỏi kỹ thuật cao, gia công khó 3 Nguồn: Nghiên cứu Trung Quốc số 6 (40) - 2001) như máy tính, thiết bị thông tin, ô tô du lịch về quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm của Trung Quốc không thể bằng các nước phương Tây. Ngoài một số ít ngành được bảo hộ nhất thời, tuyệt đại đa số mất đi lá chắn bảo hộ, hoàn toàn đặt mình vào môi trường cạnh tranh quốc tế, nên sức ép cạnh tranh là rất lớn.Những ngành chịu sức ép cạnh tranh lớn phải đối mặt với nhiều khó khăn nhất là: - Ngành viễn thông: Theo thoả thuận với EU, các nhà đầu tư nước ngoài (viết tắt ĐTNN) được phép mua ngay 25% cổ phần công ty điện thoại di động của Trung Quốc khi nước nay gia nhập WTO, và 3 năm sau sẽ tăng lên mức 49%. Các công ty nước ngoài được phép mua ngay 30% cổ phần các công ty Internet, dịch vụ nhắn tin và nhiều dịch vụ khác của Trung Quốc ở Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu. Mức này sẽ tăng lên 50% 15 trong vòng 2 năm và khi đó, các ràng buộc về mặt địa lý cũng được gỡ bỏ. Còn theo thoả thuận với Mỹ, mức thuế đánh vào các sản phẩm kỹ thuật cao như thiết bị viễn thông sẽ giảm dần và bằng 0% vào 20054. Do vậy các công ty quốc doanh quy mô lớn về viễn thông sẽ phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh gay gắt. - Ngành xe hơi: Trước viễn cảnh gia nhập WTO, ngành xe hơi Trung Quốc nằm trong số những ngành gặp khó khăn lớn nhất. Xe hơi nhập khẩu giá rẻ hơn, với chất lượng và dịch vụ tốt hơn có thể gây thiệt hại nhiều cho các liên doanh sản xuất xe hơi Trung Quốc như General Motors Thượng Hải hay Volkwagen Thượng Hải. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất xe hơi nội địa còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các thiết bị và phụ tùng xe hơi nhập khẩu ào ạt khi mức thuế giảm nhanh. Bên cạnh đó, ngân hàng, nông nghiệp, chứng khoán, bảo hiểm, năng lượng - dầu mỏ, phân phối - bán lẻ cũng được xem là những "lĩnh vực nóng" bởi chịu nhiều sức ép khi Trung Quốc gia nhập WTO. 4 Nguồn: Báo cáo Bộ thương mại Hoa Kỳ 7/ 2002 2.2. Tác động đối với quốc tế: Gia nhập WTO đồng nghĩa với với việc Trung Quốc cắt giảm thuế và hạn ngạch đối với nhiều loại hàng, từ rau quả tới gạo, ô tô, đồng thời xoá bỏ việc cấm ĐTNN vào một số lĩnh vực mà Trung Quốc vẫn hạn chế và cấm nghiêm ngặt như dịch vụ viễn thông, bảo hiểm...do vậy phải mở rộng và tăng thương mại toàn cầu. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, các công ty viễn thông nước ngoài, vẫn bị hạn chế ở việc bán thiết bị vào thị trường Trung Quốc, sẽ có thể được kiểm soát 49% thị trường viễn thông trong nước trong 2 năm đầu, sau đó tăng lên 50% 5. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, 16 các ngân hàng và công ty bảo hiểm nước ngoài cũng có thể kinh doanh ở thị trường này cùng các đối tác trong nước bằng đồng Nhân dân tệ (NDT) trong 5 năm đầu, sau đó các ngân hàng này sẽ có thể cung cấp trực tiếp các dịch vụ cho người tiêu dùng Trung Quốc. Về bảo hiểm, các nhà quản lý nước ngoài có thể nắm 33% cổ phần ở mỗi công ty liên doanh trong lĩnh vực này suốt 3 năm đầu kinh doanh. Sau đó tỷ lệ này được nâng lên tới 49%. Đối với các nước đang phát triển nói chung, bất lợi lớn nhất mà các nước này sẽ gặp phải là khả năng thu hút nguồn vốn đầu từ trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ bị cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc . Dự báo đến 2005, FDI vào các nước đang phát triển sẽ đạt 250% tỷ USD, tăng hơn 55% so với 166 tỷ năm 1998. Nhưng tỷ trọng thu hút FDI của Trung Quốc sẽ tăng mạnh từ 27,4% (45,5 tỷ USD) năm 1998 lên 40% (100 tỷ USD) năm 2005. 2.3 Tác động đối với khu vực Châu Á - ASEAN Việc Trung Quốc gia nhập WTO chắc chắn sẽ làm tăng thêm sự cạnh tranh 5 Nguồn: Bing Zhang, trường Chính sách công cộng và Quản lý, ĐH bang Ohio, Hoa Kỳ, 2000. Xem thêm: The New York Times, 15/11/ 1999. Tóm tắt hiệp định WTO song phương Mỹ - Trung Uschina.org. Toàn nội dung hiệp định: đối với các nước đang phát triển khác ở Châu Á về các mặt: thu hút đầu tư nước ngoài, xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản. Tuy nhiên bù lại các nước đang phát triển Châu Á cũng có các điều kiện thuận lợi hơn để xâm nhập thị trường Trung Quốc - một thị trường có tiềm năng lớn nhất thế giới. Trên phương diện thương mại, việc giảm thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường Trung Quốc sẽ mang lại lợi ích lớn cho những nước có trình độ cao hơn trong khu vực. Tổng giá trị nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp 17 có hàm lượng vốn và chất xám cao sẽ tăng nhanh tại thị trường Trung Quốc. Các nhà sản xuất Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ là những người được hưởng lợi đầu tư vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành thấp, chi phí vận chuyển nhỏ hơn do ưu thế gần Trung Quốc về địa lý. Hàng hóa của các nhà sản xuất này là sản phẩm của các ngành công nghệ cao, đặc biệt trong các ngành viễn thông, dịch vụ, tài chính, có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các sản phẩm cùng loại sản xuất tại Trung Quốc. Trong số các quốc gia và khu vực phát triển cao hơn Trung Quốc, có thể Đài Loan là giành được nhiều lợi nhất ở Châu Á. Nhiều công ty Đài Loan từ lâu đã coi Trung Quốc là cơ sở sản xuất của mình. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, rủi ro vào đầu tư Trung Quốc sẽ giảm đi do hạn chế mà nước này có thể áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên của WTO như vấn đề hạn ngạch nhập khẩu được dỡ bỏ. Cùng với Đài Loan, Hông Kông cũng được lợi nhiều. Cái lợi lớn nhất của vùng này là các dịch vụ tài chính. Gia nhập WTO, Trung Quốc cam kết dần dần mở cửa các dịch vụ tài chính. Việc này tạo điều kiện cho Hồng Kông khi các hãng nước ngoài giành cho nhiều tài lực hơn cho thị trường Trung Quốc. Phía các hãng Trung Quốc cũng sẽ tìm đến các nguồn vốn và dịch vụ tài chính tốt hơn của Hông Kông vì đồng NDT chưa có khả năng chuyển đổi tự do. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là những nước được hưởng nhiều lợi. Nhiều công ty, đặc biệt là các hãng xe hơi Nhật Bản và Hàn Quốc đang hy vọng là sẽ xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều sản phẩm hơn. Hai nước này có lợi thế hơn các nước khác bởi đường vận chuyển sang Trung Quốc qua biển Đông Trung Hoa chỉ mất hai ngày. 18 Bên cạnh đó, các nước trong khu vực cũng có thể bị thiệt hại nhiều do việc gia nhập WTO của Trung Quốc. Trước hết, hàng hoá của Trung Quốc vốn đã có sức cạnh tranh nay sẽ càng có ưu thế hơn, càng thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường Mỹ, Nhật, EU ... Các loại hàng hoá xuất khẩu sử dụng lao động tập trung của nhiều nước ASEAN như hàng dệt may, giày dép, đồng hồ, đồ chơi có chất lượng và mẫu mã tương tự của Trung Quốc, và đều hướng sang các thị trường như Nhật Bản, Châu Âu, Bắc Mỹ, Australia sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc. Trong cạnh tranh với các nước ASEAN, Trung Quốc có ưu thế rất lớn bởi họ chẳng những được hưởng các ưu đãi thuế quan và phi thuế quan mà còn vì Trung Quốc có số lao động dồi dào, có ưu thế về thị trường, thường được ưu tiên hơn, coi trọng hơn trong đàm phán thương mại. Khả năng hàng hoá Trung Quốc thâm nhập vào các nước ASEAN gia tăng, hàng Trung Quốc phong phú, nhiều phẩm cấp, có khả năng đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của thị trường. Bù lại, các nước Đông Nam Á, nhất là những nước xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên như Indonesia, Việt Nam, và những nước sản xuất nông nghiệp như Thái Lan, Việt Nam có thể sẽ tăng được thị phần hàng nông sản và nguyên liệu thô trên thị trường Trung Quốc. Lợi thế của ASEAN khi Trung Quốc gia nhập WTO là khả năng suất khẩu các loại nông, thuỷ, sản mà khu vực này có lợi thế như gạo, cà phê, tôm, đường, cá. Theo quy chế của WTO, các thành viên của WTO là các nước đang phát triển phải mở cửa thị trường nông sản của mình theo hệ thống hạn ngạch (MAV) đạt từ 3-5% mức tiêu thụ trong nước, ngay khi gia nhập WTO, Trung Quốc phải giảm thuế nhập khẩu nông sản còn bình quân là 20% và sau 3 năm còn 14,5%. Trong bối cảnh này, Thái Lan và Việt Nam được đánh giá là có nhiều lợi thế nhất. Hiện nay khoảng 20% nông sản phẩm xuất khẩu của Thái Lan là vào thị trường Trung Quốc. Trong đó 19 xuất khẩu gạo từ 250.000 đến 350.000 tấn/năm, chủ yếu là gạo thơm và gạo 100% B. Năm 1999, Trung Quốc nhập khoảng 700,000 tấn gạo. Với mức tiêu thụ là 120 triệu tấn/năm hiện nay, nhập khẩu gạo của Trung Quốc sẽ tăng thêm 6 triệu tấn/năm 6. Khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng điện tử, thiết bị và đồ gia dụng của Philippines và Malaysia sẽ bị ảnh hưởng đáng kể, bởi đây là thế mạnh của Trung Quốc. Còn với Thái Lan và Việt Nam, những sản phẩm bị bất lợi nhất khi Trung Quốc gia nhập WTO là hàng dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp nhẹ. Tiếp đến là vấn đề cạnh tranh thu hút đầu tư. Môi trường đầu tư của Trung Quốc đã mang tính cạnh tranh hơn các nước ASEAN nói chung từ nhiều năm nay. Tỷ lệ vốn FDI vào Trung Quốc và ASEAN những năm đầu thập niên 90 là 3/7, những năm gần đây đã hoàn toàn đảo ngược, nghĩa là 7/3 (tham khảo bảng 1). Giờ đây các nước sẽ càng gia tăng đầu tư vào Trung Quốc để hưởng ưu đãi mà WTO dành cho nước này. Năm 2002 đã đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN. Ngày 4/11/2002, Trung Quốc và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế tại Campuchia, tạo tiền đề thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (CAFTA) vào năm 2010. Đây sẽ là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới với 1,8 tỷ dân 6 Nguồn: www.wto.org, www.moftec.gov.cn, Kinh tế Châu Á - TBD số 1 (36), 2- 2002) tổng GDP vào khoảng 2000 tỷ USD và tổng kim ngạch ngoại thương khoảng 1230 tỷ USD. Từ năm 1995 đến nay, buôn bán Trung Quốc - ASEAN tăng với mức bình quân 15%/ năm, riêng năm 2001 tăng với mức 41,6%. Hiện ASEAN đã trở thành bạn hàng lớn thứ 5 của Trung Quốc, còn Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ 6 của ASEANwm 2002, xuất khẩu của 6 nước ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam) và Hàn Quốc, Đài 20 Loan sang Trung Quốc đã tăng 50%, tăng nhanh hơn 2 - 3 lần so với xuất khẩu của những nước này trên toàn cầu. Mức tăng xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ bù đắp thêm cho mức giảm xuất khẩu sang các nước khác, đặc biệt là Nhật Bản. Bảng 1: DÒNG CHẢY FDI THẾ GIỚI VÀO CHÂU Á, 1995 – 2002 Đơn vị: tỷ USD 1995 1996 1997 1998 1999 2000 1995-2000 2002 Châu Á 75,3 94,6 110,4 98.9 112,4 151,7 643,3 Trung Quốc 35,8 40,2 44,2 43,8 40,3 40,8 45,1 50.2 Hong Kong 6,2 10,5 11,4 14,8 24,6 64,4 131,9 Trung Quốc và HongKong 42 50,7 55,6 58,6 64,9 105,2 377 Nhật Bản 0 0,2 3,2 3,3 12,7 8,2 27,6 Indonesia 4,3 6,2 4,7 (0,4) (2,7) (4,6) 7,5 Hàn Quốc 1,8 2,3 2,8 5,4 10,6 10,2 33,1 Malaysia 5,8 7,3 6,5 2,7 3,5 5,5 31,3 Philippines 1,5 1,5 1,2 1,8 0,7 1,5 8,2 Singapore 8,8 10,4 13,0 6,3 7,2 6,4 52,1 Đài Loan 1,6 1,9 2,2 0,2 2,9 4,9 13,7 Vietnam 2,3 2,5 2,8 2,3 2,0 2,1 1,4 1,55 Nguồn: Báo cáo đầu tư thế giới, UNCTAD, 2001 Năm 2002, Trung Quốc và ASEAN đã thoả thuận tiến hành biện pháp “Thu hoạch sớm”, trong đó, thuế quan của tám loại hàng nông sản gồm động vật sống, thịt, cá, sữa, rau, quả, hạt, và các sản phẩm động vật khác với tổng số khoảng 500 - 600 hạng mục sẽ được giảm trước năm 20047. Mức thuế tối huệ quốc trên 15% sẽ được giảm xúông 10% vào năm 2005 21 và 0% vào năm 2006. Trung Quốc cũng sẽ giảm thuế và cho hưởng quy chế tối huệ quốc đối với các nước ASEAN chưa là thành viên của WTO như Việt Nam, Lào và Campuchia. Mặc dù sự xuất hiện của CAFTA khiến ASEAN phải đối mặt với nguy cơ tràn ngập hàng hoá rẻ tiền của Trung Quốc, nhưng về lâu dài, cả hai nền kinh tế đều có lợi. Hiện tại, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ sáu của ASEAN, còn ASEAN là bạn hàng lớn thứ năm của Trung Quốc. Kim ngạch ngoại thương với ASEAN chiếm 8% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc với mức tăng bình quân hàng năm khoảng 15%. Dự tính với CAFTA, xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc sẽ tăng khoảng 48% giúp GDP mỗi nước trong nhóm này tăng khoảng 0,9%. Ngược lại, xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng 55% và GDP tăng 0,3%. Các nhà xuất khẩu Đông Nam Á được thâm nhập vào thị trường rộng lớn của Trung Quốc và do vậy cảm thấy yên tâm hơn khi họ sẽ lệ thuộc ít hơn vào thị trường của Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu của 6 nước chủ chốt của ASEAN cộng với Đài Loan và Hàn Quốc sang Trung Quốc đã tăng 50% trong nửa đầu của năm 2002 trong khi xuất khẩu của các nước này sang Mỹ và Nhận Bản không tăng. Việc bắt đầu thực hiện CAFTA sẽ thúc đẩy thương mại trong ASEAN, đồng thời đòi hỏi phải nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh. Trung Quốc là nước có vị thế thuận lợi trong việc giữ vai trò chính thúc đẩy hoạt động giao thương giữa các nước trong vùng. 7 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 2002 - 2003 Thoả thuận kinh tế đã ký kết giữa Trung Quốc và ASEAN có hiệu lực vào ngày 1/ 7/ 2003. Trung Quốc sẽ bắt đầu giảm thuế nhập khẩu cho hàng hoá ASEAN từ đầu năm 2004. Đây sẽ là cơ sở để các quan hệ thương mại 22 và đầu tư giữa Trung Quốc và ASEAN tăng mạnh hơn trong những năm tới. II. CAM KẾT CỦA TRUNG QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO 1. Nhận xét chung Trong gần 1.000 trang nghị định thư của Trung Quốc gia nhập WTO về các cam kết thực hiện sau khi gia nhập WTO thể hiện những thay đổi sẽ diễn ra ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân với mức độ không giống nhau, tuy nhiên đem lại cho Trung Quốc một diện mạo trên thế giới. Nằm ở Đông Bắc Á, Trung Quốc có biên giới lục địa dài hơn 20.000 km, tiếp giáp với 15 nước, có biên giới biển với 8 nước, với diện tích lãnh thổ 9.600.000 km2 đứng thứ ba trên thế giới (sau Nga và Canada) và có 1,3 tỷ dân chiếm 22% dân số thế giới là những lợi thế duy nhất trên thế giới đối với một quốc gia như Trung Quốc. Nhận thức rõ được những ưu điểm này mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đã tìm ra được hướng đi riêng theo phương châm “ biết mình, biết người” trong việc đưa ra các cam kết gia nhập WTO, bên cạnh những cam kết bắt buộc của các nước thành viên WTO. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt 2 thập kỷ qua, nền kinh tế Trung Quốc đã vững vàng để cạnh tranh với các nền kinh tế khác một khi gia nhập vào hệ thống thương mại lớn nhất thế giới WTO. Cam kết của Trung Quốc được đưa ra với mục đích đánh giá và củng cố các mối quan hệ kinh tế và thương mại hai bên cùng có lợi và bình đẳng với các nước và khu vực trên thế giới. Trong suốt 15 năm dài đàm phán, Trung Quốc đã phần nào đại diện cho các nước đang phát triển thể hiện sự kiên định trong đường lối chính sách thương mại của mình, không chịu sự áp đặt của một cường quốc kinh tế nào. 23 Theo lịch trình cụ thể, Trung Quốc cam kết sẽ xoá bỏ sự phân biệt đối với hàng hoá nhập khẩu tại thị trường Trung Quốc, xoá bỏ hệ thống hai giá, loại bỏ các hạn chế về buôn bán, đưa vào những sắp xếp hành chính thống nhất, giảm thuế hoặc xoá bỏ hạn ngạch với hàng dệt may, xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan, mở cửa đối với các lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông, bưu điện, luật pháp, kế toán, dịch vụ liên quan đến máy tính, xoá bỏ kiểm soát giá, cải cách các doanh nghiệp thương mại nhà nước và cho phép các công ty nước ngoài tăng tỷ lệ sở hữu cũng như phân phối hàng hoá tại Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đồng ý tham gia nhiều hiệp định liên quan tới cải cách luật pháp, cấp phép nhập khẩu, và trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ (SOE), thực hiện nghĩa vụ với hơn 20 hiệp định WTO đa phương như GATT, Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS), hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), lĩnh vực sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs). Nhìn chung, việc gia nhập WTO đem lại cho Trung Quốc nhiều cơ hội hơn là thách thức. Xét về mặt chiến lược, hội nhập hơn nữa vào hệ thống kinh tế thế giới là phù hợp với lợi ích căn bản của Trung Quốc. Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu, Trung Quốc cần giữ một vị trí có lợi hơn trong trào lưu kinh tế toàn cầu trong thế kỷ mới, nắm quyền chủ động hơn và phát triển mạnh mẽ hơn. Gia nhập WTO là một khâu then chốt để Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa sâu rộng đối với trong nước và tham gia được vào việc hình thành các nguyên tắc thương mại thế giới mới đối với thế giới. Thấy được những lợi ích rõ ràng, Chính phủ Trung Quốc đã cam kết “mở rộng” cánh cửa kinh tế cùng hội nhập với thế giới. 2. Một số cam kết cụ thể 24 2.1 Thương mại hàng hoá 2.1.1. Ngành ô tô Trung Quốc sẽ giảm thuế nhập khẩu ô tô còn 25% vào giữa năm 2006 so với mức 80% - 100% hiện nay và xoá bỏ hạn ngạch vào năm 2005. Hiệp định với EU buộc Trung Quốc phải xoá bỏ mọi hạn chế với các loại xe hơi được sản xuất từ các liên doanh Trung Quốc - EU trong vòng 2 năm. Ngành ô tô nước này sẽ là một trong những ngành bị ảnh hưởng nặng nhất khi Trung Quốc gia nhập WTO do phải cạnh tranh mạnh mẽ trong điều kiện nhập khẩu ô tô và phụ tùng ô tô tăng mạnh sau khi giảm thuế. Thuế đối với linh kiện ô tô sẽ giảm từ mức trung bình 23,4% xuống còn trung bình 10%. Ngoài ra, các hãng nước ngoài được phép hoạt động mua bán và mạng lưới dịch vụ riêng trong vòng 3 sau khi Trung Quốc vào WTO. 2.1.2 Ngành dệt may Lĩnh vực dệt may Trung Quốc là một trong số rất ít lĩnh vực sẽ có lợi nhờ gia nhập WTO khi xoá bỏ hạn ngạch nhập khẩu. Theo hiệp định WTO, Trung Quốc chấm dứt hạn ngạch nhập khẩu sản phẩm dệt may vào ngày 1/1/2005. Tuy nhiên, việc này sẽ cho phép các nước nhập khẩu hàng dệt may Trung Quốc hạn chế hàng nhập khẩu khi hàng Trung Quốc phá vỡ thị trường của họ. 2.1.3 Lĩnh vực nông nghiệp Trung Quốc sẽ hạn chế chi phí trợ cấp nông nghiệp ở mức 8,5% trị giá sản lượng nông nghiệp trong nước. Thuế đối với sản phẩm nông nghiệp giảm từ 22% xuống còn 17%. Trung Quốc sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu các sản phẩm như dầu hạt cải, bơ, quýt, và rượu vang còn khoảng 9% đến 18% so với 25% đến 85 % hiện nay. Các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ thiệt hại lớn do cắt giảm thuế, tự do nhập khẩu hơn sẽ làm cho ngũ cốc Trung Quốc như ngô và 25 đậu tương phải cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu có chất lượng cao hơn. Nhập khẩu thịt lợn giá rẻ cũng sẽ đe dọa ngành chăn nuôi trong nước. Riêng đối với sản phẩm nông nghiệp của Mỹ, mức thuế trung bình 31% sẽ giảm xuống còn 14%. Theo đại diện của Bộ Nông nghiệp Mỹ dự đoán đến năm 2005, giá trị xuất khẩu nông nghiệp của Mỹ sẽ đạt được 2 tỷ USD do giảm thuế. 2.1.4 Lĩnh vực năng lượng - dầu mỏ Trung Quốc đã đồng ý mở cửa các lĩnh vực dầu thô và dầu chế biến cho các thương gia tư nhân qua việc tự do hoá dần và giảm sự độc quyền mậu dịch bằng việc cho lĩnh vực tư nhập nhập khẩu 4 triệu tấn các sản phẩm dầu và 10% dầu thô nhập khẩu. Trung Quốc cũng sẽ mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ mặt hàng này sau 3 năm gia nhập WTO, và cho phép các công ty nước ngoài có ít nhất 30% ở mỗi trạm xăng dầu. Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường bán buôn sau 5 năm gia nhập WTO. 2.2 Thương mại dịch vụ 2.2.1 Lĩnh vực viễn thông: Các nhà kinh doanh nước ngoài được phép nắm tới 25% cổ phần ở các công ty viễn thông di động, tăng lên 35% một năm sau đó, và lên 49% trong 3 năm tiếp theo. Trong các dịch vụ Internet, truyền thông và các dịch vụ trị giá gia tăng khác, các công ty nước ngoài có thể được nắm giữ ngay 30% ở các công ty Trung Quốc thuộc các tỉnh Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu, tỷ lệ này tăng lên 50% sau 2 năm khi mọi hạn chế về khu vực địa lý được xoá bỏ. Thuế đối với các sản phẩm công nghệ cao như thiết bị viễn thông sẽ được giảm dần và xoá bỏ vào năm 2005. Dịch vụ đường dài và có dây cố định sẽ được mở cửa chậm nhất, với 25% sau 3 năm và 49% sau 6 năm. Các công ty viễn thông quốc gia khổng lồ có thể sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ, song đầu nước ngoài vào các dịch vụ và hạ tầng cơ sở sẽ tăng mạnh. Trung Quốc đồng 26 ý tham gia Hiệp định Công nghệ thông tin (ITA) và cam kết xoá bỏ thuế đối với các sản phẩm thuộc danh sách ITA bao gồm: các sản phẩm bán dẫn, máy tính, phụ kiện và thíêt bị viễn thông. Các hãng nước ngoài cũng được quyền sơ hữu và xâm nhập thị trường dịch vụ viễn thông và nâng cao sự bảo vệ bản quyền thông qua việc Trung Quốc thực thị Hiệp định về các lĩnh vực liên quan đến thương mại bản quyền (TRIPS). 2.2.2 Chứng khoán Một số liên doanh nước ngoài được phép tham gia vào quản lý quỹ theo cùng phương thức quản lý của các công ty Trung Quốc. Ba năm sau khi gia nhập WTO, các công ty nước ngoài sẽ được nắm 49% ở các liên doanh. Hiện nay các công ty chứng khoán Trung Quốc vẫn còn kém trong kinh doanh lĩnh vực ngân hàng đầu tư. Chứng khoán mới chỉ góp trung bình 10% - 15% thu nhập. Lệ phí môi giới và giao dịch tài sản góp phần lớn vào thu nhập. Vì vậy các công ty nước ngoài sẽ rất ít lợi thế trong tư vấn tài chính hay quản lý vốn. Các nhà quản lý vốn nước ngoài đang liên kết với các công ty trong nước, cung cấp những hiểu bíêt của họ trong kinh doanh lĩnh vực này và coi đây như là bước khởi đầu tiến tới thành lập các công ty liên doanh quản lý vốn ở Trung Quốc. 2.2.3 Ngành ngân hàng Các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép kinh doanh đồng NDT với các công ty Trung Quốc sau 2 năm khi Trung Quốc gia nhập WTO, và với các cá nhân Trung Quốc sau 5 năm. Điều này sẽ giúp các ngân hàng nước ngoài có thể nắm hơn một nửa thị phần Trung Quốc ở các dịch vụ ngân hàng có lệ phí, bao gồm tài chính thương mại, giao dịch thẻ tín dụng và quản lý tiền mặt. Sau khi Trung Quốc gia nhập, các ngân hàng nước ngoài có thể nắm giữ 15% thị trường tiền gửi là ngoại hối, 10% tiền gửi là NDT, 20% - 30% tiền cho vay là ngoại hối và 15% tiền cho vay là NDT. Các ngân hàng nước ngoài có thể 27 kiểm tra trình độ các đối tác Trung Quốc của mình và có thể thu hút 20% nhân viên của các ngân hàng trong nước. Lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc đã được cải tổ để phát triển các dịch vụ, tăng cường sự hợp tác, phát triển các thị trường chứng khoán, giảm nợ khó đòi, và hợp nhất để chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng nước ngoài. Trung Quốc có tiềm năng nổi trội như một trong những thị trường tài chính lớn nhất thế giới với đa dạng sản phẩm trong vòng 50 tới. 2.2.4 Lĩnh vực bảo hiểm Trong Quốc sẽ cho phép “kiểm soát việc quản lý một cách có hiệu quả” trong các liên doanh bảo hiểm nhân thọ, mặc dù cổ phần của phía nước ngoài chỉ được hạn chế ở 50%. Trong lĩnh vực dịch vụ, từ tháng 6/2001, EU bảo đảm quyền lựa chọn miễn phí đối tác liên doanh Trung Quốc. Trung Quốc sẽ xoá bỏ những hạn chế về địa lý trong vòng 3 năm, cho phép các nhà bảo hiểm nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực bảo hiểm y tế, hưu trí,.. trong vòng 5 năm và cho phép các chi nhánh của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ hoạt động từ 2 năm sau khi gia nhập WTO. Hiện các công ty nước ngoài chỉ được kinh doanh chủ yếu ở Thượng Hải và Quảng Châu. Các công ty nước ngoài dự kiến sẽ dễ dàng xin được giấy phép bán bảo hiểm ở Trung Quốc. Các công ty bảo hiểm Trung Quốc, hiện chiếm 99% thị trường, sẽ phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài. 2.2.5 Phân phối - bán lẻ Trung Quốc sẽ xoá bỏ những hạn chế trong các dịch vụ phân phối với hầu hết các sản phẩm sau 3 năm, xoá bỏ mọi hạn chế đối với những liên hiệp phân phối lớn, đồng thời xoá bỏ những hạn chế về không gian đối với các điểm phân phối của bên nước ngoài. Trung Quốc cũng sẽ cho phép các công ty nước ngoài kiểm soát tới 65% ở các điểm bán lẻ. Gia nhập WTO có nghĩa là các công ty nước ngoài sẽ có thể xoá bỏ những bước trung gian trong phân 28 phối hàng hoá và có quyền lựa chọn lập các mạng lưới phân phối của mình, giảm bớt thời gian từ khâu sản xuất tới khi sản phẩm tới tay khách hàng. Như vậy, cuối cùng Trung Quốc cũng đã đạt được dấu mốc trong lịch sử phát triển kinh tế với việc tham gia “ngôi nhà” WTO vào ngày 11/12/2001. Bên cạnh những thuận lợi của việc gia nhập, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những khó khăn riêng. Việc Trung Quốc gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc tham gia sâu rộng hơn vào cạnh tranh quốc tế, cho phép các công ty nước ngoài tham gia vào thị trường nội địa, đặt các ngành sản xuất trong nước phải xác định vươn mình lên để không bị “thua” ngay trên sân nhà mà còn có hành lang pháp lý quốc tế vươn ra ngoài biên giới Trung Quốc. Nền kinh tế Trung Quốc sẽ đóng một vai trò tích cực và mang tính xây dựng đối với mọi mối quan hệ kinh tế toàn cầu, thúc đẩy sự cạnh tranh và khẳng định mình trên trường quốc tế. Vậy, sau một năm gia nhập WTO, Trung Quốc đã thực hiện các cam kết cải cách như thế nào và thu được những gì từ sự hội nhập? 29 CHƯƠNG II MỘT SỐ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG QUỐC SAU KHI GIA NHẬP WTO I. NHẬN XÉT CHUNG Nhìn lại một năm kể từ ngày 11/12/2001 đến nay sau khi Trung Quốc chính thức gia nhập “đại gia đình” WTO, trở thành thành viên thứ 143 của tổ chức này, Trung Quốc đã dần khẳng định được vị thế của một nền kinh tế có ảnh hưởng đối với nền kinh tế toàn cầu và thu được những kết quả khởi sắc, hơn mức mong muốn. Gia nhập WTO đã đánh dấu một bước mới trong quá trình mở cửa kinh tế của Trung Quốc. Đây là sự khởi đầu để thu hút vốn đầu tư nước ngoài hơn nữa cũng như tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và là một sự khởi đầu mới để thực hiện cải cách sâu rộng hơn; đồng thời, giúp Trung Quốc xây dựng một cơ chế đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa bao gồm: một hệ thống luật ổn định, thông thoáng, và có thể dự đoán trước; hệ thống chính trị hiệu quả cao và đạt tiêu chuẩn đề ra của WTO; và tạo một môi trường thị trường công bằng và thuận lợi hơn. Theo số liệu của Cục thống kế Nhà nước Trung Quốc năm 2002, mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc năm 2002 đạt 8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức tăng 7,3% của năm 2001. Đặc biệt của sự tăng trưởng kinh tế Trung Quốc là mức tăng trưởng GDP theo quý khá đều: quý I tăng 7,6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8,1%. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVI Đảng cộng sản Trung Quốc tháng 11/ 2002 cho biết tổng GDP trong cả năm đạt 10,2 ngàn tỷ NDT, tương 30 đương 1.248 tỷ USD, doanh thu năm tài chính là 1.891,4 nghìn tỷ NDT, dự trữ ngoại tệ là 286.4 tỷ USD. Số người đăng ký thuê bao điện thoại cố định và di động tăng đến 421 triệu, xếp Trung Quốc đứng đầu thế giới là nước có số người thuê bao điện thoại cao nhất. Xét về cơ sở hạ tầng, Trung Quốc đã xây dựng được 353 triệu kw trong lĩnh vực năng lượng; tổng chiều dài đường cao tốc là 1,76 triệu km trong đó 25.200 km là đường siêu tốc, đưa Trung Quốc từ hàng thứ 39 lên hàng thứ 2 trên thế giới; lắp đặt 470.000km đường cáp quang, tăng chiều dài đường sắt lên 71.500km. Việc gia nhập WTO đã đem lại những thay đổi rõ rệt đối với quốc gia đông dân nhất thế giới này, từ việc mở rộng phạm vi hoạt động hơn cho các vùng và ngành mà trước đây bị giới hạn, tới các cấp của cơ quan chính phủ cũng như việc cải cách hệ thống pháp lý theo một khuôn khổ được đảm bảo thay vì cách thức thử nghiệm trước đây. Quá trình mở cửa thị trường của Trung Quốc đã thay đổi từ hướng mở cửa đơn phương sang mở cửa hai chiều giữa Trung Quốc và các nước thành viên khác của WTO. Trung Quốc bây giờ có thể chủ động tham gia việc đưa ra các nguyên tắc thương mại và kinh tế thế giới, không còn ở thế bị động chấp nhận các nguyên tắc đó nữa. Ngoài ra, Trung Quốc cũng có thể điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế và thương mại với nhiều quốc gia thông qua các cơ chế thảo luận song phương và đa phương. Theo Bộ trưởng bộ hợp tác kinh tế và ngoại thương (MOFTEC) Trung Quốc Thạch Quảng Sinh 8 kim ngạch ngoại thương và đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đạt mức “tốt nhất” trong nhiều năm qua mặc dù nền kinh tế thế giới đang đi xuống. Với tư cách là một thành viên của WTO, Trung Quốc là người chơi “tốt nhất” trong thương mại đa phương. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 600 tỷ USD, Trung Quốc bước từ vị trí thứ 6 lên thứ hàng thứ 4 trên thế giới (theo báo cáo của WTO, 10/2002). Tổng kim 31 ngạch trong 10 tháng đầu năm đạt 500,2 tỷ USD, tăng 19.7% so với cùng kỳ năm trước. 8Nguồn: Báo cáo thường niên của Bộ trưởng MOFTEC 2002, www.moftec.gov.cn Vốn FDI đạt trên 50 tỷ USD, tăng 30% đã biến Trung Quốc thành nơi thu hút vốn FDI mạnh nhất trên thế giới, tính riêng trong 10 tháng đầu năm đã tăng 20%. Là thành viên của WTO cũng đã thúc đẩy Trung Quốc giải quyết các vụ tranh chấp thương mại và tiếp cận với thị trường thế giới tốt hơn. Số vụ kiện hàng Trung Quốc gồm cả các vụ chống phá giá, chống hỗ trợ và các biện pháp bảo đảm đã giảm 20% trong 10 tháng đầu năm so với 67 vụ trong năm 2001. Trong năm qua, Trung Quốc đã giảm thuế mạnh và dỡ bỏ nhiều rào cản phi thuế quan đối với thương mại trao đổi; ban hành nhiều luật mới đối với thương mại dịch vụ và mở cửa hơn cho ngành dịch vụ như trong cam kết gia nhập WTO; 2300 luật và quy định liên quan tới hợp tác kinh tế và ngoại thương đã bị huỷ bỏ và sửa đổi để đáp ứng được tiêu chuẩn WTO, xuất bản ấn phẩm mới “catalog công nghiệp hướng dẫn đầu tư nước ngoài”; về lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, Trung Quốc đã ban hành luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Theo Bộ trưởng Sinh, vai trò thành viên WTO đã làm các quan chức kinh tế và doanh nghiệp Trung Quốc chuẩn bị tốt hơn để cạnh tranh quốc tế mà sẽ có lợi cho Trung Quốc về lâu dài. Đối với ngành công nghiệp ô tô và dịch vụ vẫn phát triển ổn định với nhiều thách thức của đối thủ cạnh tranh nước ngoài, không như dự đoán trước khi nước này là thành viên chính thức của WTO. Theo đánh giá chung thì kim ngạch ngoại thương và đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc sẽ vẫn tăng trong năm 2003. Trung Quốc hiện nay là địa chỉ đầu tư an toàn nhất với tỷ lệ lợi nhuận cao. Nhiều công ty nước ngoài đã rút hoạt động ở một số nước ASEAN để đầu tư vào Trung Quốc, nhất là các công ty của Nhật Bản. 32 Mặt hàng lợi thế cụ thể của Trung Quốc là hàng tiêu dùng xuất khẩu sử dụng nhiều nhân công, đáp ứng cho mọi thị trường trên thế giới. Từ năm 2001- 2005, Trung Quốc kế hoạch nhập khẩu thiết bị, công nghệ và các sản phẩm khác với tổng trị giá 1400 tỷ USD. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ mười, Chính phủ Trung Quốc khuyến khích đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực và dự án: cải cách nông nghiệp truyền thống; phát triển sản phẩm điện tử liên quan đến công nghệ thông tin; kỹ thuật sinh học; nguyên liệu mới; ngành công nghiệp hàng không, không gian và các ngành công nghiệp kỹ thuật cao khác; xây dựng nhiều trung tâm nghiên cứu và phát triển; phát triển ngành hoá học và hoá dầu; xây dựng các ngành công nghiệp cơ sở khác; áp dụng công nghệ cao và thiết bị để thay đổi các ngành công nghiệp truyền thống như cơ khí, đèn, dệt may, v.v. ở miền Tây tập trung vào năng lượng, giao thông, bất động sản, cơ sở hạ tầng và đầu tư; hướng vốn đầu tư nước ngoài vào thành lập các doanh nghiệp cho tương hợp, doanh nghiệp hướng xuất khẩu cũng như mở cửa hơn nữa lĩnh vực dịch vụ. Với những kết quả trên cho thấy việc Trung Quốc gia nhập WTO là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới và lợi ích riêng của Trung Quốc. Bên cạnh những thành tựu cải cách đạt được trong năm qua Trung Quốc có thể tự tin thực hiện được mục tiêu đã đặt ra là trở thành một cường quốc kinh tế trên thế giới đến giữa thế kỷ này, và mục tiêu trong năm 2003 gồm: tăng trưởng GDP đạt 7%, tạo 8 triệu việc làm mới cho dân cư đô thị, tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị là 4,5%, mức tăng chỉ số giá cả không quá 1% và tăng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 7%. Tuy nhiên những diễn biến phức tạp không thể đoán trước được như căn bệnh viêm đường hô hấp cấp tính (SARS) hiện nay gây ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, nhất là đối với ngành dịch vụ công cộng. 33 II. MỘT SỐ CẢI CÁCH THƯƠNG MẠI CỤ THỂ 1. Một số cải cách chính sách thương mại 1.1. Cải cách liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ Trước tiên sơ qua về Quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (hay còn gọi là TRIPs) thấy được rằng Hoa Kỳ áp đặt cho các nước phải theo hệ thống cấp bằng sáng chế của Hoa Kỳ. Hệ thống này cho phép các công ty giành được bằng sáng chế các nguồn tài nguyên sinh học thiên nhiên của nhiều cộng đồng và quốc gia. Không một đền bù nào cho người địa phương mặc dù họ đã sở hữu những giống loài đó từ lâu đời. Do đấu tranh của các tổ chức phi chính phủ như mạng lưới thế giới thứ 3 vào thời kỳ vòng Urugoay, Điều 27.3 đã được đưa vào TRIPs để cho phép các cộng đồng địa phương sử dụng hệ thống riêng để bảo vệ các giống loài của mình. Nhưng điều này đang bị đe doạ sẽ tu chỉnh lại. Chính phủ Mỹ đang tìm cách xoá bỏ. Trung Quốc xác lập ý thức bảo hộ bản quyền trí tuệ, tránh những hành vi xâm hại bản quyền trí tuệ. Trung Quốc cũng giống như các nước phát triển khác gặp phải hiện thực ngặt nghèo của bảo hộ bản quyền trí tuệ. Do ảnh hưởng khá lớn của cách làm du nhập + bắt chước = thay thế hệ thống của ngoại thương vốn có của Trung Quốc hình thành trong thời gian dài, muốn thay đổi tình trạng này phải tăng cường ý thức bảo hộ bản quyền trí tuệ, thiết lập những pháp quy hữu quan. Trung Quốc cũng như các nước phát triển khác trên thế giới đều cam kết thông qua mạng lưới các thoả thuận WTO để mở cửa thị trường cho các sản phẩm công nghệ thông tin, cho các dịch vụ tài chính và phát triển dịch vụ internet. 1.2 Đưa quyền tự chủ sản xuất và kinh doanh ngoại thương xuống các địa phương. 34 Ngay từ năm 1979, Trung ương Đảng và Quốc Vụ Viện Trung Quốc đã trực tiếp chỉ đạo việc thí điểm "chính sách đặc biệt và biện pháp linh hoạt" tại hai tỉnh Quảng Đông và Phúc kiến, được nhà nước phê chuẩn vào tháng 7-1979. Chính sách chủ yếu để khuyến khích và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Hai tỉnh Quảng Đông được phép tự sắp xếp lấy hoạt động kinh doanh của tỉnh mình dưới sự chỉ đạo của Nhà nước,được phép xuất khẩu hang hoá và nhập khẩu vật tư cần thiết cho tỉnh mình, không chịu sự hạn chế của chính quyền Trung ương. Trong thu nhập ngoại tệ xuất khẩu của tỉnh Quảng Đông tính theo cơ số chuẩn năm 1978, phần thu nhập vượt quá cơ số chuẩn, được giữ lại bẩy phần cho tỉnh, ba phần nộp cho Trung ương. Riêng tỉnh Phúc Kiến được giữ lại toàn bộ. Sau ba năm thực hiện, việc thí điểm đã đạt được những kết quả rõ rệt. Lĩnh vực ngoại thương đã khắc phục được tình trạng kinh doanh đơn lẻ, động viên được tích cực kinh doanh của ngành và xí nghiệp trong hai tỉnh này. Trên cơ số đó, từ năm 1982 Trung Quốc đã triển khai hình thức thí điểm này, mở rộng quyền chủ động kinh doanh ngoại thương xuống các địa phương và xây dựng mới các công ty ngoại thương với nhiều hình thức. Nhà nước đã đề ra các biện pháp cụ thể như sau: - Đưa quyền sản xuất và xuất khẩu cho các xí nghiệp sản xuất cỡ vừa và nhỏ, từng bước mở rộng quyền kinh doanh ngoại thương cho tổng công ty xuất nhập khẩu. - Ưu tiên cho hai tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến mở rộng quyền hạn kinh doanh xuất nhập khẩu. - Cho phép các địa phương có thể thành lập các công ty ngoại thương địa phương. Các thành phố trực thuộc Trung ương và tỉnh cũng được phép thành lập tổng công ty ngoại thương riêng. 35 - Cho phép 19 Bộ, ngành của Trung ương được thành lập tổng công ty xuất nhập khẩu để phân tán một số hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc bộ ngoại thương trước đây kinh doanh sang các công ty xuất nhập khẩu thuộc Bộ, ngành hữu quan, tạo điều kiện kênh buôn bán và tăng cường kết hợp giữa sản xuất và tiêu thụ. - Theo thống kê từ năm 1979 đến năm 1987, Nhà nước đã phê chuẩn thành lập hơn 2200 công ty ngoại thương các loại, trong đó tỉnh Quảng Đông có hơn 810 công ty, Phúc Kiến có hơn 200 công ty. Ngoài ra, các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài có tính chất sản xuất trong phạm vi rộng cũng có quyền kinh doanh xuất khẩu hàng hoá và nhập khẩu các nguyên liệu có liên quan đến sản xuất của xí nghiệp mình. Chính sách trên đây đã tạo đà cho sự phát triển sau này khơi dậy tính tích cực trong hoạt động thương mại của Trung Quốc trong tình hình mới và có tác dụng to lớn trong việc mở rộng lĩnh vực mậu dịch đối ngoại. Số doanh nghiệp tư nhân, đầu tư nước ngoài, liên doanh được cấp phép trong cả nước trong năm 2002 đã tăng vọt. Nhiều công ty đã đăng ký bản quyền ở nước ngoài, đóng góp phần lớn vào GDP toàn quốc 8% năm 2002. 1.3. Cơ cấu lại nền kinh tế Ngày 10/11/2001, tại Doha (Quata). Hội nghị lần thứ 4 cấp Bộ trưởng các thành viên WTO đã nhất trí thông qua "Quyết định về việc Trung Quốc gia nhập WTO", đánh dấu bước tiến lớn của nền kinh tế Trung Quốc theo hướng nhất thể hoá kinh tế toàn cầu. Việc gia nhập WTO có lợi cho Trung Quốc trong việc nâng cao hiệu quả phân phối nguồn tài nguyên, nâng cao chất lượng vận hành nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh giúp thúc đẩy nền kinh tế quốc dân tăng trưởng ổn định trong thời kỳ trung và dài hạn. Sau khi gia nhập WTO cán cân mậu dịch của Trung Quốc có thể chuyển từ trạng thái thường xuyên có mức 36 xuất siêu cao sang trạng thái giảm mức xuất siêu hoặc cân bằng, thậm chí nhập siêu. Gia nhập WTO còn gây ra những ảnh hưởng khác nhau đối với các ngành nghề, làm cho cơ cấu ngành nghề và cơ cấu việc làm của Trung Quốc đứng trước sự điều chỉnh to lớn, trong đó những ngành sử dụng lao động tập trung sẽ được mở rộng hơn do có nhiều lợi thế. Tuy nhiên những ngành sử dụng vốn và kỹ thuật tập trung lại phải đứng trước những thách thức lớn vì đây không phải là những lĩnh vực mà Trung Quốc có lợi thế. Đối với các loại nông sản như lương thực đã chế biến, Trung Quốc sẽ phải tăng thêm lượng nhập khẩu nhưng lại có thể tăng xuất khẩu một số loại như rau, hoa quả tươi. Đối với các sản phẩm chế tạo, chế biến, Trung Quốc phải đẩy nhanh bước đột phá tìm nguồn vốn, kỹ thuật cả ở bên trong và ngoài nước, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu một số sản phẩm điện, điện cơ, điện tử sử dụng tương đối nhiều lao động. Chủ động ứng phó với những vấn đề mới khi gia nhập WTO. Ngày 9/12/2001 tại Bắc Kinh, Trung Quốc đã mở lớp nghiên cứu về những quy tắc của WTO và các chính sách thu vốn đầu tư nước ngoài. Còn Thượng Hải đã mở Trung tâm tư vấn về các vấn đề liên quan đến WTO từ 2000. Thủ tướng Chu Dung Cơ đã yêu cầu các lãnh đạo các cấp phải nhận thức đầy đủ ý nghĩa quan trọng của việc gia nhập WTO, ông yêu cầu quán triệt 8 quan điểm cần ứng phó khi Trung Quốc gia nhập WTO, đó là: - Thực hiện tốt thời kỳ quá độ gia nhập WTO trong thời gian từ 3 đến 5 năm, tranh thủ thời cơ làm tốt công tác chuẩn bị và điều chỉnh để nâng cao khả năng thích ứng. - Tận dụng tốt các quyền lợi được hưởng khi gia nhập WTO, nắm bắt cơ hội, phát huy ưu thế mở rộng xuất khẩu, tăng thu hút vốn đầu tư nước 37 ngoài, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp và của hàng hoá Trung Quốc. - Nhanh chóng ban bố mới, sửa đổi hoặc huỷ bỏ những quy định đã cũ, lạc hậu. - Coi trọng đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật, thúc đẩy nâng cấp kỹ thuật và điều chỉnh cơ cấu ngành nghề. - Thúc đẩy cải cách thể chế quản lý, chuyến đổi chức năng của chính phủ. - Vận dụng tốt những quy tắc bảo hộ của WTO để đảm bảo duy trì sản xuất ổn định trong mỗi doanh nghiệp cũng như trong toàn bộ nền kinh tế. - Sớm thiết lập các tổ chức môi giới ngành nghề và phát huy đầy đủ vai trò của tổ chức này. - Tiếp tục mở những lớp bồi dưỡng để học tập kiến thức về WTO, đồng thời tăng cường nhân tài cho đất nước. 1.4. Thay đổi các quy định phù hợp với thông lệ quốc tế Trong chiến dịch được phát động trên quy mô toàn quốc nhằm dỡ bỏ những điều luật lỗi thời, trái với các quy định của WTO, ngày 11/12/2001 Ngân hàng Trung Quốc đã thông báo bãi bỏ một số quy định và nguyên tắc tài chính đã công bố trong thời gian 1999 - 2001. Theo bà Ngô Nghị, uỷ viên Quốc vụ viện Trung Quốc, việc từ bỏ những điều luật, quy định và chính sách lỗi thời sẽ là công việc được ưu tiên của các cấp chính quyền trong thời gian trước mắt. Theo đánh giá, Trung Quốc sẽ phải xoá bỏ hay sửa đổi bổ sung khoảng 90 điều luật chủ chốt và 1000 các quy định cũ. 38 Xoá bỏ quy định cũ thì phải ban hành quy định mới. Hội đồng nhà nước Trung Quốc đã công bố quy chế chống trợ cấp có hiệu lực từ ngày 1/1/2002. Quy chế này được thông qua ngày 31/10/2001 bao gồm các quy định liên quan đến khoản trợ cấp và thiệt hại, hạn chế thời gian và đánh giá lại những biện pháp bù đắp và các cam kết cùng một danh sách các sản phẩm xuất khẩu được hỗ trợ. Trong cuộc cải cách kinh tế sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc cũng gặp không ít những vấn đề nan giải. Trung Quốc đang bối rối khi giải quyết cùng một lúc hai vấn đề khác nhau: một mặt phải mở rộng thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác phải giữ ổn định hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nhằm tránh thảm họa phải sa thải hàng triệu lao động. Chính vì lý do đó mà trong năm qua có một số quyết định trái ngược nhau được đưa ra. Hồi đầu năm, nhằm thu hút vốn để đổi mới kỹ thuật và mở rộng sản xuất, các DNNN được phép bán nhiều cổ phiếu ra thị trường gây ra sự tràn ngập và chỉ 3 tháng sau giá cổ phiếu sút giảm 30%. Vậy là ngày 22/10/2001, các DNNN được lệnh ngưng bán cổ phiếu do Nhà nước nắm giữ trên thị trường chứng khoán nhằm bình ổn thị trường tài chính. Bên cạnh đó Chính phủ Trung Quốc cũng đưa ra nhiều quyết định rất cởi mở nhằm thu hút đầu tư nước ngoài ngay cả trong những ngành vốn vẫn đóng cửa từ trước đến nay. Ngày 29/10/2001, Trung Quốc đã cho phép các công ty quản lý tài sản được quyền dùng các tài sản nợ để bán hoặc liên doanh vốn các nhà đầu tư nước ngoài. Một số tập đoàn lớn của Trung Quốc như : China Uincom, China Mobile, Sinopec trước đây chỉ niêm yết ở thị trường chứng khoán nước ngoài thì này đã được cho phép niêm yết cả ở các thị trường trong nước. 39 Những điều chỉnh chính sách và sửa đổi luật, đặc biệt là Luật kinh tế như trên một mặt đáp ứng từng bước các yêu cầu gia nhập WTO, mặt khác cũng giúp cho tình hình sản xuất công nghiệp và đầu tư nước ngoài thêm khởi sắc. 1.5. Tập trung cho các ngành công nghiệp mũi nhọn Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân chính để sản lượng công nghiệp của Trung Quốc vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao là sự phát triển đều đặn của 3 ngành: Chế tạo thiết bị thông tin, chế tạo thiết bị giao thông vận tải và ngành luyện kim. Công nghiệp tăng trưởng cao cũng là nguyên nhân làm cho nhu cầu tiêu thụ dầu thô ở Trung Quốc tăng nhanh với mức 5%, đạt 204,9 triệu tấn trong năm 2001 so với mức sản xuất chỉ đạt 164 triệu tấn. Do vậy, nhập khẩu dầu thô tăng 6%, đạt trên 46 triệu tấn. Các hãng sản xuất dầu lửa hàng đầu của Trung Quốc là China Petroleum và Chemical Corp (Sinopec) trong năm 2001 đã đầu tư khoảng 12,6 tỷ NDT (1,52 tỷ USD) cho công tác thăm dò và khai thác dầu khí. Hồi đầu năm, Sinopec dự kiến dành tổng số vốn 40,76 tỷ NDT (4,9 tỷ USD) của năm 2001 cho 4 khu vực kinh doanh lớn là thăm dò và khai thác dầu, lọc dầu, hoá dầu và tiếp thị. Dự báo 4 năm tới, nhu cầu tiêu thụ dầu thô của Trung Quốc sẽ tăng với tốc độ 4%/năm, lên 245 triệu tấn vào năm 2005. Trong khi đó, sản lượng dầu thô của Trung Quốc trong cùng thời gian chỉ tăng 0,8%/năm đạt 170 triệu tấn vào năm 2005. Lúc đó Trung Quốc sẽ phải nhập khẩu khoảng 75 triệu tấn, tăng trên 61% so với mức của năm 2001. Để có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ dầu thô nhanh trong những năm tới, Trung Quốc đã công bố "Chiến lược dầu mỏ quốc gia thế kỷ 21" trong đó nêu rõ phương châm và mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là: nâng tỷ trọng của dầu mỏ trong kết cấu năng lượng, hoàn thiện mô thức tiêu dùng tiết kiệm dầu mỏ, 40 mở rộng việc thăm dò khai thác nguồn tài nguyên dầu mỏ, nâng cao khả năng tự cấp dầu mỏ, tích cực hợp tác quốc tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống đảm bảo an ninh dầu mỏ, nâng cao khả năng đối phó với những tình huống bất ngờ; phát triển và tận dụng nguồn khí tự nhiên, phát triển nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ, từ đó đảm bảo sự cung ứng ổn định lâu dài giúp cho nền kinh quốc dân tăng trưởng liên tục, ổn định. Nhu cầu đi lại bằng hàng không trong nội địa cũng như hàng không quốc tế của Trung Quốc gia tăng khiến Trung Quốc đã quyết định mua thêm 30 máy bay Boeing 737 của hãng Boeing, Mỹ. Thoả thuận mua được ký tại Washington hôm 2/10/2001. Theo tập đoàn xuất nhập khẩu cung ứng hàng không Trung Quốc (CASK) thì 20 chiếc trong số này sẽ được cấp cho hãng hàng không Phương Nam (China Southern airlines). Một lãnh đạo của hãng hàng không Phương Nam cho rằng điều này chứng tỏ lòng tin của khách hàng đi lại trong Đại lục cũng như giữa Đại lục vớí Hồng Kông, Băng Cốc, Singapore sẽ tiếp tục gia tăng về lâu dài. Trong những tháng cuối năm 2001, cả Boeing và Airbus đều dự đoán về sự tăng trưởng cao liên tục trong giao thông hàng không của Trung Quốc trong những năm tới. Tháng 10/2001, một báo cáo của Boeing cho biết thị trường máy bay thương mại mới tại Trung Quốc, Hồng Kông và Macao trong 20 năm tới có thể đạt 144 tỷ USD và tăng trưởng của hoạt động giao thông hàng không sẽ vượt mức tăng trưởng GDP. 1.6. Đủ ngũ cốc để nuôi sống 1,3 tỷ dân Về sản xuất nông nghiệp, sau nhiều năm bội thu, theo ước tính hiện sản lượng ngũ cốc của Trung Quốc đã vượt quá nhu cầu 10 triệu tấn/năm. Hiện nay, Trung Quốc không những có đủ ngũ cốc để nuôi sống gần 1,3 tỷ dân mà còn thừa để chế biến làm thức ăn chăn nuôi gia súc. Chính vì vậy mà đàn gia súc của Trung Quốc phát triển thuận lợi. Năm 2001, sản lượng 41 thịt (lợn ,bò, dê, cừu) của Trung Quốc tăng 5,2%, đạt 50,89 triệu tấn. Thịt lợn vẫn là loại thực phẩm được sản xuất và tiêu dùng nhiều nhất, chiếm 82 - 84% tổng lượng thịt gia súc, sản lượng trong cả năm đạt 42,4 triệu tấn, tăng 2,08 triệu tấn so với năm 2000. Trong khi đó, sản lượng thịt bò, dê, cừu còn lại không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước nên phải tăng lượng nhập khẩu với mức trên 30% cho mỗi loại. Năm 2002, sản xuất thịt gia súc các loại của Trung Quốc tiếp tục tăng 3%, đạt 52,42 triệu tấn. Về xoá đói giảm nghèo, ngày 15/10/2001, phòng thông tin Quốc vụ viện đã công bố cuốn sách trắng " Chương trình xoá đói giảm nghèo hướng tới phát triển ở nông thôn Trung Quốc ". Nhờ những nỗ lực không ngừng của Chính phủ và các địa phương, trong 20 năm qua Trung Quốc đã giảm được số người nghèo ở các vùng nông thôn từ 250 triệu người (năm 1978) xuống mức 30 triêụ người hiện nay, đồng thời giảm tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ ở nông thôn từ 30,7% xuống còn 3%. Cũng trong thời gian này việc tăng cường xây dựng hệ thống dịch vụ giảm nghèo đói cho người tàn tật đã giúp Trung Quốc giải quyết được vấn đề ăn mặc cho khoảng 10 triệu người tàn tật. 1.7. Giữ tốc độ tăng trưởng bình quân 7% trong 5 năm 2001 - 2005 Cũng trong năm 2001, Quốc hội Trung Quốc đã phê chuẩn " Kế hoạch 5 năm lần thứ 10 (2001 - 2005) về phát triển kinh tế xã hội". Theo đó tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Trung Quốc sẽ được duy trì ở mức 7%/năm. Với mức tăng trưởng này, đến năm 2005, GDP của Trung Quốc sẽ đạt 15.500 tỷ NDT (khoảng 1.870 tỷ USD); mức GDP đầu người sẽ đạt 9.400 NDT (1.140 USD). Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 10, Trung Quốc sẽ phải tạo bước phát triển mới, phải áp dụng lối suy nghĩ mới, tích cực đẩy mạnh điều chỉnh cơ 42 cấu kinh tế mang tính chiến lược. Trọng điểm của điều chỉnh cơ cấu của Trung Quốc bao gồm 3 lĩnh vực: một là kết cấu ngành nghề, hai là kết cấu khu vực, ba là kết cấu thành thị và nông thôn. Kết cấu ngành nghề không hợp lý, sức cạnh tranh không mạnh là vấn đề nổi cộm ảnh hưởng đến sự phát triển liên tục của nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2005, tỷ trọng của ngành dịch vụ sẽ tăng từ 33% hiện nay lên 36%, tỷ trọng của ngành công nghiệp sẽ giảm từ 16% xuống còn 13%. Về kết cấu khu vực, vấn đề là có sự chênh lệch lớn về mức phát triển giữa miền Đông và miền Tây. GDP bình quân đầu người của khu vực miền Tây chỉ đạt 500 USD so với mức bình quân 800 USD trong toàn quốc, do vậy Trung Quốc phải đẩy mạnh chiến lược phát triển miền Tây. Trọng điểm xây dựng của Trung Quốc ở khu vực này trong thời gian tới là các công trình thuỷ lợi, giao thông, thông tin, năng lượng và xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các thành phố, thị trấn. Về kết cấu thành thị - nông thôn. Hiện nay dân số đô thị của Trung Quốc mới chỉ chiếm 36%, thấp hơn so với tỷ lệ của một số nước có mức thu nhập trung bình. Trong khi dân số ở nông thôn quá lớn, diện tích đất canh tác lại thấp, đây là nhân tố quan trọng ràng buộc tiến trình hiện đại hoá của Trung Quốc. Trong những năm tới, Trung Quốc sẽ cố gắng đẩy nhanh tiến trình đô thị hoá theo phương thức phát triển hài hoà, kết hợp mở rộng các thành phố lớn và xây dựng thêm các thị trấn nhỏ. Ngoài ra các ngành dịch vụ Trung Quốc còn được lợi do đón một lượng du khách lớn từ nước ngoài. Du khách đến từ Nhật, Hàn Quốc, Thái lan và Nga chiếm phần lớn, với lượng khách tăng ở mức hai con số. Theo ước tính của WTO, Trung Quốc sẽ trở thành điểm du lịch được ưa chuộng nhất năm 2020 với 8,3% thị phần du lịch toàn cầu. 43 Tăng cường đầu tư vào tài sản cố định, thúc đẩy sự phát triển của khu vực nông nghiệp và tạo thêm nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm là những ưu tiên hàng đầu mà chính phủ Trung Quốc đề ra cho công tác quản lý kinh tế năm 2002. Bên cạnh dựa vào nhu cầu trong nước là chính. Trung Quốc vẫn tiếp tục các công tác : đẩy mạnh điều chỉnh kết cấu kinh tế, đi sâu cải cách thể chế DNNN, tăng cường mở rộng ngoại thương. Mức tăng đầu tư tài sản cố định năm 2002 đạt trên 10%; kim ngạch bán lẻ hàng hoá xã hội tăng 9%; ngoại thương tăng ở mức ổn định; xuất khẩu tăng khoảng 12%; nhập khẩu tăng 14%, nhu cầu đầu tư và sản xuất công nghiệp tiếp tục mở rộng, giá dịch vụ có thể tăng trong khi giá hàng công nghiệp giảm chút ít do mức thuế chung hạ nhờ việc Trung Quốc gia nhập WTO. 1.8. Cơ chế quản lý Cơ chế quản lý thương mại của Trung Quốc đã trải qua một giai đoạn phân cấp quản lý kể từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Đến tận năm 1978, ngoại thương Trung Quốc vẫn do 12 công ty xuất nhập khẩu cấp nhà nước đảm nhiệm. Các công ty xuất nhập khẩu này kinh doanh theo kế hoạch của Trung ương và toàn bộ lỗ, lãi được hạch toán vào ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp sản xuất không có xuất nhập khẩu trực tiếp sẽ được giao chỉ tiêu theo kế hoạch và cung cấp hàng hoá cho các công ty xuất nhập khẩu. Cơ chế quản lý tập trung cao độ đã vấp phải hai vấn đề. Thứ nhất, các địa phương không có lợi gì và vì thế không có động lực đẩy mạnh ngoại thương. Thứ hai, đơn vị sản xuất quan hệ gián tiếp với thị trường quốc tế, do đó đáp ứng rất kém với các tín hiệu của thị trường quốc tế. Kể từ khi bắt đầu thực hiện cải cách vào năm 1978, cơ chế quản lý thương mại đã phát triển theo hướng trao quyền tự quyết cho địa phương và doanh nghiệp. Vào năm 1989, hầu hết các chi nhánh tại các tỉnh và địa 44 phương của các công ty xuất nhập khẩu Trung ương đã trở thành các thực thể độc lập chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình, khiến cho tổng số của các công ty nhập khẩu lên tới 4000. Trong cùng thời gian này, hàng nghìn doanh nghiệp sản xuất đã được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Đến cuối năm 1996, số lượng các công ty xuất nhập khẩu đã lên tới 7.000 và số đơn vị sản xuất được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp đã vọt lên 5000. Một chính sách nữa có ảnh hưởng tới hoạt động thương mại của các tỉnh là chính sách giữ lại ngoại tệ. Với số lượng ngoại tệ giữ lại, một doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có thể nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cần thiết cho sản xuất hàng xuất khẩu và vì thế tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu. Trước năm 1991, chính sách giữ lại ngoại tệ chủ yếu được xây dựng trên cơ sở khu vực. Chính sách này quy định các doanh nghiệp ở các đặc khu kinh tế được giữ lại 100% số ngoại tệ thu được còn các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu ở các vùng duyên hải được giũ lại một tỷ lệ nhất định tương đối cao. Vào đầu năm 1991, tỷ lệ này được thống nhất cho tất cả các khu vực. Cải cách năm 1991 tăng thêm tính minh bạch của chính sách giữ lại ngoại tệ và có tác động tích cực đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu các vùng nội phận. Năm 1994, khi cơ chế hai tỉ giá(tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường) được thống nhất, cơ chế giữ lại ngoại tệ đã bị xoá bỏ. Kể từ đó, doanh nghiệp cần nhập khẩu hàng hoá có thể mua ngoại tệ trực tiếp từ ngân hàng chỉ định. Năm 1996, giá trị xuất khẩu vùng duyên hải chiếm 85% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước, còn giá trị nhập khẩu chiếm 83%. Cũng trong năm 1996, vùng miền trung xuất khẩu 12% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước và giá trị nhập khẩu chiếm 13%. Các tỉnh miền tây có giá trị xuất khẩu và nhập khẩu đều không đáng kể. Năm 1996, tỷ trọng xuất nhập khẩu của miền tây trong tổng giá trị xuất, nhập của cả nước chỉ là 3% và 4%. 45 Mức độ mở về ngoại thương của ba vùng này cũng có thể được đánh giá dựa trên tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP. Năm 1996, tỷ lệ này của vùng duyên hải là 53%, miền trung là 14% và miền tây là 9%. Rõ ràng, bên cạnh sự phân cấp quản lý trong cơ chế thương mại và chính sách giữ lại ngoại tệ trên cơ sở vùng xác định, hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu của một vùng còn phụ thuộc vào những lợi thế về tự nhiên cũng như trình độ phát triển về công nghiệp của vùng đó. Quảng Đông nổi tiếng với chiến lược hướng ngoại, là tỉnh có tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP cao nhất, nhờ có địa lý gần Hông Kông và một lượng lớn vốn nước ngoài đầu tư vào khu vực sản xuất hàng xuất khẩu. Các thành phố công nghiệp với công nghệ tiên tiến và lao động lành nghề như Thượng Hải, Bắc Kinh và Thiên Tân cũng có tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP khá cao. 2. Kết quả sau một năm gia nhập WTO 2.1 Xuất nhập khẩu và nội tiêu Khác với nhiều dự đoán ban đầu về khả năng sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực như: làm giảm khả năng xuất khẩu, tăng mức thất nghiệp, nhiều DNNN kinh thua lỗ doanh bị đóng cửa, nông nghiệp sa sút... ngược lại các tác động tích cực thể hiện rất rõ, đó là lĩnh vực sản xuất kinh doanh và ngoại thương vẫn gia tăng đều đặn, số vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc vẫn đứng ở mức cao. Sản lượng lương thực cả năm đạt 457,5 triệu tấn, tăng 1,1%. Tổng giá trị hàng hoá, xuất nhập khẩu đạt 600 tỷ USD - tăng 21,8%, trong khi đầu tư nước ngoài tăng 8,7%, dự trữ ngoại tệ tăng xấp xỉ 30%. 9 9 Thời báo kinh tế Việt Nam 2002 - 2003 Các động lực quan trọng cho tăng trưởng là tiêu dùng, chi tiêu của chính phủ vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và xuất khẩu. Chính phủ Trung Quốc đã rót những khoản tiền lớn cho một số dự án trọng điểm. Chỉ trong 11 46 tháng đầu năm 2002, đầu tư vào tài sản cố định đạt 2611,9 tỷ NDT (tương đương 315 tỷ USD), tăng 22,4%. Đây là tốc độ tăng nhanh nhất kể từ năm 1997 đến nay. Cùng với tăng chi tiêu của Chính phủ, chương trình kích cầu tăng trưởng kinh tế trong 3 năm qua làm cho nhu cầu tiêu dùng của cư dân tăng nhanh. Năm 2002 được xem là năm hưng thịnh của tiêu dùng, kim ngạch bán lẻ hàng hoá tăng hơn 10%. Nhiều người Trung Quốc cho rằng thời đại tiêu dùng hàng cao cấp của họ đã tới. Lượng ô tô tiêu thụ trong 10 tháng đầu năm tăng 50%, trong đó sức mua của tư nhân chiếm 70%. Thị trường các sản phẩm thông tin rất sôi động. Các thiết bị thông tin như di động, vô tuyến màu, đầu đĩa DVD đã nhanh chóng xuất hiện trong mỗi hộ gia đình với tốc độ tăng đạt 62%. Số điện thoại thuê bao ở Trung Quốc đã lên tới trên 400 triệu. Số người sử dụng điện thoại di động đạt 190,4 triệu. Nhu cầu xây dựng nhà ở của Trung Quốc trong năm 2002 tăng mạnh đạt mức khoảng 15%. Các hoạt động mua bán nhà cửa, bất động sản tăng khoảng 30%, trong đó có tới 90% là hoạt động mua bán của các cá nhân. Tiêu dùng tăng mạnh đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do tình hình buôn bán trên thế giới và trong nước được cải thiện, và được hưởng một số quy chế sau khi gia nhập WTO, xuất khẩu của Trung Quốc trong năm 2002 tiếp tục tăng mạnh. Trong quý I xuất khẩu tăng 9,9%. Riêng tỉnh Quảng Đông có mức xuất khẩu đạt 107, 9 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 201,3 tỷ USD của 11 tháng đầu năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 325, 569 tỷ USD, tăng 22,3%. Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 295,216 tỷ USD, tăng 21,2%. Trung Quốc đạt thặng dư thương mại ở mức 303,53 tỷ USD, tăng 34,6 tỷ USD. Riêng trong tháng 12, xuất khẩu đạt 31,891 tỷ USD, tăng 30,2% và nhập khẩu là 28,733 tỷ USD, tăng 28,4%; mức thặng dư thương mại là 3,159 tỷ USD giảm 49.4% 10( Nguồn: Thời báo KTVN 2002 - 2003 ). 47 Bảng 2 SỐ LIỆU VỀ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA TRUNG QUỐC (12/2002) Đơn vị: triệu USD Th. 12 Tổng giá trị cả năm Giá trị Giá trị ±% Giá trị ±% Tổng giá trị XK; biên độ; NK& biên độ 606,24 29,3 6207,85 21,8 Tổng giá trị xuất khẩu 318,91 30,2 3255,69 22,3 Tổng giá trị nhập khẩu 287,33 28,4 2952,16 21,2 Cân bằng xuất khẩu; biên độ; nhập khẩu và biên độ (thặng dư là +; thâm hụt -) 31,59 49,4 303,54 34,6 Nguồn: Số liệu Hải quan Trung Quốc, 2002 Trong khi kim ngạch thương mại thế giới năm 2001 giảm 1,5% và dự đoán năm 2002 chỉ tăng gần 1%, thì kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế đông dân nhất thế giới này lại gặt hái được thành công. Mười thị trường xuất khẩu hàng đầu của Trung Quốc trong năm 2002 bao gồm Mỹ, Hồng Kông, Nhật, EU, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan, Australia, Canada và Nga (xem phụ lục 1). Mức xuất khẩu của Trung Quốc sang thị trường EU giảm, trong khi xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, ASEAN, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan lại tăng. Xuất khẩu của Trung Quốc sang thị trường Nhật Bản lần đầu tiên đã vượt qua mức xuất khẩu của Mỹ sang thị trường này. Xuất khẩu của các xí nghiệp quốc doanh tăng 7,1%, của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 23,9%. Đáng chú ý là xuất khẩu các sản phẩm dệt may và xuất khẩu phần mềm tăng nhanh. Trong 10 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc đạt 50,7 tỷ USD, tăng 14,16%. Đến tháng 8/ 2002, Trung Quốc có đến hơn 4.200 công ty với hơn 500.000 nhân công chuyên sản xuất và kinh doanh hơn 9.830 sản phẩm phần mềm khác nhau chủ 48 yếu tập trung trong các lĩnh vực tài chính, dịch thuật, kỹ thuật và chống vi rút. Doanh thu phần mềm của Trung Quốc đạt gần 80 tỷ NDT năm 2001, trong đó xuất khẩu đạt 6 tỷ NDT. Dự tính đến năm 2005, xuất khẩu phần mềm của Trung Quốc sẽ đạt mức 5 tỷ USD. Trung Quốc đang quyết tâm chiếm ngôi vị hàng đầu của Ấn Độ trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu phần mềm trong vòng 5 đến 10 năm nữa. Hiện nay, Trung Quốc đã có hệ thống đào tạo công nghệ thông tin khá lớn: 200 trường đại học có khoa công nghệ thông tin và 33 trong số đó có hẳn các trường riêng đào tạo về phát triển phần mềm. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định của WTO. Các nước thành viên WTO sau khi xem xét 17 chính sách thương mại quá độ của Trung Quốc theo nghị định thư về điều khoản gia nhập WTO đã thông qua 16 chính sách, còn một chính sách nữa sẽ sớm được thông qua. Việc kiểm soát nhập khẩu của Trung Quốc hiện được nới lỏng rất nhiều. Thuế nhập khẩu trung bình của Trung Quốc giảm từ 15,6% đầu năm 2002 xuống còn 12%, sự bất ổn kinh doanh trước đây do những thoả thuận song phương đã được thay thế bởi một khuôn khổ thương mại đa phương ổn định hơn. Thuế nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp giảm xuống 11,3% so với mức 14,7% năm 2001. Với các sản phẩm điện tử, thuế nhập khẩu giảm từ 16,2% xuống còn 10,7%. Thuế đánh vào 251 loại sản phẩm kỹ thuật thông tin giảm từ 12,4% xuống 3,4%. Ngoài giảm thuế, Trung Quốc còn tấn công mạnh vào bọn buôn lậu, ăn cắp bản quyền... Chính vì vậy, mức nhập khẩu của cả nước tăng khá mạnh. Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong nửa đầu năm tăng 14, 1% đạt 142,1 tỷ USD. Xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp tiếp tục tăng mạnh, trong đó, xuất khẩu của ngành dệt may tăng 20,1%, của ngành điện tử tăng 11,5%, của ngành thiết bị bưu chính viễn thông tăng 45,2% trong tháng 6. Nhiều hạn ngạch của một số nước đã được dỡ bỏ đối với hàng hoá Trung Quốc có nhiều ưu thế cạnh tranh. 49 Trong 9 tháng đầu năm 2002, tổng nhập khẩu tăng 17,2% (đạt 212,57 tỷ USD). Mức xuất siêu là 20 tỷ USD. Kim ngạch ngoại thương đến hết tháng 11 đã đạt 560,18 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2001, trong đó xuất khẩu tăng 21,6% tương đương với 293,69 tỷ USD và nhập khẩu tăng 20,5% tương ứng với 266,49 tỷ USD. Mức xuất siêu là 27,2 tỷ USD. Riêng trong tháng 11, kim ngạch thương mại là 59,95 tỷ USD, tăng 33,7% trong đó xuất khẩu giá trị 31,21 tỷ USD tăng 30% còn nhập khẩu là 28,74 tỷ USD tăng 37,9%. Giá trị xuất khẩu của Trung Quốc tính theo các châu trong 9 tháng đầu năm 2002 lần lượt đạt: Châu Á 121,57 tỷ USD - tăng 19% so với cùng kỳ năm 2001 trong đó riêng với ASEAN là 16,73 tỷ USD và khu vực Trung Đông 8,42 tỷ, Châu Phi 4,93 tỷ USD - tăng 11,1%, Châu Âu 41,98 tỷ USD - tăng 16,1% bao gồm EU (15 nước thành viên) tăng 13,8%, Châu Mỹ 60,35 tỷ - tăng 22,9% trong đó Mỹ Latinh 12,2%, Bắc Mỹ 24,4% và Châu Đại dương 3,73 tỷ - tăng 25,3% (xem phụ lục 3). Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng 20,4% trong 11 tháng đầu năm 2002 đạt 122,48 tỷ USD trong khi hàng nhập khẩu tăng 12,7% tương đương với 116,34 tỷ USD. Thương mại sản phẩm chủ yếu ở mức 238,82 tỷ USD, tăng 16,5%. Mười đối tác thương mại hàng đầu của Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm 2002 theo số liệu của Hải quan Trung Quốc (2002) lần lượt xếp hạng trên tổng giá trị xuất nhập khẩu từ cao nhất xuống thấp nhất bao gồm: Nhật Bản (91,8 tỷ USD), Mỹ (87,97 tỷ USD), EU (78,25 tỷ USD), Hồng Kông (62,83 tỷ USD), ASEAN (49,98 tỷ USD), Đài Loan (40,28 tỷ USD), Hàn Quốc (39,48 tỷ USD), Nga (10,87 tỷ USD), Australia (9,49 tỷ USD) và Canada (7,18 tỷ USD) (xem phụ lục 2) . 50 Cùng thời kỳ này, kim ngạch hàng gia công cũng tăng ổn định. Xuất nhập khẩu của các công ty nước ngoài tăng mạnh còn ngoại thương của các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu tăng với tốc độ nhanh hơn. Xuất khẩu các mặt hàng máy móc và điện tử cũng như các hàng nguyên vật liệu truyền thống tăng nhanh. Cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng nhanh khiến tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc tăng mạnh. Với mức 600 tỷ USD trong năm 2002, theo báo cáo của WTO ngày 10/10/2002, Trung Quốc đã trở thành nước có kim ngạch thương mại lớn thứ 4 trên thế giới sau Mỹ, Châu Âu, và Nhật. Theo số liệu Hải quan Trung Quốc, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong ba tháng đầu năm 2003 đạt 173,660 tỷ USD, tăng 42,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 86,316 tỷ USD tăng 33,5% và nhập khẩu đạt 87,344 tỷ USD, tăng 52,4%. Thâm hụt thương mại là 1,027 tỷ USD. Riêng xuất trong tháng 3 là 32,091 tỷ USD , tăng 34,7% và nhập khẩu là 32,551 tỷ USD, tăng 45,1%; thâm hụt thương mại là 459 tỷ USD. Bảng 3 TỔNG KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU (3 THÁNG ĐẦU NĂM 2003) Đơn vị: Triệu USD Tháng 3 Từ tháng 1 Æ 3 Gía trị Net ±% Gía trị Net ±% Tổng giá trị XNK 646.42 39.7 1736.6 42.4 Tổng giá trị XK 320.91 34.7 863.16 33.5 Tổng giá trị NK 325.51 45.1 873.44 52.4 (Nguồn: Số liệu Hải quan Trung Quốc,2002) 51 Niềm tin của các công ty nước ngoài ở Trung Quốc được nâng lên do nguồn thu từ thị trường Trung Quốc ổn định. Việc gia nhập WTO của nước là một xu hướng không thể đảo ngược trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Nguồn nhân công đông, giá rẻ và thị trường lớn đã mang lại lợi nhuận lớn và tăng niềm tin trong các nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư vào Trung Quốc. Trong hai tháng đầu năm 2003, tổng giá trị xuất khẩu của Trung Quốc đạt 54,22 tỷ USD, tăng 32,8% so với năm 2001. Trong đó giá trị xuất khẩu vào thị trường Mỹ đứng đầu với 11,11 tỷ USD, tăng 31,9%; theo sau là Hồng Kông với 9,35 tỷ USD, EU 8,93 tỷ USD, Nhật Bản 7,86 tỷ USD, ASEAN 3,81 tỷ USD, Hàn Quốc 2,46 tỷ USD, Đài Loan 1,15 tỷ USD, Australia 0,8 tỷ, Canada 0,72 tỷ USD, và Nga 0,65 tỷ USD (xem phụ lục 4). Đây vẫn là 10 đối tác xuất nhập khẩu hàng đầu của Trung Quốc với tổng giá trị trong 2 tháng 1,2/ 2003 là 109,02 tỷ USD. Nhật Bản và EU đã vượt Mỹ trong kim ngạch thương mại hai chiều với Trung Quốc: Nhật Bản đạt 17,51 tỷ USD tăng 41,5% và EU là 15,95 tỷ USD tăng 39,3% so với cùng kỳ năm trước. Hồng Kông, ASEAN, Hàn Quốc và Đài Loan lần lượt xếp thứ 4, 5, 6, 7. Kim ngạch giữa Trung Quốc và Nga, Australia, Canada theo thứ tự là 2 tỷ USD, 1,78 tỷ USD và 1,35 tỷ USD đứng hàng thứ 8,9, 10 (xem phụ lục 5). Một thay đổi khác từ việc gia nhập WTO của Trung Quốc là khối kinh tế tư nhân có sự tăng trưởng nhanh. Vị thế hợp pháp của doanh nghiệp tư nhân như một thành phần hữu cơ của nền kinh tế đất nước chỉ đưọc công nhận bởi hiến pháp sửa đổi tháng 3/1999. Ví dụ như, tất cả các doanh nghiệp trong nước sẽ có thể thực hiện xuất nhập khẩu tự do và độc lập trong vòng ba năm khi các hạn chế về điều hành xuất nhập khẩu (ngoại trừ kinh doanh những mặt hàng thiết yếu như dầu thô, gạo và thuốc lá) được dỡ bỏ dần trong khoảng thời gian này. Theo những điều kiện này, số doanh nghiệp tư nhân được cấp phép kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ tăng nhanh. Ví dụ, tại tỉnh Triết Giang, 52 80% trong số 1700 doanh nghiệp tư nhân đã được trao quyền thực hiện xuất nhập khẩu trong năm 2002. Trong 9 tháng đầu năm, kinh ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân này tăng 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2001. 2.2. Kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, sau khi đạt mức cao kỷ lục trong năm 2000: hơn 1491 tỷ USD tính theo dòng vốn vào, hay tăng 37% và 1379 tỷ USD tính theo dòng vốn ra hay tăng 32% so với năm 1999, dòng vốn FDI trên phạm vi toàn thế giới đã sụt giảm trong 2 năm tiếp theo 2001 và 2002. Nhưng Trung Quốc lại là trường hợp đặc biệt, thu hút 10% vốn FDI toàn thế giới, đạt mức trên 50 tỷ USD trong năm 2002 (xem bảng 1). Trung Quốc thu hút nhiều vốn đầu tư nhằm để tăng năng suất nhờ tận dụng kinh nghiệm quản lý kết hợp với lợi thế nhân công rẻ và thị trường nội địa tiềm năng. Kể từ năm 1993, Trung Quốc đã trở thành nước nhận vốn đầu tư lớn nhất trong số các nước đang phát triển. Trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2001, Trung Quốc luôn đứng thứ hai trên thế giới về thu hút FDI. Năm 2002, lần đầu tiên Trung Quốc vượt qua Mỹ, trở thành nước thu hút FDI lớn nhất trên thế giới. Có rất nhiều nhân tố dẫn tới sự gia tăng mạnh của FDI vào Trung Quốc: một thị trường lớn với 1,3 tỷ dân, chi phí lao động rẻ, môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể. Cơ sở hạ tầng hợp lý, chính sách ưu tiên và ưu đãi về thuế cũng như việc cho phép các đặc khu kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc tự do hoá nền kinh tế. Có thể nói, sự tiếp tục gia tăng của dòng vốn FDI vào Trung Quốc được quyết định bởi quá trình tự do hoá kinh tế và cải cách cơ cấu ngành, vốn đang có thêm động lực mới với việc nước này trở thành thành viên chính thức của WTO. Việc Trung Quốc gia nhập WTO là một sự kiện tác động mạnh đến luồng vốn đầu tư nước ngoài vào nước này trong năm qua. Tuân thủ các quy định của WTO, tháng 2/2002, hơn 30 vụ của Uỷ ban Nhà nước Trung Quốc đã rà soát hơn 2300 bộ luật và quy định hiện hành, đã bãi bỏ 830 văn bản và 53 sửa đổi 323 văn bản. Hơn 190000 văn bản luật quy định của các cấp địa phương và các tiêu chuẩn đã được huỷ bỏ hoặc sưả đổi. Chính phủ Trung Quốc đã sửa đổi các luật như: Luật liên doanh nước ngoài, Luật công ty có vốn đầu tư nước ngoài cùng các văn bản và các quy định hướng dẫn đầu tư nước ngoài khác. Bên cạnh đó, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc cũng đã ban hành một số văn bản mới hướng dẫn đầu tư nước ngoài, các văn bản này có hiệu lực từ ngày 1/ 4/ 2002. So với các văn bản cũ, các văn bản mới đưa ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, danh mục mới mở rộng phạm vi các ngành được khuyến khích từ 186 lên 262 mục, các khoản mục hạn chế giảm từ 112 xuống còn 75 mục. Các hướng dẫn mới tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghệ cao, vận tải, năng lượng, vật liệu mới, bảo vệ môi trường. Từ nay đến 2010, các doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực được khuyến khích sẽ được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%. Các danh mục mới cũng bao gồm nhiều dự án khuyến khích liên quan đến việc tự do hoá hơn nữa lĩnh vực dịch vụ như các hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thương mại, ngoại thương, du lịch, truyền thông, vận tải, dụ lịch kế toán và pháp lý, ... Trung Quốc còn thực hiện nhiều nỗ lực thiết lập thị trường, hạ thấp thuế quan,... Đây là những nhân tố khiến đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc tăng mạnh. Đáng chú ý là nhiều công ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty lớn của Nhật như NEC (công nghệ cao), Seilko Epson Corp. (sản xuất quét ảnh), Minolta Co. Ltd (sản xuất máy ảnh), Minebea (sản phẩm ổ bi), ... đã chuyển nhiều vốn đầu tư vào các cơ sở sản xuất của họ từ các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines,... sang Trung Quốc do ở đây nguyên vật liệu và chi phí lao động rẻ hơn, hơn nữa còn do nhiều khách hàng của các công ty này đã chuyển sang hoạt động ở Trung Quốc. Theo tờ Nikon Keizal Shimbun của Nhật thì trong năm 2001 đã có ít nhất 22 cơ sở sản xuất của Nhật kinh 54 doanh ở Thái lan, Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines đã đóng cửa hoặc thu hẹp quy mô sản xuất của họ để chuyển sang Trung Quốc. Việc gia nhập WTO cũng như thực hiện các cam kết cải thiện môi trường đầu tư, giảm thuế quan,... đã biến Trung Quốc thành thanh nam châm có sức hút cực mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài. Tính đến tháng 9/2002, Trung Quốc đã phê chuẩn hơn 414.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn theo hợp đồng là 813,66 tỷ USD, trong đó, số vốn đầu tư thực tế là 434,78 tỷ USD. Riêng Thượng Hải, từ tháng 1 đến tháng 9/2002 đã thu hút được thêm 8,03 tỷ USD, tăng 37,6%, với 2245 dự án tăng 21,7%. Theo đánh giá, vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc trong cả năm vượt 50 tỷ USD. Với mức này, Trung Quốc đã vươn lên thành nước có mức thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất trên thế giới, vượt qua Mỹ trong năm 2002. Tính đến cuối tháng 11, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đạt 274 tỷ USD, tương đương tổng giá trị nhập khẩu của cả nước trong 10 tháng (so với mức 212, 1 tỷ USD vào cuối năm 2001). Nợ nước ngoài tiếp tục giảm. Tính đến cuối tháng 6/ 2002, số dư nợ đứng ở mức 160 tỷ USD. Số tiền gửi tiết kiệm của cư dân vào cuối tháng 10 đạt 9200 tỷ NDT ( tương đương 1100 tỷ USD). Tiền gửi của cư dân tăng do thu nhập tăng nhanh. Mức GDP bình quân theo đầu người của Trung Quốc tăng từ 787 USD năm 1999 lên 853 USD/ 2000 và đạt 961 USD năm 2002 (tăng 6%). Theo báo cáo đầu tư thế giới của tổ chức Hội nghị về thương mại và phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNCTAD), Trung Quốc sẽ vẫn là nước đang phát triển đứng đầu được ưu tiên đầu tư trong năm 2002 - 2005 (xem bảng 4). Bảng 4 NHỮNG ĐỊA CHỈ ĐẦU TƯ ĐƯỢC ƯU TIÊN TRONG THỜI KỲ 2002 – 2005 (% trong tổng số câu trả lời của các tập đoàn xuyên quốc gia) 55 Các nước công nghiệp phát triển Các nước đang phát triển châu Á Các nước Mỹ Latinh Các nước Trung và Đông Âu Các nước châu Phi và Tây Á Mỹ 27 Trung Quốc 27 Braxin 33 Ba Lan 33 Nam Phi 17 Đức 16 Indonesia 10 Mêhicô 20 Hungary 20 Hy Lạp 12 Anh 12 Thái Lan 10 Achenti-na 15 CH Séc 18 Thổ Nhĩ Kỳ 8 Pháp 10 Malaysia 9 Chilê 10 Nga 11 Ma rốc 8 Italia 6 Ấn Độ 9 Colombia 5 Rumania 4 Nigeria 6 Tây Ba Nha 5 Hàn Quốc 7 Peru 4 Bungary 4 ẢrậpXê út 6 Thuỵ Điển 3 Đài Loan 7 Bôlivia 3 Ukraina 2 Các tiểu vương quốc Ảrập 5 Canada 3 Việt Nam 5 Vênêzuêla 3 Các nước khác 7 Ixraen 2 Ireland 2 Hồng Kông 4 Các nước khác Angôla 2 Các nước khác 13 Philippines 4 Các nước khác 4 Singapore 4 (Nguồn: UNCTAD 2002) 2.3. Trung Quốc thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử Đối với nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử liên quan tới thương mại. Các thành viên WTO phải đối xử công bằng đôí với các nhà cung cấp (theo nguyên tắc tối huệ quốc) và không phân biết giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu hoặc dịch vụ trong thị trường nội địa. Ngoài ra, đối với Trung Quốc còn thêm một số cam kết: xoá bỏ hệ thống hai giá, loại bỏ các hạn chế về buôn bán, đưa vào những sắp xếp hành chính thống nhất và xem xét luật pháp. Những hiệp định này có tầm quan trọng không chỉ đối với chính quyền trung ương mà cả những cấp chính quyền địa phương nơi tham gia thường xuyên vào thương mại và nguyên tắc địa phương. Bên cạnh những điểm phát triển khuyến khích thì cũng xuất hiện nhiều yếu tố bất lợi sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Nhiều sản phẩm của Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh đã bị tác động do có thêm nhiều tính pháp lý chống phá giá và hạn chế của các rào cản xanh - những hạn chế nhập khẩu liên quan 56 đến an toàn thực phẩm và môi trường. Theo số liệu WTO, trong nửa đầu năm 2002, 15,4% trong tổng số 104 trường hợp chống phá giá WTO đưa ra là các sản phẩm của Trung Quốc và kim ngạch xuất nhập khẩu của nước này chỉ chiếm 4% tổng kim ngạch của thế giới. Ngoài ra, hiệp định Trung - Mỹ về việc Trung Quốc gia nhập WTO cũng cho phép Mỹ áp dụng những biện pháp khẩn cấp để giới hạn hàng nhập khẩu từ Mỹ nếu những hàng nhập khẩu bị coi là tăng nhanh và có tiềm năng gây nguy hiểm cho việc sản xuất trong nước. Và điều này cho phép Mỹ áp dụng các biện pháp giới hạn mà không phải theo lịch trình, một cách thuận lợi hơn để hạn chế sản phẩm Trung Quốc hơn là áp dụng các nguyên tắc chống phá giá và rào cản xanh. 2. 4. Hội nhập kinh tế toàn cầu Trung Quốc là nước đang phát triển nhanh nhất trong nền kinh tế toàn cầu nên động lực tăng trưởng của Trung Quốc sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các thành viên khác trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương cũng như toàn cầu. Trung Quốc đóng vai trò tích cực trong nhiều diễn đàn đóng góp vào sự hợp tác quốc tế và phát triển sự thịnh vượng trong bối cảnh toàn cầu hoá. Việc gia nhập WTO sẽ giúp kinh tế Trung Quốc tiếp tục các xu hướng tự do hoá cũng như phát triển các quan hệ thương mại và đầu tư với thế giới bên ngoài, thúc đẩy Trung Quốc hội nhập mạnh mẽ hơn vào nền kinh tế thê giới. Trong năm 2003, Trung Quốc dự kiến đạt mức tăng trưởng GDP là 7%, tổng thu hút FDI đạt 50 tỷ USD. Các mức này phản ánh sự thận trọng của Trung Quốc trong chiến lược phát triển kinh tế. Rất nhiều các cam kết của Trung Quốc chưa đến hạn thực hiện, do vậy những ảnh hưởng tiêu cực hầu như chưa đáng kể, trong năm qua kinh tế Trung Quốc vẫn phát triển nhanh và ổn định. Tuy nhiên, những ảnh hưởng không mong muốn rất có thể sẽ xuất hiện trong 1 –2 năm tới. Bên cạnh đó, không phải là không có các những kêu 57 ca, phàn nàn của các nhà đầu tư và các đối tác thương mại. Một báo cáo của Phòng thương mại Mỹ tháng 9/ 2002 cho rằng nhiều luật lệ của Trung Quốc còn mơ hồ ngay cả khi chúng đã được sửa đổi. Phía Nhật Bản cũng nói rằng Trung Quốc không thực hiện đầy đủ cam kết của họ. Do vậy, để nền kinh tế phát triển ổn định, Trung Quốc cần phải có nhiều nỗ lực hơn trong cải cách và điều chỉnh cơ cấu kinh tế cũng như hệ thống pháp luật. Gia nhập WTO đã đem lại cho Trung Quốc nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức để phù hợp với “luật chơi” và bối cảnh kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, xem xét những kinh nghiệm thực tế Trung Quốc đã thực hiện và gặt hái được sau khi trở thành thành viên WTO cho Việt Nam thấy được chặng đường dài trước mắt để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO vào năm 2005 và sẵn sàng đón nhận cơ hội, vượt qua thử thách trên trường quốc tế. Đồng thời, việc Trung Quốc gia nhập WTO có ảnh hưởng như thế nào với Việt Nam, nước láng giềng có chung đường biên giới? 58 CHƯƠNG III MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM I. TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO MANG ĐẾN CƠ HỘI CHO VIỆT NAM 1. Cơ hội cho việc tích cực cải cách để phát triển kinh tế Áp lực và thách thức của việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy Việt Nam cải cách mở cửa nhanh chóng, phát triển kinh tế, từ đó tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển nhanh trong thế kỷ mới. Đổi mới mở cửa ở Việt Nam chậm hơn cải cách mở cửa của Trung Quốc 10 năm, mức độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế thấp hơn Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây lại thấp hơn Trung Quốc. Bình quân tăng trưởng năm của Việt nam từ 1996 - 2000 là 7,08% còn của Trung Quốc là 8,5%. Trước xu thế kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, nửa đầu năm nay kinh tế Trung Quốc vẫn có xu thế tăng trưởng mạnh, đạt 8%, cả năm 2002. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam năm 59 2002 là 7,3%. Theo tính toán sơ bộ, về cơ bản mục tiêu phát triển tổng thể của Việt Nam vẫn chỉ bằng mức độ phát triển của Trung Quốc đầu thập kỷ 90. Do cơ số kinh tế không giống nhau, khoảng cách giữa các nước lạc hậu và nước tiên tiến có thể ngày càng lớn trong quá trình phát triển. Dù nước lạc hậu duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nước tiên tiến, thì khoảng cách lớn này vẫn duy trì trong một thời gian nhất định mới có thể thay đổi. Đối với Việt Nam còn tương đối lạc hậu thì phải đẩy nhanh cải cách mở cửa, đẩy nhanh phát triển kinh tế mới đuổi kịp Trung Quốc. Kế hoạch 5 năm mới và 10 năm của Việt Nam chính là quyết tâm đẩy nhanh phát triển kinh tế trong thế kỷ mới, cũng dự báo một tương lai tốt đẹp. 2. Cơ hội cho việc hình thành môi trường kinh doanh ở Châu Á Sức kéo khi gia nhập WTO cùng với thúc đẩy nhu cầu trong nước, chiến lược khai thác phát triển miền Tây thúc đẩy kinh tế Trung Quốc phát triển, có thể làm cho kinh tế Trung Quốc cất cánh trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái. Thực hiện kế hoạch thành lập Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN sẽ tạo thuận lợi cho việc hình thành môi trường nhỏ trong khu vực, tạo cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam. Hiện nay, sự suy giảm kinh tế của nước Mỹ chiếm gần 1/3 tổng lượng kinh tế thế giới, kinh tế Nhật sụt giảm, kinh tế Châu Âu không có dấu hiệu đáng mừng, đã kéo kinh tế toàn cầu vào suy thoái. Kinh tế Trung Quốc đang đứng trước cuộc thử nghiệm khó khăn, nhưng " cỗ xe 3 bánh " của tăng trưởng kinh tế - đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu vẫn kéo kinh tế Trung Quốc duy trì, ổn định, tăng trưởng cao. Không thể nghi ngờ, khác với các nước lấy mô hình kinh tế hướng ngoại làm chủ đạo, Trung Quốc có thị trường rộng lớn lấy việc mở rộng nhu cầu trong nước là chủ lực để tăng trưởng kinh tế. Ở một mức độ nhất định, điều này đã hoá giải tác động xấu của kinh tế thế giới. Đồng thời với việc mở rộng nhu cầu trong nước, phải tích cực khai thác nhu 60 cầu bên ngoài, tăng cường xuất khẩu, ra sức thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Tiến hành khai thác phát triển miền Tây có hiệu quả, tổ chức thành công Thế vận hội 2008, gia nhập WTO đều là cơ hội tốt để Trung Quốc đẩy nhanh tốc độ phát triển trong thời gian tới. Tuy Trung Quốc vẫn không đủ khả năng ngăn chặn suy thoái kinh tế ở khu vực bằng tăng trưởng kinh tế của mình, nhưng lại có khả năng tạo nên một môi trường tăng trưởng kinh tế tốt đối với khu vực nhỏ có quan hệ kinh tế mật thiết. Nhưng phải có lợi ích từ khu vực nhỏ này thì kinh tế Trung Quốc mới gắn bó hơn, hình thành quan hệ hỗ trợ lẫn n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfa1.PDF
Tài liệu liên quan